Đề tài Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU NỘI DUNG I. Tổng quan về chiến lược hướng về xuất khẩu 1. Một số chiến lược phát triển kinh tế của các nước 1.1. Chiến lược thay thế nhập khẩu 1.2. Chiến lược hướng về xuất khẩu 2. Mục tiêu của chiến lược hướng về xuất khẩu II. Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam 1. Tính tất yếu của việc chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam 2. Những thuận lợi và thách thức của Việt Nam trong việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu 2.1. Thuận lợi 2.2. Thách thức 3. Kinh nghiệm của các nước đi trước 4. Nội dung “chiến lược hướng về xuất khẩu” của Việt Nam 4.1. Định hướng chung 4.2. Đổi mới, hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu 4.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương III. Các chính sách để thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu 1. Chính sách cơ cấu lại xuất nhập khẩu - quy hoạch xuất khẩu 2. Chính sách gắn sản xuất với xuất khẩu 3. Chính sách mở cửa thị trường 4. Chính sách về đầu tư và thu hút đầu tư 5. Các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu 5.1. Chính sách về thuế 5.2. Chính sách về tỷ giá 5.3. Hạn ngạch xuất khẩu 5.4. Hỗ trợ xuất khẩu IV. Các thành tựu đạt được và những vấn đề đặt ra trong việc thị trường chiến lược hướng về xuất khẩu 1. Những thành tựu 2. Những vấn đề còn tồn tại V. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu và một số kiến nghị 1. Về quy hoạch 2. Về chính sách 3. Chính sách đầu tư 4. Về triển khai 5. Một số kiến nghị KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc37 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4890 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giới đến 2-4 thế hệ công nghệ . - Trình độ phát triển kinh tế kém, nền kinh tế hàng hoá mới bắt đầu hình thành trong năm tới, lực lượng sản xuất nhỏ bé, cơ sở vật chất nhất là kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm. Thêm vào đó Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ về các thiết chế thị trường quốc tế do vậy không tránh khỏi phải mất một thời gian ngỡ ngàng lúng túng sơ sơ trong việc hợp tác kinh tế với nước ngoài. Điểm xuất phát thấp có nghĩa là đã tụt hậu nhiều và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn với thế giới là rất rõ. Có thể nói khắc phục nguy cơ này là thách thức lớn nhất trong việc thực hiện mục tiêu của chiến lược. b. Nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi, một sự chuyển đổi vừa theo định hướng thị trường, vừa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự tìm tòi hoàn toàn mới chưa có mấy thành công trên thế giới. c. Cạnh tranh quốc tế gay gắt. - Khu vực Đông Nam Á và Đông Á đã từng phát triển nhanh và năng động. Nhưng hiện nay nhiều nước đang lâm vào khung hoảng tài chính tiền tệ nghiêm trọng mà dự báo còn phải mất nhiều thời gian mới khắc phục được. Trong việc tham gia ASEAN, AFTA chuẩn bị gia nhập WTO, APEC nước ta phải chấp nhận sự cạnh tranh đan xen với tác động của khủng hoảng, bất ổn định cũng gay gắt chưa từng có. - Nước ta là một quốc gia ven biển đông vừa có thuận lợi cho sự phát triển, đồng thời Biển đông cũng đang chứa đựng nhiều tranh chấp rất phức tạp về chủ quyền và lợi ích. Bên cạnh đó Mỹ và phương Tây tiếp tục mưu toan thực hiện "diễn biến hoà bình" ở Việt Nam gây áp lực với ta về "dân chủ, nhân quyền". Chính sách hai mặt của Trung Quốc với ta chưa hề thay đổi. Đối phó sức uy hiếp này ngày càng tăng, cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương diễn ra phức tạp đe doạ an ninh, chủ quyền và lãnh thổ nước ta buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việc củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng. d. Nguồn nhân lực bị hạn chế. Nước ta có tiềm năng lớn về nguồn nhân lực, chủ yếu là về mặt tinh thần và văn hoá. Nhưng ở giai đoạn hiện nay Việt Nam đang phải đương đầu với thách đố về lợi thế so sánh của nguồn nhân lực. Mặt hạn chế và yếu kém về chất lượng (kiến thức, kỹ năng, tác phong) của nguồn nhân lực nhất là ở các vùng nông thôn, miền núi, còn là một trở ngại lớn cho sự phát triển. Đòi hỏi thì rất lớn và cấp bách song khả năng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực lại quá nhỏ bé. e. Vốn đầu tư. Khác với những năm đầu thực hiện chính sách đổi mới khi mà sự tăng trưởng phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố thuộc về cơ chế, nền kinh tế bước vào giai đoạn muốn tăng trưởng nhất thiết phải có vốn đầu tư. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang có xu hướng chững lại, tốc độ rải ngân vốn ODA chậm, cùng với hiện tượng co cụm lại trong việc huy động và cho vay vốn của các ngân hàng trong nước đang tạo nên mối lo ngại về tình trạng suy giảm vốn đầu tư, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Những thách thức nêu trên chỉ là một phía mà ở phía kia chính là cơ hội, thậm chí là thời cơ. Vấn đề là phải có chính sách đúng để khai thác mọi thời cơ vượt qua thách thức đi tới mục tiêu. 5. Kinh nghiệm của các nước. Để xây dựng và thực hiện tốt "chiến lược hướng về xuất khẩu" tôi cho rằng, nước ta cần nghiên cứu vận dụng những kinh nghiệm của nước ngoài, đặc biệt là chú trọng kinh nghiệm của các nước trong khu vực trong quá trình thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Sau đây là những kinh nghiệm chủ yếu. Thứ nhất, trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược này, các nước thường phát huy lợi thế về tài nguyên và nhân công dồi dào để phát triển các ngành khai thác và sản xuất các sản phẩm thô xuất khẩu ra thị trường thế giới. Việc khai thác tài nguyên - trong nhiều trường hợp lại phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài; vào nhu cầu thị trường ngoài nước và giá cả sản phẩm thô bất lợi cho nước xuất khẩu. Do đó các nước nhanh chóng chuyển sang giai đoạn phát triển công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng xuất sản phẩm thô, đẩy mạnh các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt, may, lắp ráp, gia công, đồng thời lựa chọn một số ngành để từng bước phát triển cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại, sử dụng nhiều chất xám và đã tạo ra sự chuyển biến về chất trong cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu công nghiệp nói riêng. Thứ hai, mỗi nước thường có nhiều tiềm năng có khả năng khai thác để xuất khẩu ra thị trường bên ngoài. Song sự thành công nhiều hay ít của chủ trương hướng về xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề chủ yếu sau: - Trong số những tiềm năng của đất nước thì phải xác định được tiềm năng nào là lợi thế so sánh với nước ngoài, với khu vực nào trên thị trường quốc tế. Lợi thế so sánh đó không phải là bất biến mà nó cũng vận động, biến đổi tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ nhất định đối với từng nước bạn hàng, từng khu vực. - Việc khai thác lợi thế so sánh để xuất khẩu phải hướng tới mục tiêu toàn diện: tạo việc làm, tích luỹ vốn, tiếp thu công nghệ, nâng cao tay nghề, trình độ quản lý, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân... Song cần biết giới hạn và mục tiêu cho từng giai đoạn phát triển và biết kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển với mục tiêu chủ yếu đã xác định, cần lựa chọn hình thức, quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, sản phẩm và thị trường xuất khẩu thích hợp. - Hướng về xuất khẩu, ưu tiên cho hoạt động xuất khẩu không được đi lệch hướng cơ cấu kinh tế quốc dân đã lựa chọn. Xuất khẩu phải nhằm mục tiêu tạo ra các tiền đề, điều kiện phục cụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật đơn giản đến công nghiệp chế tạo dựa trên công nghệ hiện đại. Đồng thời cơ cấu kinh tế quốc dân ấy phải trở thành mắt khâu không thể thiếu được trong hệ thống phân công lao động của khu vực và quốc tế. Thứ ba, hướng về xuất khẩu thì sản phẩm phải chen chân và đứng được ở thị trường bên ngoài. Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế còn thấp, khả năng cạnh tranh của những sản phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới còn hạn chế thì các yếu tố vốn, kỹ thuật, công nghệ.. phải được chuyển từ ngoài nước vào trong nước một cách thuận lợi và dễ dàng. Điều này có liên quan chặt chẽ đến vai trò của Chính phủ có khả năng tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định, môi trường kinh tế - pháp lý đồng bộ, thuận lợi cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước với cơ chế, chính sách và bộ máy có khả năng huy động đến mức tối đa các nguồn lực bên trong, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được tiếp nhận từ bên ngoài, tận dụng tối đa các cơ hội khách quan và đối phó có hiệu quả với những thách thức trước những biến động thường xuyên của thị trường trong và ngoài nước. II- CÁC CHÍNH SÁCH ĐỂ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU. 1. Chính sách cơ cấu xuất khẩu - Quy hoạch xuất khẩu. Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hoá là cơ cấu hàng xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Xác định cơ cấu hàng hoá có hiệu quả và những mặt hàng chủ lực là nội dung quan trọng của chính sách mặt hàng xuất khẩu. Trong nền kinh tế thị trường việc đổi mới chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu; điều kiện và khả năng sản xuất ở trong nước; hiệu quả. Trong ba yếu tố này, hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất trong sự lựa chọn cơ cấu và mặt hàng xuất khẩu. Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng: Giảm tỷ trọng thuế và cơ chế đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Giảm tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu mới. Tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch xuất khẩu. Để đảm bảo quy hoạch xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành các chính sách đầu tư (vốn và công nghệ) đối với các ngành,các doanh nghiệp sản xuất, khai thác hàng xuất khẩu, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu. Để tiếp tục thay đổi cơ cấu các loại hàng xuất khẩu theo hướng tránh bị kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên cần phải giải quyết các vấn đề sau: - Tăng nhanh tỷ trọng hàng công nghiệp và khai khoáng, đặc biệt là các nhóm hàng dầu mỏ và sản phẩm từ dầu mỏ, than đá, thiếc, đá quý, các mặt hàng chế biến từ nông, thuỷ sản. - Đẩy mạnh gia công, đa dạng hoá các mặt hàng gia công từ may mặc, dệt da, hàng tiêu dùng, lắp ráp cơ khí điện tử. Muốn vậy phải hiện đại hoá công nghệ thiết bị, đào tạo đội ngũ chuyên gia và công nhân kỹ thuật, cải tiến cách thức tổ chức sản xuất. - Mở rộng hiểu biết và tiếp tục đầu tư tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới kết hợp với nét nghệ thuật dân tộc cổ truyền làm ra các loại hàng thủ công mỹ nghệ có sức hấp dẫn hơn. - Xây dựng những ngành hàng và mặt hàng chủ lực cho xuất khẩu. 2. Chính sách gắn sản xuất với xuất khẩu. Để xác định một số mặt hàng xuất khẩu có khả năng sản xuất với khối lượng lớn, chất lượng cao để có thể chiếm lĩnh được thị trường, chúng ta cần phải quan tâm đến một số lĩnh vực sản xuất sau đây: Nông nghiệp: là lĩnh vực về lâu dài vẫn đóng vai trò cung cấp một khối lượng hàng hoá đáng kể cho xuất khẩu trực tiếp và nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu. Để biến gạo thành mặt hàng xuất khẩu chiến lược cần tạo ra những vùng sản xuất lúa chuyên cho xuất khẩu, có chính sách ưu tiên vốn, khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng đầy đủ cho các khâu: thâm canh, chế biến, bảo quản và vận chuyển. Phải khẳng định vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu cho xuất khẩu là đồng bằng sông Cửu Long và một số tiểu vùng đồng bằng sông Hồng. Cần phải tạo ra giống lúa thơm ngon, hạt dài, ít bị gãy trong quá trình xay xát. Song song với việc cải tiến thiết bị xay xát, cần chú trọng nâng cao chất lượng thóc trong khâu phơi sấy. Các mặt hàng nông sản khác muốn đạt được giá trị cao cần phải chuyển sang dạng chế biến sẵn thay cho việc xuất khẩu dạng thô hoặc sơ chế. Vì vậy cần phải có chính sách bảo đảm sản xuất, cần phải đầu tư bằng mọi nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ để chuyển những mặt hàng nông sản xuất khẩu thô có giá trị thấp sang những mặt hàng đã qua chế biến công nghiệp có giá trị cao. Các mặt hàng công nghiệp và khai khoáng, sản lượng khai thác dầu thô và than đá xuất khẩu ngày càng tăng nhanh và khả năng xuất khẩu trong những năm tới con lớn. Tuy nhiên cần phải có đầu tư thiết bị, kỹ thuật khai thác, xử lý nguyên liệu vận tải và cảng. Một vấn đề nữa cần phải thấy rằng ở những ngành nào, địa phương nào, sản phẩm nào có thể thực hiện xuất khẩu thì phải đầu tư sản xuất ngay. Ở những nơi khác chưa có điều kiện thì hoặc là tạo dần điều kiện cho nó hoạt động hoặc hướng hoạt động của nó vào phục vụ những ngành, địa phương, sản phẩm xuất khẩu. 3. Chính sách mở cửa thị trường. Để thúc đẩy chiến lược hướng về xuất khẩu, Đảng và Nhà nước chủ trương mở rộng và tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện phương châm "mở cửa" Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, các tổ chức chính phủ hay phi chính phủ nhằm tìm kiếm thị trường và bạn hàng cho các chi phí xuất khẩu. Mặt khác để thúc đẩy xuất khẩu cần phải có chính sách mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng cường hợp tác kinh tế, tổ chức và tìm hiểu tốt thị trường bên ngoài. Nhận thức được điều đó, Bộ Thương mại đã giữ vững vai trò chủ yếu hoạch định chiến lược hướng về xuất khẩu. Bộ đã tổ chức hội nghị về công tác thị trường ngoài nước (từ ngày 20 -22/12/1997) và đã đưa ra các nhiệm vụ lớn là: - Nâng cao nhận thức và xác định rõ trách nhiệm đối với công tác thị trường ngoài nước. - Khẩn trương nghiên cứu tình hình chiến lược thị trường. - Tổ chức thực hiện tốt cam kết quốc tế và tiến hành ký các hiệp định mới trong quan hệ thương mại song phương và đa phương. - Tiếp tục đổi mới hoạt động và nâng cao năng lực công tác cho các cơ quan đơn vị làm công tác thị trường ngoài nước. - Tăng cường đào tạo cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thị trường ngoài nước có đức có tài. - Nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách, biện pháp phục vụ việc mở rộng thị trường ngoài nước, trước hết đối với thị trường xuất khẩu. Bộ trưởng cùng các đại biểu thảo luận và làm rõ thêm mục tiêu của công tác thị trường ngoài nước trong thời gian tới là hướng vào xuất khẩu, đồng thời các đại biểu nhấn mạnh thêm công việc phải làm là: - Cần có những quyết sách mạnh mẽ đối với công tác thị trường ngoài nước cả về mặt tổ chức, cán bộ, tài chính. - Cần lập một tổ chức phát triển thị trường ngoài nước thuộc Bộ Thương mại trong đó có sự hỗ trợ của Nhà nước. Nghiên cứu mở Công ty của Việt Nam ở nước ngoài, vốn do Nhà nước cấp. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin báo chí thương mại, cung cấp đủ thông tin và các báo chí của ngành cho các thương vụ. - Bộ cần sớm tuyển chọn xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ đủ sức đáp ứng yêu cầu mới. - Nhằm phục vụ chiến lược hướng về xuất khẩu cần phải tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp về nước các thông tin về công nghệ và kỹ thuật của thế giới để phục vụ sản xuất trong nước. 4. Chính sách đầu tư trong và ngoài nước Đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia - Trong những năm trước mắt khi mà nguồn vốn tích luỹ nội bộ còn hạn hẹp thì đầu tư nước ngoài (đầu tư trực tiếp) chiếm vị trí quan trọng. Thông qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chúng ta tranh thủ được vốn, kỹ thuật và công nghệ mới, mở rộng thị trường ngoài nướ, tiếp thu kinh nghiệm tiên tiến, trên cơ sở đó xây dựng những cơ sở kinh tế mới, hiện đại hoá cơ sở hiện có nhằm tạo việc làm cho người lao động, khai thác một phần những tiềm năng của đất nước để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò to lớn cho việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu . Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt cơ cấu xuất khẩu tiên tiến chỉ có 26% là nguyên liệu, còn lại 74% là hàng chế biến sâu. Hiện nay khu vực có đầu tư nước ngoài chiếm 100% sản lượng dầu thô 44,8% sản lượng thép... Trong đó kim ngạch xuất khẩu 1996 phần đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 11%, nếu tính cả xuất khẩu dầu thô thì tỷ lệ này lên đến 25%. Trong thời gian tới chắc chắn phần xuất khẩu của khu vực này sẽ còn tăng lên nữa. Việc thu hút đầu tư nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế dựa trên xuất khẩu . Do đó ngày 12/11/1996 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Với việc tạo ra một sân chơi thông thoáng, hấp dẫn, bình đẳng, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không ngừng tăng cả về số vốn và số dự án. Trongthời gian thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, song không nên thay đổi luật một cách quá nhanh chóng để tránh gây tình trạng bất ổn trong quy chế. Việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam cần đặt trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và đặt trên quan điểm thúc đẩy đầu tư trong nước với sự kiện gia nhập AFTA, giờ đây việc thu hút đầu tư thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam cần phải được đặt chung trong bối cảnh phát triển của cả khối ASEAN. Để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu, cần tập trung đầu tư theo một số hướng sau đây: - Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện, vững chắc, phát huy tiềm năng nông nghiệp nhiệt đới. - Đầu tư phát triển nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hường về xuất khẩu. - Phát triển mạnh công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ, hải sản, tăng nhanh giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu, xây dựng một số ngành công nghiệp hiện đại có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. - Phát triển các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ ngoại thương. Muốn làm tốt hướng trên, chúng ta không chỉ dựa vào nguồn vốn từ nước ngoài mà cần phải tập trung huy động mọi nguồn vốn trong nước là chủ yếu. Nhà nước có chính sách động viên tiết kiệm tăng nhanh tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Không chỉ từ khu vực kinh tế quốc doanh mà cả từ khu vực kinh tế tư nhân. Nhà nước đưa ra tỷ lệ lãi suất phù hợp để huy động sức dân trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. 5. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu. a. Thuế xuất khẩu: Nhà nước Việt Nam sử dụng chính sách thuế với tư cách là một công cụ quan trọng để khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, vừa qua Nhà nước đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế: miễn thuế hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, áp dụng thuế xuất khẩu thấp đối với một số mặt hàng còn chịu thuế, sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, các đơn vị kinh tế dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu được miễn giảm thuế lợi tức tối đa 50%, các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư tiêu dùng cho gia công hàng, vật tư nhâp khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế nhập khẩu đã nộp. Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua Luật thuế giá trị gia tăng đã được thông qua và sẽ được áp dụng từ này 01/01/1999, trong đó quy định mức thuế suất 0% đối với tất cả các hàng hoá xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế giá trị gia tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là một biện pháp tài chính khuyến khích xuất khẩu tích cực của Việt Nam. b. Tỷ giá hối đoái: Sự thay đổi tỷ giá hối đoái là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu và đương nhiên nó ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ đến quản lý kinh tế vĩ mô (cán cân thanh toán, lạm phát, quản lý tiền tệ....). Vì vậy, chính sách tỷ giá hối đoái luôn được xem xét trong bối cảnh của chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vấn đề then chốt là phải tạo ra tỷ giá hối đoái hiện thực nhằm bảo đảm đủ để khuyến khích xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu được thực hiện hối đoái trong điều kiện Chính phủ có khả năng kiểm soát tỷ giá hối đoái. Việc thả nổi tỷ giá hối đoái có điều tiết vĩ mô của Nhà nước tạo ra môi trường cạnh tranh tự do, công bằng cho các nhà kinh doanh mọi thành phần, loại bỏ được những tổ chức cá nhân doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ. Không nên để đồng tiền Việt Nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá xa so với tỷ giá trên thị trường, khắc phục tình trạng ngân hàng không có ngoại tệ để bán ra, các đơn vị kinh tế tự do bán ngoại tệ cho nhau. Do đó, cần đổi mới cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng ngân hàng Nhà nước mua lại toàn bộ số ngoại tệ của các đơn vị xuất khẩu theo tỷ giá kinh doanh trên nguyên tắc thuận mua vừa bán. Nhà nước cần dành một số ngoại tệ cho ngân hàng ngoại thương vay để làm vốn (ít nhất là 100 triệu USD kinh doanh ngoại tệ và điều tiết tỷ giá cho thị trường ổn định, không để đột biến. Xét từ góc độ chính sách như vậy người ta đã rút ra một kết luận khá tổng quát rằng: bất cứ nước noà muốn thúc đẩy tăng trưởng chung bằng động lực xuất khẩu cũng đều phải thận trọng để tránh có một tỷ giá hối đoái bị nâng cao. c. Hạn ngạch xuất khẩu: Hiện nay các mặt hàng xuất khẩu theo hạn ngạch là gạo, hàng đệt may xuất khẩu và EU, Canada, Nauy. Cơ chế điều hành là Bộ thương mại công bố hạn ngạch được thoả thuận theo hiệp định đã ký với EU, Canada, Na uy, Bộ thương mại và Bộ công nghiệp tìm khả nang đàm phán với phía nước ngoài nhằm tăng hạn ngạch và chủng loại hàng hoá phù hợp với năng lực sản xuất trong nước và tập trung phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở sản xuất. Việc giành hạn ngạch xuất khẩu trong nước và tập trung phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở sản xuất. Việc giành hạn ngạch xuất khẩu để phân bổ cho các địa phương, đơn vị sản xuất thông qua các Bộ, ngành hàng như hiện nay vừa gây phiền hà cho cơ sở vừa không phù hợp với kinh tế thị trường. Các địa phương, các đơn vị sản xuất cố giành cho được quota mặc dù thiếu vốn, không có thị trường, thiếu phương tiện kinh doanh, không có khả năng thực hiện. Điều đó tất yếu dẫn đến tình trạng mua bán quota vòng vèo. Do vậy cần hoàn thiện phương thức phân bổ quota theo nguyên tắc "một cửa" chỉ phân cho các đơn vị đã có quyền xuất khẩu trực tiếp theo nhóm hàng xuất khẩu đem lại hiệu quả cao, đóng góp nhiều cho Nhà nước. Tiến tới phân bổ quota qua hình thức gọi thầu hoặc đấu giá với sự tham gia của các đơn vị sản xuất và đơn vị lưu thông có vốn liếng và quan hệ thị trường. d. Hỗ trợ xuất khẩu: Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ tổ chức có hiệu quả để giải quyết các lĩnh vực như thu thập thông tin, phân phối thông tin và tiếp thị. Những hình thức tổ chức hỗ trợ xuất khẩu bao gồm việc thành lập các tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu, giúp đỡ cho việc tiếp thị xuất khẩu và hỗ trợ cho các công ty thương mại. Ở Việt Nam với mục tiêu: đẩy mạnh đầu tư nước ngoài và Việt Nam và tăng cường xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam ra nước ngoài. Các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu tập trung đưa ra các giải pháp mang tính khả thi để tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu có những điều kiện dễ dàng như: - Hỗ trợ ngoại tệ cho các Công ty nhập khẩu thông qua các hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi. - Cấp các thủ tục đặc biệt. - Đầu tư vào một số Công ty mậu dịch quốc tế. - Tổ chức trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách với các nhà xuất khẩu để thống nhất mục tiêu xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần trợ cấp về mặt tài chính cho các đơn vị, cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu nhằm thực hiện tốt, nhanh chóng kế hoạch và mục tiêu của đơn vị dưới hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi. Đặc biệt trợ cấp đối với các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực, các cơ sở xuất khẩu gặp khó khăn nhưng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mang lại nhiều ngoại tệ và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho đất nước. 6. Chính sách nhập khẩu nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong giai đoạn hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ nhằm đẩy mạnh sản xuất trong nước tạo ra những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm nhập khẩu và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Để thực hiện mục tiêu trên chính sách nhập khẩu cần được tiếp tục đổi mới với nội dung sau: - Tranh thủ nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, cấm nhập khẩu công nghệ lạc hậu so với công nghệ trong nước đang sử dụng. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu phải chú trọng nhập tư liệu sản xuất, những nguyên vật liệu cần thiết, những máy móc và phụ tùng thay thế để khai thác đến mức cao nhất các khả năng sản xuất hiện có đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu nhập quốc dân. - Ưu tiên hiện đại hoá đối với các ngành công nghiệp sản phẩm hàng xuất khẩu, tiêu chuẩn để lựa chọn công nghệ là bảo đảm hiệu quả kinh tế -xã hội, tăng cường sức cạnh tranh của loại hàng được sản xuất để cung ứng cho thị trường ngoài nước. Cơ chế quản lý nhập khẩu vì vậy cần được hoàn thiện theo hướng tăng cường quản lý Nhà nước nhất là đối với nhập khẩu công nghệ thông qua một hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp về tổ chức và giám sát hoạt động nhập khẩu. 7. Những vấn đề về thế chấp hành chính nhằm thúc đẩy mạnh xuất khẩu. Việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Vừa qua Quốc hội đã thông qua Luật thương mại, tạo nên khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt động xuất khẩu. Nhà nước tập trung quản lý xuất khẩu vào một đầu mối đó là Bộ thương mại. Bộ thương mại thực hiện chức năng thống nhất quản lý Nhà nước và phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ để quản lý hoạt động xuất khẩu. Hiện nay tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình không phân biệt thành phần kinh tế, đều được tự do buôn bán với nước ngoài trên cơ sở luật định. Đối với các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất khẩu chính thức được xuất khẩu và nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng ngoài phạm vi hàng ghi trong giấy phép kinh doanh. Từ một số mặt hàng có quy định riêng. Thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu theo chuyến được bãi bỏ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cũng như cá doanh nghiệp sản xuất. Xoá bỏ tổ chức trung gian không cần thiết để tạo điều kiện cho những cơ sở sản xuất lớn hoặc những tổ chức kinh doanh lớn có quan hệ chặt chẽ với sản xuất được trực tiếp xuất khẩu. Hệ thống các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần được tổ chức lại cho phù hợp với từng ngành, nhóm hàng, khắc phục tình trạng tất cả các đơn vị đều làm xuất khẩu tổng hợp như hiện nay mà những tiêu chuẩn và điều kiện cần và đủ chưa có cụ thể như sau: Một là nhóm hàng khó xuất khẩu và cần khuyến khích xuất khẩu bao gồm hàng thủ công mỹ nghệ, hàng rau quả, hàng thực phẩm tươi sống và chế biến, hàng gia công, hàng công nghiệp sản xuất bằng nguyên liệu trong nước... Đối với nhóm hàng này có thể áp dụng chế độ quản lý theo hướng khuyến khích sau: - Không cần giấy phép kinh doanh xuất khẩu, chỉ cần giấy phép kinh doanh trong nước và phạm vi kinh doanh có mặt hàng xuất khẩu. - Không cần xác nhận đăng ký kế hoạch xuất khẩu. - Được xuất khẩu đổi hàng đối với những mặt hàng nhập khẩu ngoài danh mục hàng cấm nhập khẩu và được hưởng thuế xuất khẩu tối thiểu. Hai là nhóm hàng vừa dễ xuất vừa cần khuyến khích xuất khẩu, có điều kiến sản xuất tập trung qui mô lớn và có giá trị trao đổi cao như: Thuỷ sản, cao su, cà phê, chè, lâm sản.... Đơn vị xuất khẩu nhóm hàng này phải là đơn vị kinh doanh xuất khẩu trực tiếp và việc xuất khẩu phải theo kế hoạch phân bổ của Nhà nước, uỷ ban kế hoạch và Bộ thương mại. Ba là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực gồm những mặt hàng xuất khẩu có ảnh hưởng quan trọng đến tiêu dùng trong nước, đến tài nguyên và môi trường của đất nước như: gạo, dầu thô, than, quặng... thì Nhà nước chỉ định một số Công ty chuyên sc các mặt hàng này (có thể tổ chức 2 đến 4 Công ty cho một mặt hàng để tránh độc quyền). Chế độ quản lý đối với nhóm hàng này áp dụng như nhóm hai nhưng chặt chẽ hơn về mặt nghiệp vụ kinh doanh, ký kết hợp đồng, giá cả, chất lượng, phương thức thanh toán. 8. Tham gia cộng đồng ngoại thương thế giới. Trên thị trường thế giới đang diễn ra sự đấu tranh gay gắt giữa hai xu hướng tự do hoá thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch. Trong điều kiện đó tham gia các tổ chức quốc tế có vai trò như một giải pháp trung hoà để tạo nên các khu vực thị trường tự do cho các thành viên. Liên kết kinh tế quốc tế nhằm thực hiện điều chỉnh có ý thức và phối hợp các chương trình phát triển kinh tế với những thoả thuận có đi có lại của các thành viên. Nó là bước quá độ trong quá trình vận động của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hoá. Thông qua việc phối hợp các chương trình phát triển mà khai thác triệt để lợi thế so sánh của mỗi bên, tạo nên một cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu có hiệu quả cao, thúc đẩy mở rộng trao đổi mậu dịch quốc tế cũng như kích thích đầu tư quốc tế và các hoạt động khác nhau giữa các thành viên. Chính vì vậy ở bình diện sự phát triển của quốc gia, Việt Nam cần phải tích cực tham gia các tổ chức kinh tế ở trong khu vực và thế giới. Việt Nam đang là thành viên của ASEAN thì cần phải phát huy và nâng cao hơn nữa địa vị và vai trò của mình, chuẩn bị gia nhập và cam kết thực hiện tốt các vấn đề với AFTA, tiến tới gia nhập AFTA và WTO. III- THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU. 1. Những thành tựu. Không còn nghi ngờ gì nữa nền kinh tế Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng. Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định như vậy Hà Đăng "đã ra khỏi khủng hoảng..." thời sự kinh tế Việt Nam số 47 tháng 10/1995 . Đó là do Việt Nam đã kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh của sự hợp tác liên kết trong xu thế và cục diện chung quốc tế hoá và toàn cầu hoá kinh tế. Đây là yếu tố rất quan trọng không thể thiếu được để Việt Nam tiến lên trên con đường phát triển. Giờ đây nền kinh tế Việt Nam đang bước vào lằn ranh của đường băng cất cánh. Như một phi thuyền đã sẵn sàng trên bộ phóng và khẩu lệnh xuất phát đang điểm những giây cuối cùng 3-2-1... Những nguồn lực để nâng tàu cất cánh đã được chuẩn bị từ nhiều năm qua, đặc biệt là trong chiến lược hướng về xuất khẩu được thực hiện gần đây: * Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong 2 năm (1996-1997) tăng bình quân trên 9% năm. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động sản xuất - kinh doanh tiếp tục đạt được những tiến bộ đáng kể cùng với tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng tiến bộ, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Cơ cấu công nghệ- kỹ thuật trong các ngành kinh tế đã có những biến chuyển quan trọng, một số công nghệ tiên tiến đang được ứng dụng và triển khai như công nghệ thông tin, điện tử, tin học... Nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện tăng bình quân 5% diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp như chè, cà phê, cao su, hạt điều, rau quả... đều tăng khá. Đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản phát triển, sản lượng đánh bắt hàng năm khoảng 1,4 triệu tấn. Một số lĩnh vực công nghiệp đã được đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, bước đầu khắc phục được tình trạng yếu kém, lạc hậu về công nghệ, đang ổn định và phát triển nhanh như công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc. Những sản phẩm công nghiệp quan trọng của nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao như dầu thô, xi măng, than... Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân năm 1996-1997 vào khoảng 9%, trong đó đặc biệt là các ngành dịch vụ như thương mại vận tải, bưu điện... đã tăng khá, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển. * Xuất khẩu tăng nhanh đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu, thị trường được củng cố và mở rộng, mặt hàng xuất khẩu đa dạng và chất lượng được nâng cao hơn, chênh lệch xuất nhập khẩu đã được khép lại dần. Kim ngạch xuất khẩu 2 năm 1996-1997 đạt 16,25 tỷ USD tăng bình quân 28,4%/năm, trong đó hàng nông lâm, thuỷ sản đạt 6,76 tỷ USD, hàng công nghiệp nhẹ đạt 5,65 tỷ USD, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 3,9 tỷ USD. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng khá như dầu thô, than đá, hàng dệt may, dày dép, gạo, chè, cà phê, cao su... xuất khẩu bình quân đầu người đạt đến 117USD. Chênh lệch xuất nhập khẩu từng bước được khép lại, năm 1996 mức nhập siêu chiếm 53,6% kim ngạch xuất khẩu và 16,6% GDP, năm 1997 chỉ chiếm khoảng 27,8% kim ngạch xuất khẩu và 9,7% GDP. * Đầu tư phát triển 2 năm 1996-1997 trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ước thực hiện 14-15tỷ USD bằng 34-35% mức kế hoạch 5 năm 1996-2000, bình quân một năm tăng gần gấp đôi mức bình quân của 5 năm trước, hướng sử dụng vốn nhìn chung phù hợp với mục tiêu của kế hoạch, nhiều khu chế xuất được xây dựng và đã đi vào hoạt động. * Các hoạt động giáo dục đào tạo, văn hoá, y tế xã hội... đều có bước tiến mới, song song với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, sự ổn định chính trị trật tự an toàn xã hội được giữ vững, thúc đẩy kinh tế phát triển. Hai năm qua có thêm 2,6 triệu lao động được giải quyết việc làm đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều có được cải thiện, số hộ nghèo giảm, nhiều địa phương đã thanh toán được nạn đói. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em. Các hoạt động bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, thể dục, thể thao có bước phát triển. * Về chính sách thị trường. Ta đã chuyển từ việc chia thị trường thanh hai khu vực XHCN và TBCN sang phân chia thị trường thế giới thành nhiều khu vực theo địa lý, theo trình độ phát triển kinh tế với các mức độ thâm nhập thị trường khác nhau nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và nhập khẩu nhiều công nghệ tiên tiến phục vụ sự nghiệp phát triển. * Về cơ chế chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu đã chuyển từ quản lý theo mô hình Nhà nước độc quyền cao độ về ngoại thương, quản lý bằng các biện pháp hành chính mệnh lệnh tập trung sang cơ chế Nhà nước thống nhất, quản lý bằng pháp luật, kế hoạch thông qua sử dụng linh hoạt các công cụ kinh tế. Từng bước chuyển sang tự do hoá thương mại trong nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường cơ sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. * Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và hoàn thiện. Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức ASEAN làm cho uy tín và vai trò của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đặc biệt là trong khu vực. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 156 nước có quan hệ buôn bán với trên 100 nước, có quan hệ hợp tác đầu tư với 52 nước và lãnh thổ (vốn đăng ký khoảng 20 tỷ đô la) xuất khẩu của Việt Nam tăng đều với nhịp độ 20%/năm. Điều đó tạo ra sự năng động của Việt Nam trong vòng cung Châu Á- Thái Bình Dương và hiện nay đang thu hút được sự chú ý của nhiều người trong giới lãnh đạo và kinh doanh trên thế giới. 2. Những vấn đề còn tồn tại. Trong quá trình phát triển bao giờ cũng nảy sinh những vấn đề mới những mâu thuẫn mới cần xử lý. Đó là quy luật của sự vận động. Nền kinh tế Việt Nam không nằm ngoài ảnh hưởng của qui luật đó. Trong quá trình thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, nền kinh tế đã đạt tới trình độ cao hơn, lẽ tất yếu phát sinh những vấn đề và những mâu thuẫn mới, thậm chí cả những yếu tố kìm hãm tăng trưởng. Đó là những hạn chế sau đây: - Hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, khả năng cạnh tranh kém, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực có tăng trưởng nhưng hiệu quả và chất lượng phát triển không cao. Năng lực sản xuất công nghiệp còn nhỏ bé, chưa đủ sức tự đầu tư phát triển. Cơ cấu công nghiệp chuyển biến chậm, đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp những năm qua chủ yếu vẫn là công nghiệp khai thác, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, sơ chế chưa đủ sức cạnh tranh cả về mặt chất lượng, cũng như giá cả sản phẩm cùng loại do nước ngoài sản xuất. - Chiến lược hướng về xuất khẩu đã dẫn đến khuynh hưóng tập trung quá mức các nguồn lực bên trong và bên ngoài vào những ngành sản xuất để xuất khẩu. Do đó kỹ thuật, công nghệ tiên tiến chỉ đạt được ở các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, còn các ngành sản xuất cho tiêu dùng nội địa thì vẫn ở trong tình trạng kỹ thuật công nghệ lạc hậu kéo dài và phát triển trì trệ, giảm sút. Chính việc hướng sự phát triển quá mức vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu đã dẫn đến tình trạng toàn bộ nền kinh tế quốc dân lệ thuộc sự biến động của những ngành ấy. Nói rộng ra là lệ thuộc vào sự biến động của thị trường thế giới. - Việc xuất khẩu vào thị trường truyền thống gặp nhiều trắc trở, trong khi đó thâm nhập vào thị trường mới còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó ta chưa có chiến lược nhập khẩu rõ ràng, chưa nhập được những công nghệ cần thiết để đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu. Chiến lược thị trường chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, chưa tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu trong nước dựa trên lợi thế so sánh của nước ta về lao động, và có khả năng sản xuất nhiều loại hàng hoá xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. - Bộ máy tổ chức hoạt động công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu còn cồng kềnh, kém hiệu lực. Còn thiếu những cán bộ vừa có năng lực hiểu biết về nghiệp vụ, luật pháp, kiến thức khoa học, công nghệ vừa có phẩm chất, tinh thần trách nhiệm để giải quyết những thủ tục hành chính nhanh nhạy, kịp thời. Những tệ nạn về thủ tục hành chính, bệnh quan liêu giấy tờ gây phiền hà, chậm trễ trong việc cấp giấy phép đầu tư.... đang là vấn đề nổi cộm gây ảnh hưởng không lành mạnh đối với tiến trình phát triển. - Chính sách công nghiệp - thương mại của Nhà nước cũng như trên thực tế vẫn còn mang dấu ấn của việc thay thế nhập khẩu chứ chưa thực sự hướng ngoại. Điều này thể hiện khá rõ qua một số biện pháp được nêu với ý định bảo vệ nền công nghiệp non trẻ (ví dụ điển hình là yêu cầu mới đây của Hiệp hội máy công nghiệp về tổng thuế nhập khẩu đánh vào máy móc lên 20-30% để bảo vệ sản xuất trong nước). - Trong hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết thoả đáng như xác định rõ vai trò chức năng quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, qui trình xúc tiến đầu tư qui trình thẩm định và cấp giấy phép đầu tư, qui trình quản lý xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Thị trường tài chính tiền tệ là vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế vì chưa hoàn chỉnh, thị trường chứng khoán chưa hình thành cùng với hệ thống thuế chưa hợp lý và hay thay đổi đã và đang ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh cũng như việc phát huy nguồn lực của các thành phần kinh tế. Việc cấp ban ngạch và quản lý bằng hạn ngạch không đúng đối tượng lại thiếu chặt chẽ đã dẫn đến tệ nạn mua bán hạn ngạch nấp dưới nhiều hình thức trước khi bắt tay vào việc thu gom hàng xuất khẩu. - Chính sách xuất khẩu chưa phát huy hết hiệu lực. Trong hoạt động xuất khẩu chưa giải quyết mối quan hệ thoả đáng giữa các mặt hàng chủ lực với các nhóm hàng khác. Quá chú trọng và ưu tiên cho một số mặt hàng mà không biết tận dụng và bỏ qua nhiều loại hàng hoá khác rất có triển vọng và tiềm năng. - Vấn đề cấp bách hiện nay là thông tin thương mại phục vụ cho xuất khẩu hàng hoá còn nhiều hạn chế. Từ nhiều năm nay thông tin thương mại của ta thường rất chậm, không đầy đủ, thiếu chính xác nên ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong khi đó nhiều đối tác của doanh nghiệp Việt Nam lại hiểu rất rõ tình hình xuất khẩu của ta. Nhưng chúng ta nắm được rất ít thông tin về bạn hàng, chưa kể các doanh nghiệp trong nước tranh mua, tranh bán, xuất phá giá để hưởng lợi một mình. Cuối cùng chỉ phía ban hành được lợi, cả Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam đều bị thua thiệt. IV- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU. 1. Các chính sách cần hoàn thiện. a. Ổn định kinh tế vĩ mô: Thời gian qua, tuy đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết những vấn đề nảy sinh khi thực hiện chiến lược kinh tế dựa trên xuất khẩu, song để đánh giá bị tụt hậu và nâng cao hiệu quả của chiến lược, nước ta cần phải kiên trì và gắng sức hơn nữa với đường lối tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Mà trước hết là phải ổn định kinh tế vĩ mô qua việc hoạch định và thực thi chiến lược, các chính sách tình huống phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước và quốc tế ở từng giai đoạn. Ổn định tài chính cần được thực hiện trước để khuyến khích tiết kiệm, tăng đầu tư.. Ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được coi là yếu tố tạo cơ sở cho sự thành công kinh tế. Feschen đã khẳng định rằng chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn cùng với mức thâm hụt ngân sách có thể chịu đựng được với việc thực hiện hối suất thực tế là điều kiện tiên quyết cho thành công. Ngân sách thâm thủng được bù lại bằng phát hành thêm nội tệ sẽ đẩy làm phát lên cao, tăng hối suất gây thiệt hại cho hoạt động xuất khẩu, cản trở sản xuất phát triển. Đến lượt mình sản xuất trong nước với chế độ bảo hộ sẽ làm tăng chi phí và triệt tiêu cạnh tranh, kìm hãm phát triển. Vì vậy một chính sách ổn định tài chính và tiền tệ sẽ tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất. Tỷ lệ tiết kiệm cao để đảm bảo sự cân đối giữa tích luỹ và đầu tư là một trong những yếu tố tạo sự ổn định kinh tế vĩ mô. Khuyến khích tiết kiệm đòi hỏi phải duy trì mức lãi suất tiền gửi luôn dương thêm vào đó, phát triển các dịch vụ tiết kiệm thuận lợi, nhanh gọn cũng là biện pháp thu hút tối đa tiền tiết kiệm trong dân cư. Chính sách thuế cũng cần được thực hiện và điều chỉnh một cách thận trọng nhưng linh hoạt tuỳ từng giai đoạn cụ thể để khuyến khích sản xuất, kinh doanh. Đối với hối suất cần có sự điều chỉnh hợp lý để khuyến khích xuất khẩu hoặc thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài. Đối với tăng trưởng, dù dựa vào xuất khẩu hay theo hướng nào khác thì xây dựng kết cấu hạ tầng luôn thực là cần thiết. Đó là điều được cả quan điểm tân cổ điển lẫn quan điểm cơ cấu thừa nhận. Quan hệ giữa phát triển và cơ sở hạ tầng mang tính chất tương hỗ rất rõ. Bởi lẽ tỷ lệ đầu tư cho kết cấu hạn tầng luôn phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Tuy nhiên do việc đầu tư vào xây dựng đường xá, bến bãi, cảng, sân bay, giao thông liên lạc thường đòi hỏi vốn lớn với mức sinh lợi rất thấp, thời hạn thu hồi vốn kéo dài, nhiều rủi ro nên để nâng cao chất lượng cung cấp loại dịch vụ này, theo quan điểm của ngân hàng thế giới, nước ta cũng như các nước thực hiện tăng trưởng dựa trên xuất khẩu phải mở rộng các nguyên tắc quản lý kinh doanh cho các đơn vị tham gia trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở, mở rộng phạm vi cạnh tranh và tạo điều kiện cho người tiêu dùng tham gia vào việc cấp vốn, khai thác và sở hữu các dịch vụ đó. Hiện nay, các nhà kinh tế học phát triển điều thống nhất với quan điểm: "Tri thức - nguồn vốn siêu quốc gia" (Kuznets 1996) đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Nhận định này còn được khẳng định bằng những tuyên bố của Okita "nguồn lực con người rút cục mới là yếu tố quan trọng nhất cho phát triển kinh tế" vì vậy vấn đề cần được giải quyết trước tiên là phát triển nguồn vốn con người thông qua việc bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cư dân, cải thiện mức sống, cải thiện môi trường sống. Một vấn đề không kém phần quan trọng trong chiến lược phát triển với con người là việc đào tạo nhân tài và bổ sung vào giới cầm quyền. Các quan chức trong các thiết chế hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển đã qua những chương trình đào tạo chính quy, chặt chẽ thực sự có khả năng nắm bắt vấn đề. Với tầm nhìn sâu rộng, với cách ứng xử khoa học, logíc, năng động họ sẽ đưa ra được những quyết định đúng nhiều hơn những quyết định sai. b. Trong hoạt động xuất khẩu: Để thúc đẩy quá trình thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu ngoài các giải pháp ở tầm vĩ mô, chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa với các giải pháp đối với nội tại lĩnh vực và chiến lược của chúng ta đang khai thác, đó là xuất khẩu. Tức là chúng ta cần phải hoàn thiện các chính sách và bổ sung các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Muốn làm được điều đó, cần phải đa dạng hoá, đa phương hoá hoạt động kinh tế đối ngoại và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Các gải pháp cụ thể để thúc đẩy xuất khẩu: - Phải có quy hoạch tổng thể, chuyên môn hoá sản xuất hàng xuất khẩu. Từng bước lựa chọn hàng chủ lực và tiến tới hàng mũi nhọn. Thăm dò thị trường một cách chính xác để có kế hoạch đầu tư thoả đáng để đảm bảo tính thường xuyên của hàng xuất. - Tầng bước nâng cao chất lượng hàng xuất, không để tâm lý coi thường chất lượng hàng Việt Nam trở thành phổ biến trong người tiêu dùng ở mọi thị trường. Tạo ra hệ thống đo lường và kiểm định hàng một cách khoa học và chặt chẽ, thống nhất. - Không thể để mất lòng bạn hàng, giữ uy tín với khách là vấn đề then chốt của chương trình hàng xuất khẩu. Nhất là khi ta chưa có hàng hoá nào đạt tới tầm khống chế. - Sáng tạo và học tập cách thức quảng cáo, đóng gói và bảo quản hàng hoá của các nước tiên tiến. Lựa chọn bao bì, hình thức theo thị hiếu của khách hàng. Nhà nước cần thông tin đầy đủ về vấn đề này. Có thể giúp đỡ các doanh nghiệp tìm hiểu thị trường dưới nhiều hình thức - Giải quyết thoả đáng lợi ích của những bộ phận sản xuất hàng xuất khẩu. Quan trọng là giá cả. Nếu giá xuất khẩu cao hơn giá thu mua, người kinh doanh được lời hơn người sản xuất sẽ dẫn tới tâm lý chán nản, thua lỗ và mất khả năng tái sản xuất. Nguyên tắc cơ bản để xử lý vấn đề này là đảm bảo cho người sản xuất có thu nhập thoả đáng, ít nhất là phải bù đắp chi phí vật chất và sức lao động. Phải luôn tính tới yếu tố trượt giá trong nền kinh tế lạm phát. - Cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu. Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ rõ "cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu" Văn kiện Đại hội Đảng thứ VII. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1991. Tr.64 . Hàng xuất khẩu chế biến có tác dụng tiết kiệm và giảm bớt tốc độ khai thác tài nguyên. Mặt khác, sử dụng thêm nguồn lao động dồi dào trong nước, tăng tổng sản phẩm quốc nội và thu nhập quốc dân. Quá trình chế biến hàng xuất khẩu sẽ làm trình độ thành thạo của người lao động tăng lên. - Gấp rút thành lập một số khu chế xuất (KCX). KCX là khu công nghiệp chuyên sản xuất để xuất khẩu với những quy chế tự do về thuế quan và mậu dịch. KCX phải thuận tiện cho việc kinh doanh của người nước ngoài, vì vậy nó phải gần đầu mối giao thông, trung tâm kinh tế. Có thể lựa chọn ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. - Quy trình kiểm soát, kiểm tra cửa khẩu phải được sửa đổi, củng cố sao cho tiện lợi nhất cho việc ra vào của tất cả các chủ thể, không phân biệt trong nước, ngoài nước, doanh nhân nước ngoài hay Việt Nam đều được tự do ra vào qua các cửa khẩu vì mục đích kinh doanh. 2. Tăng cường điều hành của Chính phủ. Cải cách hành chính quốc gia theo hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính, tăng cường quản lý Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu, tăng cường năng lực, bộ máy quản lý điều hành và phối hợp với các bộ, các ngành tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất xuất khẩu, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Cải cách giáo dục đào tạo cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật theo hướng phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, phối hợp giữa các ngành, các bộ trong việc hoạch định chính sách và cơ chế xây dựng văn bản pháp luật. Nhà nước cần điều hành một cách đồng bộ sự hoạt động của uỷ ban kế hoạch Nhà nước, ngân hàng, tài chính, vật giá để có thể thúc đẩy các hoạt động ngoại thương phục vụ chiến lược hướng về xuất khẩu. Mọi hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty ngoại thương trung ương hay địa phương đều phải tuân thủ triệt để các quy định của Nhà nước, báo cáo đầy đủ cho Nhà nước theo chế độ kế toán, thống kê chung và chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Nhà nước kiểm tra, kiểm soát và đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ với khách hàng theo hợp đồng đã thoả thuận. Nếu đơn vị, cá nhân làm ảnh hưởng tới uy tín quốc gia phải lập tức đình chỉ hoạt động và xử lý nghiêm minh. Sắp xếp, bố trí lại những đầu mối quản lý kinh tế đối ngoại. Những ngành liên quan đến kinh tế đối ngoại phải được phân cấp rõ ràng, tránh tình trạng chống chéo quá nhiều đầu mối, thiếu người chịu trách nhiệm. Nhà nước phải xác định quyền hạn của từng cơ quan, phân định trách nhiệmu cụ thể và giao quyền quản lý cho họ. Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là điều sống còn cho sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp vì vậy Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc tạo ra môi trường, hành lang và những điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp để họ có thể hoạt động một cách có hiệu quả nhất trên mọi địa bàn của đất nước. 3. Một số kiến nghị. Để xử lý, giải quyết những vấn đề còn tồn tại, nâng cao hơn nữa hiệu quả của chiến lược hướng vào xuất khẩu trang trại nay đến năm 2005 nhằm phát triển kinh tế xã hội, tôi xin kiến nghị như sau: Thứ nhất: Chính phủ sớm hoạch định đúng "lộ trình" tổng quát "lộ trình" chi tiết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu. Từ đó có kế hoạch cụ thể tập trung đầu tư nguồn lực, trước hết là các nguồn vốn (kể cả vốn ODA) vào sản xuất các ngành hàng, mặt hàng xuất khẩu chủ lực cụ thể, ở những thời điểm cụ thể, theo phương thức "cuốn chiếu vốn đầu tư". Tức là Nhà nước chủ động đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước để đẩy mạnh sản xuất một số mặt hàng xuất khẩu có lợi thế tại một thời điểm xác định, sau đó lại chủ động rút vốn ra (khi mặt hàng đó đã không còn lợi thế) để đầu tư tập trung sản xuất những mặt hàng xuất khẩu có lợi thế mới. Thứ hai: Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) như một đòn bẩy trực tiếp tác động lên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Thứ ba: Chính phủ, Bộ Thương mại cần tăng cường các biện pháp phi thuế, các biện pháp không chính thức để bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam khi Việt Nam tham gia vào chương trình cắt giảm thuế quan của AFTA (CEPT) và tham gia WTO thực hiện cam kết quốc tế trong buôn bán. KẾT LUẬN Để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đồng thời phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị trí của Việt Nam trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã chọn con đường hướng ngoại để phát triển kinh tế và cụ thể là chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Đồng thời Đảng và Nhà nước cũng đưa ra một loạt các biện pháp, chính sách nhằm thực hiện tốt chiến lược. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp chặt chẽ với thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Đi đôi với mở rộng quan hệ với nước ngoài, Việt Nam sẽ luôn giữ vững nền độc lập và tự chủ của mình, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh. Chiến lược hướng về xuất khẩu là điều mà chúng ta đã thực hiện, bước đầu đã đạt được kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tình hình chính trị - xã hội ổn định. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chiến lược vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục và giải quyết bằng nhiều biện pháp chính sách khác nhau. Muốn vậy Nhà nước phải kiểm tra, kiểm soát và thúc đẩy hơn nữa việc thực hiện chiến lược. Tuỳ từng hoàn cảnh, từng giai đoạn cụ thể để đề ra những quyết sách mạnh mẽ nhằm đưa chiến lược đi đến thành công./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Quyền - Lê Minh Tâm: Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới 2010 - NXB Thống Kê - Hà Nội 1997 2. V.I.Lênin toàn tập - NXB.Sự thật Hà Nội 1970 - Tr.224 3. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI - NXB.Sự thật Hà Nội - 1987 - Tr.153 4. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII - NXB.CTQG Hà Nội - 1991 - Tr.64 5. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII - NXB.CTQG Hà Nội - 1996 - Tr.153 6. Trần Văn Kỷ: Nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu ở Việt Nam - Kinh tế và dự báo - Số 3/97 7. Phạm Quang Hàm: Phát triển công nghiệp hướng mạnh về xuất khẩu ở Việt Nam - Kinh tế và Dự báo - Số 6/97. 8. Tô Xuân Dân: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay - Kinh tế Phát triển - số 18/97 9. Đinh Văn Thành: Về chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu - Thương mại số 10/97 10. Hoàng Văn Mùi: Chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu và vai trò của nông nghiệp - Kinh tế và Dự báo - Số 9/97. Em xin cam đoan đề án môn học này là do tôi tự tìm tòi nghiên cứu và tự tay chấp bút. Những tài liệu mà tôi đã tham khảo và trích lục đều đã được ghi rõ và đầy đủ về nguồn gốc của chúng trong đề án này. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước phát triển, Nhà trường, Khoa và giáo viên hướng dẫn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005.doc
Luận văn liên quan