MỤC LỤC
CHƯƠNG1: LÃI SUẤT&CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 Lý luận cơ bản về lãi suất trong nền kinh tế
1.2 Lãi suất, đầu tư và tăng trưởng kinh tế
1.3 Chính sách lãi suất của NHTW
1.4 Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW một số quốc gia & những kinh nghiệm cho Việt Nam.
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN DIỄN BIẾN KINH TẾ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM.
2.1 Tổng quan tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam giai đoạn 2001-2008
2.2 Đánh giá chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế
CHƯỚNG 3: GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VỚI MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM.
3.1. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2020.
3.2. Những thách thức của CSTT trong bối cảnh hội nhập của Việt Nam
3.3 Giải pháp điều hành chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế
86 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2631 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHNN.
Bên cạnh những ảnh hưởng đến tổng phương tiện thanh toán và thay đổi vị
thế cán cân thanh toán, dòng vốn đầu tư nước ngoài còn có tác động đến tỷ giá, lãi
suất trên TTTT. Trong nền kinh tế đôla hoá như Việt Nam, mối quan hệ giữa tỷ giá,
lãi suất đồng bản tệ và lãi suất đồng ngoại tệ trong nước có mối quan hệ rất chặt chẽ
với nhau. Nếu không đảm bảo sự cân bằng về lợi tức giữa hai đồng tiền thông qua
- 64 -
biến số tỷ giá, lãi suất thì sẽ gây ra sự dịch chuyển giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ
trên thị trường trong nước. Điều đó cho thực thi CSTT ngày càng khó khăn hơn.
3.2.2 Ngăn chặn những bất ổn định về tiền tệ và kinh tế vĩ mô khi thực hiện tự
do hoá các giao dịch vốn
Trong quá trình mở cửa thị trường tài chính, tự do hoá các giao dịch vốn là
một xu thế tất yếu, thực chất của quá trình này là xoá bỏ các hạn chế trong việc
chuyển dịch vốn ra vào Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các khoản
đầu tư gián tiếp. Chính việc xoá bỏ các rào cản như vậy, theo kinh nghiệm của các
nước, có thể xảy ra những bất ổn từ việc các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn hoặc
đầu tư đột ngột với qui mô lớn khi nền kinh tế xuất hiện những mất cân bằng vĩ mô,
các chính sách quản lý vĩ mô thiếu nhất quán và hướng tới những mục tiêu mâu
thuẫn nhau, nhất là chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất không tạo được lòng tin
cho thị trường.
Ngoài ra, tự do hoá dòng vốn còn có thể làm gia tăng việc đầu tư bất cẩn từ
dòng vốn nước ngoài dẫn đến việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả, có thể kèm
theo tình trạng bất ổn giá tài sản và đầu tư quá nóng vào một số lĩnh vực của nền
kinh tế làm giảm giá trị tài sản của hệ thống tài chính, qua đó mà tốc độ tăng trưởng
kinh tế sẽ giảm thấp. Hiệu quả của CSTT sẽ được tăng cường để ngăn chặn nguy cơ
bất ổn nếu tỷ giá hối đoái được định hướng theo nguyên tắc thị trường, theo đó các
giao dịch của tài khoản vốn không ảnh hưởng trực tiếp tới các điều kiện tiền tệ.
Trong trường hợp tự do hoá các giao dịch vốn, nếu vẫn duy trì một chế độ tỷ giá cố
định hoặc thiếu linh hoạt, NHNN sẽ không thể sử dụng CSTT để duy trì sự ổn định
giá trong nước, vì khi đó cung tiền phải mở rộng để ổn định tỷ giá khiến lạm phát
trong nước có thể gia tăng. Từ đó cân đối vĩ mô có thể bị phá vỡ.
3.2.3 Ảnh hưởng của xu hướng thắt chặt hay nới lỏng CSTT các quốc gia trên
thế giới
Hội nhập kinh tế quốc tế thì tác động của các nền kinh tế bên ngoài đến nền
kinh tế Việt Nam là khó tránh khỏi như các nước có nền kinh tế nhỏ, mở cửa. Một
nghiên cứu của IMF về mức độ ảnh hưởng của các nền kinh tế lớn đến nước nhỏ
- 65 -
(Hoa Kỳ và các nước Nam Mỹ). Kết quả mô hình cho thấy, cái giá phải trả của sự
chậm trễ trong việc thi hành CSTT của các nước nhỏ khi điều kiện bên ngoài thay
đổi là kỳ vọng lạm phát tăng cao, tỷ giá ngoại tệ xuống thấp hơn, làm cho lạm phát
chung tăng cao. Mô hình cũng chỉ ra trong trường hợp các phản ứng chậm hơn ba
tháng sẽ làm cho lãi suất phải tăng cao hơn để đưa lạm phát trở về vị trí ban đầu. Sự
chậm trễ trong thay đổi chính sách cũng làm cho lòng tin bị phá vỡ nhiều hơn và
kinh tế bị thiệt hại nhiều hơn. Thời gian đúng để phản ứng cũng như cường độ phản
ứng phụ thuộc vào mỗi nước. Trong đó, phụ thuộc vào thành công của CSTT được
thực hiện trước đó, cán cân thanh toán, trạng thái phụ thuộc tài chính quốc tế.
3.3 Giải pháp điều hành chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế
3.3.1 Giải pháp trước mắt, điều hành CSTT thời kỳ khôi phục kinh tế sau giai
đoạn khủng hoảng
Sau thời kỳ suy thoái nền kinh tế đang bước vào giai đoạn hồi phục nên
CSTT không thể không hướng theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Một CSTT phù
hợp sẽ thúc đẩy quá trình hồi phục nhanh hơn. Trong giai đoạn này, Chính phủ và
NHNN nên hướng vào các giải pháp sau:
- Về chính sách lãi suất:
• NHNN nên giữ lãi suất cơ bản ổn định như hiện nay để lãi suất cho vay
không quá cao, trợ giúp nền kinh tế phục hồi và phát triển.Tuy nhiên, lãi suất huy
động vẫn phải đủ hấp dẫn người dân gửi tiền và ngân hàng có thể huy động vốn tốt
hơn phục vụ tăng trưởng. Do đó, lãi suất huy động nên để NHTM tự quyết định
theo kế hoạch kinh doanh của mình trên cơ sở giảm chi phí, giảm lợi nhuận, cùng
chia sẻ với doanh nghiệp. NHNN cần quản lý và có những biện pháp đối với những
động cơ và hành động nâng lãi suất không lành mạnh, gây tâm lý bất ổn.
• Với những diễn biến hiện tại trên thị trường tín dụng: sức ép về vốn gia
tăng, hầu hết các NHTM đã đẩy lãi suất huy động VND đến trên 9%/ năm, trong
khi lãi suất đầu ra cho sản xuất kinh doanh vẫn đang được khống chế ở mức tối đa
10,5%/ năm. Câu hỏi đặt ra là: có nên tiếp tục khống chế trần lãi suất cho vay đối
với các NHTM?
- 66 -
Việc bỏ trần lãi suất cho vay là điều nên làm để mang lại tính thị trường
cho lãi suất, nhưng phải chọn thời điểm thích hợp, để tránh gây sốc đối với nền kinh
tế. Thời gian qua, không ít các doanh nghiệp tiếp nhận tín dụng rẻ qua việc hỗ trợ
lãi suất. Gói hỗ trợ ngắn hạn sẽ được kết thúc vào cuối năm 2009 .Để tránh cú sốc
về lãi suất đối với nền kinh tế, thì rất nên cần có bước đệm bằng gói hỗ trợ lãi suất
ngắn hạn thứ hai với qui mô nhỏ hơn, thời gian hỗ trợ ngắn hơn, đối tượng hỗ trợ
hẹp hơn (những ngành sản xuất còn khó khăn, các DNVVN có chỗ đứng ở thị
trường nội địa, hộ nông dân sản xuất kinh doanh) với lãi suất hỗ trợ thấp hơn (2%
và 1%/ năm cho các đối tượng khác nhau).
- Về chính sách tỷ giá:
Từ tháng 3/2009, biên độ tỷ giá được nới rộng +/- 5% cho đến nay, điều này
trước hết phải khẳng định việc nới biên độ để tỷ giá nhằm để tỷ giá phản ánh sát
hơn tín hiệu thị trường. Mặt khác, nới rộng biên độ VND/USD nhằm tạo thuận hơn
cho xuất khẩu. Vấn đề đặt ra ở giai đoạn hậu suy giảm, tỷ giá hối đoái sẽ được điều
chỉnh như thế nào sẽ tác động tác động tích cực đến nền kinh tế? Nới biên độ hay
điều chỉnh tỷ giá? hay vừa nới biên độ vừa điều chỉnh tỷ giá?
Về bản chất nới rộng biên độ hay điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng đều làm
giảm giá trị nội tệ, làm cho VND phản ánh sát hơn với giá trị thực. Thay vì để biên
độ quá rộng rất khó khăn cho quản lý, nên thay thế bằng việc điều chỉnh tỷ giá liên
ngân hàng. Khi giá USD/VND đạt tới mức kỳ vọng, sẽ xuất hiện một làn sóng bán
USD, dòng VND gửi vào ngân hàng sẽ gia tăng, lúc này NHTM sẽ có điều kiện hạ
lãi suất VND (cả huy động và cho vay).Thực hiện điều này sẽ vừa có tác động đến
lãi suất, tác động đến dòng vốn vào-ra, vừa có điều kiện duy trì khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, chủ động nhập khẩu, vừa giảm kỳ
vọng VND mất giá so với USD trong ngắn hạn.
3.3.2 Nhóm giải pháp điều hành chính sách lãi suất ổn định và có tính dài hạn
Chính sách lãi suất có quan hệ trực tiếp theo tương quan tỷ lệ nghịch tới xu
hướng lạm phát. Lãi suất càng thấp, đồng tiền càng rẻ, càng kích thích mở rộng đầu
tư và tiêu dùng và do đó càng làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ. Tuy nhiên, lãi suất
- 67 -
quá cao sẽ thu hẹp đầu tư xã hội, dẫn đến đình trệ, suy thoái, thất nghiệp và phá sản.
Vì thế, mức lãi suất thông thường trong nền kinh tế bình thường luôn được khuyến
nghị tuân theo bất phương trình sau: L1<L2<L3<L4. Trong đó: L1: mức lạm phát;
L2: lãi tiền gửi; L3: lãi cho vay và L4: lợi nhuận bình quân xã hội trong cùng kỳ
hạn lãi suất. Việc giữ cân bằng mang tính dài hạn của lãi suất nhằm giúp các chủ thể
trong nền kinh tế dự tính được các cơ hội đầu tư và mạnh dạn đầu tư, tăng trưởng
kinh tế như trên cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ trong dài hạn.
Để điều hành lãi suất một cách ổn định và có tính dài hạn, trước tiên phải
kiểm soát nhằm hạn chế những biến động quá mức về cung tiền, sự thâm hụt ngân
sách kéo dài dẫn đến lạm phát cao. Bởi vì, khi lạm phát gia tăng, chính phủ nào
cũng phải có chính sách đề cao bản tệ, mà tiêu biểu là tuân thủ chính sách lãi suất
thực dương sẽ làm tăng lãi suất. Song song đó, cần thực hiện có hiệu quả các dự báo
về tiền tệ, dự báo về cung cầu vốn trong nền kinh tế để có những bước điều chỉnh
hợp lý tạo sự ổn định trên TTTT.
3.3.2.1 Phối hợp giữa kiểm soát dòng vốn vào với mục tiêu điều hành CSTT
Với thực tế hiện nay, nếu NHNN vẫn tiếp tục thực thi CSTT thắt chặt và ổn
định tỷ giá thông qua việc can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì khả năng
xuất khẩu nhưng Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch đầu tư vẫn tiếp tục huy động luồng
vốn nước ngoài đổ vào, gây sức ép mua ngoại tệ với NHNN, ảnh hưởng đến cung
tiền và lãi suất. Do đó, để hạn chế tối thiểu sự tác động từ bên ngoài thì việc phối
hợp giữa các biện pháp kiểm soát dòng vốn nước ngoài với các giải pháp điều hành
CSTT càng trở nên quan trọng hơn.
Kiểm soát vốn là hạn chế những giao dịch vốn, những khoản thanh toán liên
quan đến giao dịch vốn nước ngoài vào Việt Nam. Về nguồn vốn FDI, có thể thực
hiện theo kinh nghiệm của Trung quốc, họ mở cửa cán cân rất chọn lọc có lợi cho
tăng trưởng bền vững như chính sách khuyến khích FDI vào các lĩnh vực khuyến
khích xuất khẩu, tạo ra các rào cản kỹ thuật với các lĩnh vực không khuyến khích
đầu tư như đưa ra các yêu cầu cao về môi trường.
- 68 -
Đối với dòng vốn FPI, cho đến nay, các biện pháp trực tiếp mà Chính phủ
Việt Nam đang áp dụng để kiểm soát dòng vốn vào FPI đổ vào TTCK là việc không
cho phép mở rộng tỷ lệ nắm giữ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh
nghiệp trong nước (hiện nay tỷ lệ này ở mức 49% đối với công ty cổ phần và 30%
đối với các NHTM); và việc qui định đầu tư gián tiếp nước ngoài chỉ được thực
hiện bằng VND thông qua tài khoản VND tại tổ chức tín dụng được phép. Trong
chừng mực nào đó hai biện pháp kiểm soát trên đã hạn chế sự gia tăng ồ ạt ngoài
tầm kiểm soát của dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Tuy nhiên trong sắp tới
Chính phủ Việt Nam có thể áp dụng thêm các giải pháp như đánh thuế vào các giao
dịch ngoại hối.
Song song đó, để triệt tiêu tác động dòng vốn vào, hầu hết các nước lớn ở
Đông Á đã nới lỏng những hạn chế đối với dòng vốn ra nhằm khuyến khích đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Ngoài ra, để tìm kiếm cơ hội đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài, nhiều nền kinh tế mới nổi lớn ở Đông Á như Trung Quốc,
Malaysia... khuyến khích các nhà đầu tư nhỏ trong nước đầu tư gián tiếp gián tiếp ra
nước ngoài. Tuy vậy, vẫn cần thận trọng trong việc dỡ bỏ những hạn chế đối với
dòng vốn ra, bởi có thể làm trầm trọng thêm ảnh hưởng tiêu cực của việc dòng vốn
đảo chiều.
Ngoài ra, để mở cửa có chọn lọc các luồng vốn có lợi cho phát triển bền
vững và phù hợp với khả năng sử dụng các công cụ lãi suất, thị trường mở và tỷ giá
để kiểm soát lạm phát .Chính phủ nên từng bước thực hiện tự do hoá tỷ giá với
những lộ trình phù hợp với mức độ phát triển của thị trường ngoại hối, mức độ tự
do hoá thị trường tài chính.
3.3.2.2 Phối hợp đồng bộ các chính sách tài khóa và CSTT
Để tăng cường hiệu quả thực thi CSTT và chính sách tài khóa quốc gia, cần
thiết phải có sự kết hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa hai chính sách để tăng cường
hiệu quả thực thi của từng chính sách. Tránh tình trạng CSTT thì thắt chặt trong khi
chính sách tài khóa lại nới lỏng như đã từng xảy ra. Các giải pháp thực thi chính
sách tài khóa nếu được cân nhắc và phối hợp kịp thời với CSTT thì các mục tiêu
- 69 -
chính sách tài khóa đạt được sẽ là bước đệm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho việc
thực thi CSTT.Vấn đề quan trọng hiện nay, để tăng cường hiệu quả phối hợp của
hai chính sách là :
- Thu, chi ngân sách và tín dụng nhà nước phải gắn chặt với nguyên tắc giữ ổn
định tiền tệ NHNN.
Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống thuế theo hướng sửa
đổi, bổ sung các luật thuế hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng nộp thuế, giảm
thuế suất và nghiên cứu soạn thảo các luật thuế mới để góp phần tăng thu NSNN,
giảm chi phí hành thu từ đó cắt giảm bội chi NSNN. Song song với việc tăng thu
NSNN, chính sách tài khóa cần phải cắt giảm các khoản chi tiêu công theo hướng
tiếp tục cắt giảm các khoản chi thường xuyên, tỷ lệ vốn chi đầu tư xây dựng cơ bản
từ NSNN phải được cắt giảm qua từng năm theo hướng “nhà nước và nhà đầu tư
cùng làm” bằng cách kêu gọi đầu tư hoặc đổi đất dự án cho các tập đoàn nước ngoài
để lấy hạ tầng cơ sở nhằm giảm bớt gánh nặng nợ công.
- Thiết lập mối quan hệ thường xuyên, liên tục trong quá trình hoạch định và
thực thi CSTT và chính sách tài khóa giữa Bộ Tài chính và NHNN.
NHNN phải được cung cấp những thông tin chính xác và kịp thời từ phía Bộ
Tài chính về tồn quỹ tiền mặt tại Kho bạc Nhà nước để tính toán lượng tiền cơ sở,
số lượng huy động vốn và cho vay của các quỹ ngoài ngân sách để kiểm soát được
tổng phương tiện thanh toán của toàn bộ nền kinh tế. Số liệu thống kê, báo cáo về
các vấn đề tài chính công, nhất là kế hoạch về huy động vốn để bù đắp thâm hụt
NSNN, biến động tài khoản ngân sách tại NHNN phải được Bộ Tài chính cung cấp
kịp thời cho NHNN. Ngược lại, NHNN phải cung cấp các thông tin về lãi suất, tỷ
giá, lạm phát, phát hành tiền và khả năng vốn khả dụng của hệ thống NHTM cho
Bộ Tài chính.
- Tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về NSNN và NHNN theo
hướng đảm bảo tính độc lập của từng chính sách.
Khoản tiền NHNN cho NSNN vay hàng năm phải được khống chế bởi một
hạn mức cụ thể do Quốc hội quy định trên cơ sở ưu tiên các mục tiêu dự kiến của
- 70 -
CSTT như chỉ tiêu cung ứng tiền và lạm phát và sẽ được điều chỉnh lại nếu các chỉ
tiêu này có những biến động mạnh. Lãi suất NHNN cho NSNN vay phải đảm bảo
cao hơn lãi suất đấu thầu trên thị trường mở ở phiên giao dịch gần nhất nhằm làm
giảm lạm phát tín dụng của NHNN, đồng thời khuyến khích việc sử dụng phương
thức tài trợ thiếu hụt phi lạm phát qua phát hành trái phiếu, tín phiếu làm cơ sở phát
triển thị trường mở và các công cụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN.
3.3.2.3 Hoàn thiện những điều kiện cơ bản để hướng tới điều hành CSTT theo cơ
chế mục tiêu lạm phát
CSTT truyền thống của mỗi quốc gia được đặt ra thông thường để đạt được
bốn mục tiêu chính đó là: tạo ra công ăn việc làm cho xã hội hay làm giảm áp lực
thất nghiệp, đảm bảo sự tăng lên của GDP thực, đảm bảo sức mua hàng hoá trong
nước của nội tệ, ổn định tỷ giá. NHTW không thể đạt được tất cả các mục tiêu cùng
một lúc trong ngắn hạn, mà buộc phải lựa chọn một mục tiêu chính để tập trung
trong khi tạm thời coi nhẹ các mục tiêu khác. Trước đây, thường có hai xu hướng
chính cho CSTT đó là tập trung vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế hoặc cùng một
lúc theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, tập trung vào mục tiêu tăng
trưởng thì kết quả là quốc gia đó sẽ phải hứng chịu những cơn sốc lạm phát và tác
động tiêu cực nhất định đến nền kinh tế. Chính sách mục tiêu lạm phát đang trở
thành xu hướng lựa chọn số một hiện nay cho nhiều quốc gia trên thế giới vì chính
sách mục tiêu lạm phát thể hiện rõ rằng mục tiêu của CSTT là đạt được tỷ lệ lạm
phát thấp trong trung và dài hạn.
Các nghiên cứu thực nghiệm của IMF ở 13 quốc gia thị trường mới nổi áp
dụng chính sách mục tiêu lạm phát cho thấy rằng: (1) Tỷ lệ lạm phát ở các quốc gia
này có phần thấp hơn so với các quốc gia khác; (2) Không có sự khác biệt rõ ràng
về tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia áp dụng và quốc gia không áp dụng chính
sách lạm phát mục tiêu; (3) Các điều kiện kinh tế vĩ mô ở các quốc gia áp dụng
chính sách lạm phát mục tiêu cũng tỏ ra ổn định hơn so với các quốc gia không áp
dụng.
- 71 -
Từ trước đến nay, Việt Nam đã thực hiện một CSTT đa mục tiêu. Tuy nhiên
trong thời gian gần đây, chính sách đa mục tiêu này cũng đã bắt đầu bộc lộ những
hạn chế tiềm ẩn của mình. Trước hết, nó khiến cho lạm phát của Việt Nam không
mang tính thị trường mà chịu chi phối nhiều của yếu tố chủ quan. Hơn nữa, CSTT
đa mục tiêu đã hạn chế khả năng của NHNN phản ứng lại những biến động của thị
trường đặc biệt là biến động giá cả. Việc phải đắn đo khi đưa ra các quyết định đối
với sự biến động của lạm phát mà không làm ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng ít lên các
mục tiêu khác đặt NHNN trước nhiều lựa chọn phức tạp hơn.
So với những tiêu chí cơ bản cho sự thành công của chính sách mục tiêu lạm
phát thì Việt Nam có vẻ còn thiếu khá nhiều. Vì vậy việc áp dụng ngay sách mục
tiêu lạm phát tại thời điểm hiện tại cho Việt Nam là không khả thi, nhưng đây chính
là lúc mà chúng ta phải hoàn thiện những điều kiện cơ bản, những tiền đề cho quá
trình áp dụng chính sách này trong tương lai. Những giải pháp nhằm hoàn thiện các
điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến tới áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu là :
- Trong thời kỳ quá độ chuyển sang chính sách lạm phát mục tiêu, Việt Nam
nên thúc đẩy việc tính lạm phát cơ bản đảm bảo độ tin cậy. Đây sẽ là một căn cứ
quan trọng đối với NHNN để bổ sung vào quá trình điều hành CSTT vì lạm phát cơ
bản phản ảnh xu hướng biến động của giá cả, nên nếu lạm phát cơ bản không tăng
thì đây là một căn cứ để NHNN xem xét khả năng chưa thắt chặt tiền tệ. Ngược lại,
khi lạm phát cơ bản tăng, NHNN cần cân nhắc việc có phản ứng CSTT để kiểm soát
lạm phát. Ngoài ra, lạm phát cơ bản có khả năng dự báo tỷ lệ lạm phát CPI trong
tương lai. Đây ra một trong những căn cứ để đưa ra quyết định CSTT vì CSTT
thường có độ trễ.
- Từng bước xây dựng tính độc lập cho NHNN, đặc biệt là tính độc lập về
mặt chức năng. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của sách mục tiêu
lạm phát trong tương lai vì như thế mới đảm bảo thực hiện một CSTT đơn mục tiêu
và tính công khai minh bạch trong mọi hoạt động. Dần dần cho phép NHNN chủ
động hơn trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng sao cho phù hợp với những yêu
cầu của nền kinh tế chứ không phải để đáp ứng cho nhu cầu của NSNN và của
- 72 -
Chính phủ. Trong thực thi CSTT cũng phải tăng quyền tự quyết trong việc sử dụng
các công cụ của CSTT thực hiện các quyết định để từ đó có thể nâng cao hiệu quả
sử dụng cũng như uy lực của các công cụ đó.
- Nâng cao độ tin cậy của NHNN đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Để
thực hiện được điều này, cần phải đưa ra một khung giá trị cho mục tiêu lạm phát
thay vì một giá trị như hiện nay bởi vì như thế sẽ tăng tính linh hoạt cho NHNN.
Việc NHNN đạt được mục tiêu trong cả một khung giá trị biến động sẽ dễ dàng hơn
nhiều. Và như thế công chúng sẽ tin tưởng hơn vào khả năng của NHNN rằng một
khi NHNN đã cam kết thì chắc chắn sẽ thực hiện được.
- Tiếp tục đảm bảo mức độ tăng trưởng cho nền kinh tế, tạo ra sự tiềm lực, tự
chủ cho nền kinh tế.
- Tập trung nghiên cứu cơ chế truyền dẫn CSTT ở Việt Nam để xác định rõ
độ trễ về thời gian, phương thức và mức độ tác động của các chính sách do NHNN
thực hiện đến các mục tiêu CSTT. Đây là vấn đề quan trọng và không thể thiếu khi
Việt Nam chính thức áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu.
3.3.2.4 Phát triển thị trường liên ngân hàng, tạo kênh truyền tải tác động của chính
sách lãi suất.
Thị trường liên ngân hàng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc truyền tải
các tác động CSTT đến nền kinh tế, được xem như là cơ sở hạ tầng cho luân chuyển
tiền tệ. Nếu thị trường liên ngân hàng hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện cho các TCTD
tăng tỷ lệ tài sản có sinh lời, giảm dự trữ tiền mặt tại ngân hàng. Ngân hàng có thể
dự trữ, các loại giấy tờ có giá như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN phát hành…
Khi cần thiết để đảm bảo khả năng chi trả, các TCTD vừa có thể bán ra trên thị
trường liên ngân hàng lại vừa có lợi nhuận. Bên cạnh đó, hiện tượng thừa thiếu vốn
trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng là chuyện bình thường. Do vậy,
thông qua thị trường này có thể vay mượn lẫn nhau.
- Đối với Chính phủ : cần sớm trình Quốc hội thông qua Luật NHNN và Luật
Các tổ chức tín dụng theo hướng tạo sự chủ động cho NHTW phù hợp với luật pháp
Việt Nam và thông lệ quốc tế. Điều này tạo một hành lang pháp lý thống nhất và cơ
- 73 -
bản, giúp NHTW điều hành CSTT và triển khai thực hiện các chính sách vĩ mô có
tính ổn định và dài hạn. Mức độ phát triển thị trường liên ngân hàng là yếu tố quan
trọng, cho phép một NHTW chuyển dần sử dụng các công cụ mang tính qui định
sang các công cụ mang tính thị trường.
- Đối với NHNN : cần xây dựng các cơ chế về hoạt động của thị trường liên
ngân hàng theo hướng mở, hạn chế tối đa tình trạng xin cho và điều hành các công
cụ gián tiếp theo mệnh lệnh hành chính như hiện nay. Nên duy trì sự biến động của
lãi suất thị trường liên ngân hàng trong phạm vi hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn
và nhận tiền gửi thanh toán của NHTW. Tăng cường biện pháp để các ngân hàng
giao dịch với nhau trên thị trường liên ngân hàng, thay vì giao dịch với NHTW.
Phát triển hoạt động môi giới tiền tệ của NHTW thành một nghiệp vụ của
NHTW song hành cùng các nghiệp vụ TTTT khác.
Tăng cường khả năng dự báo thanh khoản của NHTW và các thành viên. Khả
năng dự báo tốt sẽ giúp cho NHTW chủ động trong điều hành CSTT. Dự báo thanh
khoản giúp NHTW quyết định cung cấp hoặc rút bớt lượng tiền là bao nhiêu trên thị
trường. Từ đó, tránh hoặc giảm những biến động quá mức trên thị trường. NHNN
cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển hệ thống thanh toán.
3.3.2.5 Phát triển TTCK, tạo sự gắn kết giữa TTTT với TTCK nhằm khơi thông
dòng luân chuyển vốn
Phát triển TTCK nhằm tăng thêm kênh huy động vốn của các doanh nghiệp,
các nhà đầu tư, tránh tình trạng dồn nhu cầu vốn lên vai hệ thống ngân hàng sẽ khó
tránh khỏi sức ép tăng lãi suất như thời gian vừa qua. TTTT và TTCK phát triển sẽ
như hai bình thông nhau trong sự luân chuyển vốn, lãi suất ngân hàng tăng hoặc
giảm sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán giảm hoặc tăng, cũng như ảnh hưởng đến
dòng luân chuyển vốn. Vốn được chuyển từ TTCK sang TTTT hoặc ngược lại.
Trong trường hợp một trong hai hoặc cả hai thị trường vận hành không tốt thì sự
thông nhau giữa hai thị trường sẽ bị hạn chế. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến cơ chế
truyền tải CSTT qua kênh giá tài sản. Một số giải pháp chủ yếu để ổn định và phát
triển TTCK là:
- 74 -
- Đẩy mạnh tái cấu trúc TTCK, trên cơ sở triển khai thị trường giao dịch
chứng khoán chưa niêm yết, thị trường giao dịch trái phiếu chuyên biệt, từng bước
hoàn thiện các khu vực thị trường niêm yết, OTC, trái phiếu và khả năng kết nối với
thị trường khu vực. Nghiên cứu đưa sản phẩm phái sinh vào sử dụng nhằm giảm
thiểu rủi ro và đa dạng hóa các công cụ đầu tư.
- Đẩy mạnh cổ phần hóa để đảm bảo chương trình cải cách doanh nghiệp, tạo
hàng chất lượng cao cho TTCK và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, do sức cầu hiện nay
chưa cao nên cần tránh đưa ra đấu giá, chuyển sang áp dụng theo đối tác chiến lược.
Thực hiện các giải pháp để thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ phần hóa đủ điều kiện
phải thực hiện niêm yết. Đồng thời tiến hành rà soát để có thể bán tiếp phần vốn của
nhà nước tại các công ty cổ phần mà nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối.
- Tăng qui mô, tiềm lực vốn công nghệ cho hệ thống NHTM trên cơ sở tăng
tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài vào các NHTM.
3.3.2.6 Hoàn thiện hệ thống thông tin hỗ trợ cho hoạch định và thực thi CSTT
Việc bùng nổ về các loại hình dịch vụ ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến
việc thực thi CSTT, các hình thức dịch vụ mới như thẻ tín dụng, máy rút tiền mặt
ATM ... đã làm cho cầu tiền phản ứng một cách nhanh hơn trước các diễn biến của
lãi suất, tức là đã làm tăng độ co dãn của cầu tiền đối với lãi suất, đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển của các luồng vốn, làm cho cung cầu tiền tệ trở nên khó dự báo hơn, cơ
chế truyển tải CSTT nhạy cảm hơn.
Hiện nay, vấn đề nắm bắt thông tin thị trường còn rất nhiều bất cập, nhiều chỉ
tiêu hiện chưa có để phục vụ cho việc điều hành các chính sách CSTT. Do vậy, để
có cơ sở dữ liệu phân tích xác định cơ chế truyền dẫn CSTT, việc hoàn thiện hệ
thống thông tin thị trường của quốc gia là rất cần thiết Ứng dụng công nghệ thông
tin sẽ giúp cải thiện chất lượng thống kê tiền tệ và khả năng phân tích và dự báo
kinh tế
Để hoàn thiện hệ thống thông tin hổ trợ cho hoạch định và thực thi CSTT,
NHNN cần thực hiện các giải pháp như đẩy mạnh liên doanh, liên kết và hợp tác
với các tổ chức trong nước và nước ngoài về kinh doanh, nghiên cứu và phát triển
- 75 -
dịch vụ ngân hàng để nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới, phù hợp với thông lệ và
chuẩn mực quốc tế. Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức
quốc tế để hiện đại hóa công nghệ và mở rộng dịch vụ ngân hàng.
3.3.3 Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo điều hành chính sách lãi suất linh hoạt và
kịp thời
Trong quá trình điều hành CSTT, sẽ có những thời điểm biến động về tiền tệ.
Lúc đó, lãi suất phải được điều hành một cách linh hoạt, kịp thời, giảm thiểu các tác
động tiêu cực đến tăng trưởng. Muốn vậy, NHNN cần phải có những quyết định
nhanh nhạy, sử dụng các công cụ gián tiếp một cách linh hoạt, hạn chế các biện
pháp trực tiếp gây sốc nền kinh tế.
3.3.3.1 Xây dựng NHTW mạnh có tính độc lập cao so với chính phủ.
Câu hỏi đặt ra, liệu một NHTW độc lập có giúp duy trì mức lạm phát thấp
và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao hơn hay không? Thập niên 1990 đã chứng
kiến nhiều nước, trong đó có cả những nước đã và đang phát triển, thực hiện quá
trình chuyển đổi mô hình NHTW sang hướng làm tăng tính độc lập hơn cho tổ chức
này. Các phân tích thực nghiệm về mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTW với các
biến số kinh tế vĩ mô như sau:
- Quan hệ với lạm phát: nghiên cứu của Alesina và Summers (1993) dựa trên
các quan sát giai đoạn từ năm 1955-1988 cho thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa
tính độc lập của NHTW với lạm phát bình quân và với sự biến thiên của chỉ số lạm
phát. Kết quả này cũng phù hợp với những kết quả nghiên cứu khác của Cukierman,
Webb và Neyapti (1992), Debelle và Fischer (1994). Điều này mang lại nhiều ý
nghĩa cho Việt Nam bởi kiềm chế lạm phát đã từng là một ưu tiên chính sách của
Chính phủ và trong tương lai lạm phát vẫn luôn là một nguy cơ lớn tiềm ẩn đối với
nền kinh tế Việt Nam.
- Quan hệ với thâm hụt ngân sách: nghiên cứu của Pollard (1993) về mối quan
hệ giữa tính độc lập của NHTW với cán cân ngân sách trong giai đoạn từ năm
1973-1989 đã chứng minh rằng ở những nước có NHTW độc lập cao thì tỷ lệ thâm
hụt ngân sách càng giảm. Theo Pollard, khi các quan hệ cho vay theo chỉ định hay
- 76 -
ứng vốn cho ngân sách không còn chịu sự chi phối của chính phủ thì sẽ tạo ra một
kỷ luật trong chi tiêu tốt hơn, qua đó góp phần làm tăng tính minh bạch và tạo ra
một cán cân ngân sách bền vững hơn.Cùng với lạm phát, thâm hụt ngân sách ở Việt
Nam cũng là một thách thức lớn cho các nhà hoạch định chính sách. Với tình trạng
thâm hụt ngân sách hàng năm trên dưới 5% GDP và luôn kéo dài trong nhiều năm
đã không những làm xói mòn tính kỷ luật trong chi tiêu ngân sách mà còn làm tăng
gánh nặng nợ quốc gia, kể cả nợ trong nước và nước ngoài.
- Quan hệ với tăng trưởng kinh tế: nghiên cứu của Alesina và Summers (1993),
của Barro (1991), De Long và Summers (1992), Levine và Renelt (1992) không
thấy mối quan hệ có ý nghĩa về mặt thống kê giữa tính độc lập của NHTW với tăng
trưởng sản lượng thực tế sau khi kiểm soát các yếu tố khác tác động đến tăng trưởng
kinh tế.Các lý thuyết kinh tế phát triển đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế là sự
phức hợp của nhiều yếu tố và chính sách khác nhau. Cho nên mặc dù không có mối
quan hệ có ý nghĩa về mặt thống kê giữa mức độ độc lập của NHTW với tăng
trưởng kinh tế nhưng một CSTT có hiệu lực và hiệu quả sẽ góp phần vào tăng
trưởng kinh tế ổn định hơn.
Thực tế cho thấy NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can
thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục
tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định TTTT thời gian qua. Vì vậy, nâng cao tính độc
lập của NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong
hiệu quả hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là
NHTW và sau đó là tiến tới một NHTW hiện đại.
Một số đề xuất chính sách chính nhằm tạo điều kiện và cơ sở để NHNN có
thể độc lập hơn, qua đó kỳ vọng làm cho CSTT trở nên có hiệu lực, hiệu quả hơn
đối với các mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách. Đặc biệt là sự
độc lập giúp cho NHNN phản ứng nhanh nhạy hơn khi vận dụng các công cụ gián
tiếp để điều hành lãi suất mang tính ổn định.
- 77 -
- Về địa vị pháp lý: trong dự thảo Luật NHNN sửa đổi, được NHNN soạn thảo
chuẩn bị trình Chính phủ, địa vị pháp lý của NHNN vẫn được giữ nguyên, tức là cơ
quan ngang bộ của Chính phủ. Điều này cho thấy chính bản thân NHNN vẫn chưa
sẵn sàng cho một địa vị mới có tính độc lập hơn đối với Chính phủ. Tuy nhiên, cho
dù NHNN đã sẵn sàng cho một vị thế độc lập mới thì với cấu trúc thể chính trị hiện
nay cộng với những quan hệ có tính thông lệ giữa NHNN với các cơ quan khác của
Chính phủ thì mục tiêu độc lập hoàn toàn với các quyết sách Chính phủ là chưa khả
thi. Khi địa vị pháp lý không được độc lập thì khả năng độc lập về mục tiêu và quá
trình thực thi chính sách cũng ít nhiều bị giới hạn.Bước đi đầu tiên có tính thử
nghiệm cho một NHTW độc lập là cho phép NHNN được độc lập trong việc lựa
chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu được chọn lựa phù hợp
với điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà không nhất thiết phải phù hợp với các chính
sách khác của Chính phủ. Đồng thời, với vị thế là một cơ quan của Chính phủ thì
mức độ độc lập tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành là phù hợp hơn cả. Tại
Quyết định 112 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển ngành Ngân
hàng Việt Nam đến 2020 cũng đã ghi rõ “... NHNN độc lập, tự chủ trong việc xây
dựng, điều hành CSTT, lãi suất và tỷ giá hối đoái”.
- Về mặt tổ chức nhân sự: nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo NHNN có thể dài hơn
nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính
phủ. Như vậy, quá trình ra quyết định của NHNN sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ
thành lập Chính phủ, chu kỳ lập và thực hiện kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh
hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ.
- Về mục tiêu: luật cần đưa ra một hoặc một nhóm các mục tiêu chính sách cụ
thể, rõ ràng và thống nhất. Quốc hội cần loại bỏ những mục tiêu chung và không rõ
ràng như đảm bảo quốc phòng an ninh hay nâng cao đời sống nhân dân. Nghiên cứu
mục tiêu chính sách của các NHTW trên thế giới cho thấy chúng thường tập trung
vào các mục tiêu chính như kiểm soát lạm phát, duy trì công ăn việc làm, tăng
trưởng kinh tế, ổn định hệ thống tiền tệ và thị trường tài chính. NHNN nên được
trao quyền lựa chọn mục tiêu cho từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô
- 78 -
mà không chịu sự can thiệp hay chỉ đạo từ phía Chính phủ hay các cơ quan liên
quan khác.
- Về quyết định thực thi chính sách: Thống đốc NHNN phải được trao quyền
quyết định trong việc thực thi các CSTT và tự chịu trách nhiệm về các quyết định
đó chứ không nên thông qua Chính phủ. Điều này không những góp phần làm tăng
tính chủ động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của CSTT - một yếu tố
quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách.
- Về quan hệ với ngân sách: cần có qui định cụ thể về chức năng “là ngân hàng
của Chính phủ” theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp mà
NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua cho ngân sách vay trên
thị trường thứ cấp có hạn mức và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi
cho các NHTM vay. Để đảm bảo hiệu quả của CSTT, những nhiệm vụ khác như
tạm ứng chi ngân sách cũng nên được quy định lại để Thống đốc có quyền từ chối
trong mục tiêu thâm hụt ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động
trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường.
- Về tổ chức và cơ chế tài chính: thực hiện tốt CSTT đòi hỏi NHNN phải thu
hút được đội ngũ lớn những chuyên gia đầu ngành về tài chính, ngân hàng nên cần
phải cạnh tranh với các NHTM trong việc thu hút chuyên gia về môi trường làm
việc và chế độ lương thưởng. Hơn nữa, để cho việc thực thi chính sách có tính phản
biện cao, Thống đốc cần được trao quyền chủ động trong việc thành lập Ban tư vấn
CSTT, trong đó quy tụ những chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm quản lý và tư
vấn tại các NHTW của các nước phát triển am hiểu về điều kiện kinh tế Việt Nam.
- Về trách nhiệm giải trình: nâng cao tính độc lập và tự chủ của NHNN đối với
các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải trình đầy đủ
và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị phải có trách
nhiệm giải trình trước Quốc hội về các quyết định chính sách trong giới hạn chức
năng và thẩm quyền được giao phó.
3.3.3.2 NHNN cần có những điều chỉnh hợp lý trong bộ ba: công cụ dự trữ bắt
buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở để ổn định thị trường.
- 79 -
- Công cụ DTBB: mặc dù công cụ này khá hữu hiệu trong thời gian qua
nhưng trong tương lai nên hạn chế sử dụng, bởi lẽ đây là công cụ vẫn ít nhiều mang
tính chất hành chính và có tính đánh đồng như nhau giữa các ngân hàng. Hơn nữa,
nếu liên tục thay đổi DTBB sẽ ảnh hưởng lớn đến việc quản trị thanh khoản của các
ngân hàng và trong mọi trường hợp thì hệ thống ngân hàng vẫn tốn chi phí chấp
hành ngay cả khi NHNN trả lãi cho DTBB.
- Công cụ lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn: trong thời gian qua, lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng có lúc vượt qua lãi suất tái cấp vốn hoặc có lúc phá
đáy lãi suất chiết khấu nhưng NHNN vẫn không can thiệp hoặc can thiệp chưa đúng
mức. Như vậy có thể nói, hai công cụ lãi suất này chưa hoàn thành tốt vai trò của
mình. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN cần sử dụng linh hoạt và hữu hiệu hơn hai
công cụ này thông qua việc xác định qui mô tổng hạn mức chiết khấu và tổng hạn
mức tái cấp vốn sát với nhu cầu thị trường, đồng thời phải kết hợp với việc sử dụng
công cụ thị trường mở để tác động nhằm giữ lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
biến động nằm trong khung lãi suất chiết khấu (lãi suất sàn) và lãi suất tái cấp vốn
(lãi suất trần).
- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: trên lý thuyết lẫn thực tế, nghiệp vụ thị
trường mở luôn thể hiện là công cụ có nhiều ưu thế, đặc biệt đây là công cụ duy
nhất mà NHTW có thể sử dụng để đảo ngược tình thế . Tuy nhiên, việc sử dụng
công cụ này để bơm tiền nhằm giảm căng thẳng trên thị trường liên ngân hàng trong
thời gian qua (tháng 2/2008) không đem lại kết quả như mong đợi vì chính những
ngân hàng thiếu hụt thanh khoản nhiều nhất lại không thể tham gia các giao dịch
với NHNN để được cấp thanh khoản do họ không nắm trong tay các giấy tờ có giá
đủ điều kiện để giao dịch. Điều này đã làm giảm đi đáng kể nghiệp vụ thị trường
mở trong việc can thiệp nhằm duy trì lãi suất liên ngân hàng trong khung mục tiêu
của NHNN.
Do đó, nhằm gia tăng thêm phương tiện cho việc thực thi chính sách lãi suất
của mình, NHNN cần phải giám sát chặt chẽ hơn hoạt động tín dụng của các
NHTM, đồng thời phải làm tốt hơn công tác thu thập, xử lý số liệu thống kê và dự
- 80 -
báo diễn biến thị trường, đồng thời khuyến khích hoặc thậm chí có thể bắt buộc các
NHTM phải nắm giữ một tỷ lệ nhất định giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn giao dịch trên
nghiệp vụ thị trường mở thì mới gia tăng được hiệu quả của công cụ này.
3.3.3.3 Bãi bỏ việc qui định giá cả tín dụng
Trong năm 2008, lạm phát tăng cao, việc quy định khống chế trần lãi suất
cho vay đã giúp cho NHNN chặn đứng và kiểm soát cuộc chạy đua tăng lãi suất của
các NHTM. Hiện nay, tốc độ lạm phát đã được kiểm soát, lãi suất ngân hàng đã
giảm sâu, kinh tế suy giảm thì việc quy định như trên đã và đang nảy sinh một số
bất cập trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng như:
- Việc khống chế trần lãi suất cho vay là một biện pháp can thiệp hành chính
không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động và linh hoạt của
các NHTM trong vấn đề huy động vốn và cho vay.
- Việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại
hình tín dụng, các đối tượng vay vốn, làm cho các ngân hàng rất khó đa đạng hóa
các sản phẩm dịch vụ cũng như phát triển khách hàng.
- Việc giới hạn lãi suất sẽ mất đi một tín hiệu đánh giá thị trường khi không
thể căn cứ vào lãi suất trên thị trường liên ngân hàng để đánh giá mức độ thiếu vốn
của hệ thống ngân hàng như trước đây. , ảnh hưởng đến công tác dự báo và thực thi
các biện pháp can thiệp của NHNN.
Vì vậy, đã đến lúc cần thiết phải cho phép các NHTM thực hiện cho vay theo
lãi suất thỏa thuận để góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các loại hình dịch vụ,
tín dụng, kích thích sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước phát triển.
Song song đó, lãi suất huy động VND sau một giai đoạn ngắn giảm mạnh đã
tăng trở lại và các dự báo đang ủng hộ xu hướng tăng lãi suất trong trung và dài hạn
đó là: nhu cầu về VND đang tăng mạnh do kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp
về VND sẽ tiếp tục giảm giá so với USD; Sau khi khủng hoảng tài chính ở Mỹ xảy
ra và kéo theo sự suy giảm kinh tế trên toàn cầu, tất cả các nước đã thi hành CSTT
nới lỏng, việc lạm phát trở lại trong tương lai trên toàn cầu sẽ là tất yếu. Ngoài ra,
nhu cầu vay vốn VND đang tăng mạnh khi gói kích cầu hỗ trợ lãi suất 4% của
- 81 -
Chính phủ còn hiệu lực và sự gia tăng đầu tư khi kinh tế thế giới phục hồi.Vì thế,
đồng thời với việc bãi bỏ việc kiểm soát giá cả tín dụng, NHNN cần chủ động thực
hiện các biện pháp kiểm soát gián tiếp nhằm kiềm chế sự gia tăng của lãi suất.
3.3.4 Nhóm giải pháp thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng và kiểm soát
sử dụng vốn vay hiệu quả của các doanh nghiệp
Khi lãi suất đã được điều hành ổn định và phù hợp với thị trường, vấn đề tiếp
theo đó là thực hiện các biện pháp thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng với
các doanh nghiệp để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư. Đối với khu vực kinh tế Nhà
nước, việc tiếp cận nguồn vốn này không quá khó. Nhưng đối với khu vực kinh tế
tư nhân, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là không dễ dàng.
3.3.4.1 Giải pháp thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng giữa doanh nghiệp với các
ngân hàng
Về phía cơ quan Nhà nước
- Cần áp dụng các biện pháp vĩ mô để kích cầu chi tiêu, khuyến khích người
dân mua sắm để kích thích sản xuất, cải thiện môi trường kinh doanh để kích thích
các doanh nghiệp đầu tư.
- Chính Phủ cần tích cực xây dựng và có các biện pháp khuyến khích việc
phát triển các thể chế nhằm hỗ trợ thông tin cho thị trường, nên đưa ra các ưu đãi để
phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thông tin, tài chính
như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, định giá
tài sản, tư vấn tài chính, kiểm toán. Bên cạnh đó, việc khuyến khích thành lập các
hội ngành nghề sẽ tạo sự gắn kết, trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong
ngành và là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong ngành với thị trường bên ngoài
trong đó có bên cung ứng vốn như ngân hàng. Thông tin đầy đủ, chính xác về khách
hàng, về thị trường có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng cho vay.
- NHNN cần tạo điều kiện và hỗ trợ cho các NHTM trong việc xây dựng mối
liên hệ với nhau, giữa các ngân hàng với các định chế tài chính phi ngân hàng và
với các định chế tài chính khác, làm được điều này sẽ giúp các ngân hàng có những
thông tin qu ý báu về nhìn nhận đánh giá khách hàng đúng đắn hơn, ngăn ngừa sự
- 82 -
ham muốn mưu lợi bất chính của các khách hàng, nâng cao chất lượng thông tin
giữa các NHTM với nhau, thống nhất trong một số nghiệp vụ cho vay hay chính
sách tín dụng, chính sách lãi suất nhằm giảm bớt sự biến động không nên có trên thị
trường tài chính tiền tệ, tạo niềm tin cho khách hàng khi bước chân đến bất kỳ một
TCTD nào.
- Khi xem xét các điều kiện cho vay vốn, các ngân hàng thường chú trọng
đến khả năng tài chính đảm bảo trả nợ đúng hạn của khách hàng nên yêu cầu về tài
sản thế chấp. Đây là khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp cần sự hỗ trợ từ các tổ
chức bảo lãnh tín dụng của Nhà nước :
• Cần có cơ chế đảm bảo cho nhiều quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương ra
đời và đi vào hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận được vốn
vay ngân hàng. Đến nay, mới có 11/63 địa phương ban hành quyết định thành lập
quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Theo Bộ Tài chính, nguyên nhân để mô hình
quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động chưa hiệu quả là do cơ cấu vốn để bảo lãnh cho tín
dụng chưa hợp lý. Quỹ thì được huy động vốn từ ngân sách địa phương và các
NHTM. Tuy nhiên, ngân sách các địa phương thì luôn luôn eo hẹp, còn vốn từ các
NHTM thì không huy động được nhiều. Vì vậy, để quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động
hiệu quả thì rất cần cơ cấu lại theo hướng vốn hoạt động của quỹ chủ yếu từ ngân
sách cấp và các nguồn hỗ trợ quốc tế, chỉ kêu gọi một phần rất nhỏ từ doanh nghiệp
và không vận động từ NHTM.
• Cần nới lỏng điều kiện bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng thông
qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Hiện nay, các điều kiện để doanh nghiệp được
bảo lãnh đó là: vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng; sử dụng không quá 500 lao động;
không có nợ tại các tổ chức tín dụng; không nợ đọng thuế; có tối thiểu 10% vốn chủ
sở hữu; sử dụng 100% giá trị tài sản hình thành từ vốn vay ngân hàng để làm thế
chấp đảm bảo cho khoản bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Các điều
kiện để được bảo lãnh đòi hỏi quá cao, trong khi đó khả năng đáp ứng của doanh
nghiệp lại hạn chế. Do đó, sau hai tháng thực hiện, tính đến hết tháng 3/2009 toàn
hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã nhận được 506 hồ sơ xin bảo lãnh vay
- 83 -
vốn. Tuy nhiên, sau quá trình sàng lọc chỉ có 177 hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện. Do
đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam cần nghiên cứu nới lỏng các qui định trên để
giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận được phương thức này.
- Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng Nhà nước trong quá trình hoạt
động và chia sẻ thông tin sẽ giúp cho việc giải quyết các thủ tục hành chính được
nhanh gọn, giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp và ngân hàng. Hiện tại, hoạt
động đăng ký giao dịch đảm bảo do thiếu liên kết thông tin và thái độ bất hợp tác
của một số cán bộ thừa hành đã làm nản lòng không ít các doanh nghiệp. Vì vậy,
các cơ quan hữu quan cần có cơ chế phối hợp cung cấp thông tin để việc đánh giá,
ra quyết định tín dụng của ngân hàng được chính xác, tránh lựa chọn ngược ảnh
hưởng xấu đến hoạt động ngân hàng.
Về phía các ngân hàng
Tình trạng các ngân hàng thừa vốn trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn
còn khá phổ biến, bởi các điều kiện vay vốn của các ngân hàng nhìn chung vẫn
nhằm mục đích ràng buộc khách hàng phải trả nợ hơn là sự phát triển sản xuất kinh
doanh. Do đó, để thảo gỡ khó khăn vay vốn cho doanh nghiệp các ngân hàng nên :
- Hoàn thiện mô hình chấm điểm, xếp loại khách hàng: các ngân hàng cần
xây dựng phương pháp tính toán trong quản trị rủi ro tín dụng, đưa ra các chỉ tiêu
phi tài chính một cách chính xác, phù hợp hơn. Không nên quá chú trọng vào các
chứng chỉ, bằng cấp khi đánh giá năng lực quản trị, điều hành của doanh nghiệp
mà phải căn cứ vào lịch sử kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xây dựng hệ thống xếp hạn doanh nghiệp để rút ngắn thời gian thẩm định.
Xem xét và quyết định cho vay không nên phân biệt giữa doanh nghiệp lớn với
doanh nghiệp nhỏ mà chỉ phân biệt doanh nghiệp đủ hay không đủ điều kiện cho
vay vốn.
- Cần điều chỉnh linh hoạt chính sách tín dụng phù hợp với qui định của
NHNN và tình hình thực tế trên thị trường trong từng thời kỳ, trong đó nên có chính
sách áp dụng lãi suất ưu đãi đối với những khách hàng truyền thống
- 84 -
- Điều chỉnh điều kiện cho vay sát với điều kiện thực tế của các doanh
nghiệp Việt Nam và những diễn biến trên thị trường, nhất là trong bối cảnh các
doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn như hiện nay.Tuy nhiên cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ đã khiến cho hàng chục ngân hàng của Mỹ bị phá sản
(Lehman Brothers, Washington Mutual…) hoặc bị bán lại (Bear Stearns, Merrill
Lynch…), buộc phải chuyển đổi kinh doanh sang tập đoàn ngân hàng đa chức năng
(Goldman Sachs, Morgan Stanley…). Cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ bắt đầu từ
việc cho vay dưới chuẩn. Đây là bài học cho các ngân hàng Việt Nam khi xem xét
cho vay đối với khách hàng.
- Tiếp tục hạ dần lãi suất cho vay phù hợp với cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN trong từng thời kỳ và những diễn biến trên thị trường để tạo điều kiện hơn
nữa cho doanh nghiệp tiếp cận vốn vay phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả
năng thanh toán của nền kinh tế.
- Ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách giúp doanh nghiệp ngay
từ bước lập kế hoạch, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ thông tin doanh nghiệp. Đồng thời, các
ngân hàng cũng cần theo dõi suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp để giải
quyết những vướng mắc phát sinh cùng doanh nghiệp.
Về bản thân các doanh nghiệp
Hiện nay các doanh nghiệp vẫn rất khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn ngân
hàng, nhiều hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp bị ngân hàng từ chối do: thông tin
tài chính của doanh nghiệp còn ít, trình độ quản lý điều hành của doanh nghiệp còn
yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao, thiếu tài sản thế chấp,
cầm cố đảm bảo nghĩa vụ trả nợ …Theo số liệu công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, hiện nay chỉ có khoảng 32% DNVVN có khả năng tiếp cận vốn, 35% doanh
nghiệp khó tiếp cận và khoảng 33% không thể tiếp cận nguồn vốn. Do đó, tự bản
thân các doanh nghiệp cần tăng cường năng lực tài chính của mình bằng nhiều cách
có thể được như: tích luỹ tối đa bằng lợi nhuận, tăng cường vốn góp của các thành
viên, liên kết với các doanh nghiệp khác. Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
- 85 -
Ngoài ra, yêu cầu về minh bạch trong các báo cáo tài chính lẫn việc lập
phương án sản xuất kinh doanh đang là rào cản lớn khi doanh nghiệp đi tìm vốn
vay. Doanh nghiệp hiện nay thường có hai hệ thống kế toán riêng biệt, một là để
báo cáo thuế và một là tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp. Báo cáo tài
chính để khai thuế thường có kết quả thấp hơn so với tình hình thực tế hoặc để lỗ.
Khi đi vay ngân hàng thì doanh nghiệp thường đưa ra báo cáo tài chính được lập
theo báo cáo thuế (vì sợ bị truy thu thuế), mà căn cứ vào những báo cáo này thì
doanh nghiệp sẽ không đủ điều kiện được vay. Do vậy, trước hết doanh nghiệp cần
lập báo cáo tài chính rõ ràng, đủ độ tin cậy, loại bỏ báo cáo tài chính mang tính chất
đối phó với cơ quan thuế. Trong tương lai không xa, báo cáo tài chính của các
DNVVN cũng phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập.
3.3.4.2 Kiểm soát tình hình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng : xu hướng hiện nay, quy mô vốn
cho vay mỗi dự án, mỗi khách hàng ngày càng lớn hơn. Các dự án vay vốn có mục
đích đa dạng hơn, lĩnh vực kinh doanh phức tạp hơn, thị trường diễn biến thất
thường và tính cạnh tranh cao hơn. Do đó, công tác thẩm định lại càng quan trọng
hơn trước khi quyết định cho vay. Việc thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh
doanh chính là việc đưa ra những nhận định về khả năng trả nợ của khách hàng.
- Nâng cao chất lượng giám sát tín dụng: các ngân hàng cần tăng cường giám
sát mục đích sử dụng vốn vay và các luồng tiền thanh toán của doanh nghiệp bằng
cách hạn chế cho vay tiền mặt. Bên cạnh việc kiểm tra vốn vay, ngân hàng cần
quan tâm đến nguồn tiền thanh toán của doanh nghiệp, ngân hàng nên áp dụng
biện pháp thế chấp nguồn thu như là một biện pháp đảm bảo tiền vay.
Để đảm bảo đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng thì cần
phải nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của khách hàng bằng cách ràng buộc nghĩa vụ
thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm trong hợp đồng tín dụng.
Trong quá trình giám sát vốn vay, ngân hàng cần có những biện pháp cụ thể
để hạn chế tối đa những thiệt hại do khách hàng có những khó khăn về tình hình
tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh. Ngân hàng cần phân tích nguyên nhân
- 86 -
nợ quá hạn của từng doanh nghiệp, từ đó có biện pháp tháo gỡ. Đối với những
doanh nghiệp có nợ quá hạn có tính chất tạm thời, hoạt động sản xuất kinh doanh
bình thường, ngân hàng cần xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh
doanh trong thời gian tới để quyết định gia hạn nợ, giúp doanh nghiệp vượt qua
khó khăn và có biện pháp trả nợ
Kết luận chương 3
Với những dự báo triển vọng phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu, nhất
là về thương mại và đầu tư. Việt Nam có rất nhiều cơ hội để tăng trưởng mạnh mẽ
khi đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên bên cạnh những thuận
lợi, sẽ có không ít những thách thức, nhất là nền kinh tế chịu tác động của môi
trường đối ngoại ngày càng nhiều, sự di chuyển luồng vốn giữa các quốc gia đang
tăng mạnh. Vì thế, vai trò kiểm soát tổng lượng tiền trong nền kinh tế, ổn định tỷ
giá và lãi suất đang đặt ra cho CSTT nhiều khó khăn hơn.
Nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng cao (GDP tăng gấp 2,5 đến 3 lần so
năm 2010) với lộ trình đã đặt ra, chính sách lãi suất cần phải được xây dựng dựa
trên nguyên tắc nhất quán là ổn định trong dài hạn, linh hoạt kịp thời trong ngắn
hạn. Đảm bảo cho các doanh nghiệp luôn có một môi trường kinh doanh và đầu tư
ổn định.
Do vậy thực hiện các giải pháp mang tính quyết định như: kiểm soát dòng
vốn vào với mục tiêu điều hành CSTT, phối hợp đồng bộ chính sách tài khóa và
CSTT, hướng tới điều hành chính sách mục tiêu lạm phát, phát triển thị trường liên
ngân hàng, phát triển TTCK, hoàn thiện hệ thống thông tin, xây dựng NHTW mạnh
có tính độc lập cao, sử dụng có hiệu quả các công cụ gián tiếp, bãi bỏ kiểm soát giá
cả tín dụng; cùng với việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ như thúc đẩy quan hệ vay
vốn tín dụng và kiểm soát vốn là những giải pháp cần thiết phải thực hiện trong giai
đoạn hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.pdf