MỤC LỤC
TRÍCH YẾU
MỤC LỤC
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
I. TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG CON SỐ LIÊN QUAN
1.Tóm tắt nền kinh tế Trung Quốc:
2.Tình hình lạm phát của Trung Quốc:
3.Những chính sách nhằm kìm hãm lạm phát từ năm 2008-2010 của Trung Quốc:
II. MỸ VÀ NHỮNG SỐ LIỆU CÓ ĐƯỢC
1.Tóm tắt về nền kinh tế Mỹ:
2.Chính sách tài khóa – tiền tệ của nền kinh tế đứng đầu thế giới bị tác động bởi “thế lực” nào?
3.Tình hình lạm phát ở Mỹ:
4.Những chính sách tài khóa của Mỹ về tình trạng lạm phát
III. NHỮNG ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA MỸ VÀ TRUNG QUỐC:
1.Giống nhau:
2.Khác nhau:
3.Ai thành công hơn ai?.
IV. NHỮNG ĐỀ XUẤT CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM:
1.Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam:
2.Đề xuất
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
62 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4007 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lạm phát của Mỹ và Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a theo những thông tin thua thập được, nhóm chúng tôi nhận thấy được 3 cơ quan – chức vụ ảnh hưởng đến chính sách tài khóa của Mỹ:
3.1. Quốc Hội Mỹ:
Khoản 8 của điều 1 Hiến pháp Hoa Kỳ xác lập các quyền hạn của quốc hội. Những quyền quan trọng nhất gồm: quyền đánh thuế và thu thuế, vay mượn, quy định về thương mại giữa các tiểu bang và với nước ngoài, đúc và in tiền, thiết lập các tòa án trực thuộc Tối cao Pháp viện, phát triển và duy trì quân lực, và tuyên chiến.
Ngoài ra, quốc hội còn có nhiệm vụ là phê duyệt hay bác bỏ các dự thảo, chính sách mà tổng thống đệ trình sao cho phù hợp với đất nước và nền kinh tế tư bản.
Hình 16: Biểu tượng của quốc hội Mỹ - Nguồn:
Hình 17: tòa nhà quốc hội – Nguồn:
3.2 . Tổng thống Mỹ:
Tổng thống cũng có trách nhiệm chuẩn bị ngân sách của Hoa Kỳ, mặc dù Quốc hội phải phê chuẩn nó. Các Cục Dự trữ liên bang có trách nhiệm hỗ trợ Tổng thống với việc chuẩn bị ngân sách.
Khi đệ trình dự thảo ngân sách chi cho đầu tư hay tiêu dùng cho đất nước – quốc hội có thể thông qua hoặc không thông qua hoặc chi 1 phần nhỏ trong ngân sách cho chính sách của Tổng thống.Trong năm, Tổng thống có thể đệ trình nhiều dự thảo xin kinh phí để có thể thực hiện những chính sách tài khóa của mình sao cho phù hợp nhất.
3.3. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED):
Cục Dự trữ liên bang là cơ quan chỉ đạo của Hệ thống dự trữ liên bang, tức ngân hàng trung ương của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Nó thi hành chính sách tiền tệ của đất nước bằng cách ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng và tiền tệ lưu thông. Cục Dự trữ liên bang điều hành các thể chế ngân hàng tư nhân, tìm cách giới hạn nguy cơ có hệ thống trên các thị trường tài chính và cung cấp một số dịch vụ tài chính nhất định cho chính quyền Hoa Kỳ, cho công chúng và cho các thể chế tài chính.
Cục dự trữ liên bang là 1 cơ quan độc lập đối với quốc hội và tổng thống; nên cơ quan này cũng có quyền đưa ra những chính sách tiền tệ mà họ thấy phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Theo Hội đồng thống đốc, Fed có các nhiệm vụ sau:
Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách tác động các điều kiện tiền tệ và tín dụng với mục đích tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều hòa lãi suất dài hạn
Giám sát và quy định các tổ chức ngân hàng đảm bảo hệ thống tài chính và ngân hàng quốc gia an toàn, vững vàng và bảo đảm quyền tín dụng của người tiêu dùng
Duy trì sự ổn định của nền kinh tế và kiềm chế các rủi ro hệ thống có thể phát sinh trên thị trường tài chính
Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia.
Hình 18: Biêu tượng của FED và thống đốc hiện tại: Ben Bernanke
– Nguồn:
Ngoài ra, Cục dự trữ liên bang mỹ còn thực hiện những chính sách tiền tệ như sau:
Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (Fed) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi Fed bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn.
Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên.
Thay đổi lãi suất của khoản vay từ Fed: Các ngân hàng thành viên của Fed vay tiền từ Fed để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà Fed ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu.
Tình hình lạm phát ở Mỹ:
Năm 2007:
Ngày 14/12, Bộ Lao động Mỹ công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 tăng 0,8%, cao hơn con số của tháng trước là 0,3%.
Giá tiêu dùng tháng 11/2007 của Mỹ tăng kỷ lục trong hai năm qua, làm tăng thêm nguy cơ lạm phát đối với kinh tế nước này.
Ngày 14/12, Bộ Lao động Mỹ công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 tăng 0,8%, cao hơn con số của tháng trước là 0,3%. Chỉ số giá không bao gồm thực phẩm và năng lượng cũng leo thêm 0,3%.
Trong khi đó, 80 nhà kinh tế học tham gia vào điều tra của Bloomberg dự đoán giá tiêu dùng chỉ tăng 0,6% và chỉ số giá không bao gồm thực phẩm và năng lượng chỉ tăng 0,2%. Theo một báo cáo khác của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), sản xuất công nghiệp trong tháng 11 cũng đã được mở rộng sau khi sụt giảm vào tháng 10.
Con số lạm phát có thể giải thích quyết định của FED về việc cắt giảm lãi suất 1/4 điểm vừa qua. Các nhà đầu tư không thỏa mãn với mức cắt giảm không đủ đánh bại sự ảm đạm của nền kinh tế. Một số người không dám đặt cược vào quyết định cắt giảm lãi suất trong tháng giêng, trong khi hầu hết những người khác vẫn nhìn thấy triển vọng về việc giảm chi phí cho vay.
“Không còn thắc mắc gì về việc các nhà hoạch định chính sách phải canh cánh nỗi lo về lạm phát và chắc chắn câu chuyện này sẽ khiến họ phải cân nhắc về tính thích hợp và mong muốn về việc cắt giảm sâu hơn”, David Resler, kinh tế trưởng tại công ty chứng khoán quốc tế Nomura ở New York bình luận.
Phản ứng đầu tiên của thị trường đối với báo cáo này là trái phiếu kho bạc sụt giảm, đưa lợi tức của trái phiếu kỳ hạn 10 năm lên mức cao nhất trong một tháng, có thời điểm lên đến 4,22%, thu lại một phần mất mát của mấy ngày trước.
Đồng USD phục hồi trong khi cổ phiếu lại mất giá. Từ tháng 11 năm trước đến cùng kỳ năm nay, giá tiêu dùng đã tăng 4,3%; lãi suất cơ bản cũng đã tăng 2,3%, cao hơn mức 2,2% của tháng 10 so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá của tháng 11 là đỉnh cao nhất kể từ 9/2005.
Báo cáo chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ cũng cho thấy giá năng lượng đã nhảy 5,7%, trong khi tháng trước chỉ tăng có 1,4%. Giá xăng leo thêm 9,3% và chi phí nhiên liệu tăng vọt 14,2%, mức cao nhất kể từ tháng 2/2003. Tại sở giao dịch hàng hóa New York, giá dầu thô trung bình của tháng đứng ở mức 94,63 USD, con số này của tháng 10 là 85,66 USD.
Giá dầu đã đạt kỷ lục 99,29 USD vào ngày 21/11. Theo Hiệp hội ôtô Mỹ, thông thường giá xăng tăng 3 USD/gallon trong hầu hết các tháng 11 của mọi năm. Kể từ 1/9, các nhà vận tải của Mỹ đã 7 lần tăng giá vé để đánh bại tốc độ tăng giá nhiên liệu.
Tại một cuộc hội thảo tuần trước, Tom Horton, Giám đốc tài chính của AMR Corp., “cha đẻ” của hãng American Airlines, bình luận: “Giá dầu cao là một trong những thách thức hàng đầu với ngành công nghiệp”.
Chỉ số giá tiêu dùng là thước đo rộng nhất của chính phủ Mỹ đối với chi phí hàng hóa và dịch vụ.
Khoảng 60% của CPI bao gồm các dịch vụ từ chăm sóc y tế đến giá máy bay và vé xem phim. Tháng trước, quần áo, thuốc men, dịch vụ bệnh viện và cước phí hàng không cũng dẫn đầu trong bảng CPI.
Tháng thứ hai liên tục, giá thực phẩm, chiếm một phần năm trong CPI, tăng 0,3%. Giá của các dịch vụ cho thuê, chiếm 40% của CPI cơ bản, cũng tăng. Theo đó, giá thuê nhà tăng 0,3%, so với con số 0,2% của tháng trước.
Bộ Lao động Mỹ công bố, giá bán buôn của tháng 11 tăng 3,2%, con số cao nhất trong 34 năm qua. Sự tăng tốc mạnh mẽ này do chi phí năng lượng cao kỷ lục trong một tháng kéo lên.
Giá cả đang tăng nóng trong khi sự tăng trưởng kinh tế ì ạch sau một quý 3/2007 bùng nổ. Theo ước tính của các nhà kinh tế tham gia vào cuộc điều tra của Bloomberg công bố ngày 11/12, tổng thu nhập quốc nội của quý này sẽ tăng 1% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất công nghiệp của Mỹ đã tăng 0,3% trong tháng 11/2007.
Theo tính toán của các nhà kinh tế của Bloomberg, thước đo về lạm phát của FED, chỉ tính trong chi tiêu của người tiêu dùng và không bao gồm chi phí thực phẩm và năng lượng, sẽ tăng 1,8% trong năm 2008, con số này của năm nay là 1,9%.
Hình 19: sự thay đổi trong bảng cân đối tài khoản của FED – Nguồn:
Hình 20: Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007 – Nguồn:
Điều tra của Bloomberg cũng cho thấy, tăng trưởng kinh tế trong quý này chỉ đạt tốc độ 1%, và mức độ tăng trưởng của quý I năm 2008 được ước tính chỉ eo hẹp ở mức 1,5%
Năm 2008:
Theo số liệu thống kê, giá cả ở Mỹ đã tăng 5,6%/năm trong tháng 7, mức tăng nhanh nhất trong vòng 17 năm qua.
Hình 21: chỉ số lạm phát của Mỹ từ tháng 1/2008-1/2011 – Nguồn:
Hình 22: chỉ số giá tiêu dung của Mỹ từ tháng 1/2001-1/2011 – Nguồn:
Bộ Lao động Mỹ vừa công bố báo cáo cho biết giá nhiên liệu và lương thực, thực phẩm leo thang đã đẩy tỷ lệ lạm phát ở Mỹ trong tháng 6/08 tăng với tốc độ nhanh nhất trong vòng 26 năm qua. Điều này càng chất thêm gánh nặng lên vai người tiêu dùng vốn đang phải chống chọi với tình hình kinh tế ngày càng khó khăn do một loạt cuộc khủng hoảng xảy ra cùng lúc.
Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ, thước đo mức độ lạm phát của chính phủ, trong tháng 6/08 đã tăng 1,1%, đẩy tỷ lệ lạm phát hàng năm từ mức 4,2% lên 5,0%, mức cao nhất kể từ năm 1982. Có nhiều yếu tố dẫn tới tình trạng trên, trước hết là giá năng lượng tăng tới 6,6%, giá xăng bán lẻ tăng 10,1%, giá dầu thô tăng 90% so với cách đây một năm. Trong tháng 6/08, chi phí vận chuyển ở Mỹ tăng 3,8%, giá hàng hóa nhìn chung tăng 1,9% trong lúc lương lại giảm 0,9% so với tháng 5/08, mức giảm lớn nhất trong 24 năm qua và giảm 2,4% so với cách đây một năm.
Hình 23: CPI tại Mỹ - Nguồn:
Phát biểu trong cuộc điều trần ngày thứ 2 tại Quốc hội Mỹ, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Ben Bernanke cũng đã cảnh báo về chiều hướng lạm phát gia tăng trong thời gian gần đây, cam kết trong cuộc họp định kỳ sắp tới, FED sẽ có hành động để ngăn chặn chiều hướng xấu này. Ông Bernanke tỏ vẻ bi quan về thực trạng hiện nay của kinh tế Mỹ khi né tránh cụm từ "suy thoái" và cho rằng nền kinh tế lớn nhất thế giới này đang chậm lại, xuất khẩu không mấy khởi sắc, hoạt động trầm lắng ở khu vực bất động sản, chi tiêu tiêu dùng của người dân giảm sút, lạm phát sẽ tăng trong tương lai gần.
Ông Bernanke còn phàn nàn về tình trạng đầu cơ dầu thô đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Theo ông, giá dầu thô đứng ở mức rất cao nhưng các nguồn sản xuất không chấp nhận gia tăng sản lượng để cung ứng kịp thời cho thị trường và điều này đã làm cho thị trường nhiên liệu tiếp tục căng thẳng.
Hình 24: Giá dầu (USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm khi kinh tế thế giới xấu đi. – Nguồn:
Liên quan đến nguy cơ sụp đổ của hai định chế tài chính cho vay thế chấp là tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac, ông Bernanke cho biết từ cuối tuần qua cả Bộ Tài chính, FED, Chính phủ và Quốc hội đã khẩn trương phối hợp áp dụng những biện pháp chống đỡ khẩn cấp cho hai tập đoàn trên. FED đã khẩn trương bơm tiền vào hệ thống ngân hàng để tránh nguy cơ mất tính thanh khoản của một số ngân hàng ... các biện pháp này đã có những dấu hiệu tích cực. Tuy vậy, ông cho rằng sự bất ổn trong nền kinh tế Mỹ vẫn tồn tại bởi giá nhà cử vấn đứng ở mức thấp, giá nhiên liệu, thực phẩm vẫn tăng vọt, số việc làm mới được tạo ra không mấy khả quan.
Hình 25: Tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac – Nguồn:
Trong khi đó, theo kết quả thăm dò dư luận do hãng Zogby và Reuters phối hợp tiến hành và công bố mới đây cho thấy số người Mỹ tỏ ý không đồng tình với các chính sách kinh tế của chính phủ và quan ngại về mức độ lạm phát, sự chậm lại của nền kinh tế Mỹ ngày một gia tăng. Chỉ có 10% số người được hỏi ý kiến có đánh giá tích cực về chính sách kinh tế của Mỹ, trong khi 75% số người trả lời cho rằng chính sách kinh tế đang bị sai đường.
Đối với câu hỏi "bạn đánh giá thế nào vào chính sách kinh tế hiện nay", 89% ý kiến cho rằng chính sách hiện nay là không hợp lý hoặc yếu kém, so với mức 84% của kết quả thăm dò hồi tháng 6/08. Trong khi đó, 55% số người được hỏi cho rằng liệt chính sách kinh tế hiện vào mức độ "yếu kém".
Với mức giá xăng tiêu chuẩn trung bình lên trên 4 USD/gallon (1 gallon =3,78 lít), có 59% số người được hỏi cho biết đang xem xét thay đổi mức độ sử dụng xe ô-tô, trong khi 35% cho biết sẽ cắt giảm các kỳ đi nghỉ xa.
Cuộc thăm dò ý kiến trên của Zogby và Reuters cho thấy lòng tin của người tiêu dùng Mỹ đã giảm từ mức 90,4 điểm của tháng 6/08 xuống mức 88,7 điểm.
Năm 2009:
Mức đo chính về vấn đề lạm phát ở Hoa Kỳ cho thấy giá cả tăng 0,4% trong tháng 11/2009.
Trong năm 2009, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng với tỷ lệ vừa phải là 1,8%.
Hầu hết các kinh tế gia được các cơ quan truyền thông phỏng vấn nói rằng Quỹ Dự trữ Liên bang có thể sẽ giữ lãi suất bình ổn tại mức rất thấp như hiện nay, tức là từ 0% đến 0,25%.
Theo thông cáo báo chí của Bộ Lao động Mỹ, tháng 11 năm nay, giá tiêu dùng ở Mỹ tăng 0,4% so với tháng 10. Số liệu này cũng trùng hợp với dự đoán trước đây của các nhà phân tích thuộc Bloomberg. Lạm phát trong tháng 11/2009 đạt 1,8%. Chỉ số giá tiêu dùng tăng do giá năng lượng tăng 4,1%; ở đây nếu không tính đến năng lượng và thực phẩm thì giá cả trong tháng 11 không thay đổi so với tháng 10. Hàng tháng Bộ Lao động Mỹ có trách nhiệm chuẩn bị và công bố báo cáo về chỉ số giá tiêu dùng (CPI), thuộc số những chỉ số quan trọng nhất của tình hình kinh tế Mỹ - giá trị của giỏ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cố định (theo thứ tự là 40% và 60%) của tháng trước đó.
Tình hình kinh tế mỹ tháng 9/09 Kinh tế gia đạt giải Nobel, ông Paul Krugman dự báo, tỷ lệ thất nghiệp sẽ vẫn tăng, kinh tế thế giới còn khó khăn thêm một khoảng thời gian nữa, nhưng nước Mỹ sẽ thoát ra khỏi suy thoái kinh tế vào tháng 9/2009.
Ông Krugman hiện là giáo sư tại trường đại học Princeton. Trong bài phát biểu mới nhất tại London School of Economics, ông nói: “Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu suy thoái kinh tế Mỹ sẽ bắt đầu có dấu hiệu kết thúc từ trong hè này. Mọi chuyện đang bớt xấu đi và có lý do để tin rằng chúng ta đang ổn định trở lại”. Thị trường chứng khoán Mỹ mất điểm mạnh trong phiên giao dịch, tuy nhiên sau khi ông Krugman đưa ra bình luận của mình, S&P 500 đã lấy lại được phần nào số điểm đã mất. Chốt phiên, S&P 500 chỉ giảm 0,1% và đóng cửa tại mức 939,14 điểm.
Ông Paul Krugman nhận định, dù kinh tế sau này có hồi phục thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ vẫn tăng và kinh tế thế giới sẽ vẫn khó khăn thêm một khoảng thời gian. Tháng 5/2009, tỷ lệ thất nghiệp Mỹ tăng lên mức 9,4%, mức cao nhất từ năm 1983. Ông Paul Krugman cho rằng nỗ lực ổn định thị trường của chính phủ đã mang lại kết quả tốt. Dù vậy các biện pháp trên khiến bảng cân đối kế toán phình to.
FED đã hạ lãi suất về mức 0% đến 0,25% vào tháng 12/2008, chuyển sang chương trình tín dụng và mua trái phiếu Bộ Tài chính, chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp cũng như nợ của một số tổ chức bất động sản. Giá trị bảng cân đối kế toán của FED lên mức đỉnh cao 2.310 tỷ USD vào tháng 12/2008, giá trị này dao động quanh mức 2.100 tỷ USD trong 2 tháng qua.
Ông Paul Krugman cho rằng việc giá trị bảng cân đối kế toán tăng cao như vậy cũng đáng lo ngại, tuy nhiên điều đó là cần thiết dù vẫn tồn tại câu hỏi về khả năng xu thế đó sẽ kéo dài đến khi nào.
Năm 2010:
Hiệp hội Quốc gia về Kinh tế Kinh doanh Mỹ (NABE) cho biết bảng xếp hạng dự báo của 51 thành viên trong Hiệp hội cho thấy, tình hình giảm phát còn đáng lo ngại hơn lạm phát.
Quyết định mua 600 tỷ đôla trái phiếu kho bạc được Fed công bố ngày 03 tháng 11 nhằm kích thích nền kinh tế và ngăn chặn giá cả leo thang đã bị chỉ trích gay gắt cả trong và ngoài nước.
Khoảng 1/3 chuyên gia của NABE cho rằng, chương trình mua sắm tài sản thứ hai của Fed giúp giảm bớt phần nào những rủi ro giảm phát, trong khi 33% các chuyên gia khác cùng chung quan điểm rằng chính sách này giúp giảm bớt nguy cơ lạm phát.
NABE dự báo lạm phát tiêu dùng - chỉ số giá chi tiêu cá nhân không bao gồm thực phẩm và năng lượng sẽ tăng lên 1,5% vào cuối năm 2011 từ 1,0% dự kiến trong năm nay.
Các chuyên gia NABE đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Mỹ trong năm 2010 và giữ nguyên ước tính tăng trưởng GDP trong năm 2011 là 2,6%.
Nền kinh tế Mỹ mở rộng 2,7% từ 2,6% trong năm nay, vẫn dưới mức 3,5% mà các nhà kinh tế cho là cần thiết để giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp.
Các dự báo cũng cho thấy sự cải thiện dần dần trong thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp trong quý I năm 2011 vào khoảng 9,5%.
Hình 26: Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ - Nguồn:
Thị trường nhà đất đã phục hồi như dự đoán, giá nhà đất trong năm 2011 sẽ tăng nhanh trở lại.
Chi phí cuộc sống tại Mỹ tháng 4/2010 giảm lần đầu tiên trong hơn 1 năm.
Thị trường vì thế dự đoán nhiều hơn vào việc FED sẽ duy trì lãi suất ở mức thấp kỷ lục trong phần lớn năm 2010.
Bộ Lao động Mỹ công bố chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2010 giảm 0,1% và ghi nhận tháng giảm đầu tiên từ tháng 3/2009.
Nếu không tính giá thực phẩm và năng lượng, chỉ số giá tiêu dùng lõi không có nhiều thay đổi và như vậy có mức tăng trong 12 tháng thấp nhất trong 4 thập kỷ.
Trong khoảng thời gian 12 tháng kết thúc vào tháng 4/2010, chỉ số giá tăng 2,2% so với 1 năm trước sau khi tăng 2,3% trong tháng trước đó.
Các chuyên gia phân tích dự đoán chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,4% trong khoảng thời gian 12 tháng kết thúc vào tháng 4/2010.
Chỉ số giá tiêu dùng lõi tháng 4/2010 tăng 0,9% so với cùng kỳ và có mức tăng thấp nhất tính từ tháng 1/1966, tháng trước đó, chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,1% so với cùng kỳ.
Các hãng bán lẻ Mỹ như Wal-Mart hiện đang giảm giá để tăng doanh số, người tiêu dùng Mỹ hiện đang đối đầu với tỷ lệ thất nghiệp gần 10% và tỷ lệ thu hồi nhà tăng mạnh. Khủng hoảng nợ châu Âu, sau khi đẩy đồng USD tăng giá mạnh và hạn chế đà tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, sẽ tiếp tục khiến giá cả đi xuống ở thời điểm tỷ lệ lạm phát vốn đã ở mức thấp.
Đồng USD hiện đã rời khỏi mốc cao nhất trong 4 năm so với đồng euro bởi dự đoán các nhà hoạch định chính sách khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ đưa ra các biện pháp để bảo vệ cho đồng tiền này.
Thị trường chứng khoán Mỹ giảm điểm đến ngày thứ 2, chỉ số S&P 500 giảm 0,5% và đóng cửa tại mức 1.115,05 điểm.
Những chính sách tài khóa của Mỹ về tình trạng lạm phát
Đối với nhiều quốc gia, lạm phát là 1 điều tồi tệ cho nền kinh tế và chính phủ luôn cố gắng đưa ra những chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở mức thấp nhất. Nhưng với nền kinh tế Mỹ - lạm phát là 1 tín hiệu mừng cho họ (theo Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ - FED, ông Ben S. Bernanke cho biết hôm 13/1)
Quay về thời kì Tổng thống Bush còn đương nhiệm – từ 20/1/2001 đến 20/1/2009 – đó là thời kì mà nền kinh tế Mỹ lạm phát cao. Vậy Bush đã đưa ra những chính sách gì, Cục dự trữ liên bang đã làm gì, quốc hội đã thông qua những dự luật nào để đưa Mỹ khỏi lạm phát?
Ta tạm nhìn lại thời gian khủng hoảng của Mỹ dưới thời Bush như sau:
Mỹ chịu gánh nặng của hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afganistan (sau sự kiện 11 tháng 9). Điều này trực tiếp làm tăng thâm hụt ngân sách; Thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài của Mỹ (nhất là với Trung Quốc) đã tăng trong suốt 3 thập kỷ, nhưng nhanh nhất là đến cuối năm 2008.
Nợ ròng đầu tư nước ngoài của Mỹ vào 2008 là 3.47 ngàn tỷ USD, tăng 1.33 ngàn tỷ, hay 62% so với cuối năm 2007. Đó là mức tăng cao nhất kể từ năm 1976. Nếu xét tổng số nợ của Mỹ so với GDP, thì bức tranh cho thấy sự bấp bênh về tài chính rõ hơn nhiều.
Trong thập kỷ 80, dưới thời Regan, tổng số nợ của Mỹ so với tỷ lệ của GDP bị đẩy từ 150% lên đến xấp xỉ 240%. Con số này tăng lên rất ít trong suốt 2 nhiệm kỳ của Clinton, tới gần 250%. Nhưng nó lại bị đẩy lên dưới thời của Bush, đạt tới 350% vào năm 2008, vượt xa đỉnh cao trong lịch sử là 300%, khi xảy ra cuộc đại khủng hoảng 1929-1930.
Chính quyền Mỹ đã ra tay như thế nào?
Có thể thấy, từ năm 2001 cho đến hết năm 2007, tình hình lạm phát tại Mỹ thay đổi qua các năm như sau: năm 2000 và năm 2006, tỷ lệ lạm phát đứng ở mức khá cao 3,4%, tỷ lệ lạm phát thấp nhất là 1,6% và đến năm 2007, tỷ lệ lạm phát tăng vọt lên 4,1%.
Có thể thấy, từ năm 2001 cho đến hết năm 2007, tình hình lạm phát tại Mỹ thay đổi qua các năm như sau: năm 2000 và năm 2006, tỷ lệ lạm phát đứng ở mức khá cao 3,4%, tỷ lệ lạm phát thấp nhất là 1,6% và đến năm 2007, tỷ lệ lạm phát tăng vọt lên 4,1%.
Hình 27: Biểu đồ về sự thay đổi trong chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ kể từ năm 2000 - Nguồn: Bộ Lao động Mỹ
Nền kinh tế Mỹ qua hai tháng đầu năm 2008 vẫn phải đương đầu với tình trạng lạm phát cao hơn bao giờ hết bởi giá dầu tăng kỷ lục đã khiến giá xăng và dầu đốt nóng tăng cao. Trong khi đó FED chưa đưa ra mục tiêu kiềm chế lạm phát cụ thể, lạm phát hơn 2% đang được coi là có dấu hiệu nguy hiểm
Hình 28: Thâm hụt ngân sách tại Mỹ - Nguồn: Nguồn: Bộ Lao động Mỹ
Như đã nêu, vào sau quý I/2005, tình hình đã thay đổi. Cân đối vĩ mô bị xấu đi nghiêm trọng, thể hiện bởi con số vay nợ của Chính phủ Mỹ, thâm hụt ngoại thương, và nợ nước ngoài của Mỹ so với tỷ lệ GDP tăng lên. Đến lượt nó, sự mất cân đối kinh tế vĩ mô lại ép Fed tăng lãi suất cơ bản lên liên tiếp 0.25% sau mỗi lần điều chỉnh. Tuy vậy, đồng USD vẫn tiếp tục bị sụt giá so với các ngoại tệ mạnh khác trong suốt các năm 2005 -2008, kéo theo sự giao động mạnh của giá cả trên thị trường vốn, ngoại hối, năng lượng, và nhất là thị trường cho các giao dịch tương lai
Hôm 31/1/2006, Tổng thống Mỹ George Bush đã có bài phát biểu tại phố Wall (New York) về thực trạng kinh tế đất nước, đồng thời nêu các ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế. Theo ông Bush, từ tháng 8/2003 tới nay, nền kinh tế Mỹ đã tạo thêm 7,2 triệu việc làm mới. Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 12/2006 là 4,5%, thấp hơn đáng kể so với mức thất nghiệp trung bình 5,1% của năm 2005 và của nhiều năm trước. Mức lương thực tế theo tuần tăng 1,7% trong cả năm 2006. Tỷ lệ này tăng ổn định và nhanh hơn mức tăng trung bình trong những năm thập niên 90 của thế kỷ trước. Thu nhập bình quân của mỗi gia đình lao động Mỹ tăng thêm 1.030 USD/năm; thu nhập cá nhân sau khi trừ thuế tính theo đầu người cũng tăng trên 2.800 USD (tăng 9,6%). Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Mỹ trong 11 tháng đầu năm 2006 đạt 1,3 nghìn tỷ USD.
Những dấu hiệu cho thấy kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng và sức ép lạm phát giảm đã khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ngày 31/1 đã quyết định giữ nguyên lãi suất chủ chốt ở mức 5,25% trước. Đây là cuộc họp thứ 5 liên tiếp FED đưa ra quyết định giữ nguyên lãi suất kể từ tháng 8/2006 do các dữ liệu của chính phủ cho thấy GDP của Mỹ đã tăng nhanh hơn dự đoán ở mức 3,5% trong quý IV/2006, chủ yếu nhờ tiết kiệm chi tiêu, giá xăng dầu giảm và tiền lương tăng. Như vậy trong cả năm 2006, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng 3,4%, cao hơn 0,2% so với năm 2005 và là mức tăng nhanh nhất kể từ năm 2004. Nhiều nhà phân tích đã phải chuyển dự đoán FED sẽ cắt giảm ba lần lãi suất trong năm 2007 sang việc FED sẽ giữ nguyên lãi suất trong một giai đoạn nhất định.
Theo FED, các chỉ số gần đây cho thấy tăng trưởng kinh tế Mỹ vững hơn và thị trường nhà đất dường như có dấu hiệu ổn định trở lại. Kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục tăng trưởng vừa phải trong một vài tháng tới. Thị trường chứng khoán phố Wall đã có phản ứng tích cực sau quyết định giữ nguyên lãi suất của FED, do đã có câu trả lời cho hai mối quan tâm chủ chốt của thị trường. Đó là kinh tế Mỹ vẫn lành mạnh và sức ép lạm phát dịu bớt. Chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones đã tăng gần 100 điểm lên 12.621,69 điểm khi thị trường đóng cửa giao dịch phiên cuối cùng của tháng 1. Nhìn chung các thị trường chứng khoán Mỹ đã có sự khởi đầu tốt đẹp ngay từ tháng đầu tiên của năm, với chỉ số Dow Jones tăng 1,28%, còn hai chỉ số Nasdaq và S & P 500 cũng tăng tương ứng 2,01% và 1,41%. Tuy nhiên, việc FED quyết định giữ nguyên lãi suất ở mức 5,25% lại làm đồng USD giảm giá so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt khác trong.
Tỷ lệ lãi suất của Mỹ thấp nhất vào năm 2003, sau đó hạ và tăng dần lên đến mức đỉnh điểm 5,25% vào nửa cuối năm 2006 cho đến ngày 18/9/2007.
Hình 29: Tốc độ tăng trưởng GDP và lã suất của Mỹ - Nguồn: Bộ Lao động Mỹ
Sau đó khi thị trường tín dụng đầy khó khăn và thị trường nhà đất suy yếu, ngày 18/9/2007 FED mở đầu đợt cắt giảm lãi suất, từ đó cho đến nay FED đã cắt giảm lãi suất 5 lần, tổng mức cắt giảm là 2,25%. Nhiều khả năng FED sẽ còn tiếp tục cắt giảm lãi suất để ngăn nguy cơ suy thoái. Một số chuyên gia lo ngại rằng nếu FED tiếp tục cắt giảm lãi suất, sẽ có nguy cơ xảy ra bong bóng tài sản trong tương lai.
Ưu tiên thúc đẩy đàm phán thương mại
Với mục tiêu cân bằng ngân sách, Tổng thống Bush tiếp tục đề xuất các chủ trương hỗ trợ phát triển kinh tế và hạn chế chi tiêu, áp dụng những biện pháp cải cách nhằm ngăn chặn thất thu thuế từ một số chương trình xã hội. Để thúc đẩy kinh tế phát triển, ông Bush kêu gọi Quốc hội gia hạn "quy chế đàm phán thương mại nhanh", sẽ hết hiệu lực vào cuối tháng 6/2007, đồng thời trao thêm quyền hạn cho ông trong các cuộc đàm phán tự do thương mại.
Theo quy chế này, Quốc hội chỉ có quyền chấp thuận hay bác bỏ, chứ không được sửa đổi từng điều khoản của các hiệp định thương mại mà Chính phủ đã ký với nước ngoài. Tổng thống Bush hy vọng việc gia hạn đặc quyền này sẽ góp phần tăng thêm cơ hội làm việc cho người lao động Mỹ và giúp các quốc gia đối tác thương mại của Mỹ ''tiến nhanh hơn tới các mục tiêu tự do và công bằng thương mại''. Ông Bush ủng hộ các nỗ lực nhằm nhanh chóng nối lại vòng đàm phán Doha về tự do thương mại toàn cầu, bị ngừng trệ từ tháng 7 năm ngoái do các đối tác thương mại chủ chốt không tìm được tiếng nói chung trong một số vấn đề quan trọng. Liên quan đến lĩnh vực tiết kiệm năng lượng, Tổng thống Bush một lần nữa nêu lại kế hoạch giảm 20% lượng xăng dầu tiêu thụ trong vòng 10 năm và giảm bớt sự phụ thuộc của Mỹ vào nguồn năng lượng nhập khẩu.
III. NHỮNG ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA MỸ VÀ TRUNG QUỐC:
Giống nhau:
Cả hai cường quốc khi đối mặt với nguy cơ lạm phát tăng cao đều chọn giảm phát là cắt giảm chi tiêu của chính phủ và tăng lãi suất nhằm ổn định thị trường tiền tệ.
Khác nhau:
TRUNG QUỐC
MỸ
Nơi đưa ra quyết định về chính sách tiền tệ và tài khóa:
Thủ tướng chính phủ
FED
Quốc Hội
Tổng Thống
Chính sách kìm hãm lạm phát :
Thông qua các bước nhỏ như sau:
Nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Hạ nhiệt nhà đất
Tăng cường kiểm soát giá – nhất là giá lương thực thực phẩm
Tăng mức phạt hành vi thao túng giá tối đa
Đẩy mạnh nguồn cung các loại hàng hóa thiết yếu và tài trợ các doanh nghiệp khó khăn về vốn, kiềm chế thanh toán bằng tiền mặt (một trong những nguyên nhân gây lạm phát).
Đánh thuế ôtô
Có các bước đi cụ thể :
FED tăng lãi suất cơ bản để thắt chặt tiền tệ - giảm đầu tư
Cắt giảm chi tiêu của chính phủ để tránh tình trạng thậm hụt ngân sách
Bảng 2: so sánh giữa Trung Quốc và Mỹ
Ai thành công hơn ai?
Mỹ đã không những thành công trong công việc giảm lạm phát ở nước họ mà còn lo ngại nhiều hơn cho việc giảm phát.
Bên cạnh đó, (ở thời điểm hiện tại) trong khi Trung Quốc căng thẳng tìm mọi cách đế kìm hãm lạm phát thì Mỹ lại cố tăng chỉ số lạm phát của mình lên để tránh rơi vào tình trạng suy thoái cách đây 2 năm.
Những số liệu mới nhất về lạm phát ở Trung Quốc cho thấy chỉ số CPI tăng 5,1 % trong tháng 11, vượt lên trên mọi kỳ vọng. Trong đó, lương thực đóng góp nhiều nhất và nhiều nhà đầu tư đang lo ngại giá những mặt hàng phi lương thực cũng sẽ tăng. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại, thị trường vốn đang khá lạc quan. Sau khi nhận được thông tin tích cực rằng lãi suất ở Trung Quốc nhiều khả năng sẽ không tăng bất chấp lạm phát, cổ phiếu ở châu Âu và châu Á hôm thứ Hai đồng loạt lên giá.
Ở Mỹ, khi Cục dự trữ liên bang FED cam kết sẽ tăng cường lạm phát, đẩy lùi nguy cơ trì trệ kinh tế kéo dài, kỳ vọng của các nhà đầu tư vào nền kinh tế có ít thay đổi. Kể từ khi FED tung ra gói QE2 vào tháng 11 để vực dậy hệ thống tài chính, lợi tức Trái phiếu Kho bạc đã lên giá đáng kể. Tuy vậy, sự gia tăng này gần như đã bị những mức tăng lợi tức thực tế bắt kịp sau khi điều chỉnh theo lạm phát.
Các nhà phân tích bày tỏ những ý kiến trái chiều về hiện tượng này. Công trình nghiên cứu của ông Patrick Rudden, đại diện Alliance Bernstein ở Luân Đôn, cho thấy lạm phát cao là không tốt đối với thị trường chứng khoán và trái phiếu. Nếu như lạm phát đạt tới 3,4, hay 5%, chứng khoán sẽ chịu ảnh hưởng xấu.
Mối lo lớn nhất hiện nay nằm ở các thị trường mới nổi. Chính sách tài khóa nới lỏng ở Mỹ đang đặt ra một áp lực lớn. Dòng đô-la giá rẻ được tạo ra từ đợt QE2 ồ ạt chảy vào tài sản ở các thị trường mới nổi, làm gia tăng quan ngại về khả năng của một sự “tăng trưởng quá nóng”. Thực tế cho thấy trong năm nay, dòng vốn chảy vào các chứng khoán ở các quốc gia này đã đạt 89 tỷ USD, trong khi tổng vốn đầu tư ra bên ngoài của các nước phát triển chỉ là 79 tỷ USD.
Hình 30: Xếp hạng tình trạng lạm phát của Mỹ - Trung Quốc của IMF – Nguồn:
Nhưng Mỹ đang mắc phải 4 sai lầm nghiêm trọng :
NEW YORK - Các cuộc khủng hoảng kép trong nền tài chính và kinh tế thực, cái mà người Mỹ gọi là Wall Street và Main Street, và các cuộc thảo luận liên tu bất tận về cải cách tài chính và triển vọng phục hồi kinh tế, đã sinh ra một số sai lầm cần phải được giải quyết và tiêu trừ.
Sai lầm 1: Qua niệm rằng cuộc khủng hoảng sẽ tạo ra một "sự rơi tự do."
Một sự rơi tự do có nghĩa là suy thoái kinh tế toàn cầu. Nhưng, chắc chắn, nền kinh tế thế giới, hoặc thậm chí Hoa Kỳ hoặc Liên minh châu Âu - mà dự đoán khủng khiếp này đã được đưa ra (ví dụ, bởi Joseph Stiglitz, người đã viết một cuốn sách có tựa rơi tự do) - đã không bị rơi mạnh như trái táo của Newton. Các cuộc thảo luận sôi nổi về việc liệu có một hoặc cả hai nền kinh tế phải đối mặt với một cuộc suy thoái hình chữ L hoặc suy thoái hình chữ V(1) đã cho ra cách thay đổi đáng kể phù hợp với thực tế, cho cả các chỉ số thu nhập và tài chính, đang diễn ra xung quanh một xu hướng tăng nhẹ.
Sai lầm 2: Thông qua việc nói lỏng tiền tệ, nước Mỹ đã điều khiển tỉ giá hối đoái của đồng đô la trong cùng một cách mà nó đã cáo buộc Trung Quốc thao túng tỷ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ.
Hai trường hợp là khác nhau. Nếu một khoản trợ cấp tiền lớn cho rằng là do một suy giảm tổng nhu cầu toàn cầu, vì các cáo buộc Trung Quốc làm hạ giá đồng nhân dân tệ, thực sự, có thể được xem như là một chính sách ăn xin hàng xóm, mà nó làm chuyển hướng nhu cầu không đủ của thế giới đển hàng hóa Trung Quốc làm tăng chi phí quốc gia khác.
Mặt khác, sự suy yếu của đồng USD là một tác dụng phụ của việc nới lỏng tiền tệ của Mỹ, thực hiện sau khi các nước như Trung Quốc và Đức đã từ chối chi tiêu nhiều hơn để tăng nhu cầu của thế giới, sau khi không có chỗ nào để kích thích tài chính thêm. Điều này là hoàn toàn khác từ một chính sách làm suy yếu đồng đô la để chuyển hướng nhu cầu đang thiếu của thế giới để đến với hàng hóa của Mỹ.
Sai lầm 3: sự mất cân bằng toàn cầu hiện nay sẽ tiếp tục gây khổ sở cho chúng ta.
Các nhà kinh tế cứ chắc chắn một cách chung chung từ tình hình hiện nay rằng, ngày hôm nay Trung Quốc và Đức thặng dư tài khoản vãng lai và Mỹ bị thâm hụt, ví dụ, điều này hiển nhiên trong hiện tại. Nhưng lịch sử đã chứng minh chỉ các nước dư thừa mới là nước nhập siêu. Một trong những người thầy của tôi khi tôi còn là một sinh viên tại Oxford, Ông Donald MacDougall, một người đã từng là cố vấn của Thủ tướng Winston Churchill, đã viết một cuốn sách mang tên “The Long-Run Dollar”, cho rằng đồng đô la đã được những gì mà Quỹ tiền tệ Quốc gọi là một "khan hiếm tiền tệ." vào thời điểm cuốn sách xuất hiện, tuy nhiên, vấn đề đó ngày nay đã biến mất.
Ban đầu, thặng dư của Trung Quốc xuất hiện vô tình, không phải bởi thiết kế. Vì vậy, đã làm thâm hụt, đó là hậu quả của sự thất bại về tài chính trong cuộc chiến tranh Iraq lần thứ hai do chính sách thuế mới - một quyết định bắt nguồn từ những tính toán sai lầm là đương nhiên chiến tranh sẽ được hoàn thành trong 6 tuần.
Hôm nay, người Trung Quốc tự nhận ra rằng thặng dư của họ được lợi nhuận rất nhỏ khi đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Vì vậy, họ mong muốn chi tiêu thu nhập của họ từ thương mại nước ngoài được thay thế vào cho cơ sở hạ tầng trong nước, do đó loại bỏ tắc nghẽn nghiêm trọng để tăng trưởng hơn nữa, như ở Ấn Độ.
Kết quả là, hàng nhập khẩu Trung Quốc sẽ tăng lên - và do đó thặng dư của họ sẽ giảm - vì hai lý do. Trước tiên, tiền công sẽ được dành một phần cho hàng hoá nhập khẩu. Thứ hai, cơ sở hạ tầng đầu tư yêu cầu thiết bị lớn được cung cấp bởi các tập đoàn như Caterpillar, GE, Siemens, và các công ty khác, chủ yếu là từ phương Tây. Hơn nữa, áp lực lớn ở Mỹ để thực hiện hợp nhất tài chính được phản ánh trong đề nghị ngân sách mới nhất của Tổng thống Barack Obama, là nên làm giảm nhu cầu nhập khẩu của Mỹ, để tiếp tục giảm sự mất cân đối giữa hai nước.
Sai lầm 4: Quên quản lý nhu cầu về lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes(2)
Một số nhà phê bình về kích thích chi tiêu theo lý thuyết kinh tế Keynes của ông Obama, trong đó có nhà kinh tế Jeffrey Sachs, cho rằng cái mà nước Mỹ cần là tăng cường khả năng chi tiêu "dài hạn". Nhưng đây là một điều không đúng. Là một kinh tế gia theo trường phái Keynes, tôi tin rằng nhà nước trả tiền người dân đào hố và sau lấp hố lại sẽ làm tăng tổng cầu và tạo thêm thu nhập. Nhưng Keynes đã không đánh lừa. Ông hiểu rằng chính phủ có thể được lợi rất lớn nếu tiền được chi cho các khoản đầu tư tăng năng suất hơn là "trực tiếp lãng phí" cho các hoạt động chi ngày càng tăng.
Vậy thì, vấn đề đặt ra, là rất đơn giản: đầu tư cái gì sẽ có sự thưởng phạt trong kinh tế lớn nhất? Nhưng những sai lầm nó cũng đầy ra đấy: khi nhu cầu của bạn bị thu hẹp, các tòa nhà của bạn đang ở trong tình trạng hư hỏng, giáo viên được trả lương thấp và không có động cơ để có hiệu quả, và nhiều người khác cần tiền, nó không phải là dễ dàng để quyết định khi tiền khan hiếm thì được chi tiêu ở đâu.
Nhưng một sự suy xét về "cơ cấu" chưa được hiểu rõ. Là với sự cần thiết phải cắt giảm thâm hụt trong tương lai và sự cần thiết phải tăng nó bây giờ để phục hồi nền kinh tế, thì vấn đề phải đối mặt với Obama là làm thế nào trả số cho chiếc xe đang vận hành từ số lớn nhất trở về số 0 một cách trơn tru. Rõ ràng, bài học này là chính phủ cần ít quan tâm hơn là chi tiêu không thể bị cắt đi mỗi ngày.
IV. NHỮNG ĐỀ XUẤT CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM:
Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam:
Chạy theo chỉ thị
Do được mệnh danh là “nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN“ nên nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào kế hoạch và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua chỉ thị của Đảng, trọng tâm của nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng năm. Để đạt chỉ tiêu đã đề ra, nhà nước khuyến khích đầu tư và các doanh nghiệp quốc doanh được tạo điều kiện mượn nợ ngân hàng dễ dàng cho các dự án đầu tư. Ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, các doanh nghiệp còn đầu tư vào các lĩnh vực thiếu chuyên môn, đặc biệt vào các lĩnh vực bất động sản hoặc có nhiều rủi ro như cổ phiếu, v.v… Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các doanh nghiệp quốc doanh dùng 60% tiền mượn đầu tư vào các lĩnh vực chuyên môn và 40% đầu tư vào các lĩnh vực mà họ không hiểu biết. Do thiếu trình độ chuyên môn nên các khoảng đầu tư này thường thua lỗ, dẫn đến việc doanh nghiệp không thể hoặc không có khả năng trả được nợ ngân hàng. Theo Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ của tổng số tín dụng “xấu“ hiện nay khoảng 3-4%. Nhưng theo Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế ước đoán thì con số này lên đến khoảng 15%. Các chuyên gia quốc tế khác lại cho rằng tỷ lệ tín dụng “xấu“ thậm chí lên tới 20%, nếu ước tính được áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế.
Hình 31: Lạm phát của Việt Nam những năm gần đây – Nguồn:
Vì chạy đua với con số tăng trưởng nên nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua tăng trưởng nhờ đầu tư nước ngoài, không phải vì tiêu thụ. Tổng số đầu tư trong năm 2009 tương đương 40% tổng sản lượng quốc gia. Vì nhu cầu vốn đầu tư cao hơn tổng số tiền tiết kiệm trong nước nên chủ nợ đòi hỏi lãi xuất cao, nhiều thông tin cho biết đã có những khế ước vay với lãi suất lên đến 20%/năm trong những tháng đầu năm 2010. Mặt khác, để có được vốn đầu tư đòi hỏi phải nhập dòng vốn từ nước ngoài.
So với các nước láng giềng như Indonesia và Philippines, Việt Nam phải trả lãi xuất cao hơn 1% do cấu trúc kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chánh mang nhiều rủi ro. Trường hợp trên đã dẫn đến lạm phát do lãi xuất tăng cao và doanh nghiệp phải trả tiền lãi cao hơn làm tăng giá sản phẩm. Bên cạnh đó, Việt Nam vây mượn tiền vốn nước ngoài đã thúc đẩy nhu cầu tiền nước ngoài cao hơn tiền nội địa đưa đến áp lực giảm giá trị đồng tiền trong nước và làm tăng trưởng lạm phát.
Hình 32: ICOR Việt Nam những năm gần đây – Nguồn:
Những rủi ro nêu trên có thể được điều chỉnh nếu hiệu quả đầu tư cao. Để đo lường hiệu quả đầu tư của một quốc gia, các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) được tính bằng: tổng số vốn đầu tư chia cho tổng số tăng trưởng GDP. Do cách tính này, tăng trưởng GDP càng cao thì hệ số ICOR càng nhỏ. Năm 2007, Việt Nam có hệ số ICOR là 5,2, năm 2008 là 6,66 và năm 2009 là 8. Những con số vừa nêu là minh chứng hiệu quả đầu tư tại Việt Nam càng ngày càng xấu đi.
Thâm hụt mậu dịch
Năm 2009, Việt Nam xuất cảng 56,6 tỷ USD, 12% thấp hơn năm 2008. Việt Nam chủ yếu xuất cảng quần áo (9 tỉ USD), dầu thô (6,2 tỉ USD), giầy dép (4,2 tỉ USD), sản phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản.
Nhập cảng vào Việt Nam trong năm 2009 tổng cộng là 68,8 tỷ USD, 18% thấp hơn năm 2008. Nguyên nhân chính cho sự sụt giảm làm do nhà máy lọc dầu Dung Quắt đầu tiên tại Việt Nam bắt đầu hoạt động nên Việt Nam chỉ nhập 6,2 tỷ USD xăng dầu thay vì 10,8 tỷ USD vào năm 2008. Những mặt hàng nhập vào Việt Nam nhiều nhất là máy móc và đồ phụ tùng chiếm 12,4 tỉ USD, sắt và thép 5,3 tỉ, tơ sợi 4,2 tỉ, hàng điện tử và computer 3,9 tỉ, Ô-tô 2,9 tỉ.
Nhập cảng nhảy vọt đưa đến người giàu có lợi dụng cơ hội Việt Nam vào WTO đặt mua hàng hóa xa sỉ như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v…, thêm vào đó sự yêu chuộng hàng hoá nước ngoài của dân chúng xuất phát từ ý thức vọng ngoại, không tin tưởng vào hàng hoá nội địa. Sau 24 năm “đổi mới“ Việt Nam vẫn không thoát ra khỏi nền kinh tế gia công và nông nghiệp. Việt Nam vẫn lệ thuộc vào xuất khẩu và phải nhập khẩu hàng hoá, máy móc để cho dân chúng tiêu dùng.
Năm 2009, con số thâm hụt mậu dịch là 12,2 tỉ USD. Để có thể chi phí cho thâm hụt mậu dịch, nền kinh tế trong nước đòi hỏi nhu cầu về ngoại tệ và vốn nhập từ nước ngoài, qua đó gây áp lực giảm giá trị đồng tiền nội địa đưa đến việc tăng lãi xuất và lạm phát.
Thâm hụt ngân sách quốc gia
Các khoản thu chính của nhà nước Việt Nam là từ thuế và lệ phí, bán dầu thô, viện trợ và vay nước ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm nhà nước giảm các khoản thu từ thuế và bán dầu thô, đồng thời nhà nước phải chi phí để kích cầu nên thâm hụt ngân sách quốc gia tăng trưởng từ 1,7% vào năm 2007 lên 4,9% trong năm 2008. Theo ngân hàng phát triển Á Châu, trong năm 2009 Việt Nam thâm hụt ngân sách 10,3%. Quỹ tiền tệ thế giới IMF đề nghị Việt Nam có phải phương án tiết kiệm để hạn chế chỉ còn 6% trong năm 2010.
Để chi phí cho thâm hụt ngân sách quốc gia, nhà nước buộc phải mượn thêm nợ. Nếu nhà nước mượn được nợ của người dân trong nước thì vấn đề tương đối không nghiêm trọng, vì tiền lưu truyền trong nội địa của một nền kinh tế. Trường hợp Việt Nam, nhu cầu vốn cao hơn tổng số tiền tiết kiệm của người dân trong nước nên thâm hụt ngân sách làm nhu cầu vốn càng cao hơn và qua đó nhu cầu muợn vốn từ nước ngoài cũng tăng lên.
Tiền lãi và tiền mượn nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước. Do số tiền thu thuế có giới hạn, nếu không tăng thuế thì những hoạt động của nhà nước buộc phải thu hẹp (không gian chi tiêu). Nếu tiền lãi không được trả cho chủ nợ hàng năm thì tiền nợ mỗi ngày mỗi cao hơn. Thêm vào đó, tiền nợ trong quá khứ và tiền nợ trong tương lai chồng chất mỗi ngày mỗi cao đã đẩy quốc gia rơi vào vòng luẩn quẩn khó thoát khỏi cơn nợ như hiện nay.
Theo dự đoán của chuyên gia kinh tế quốc tế, năm 2009 Việt Nam mang nợ tổng cộng 47,5% tổng sản lượng quốc gia, trong đó có 25,7 tỉ USD là nợ nước ngoài. Những rủi ro xảy ra trong trường hợp thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài cao là do áp lực giảm giá trị đồng tiền nội địa dẫn đến tăng lãi xuất và tăng lạm phát. Ngoài ra, gây áp lực giảm khả năng tín dụng của quốc gia (rating code) đã làm tăng lãi xuất tín dụng. Các nguyên nhân trên đã làm tăng giá sản phẩm và lạm phát tăng vụt trong những tháng
Đề xuất:
Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Cúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó ví tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng.
Về chính sách tài khoá : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó làm giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô như sau:
- Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát,cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú sốc đột biến về tỷ giá; tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín dụng...
- Sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế... để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo...; đồng thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh, ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh... để khắc phục tình trạng đầu cơ, mua bán lòng vòng, lũng đoạn thị trường…
- Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy, trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng một lúc.
- Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN, nâng cao tính độc lập của NH trung ương trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hoá kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải phát triển thị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn. ...
- Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ,... khi mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sê làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay.
- Lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là Ngân sách Nhà nước liên tục ở mức thâm hụt. Hầu như từ khi thống nhất đất nước đến nay, chưa bao giờ ngân sách đạt được cân bằng thu chi, đặc biệt trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế vĩ mô trước thập kỷ 90. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thâm hụt ngân sách tăng dần, từ mức 0,13% GDP năm 1998 lên đến 3,23% năm 2001, sau đó giảm xuống, nhưng vẫn còn đứng ở mức khá cao, trên 2% trong vòng 2 - 3 năm gần đây. Như vậy, kiềm chế thâm hụt tài khoá sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó, làm giảm bớt tầm quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Dường như lâu nay ở ta có một quan niệm sai lầm và nguy hại rằng lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các cơn sốt giá nguyên nhiên liệu chiến lược đầu vào. Một số ít người thì tỉnh táo hơn đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đả động đến một nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khoá đã và đang ở mức khá cao như hiện nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại
Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hoá, một Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả nổi hoàn toàn. ở Việt Nam, 3 điều kiện này chưa (hoàn toàn) được xác lập. Chúng ta mới bắt đầu tự do hoá thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xoá bỏ trần lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc thị trường. Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là một Ngân hàng Trung ương, vẫn là một thành viên của Chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với USD.
KẾT LUẬN
Lạm phát là hiện tượng tiền tệ, nhưng nguyên nhân quyết định dẫn đến thì lại khác nhau giữa các quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Đối với Việt Nam thì mở rộng cung tiền quá nhanh nhằm đạt mục tiêu phát triển được xác định là nguyên nhân chủ yếu. Tuy vậy, bản thân cung tiền lại là hệ quả của sự kết hợp giữa chủ động trong điều hành vĩ mô và quy mô quá lớn của các dòng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn từ bên ngoài chảy vào. Để giảm dần lạm phát và hướng tới tăng trưởng bền vững thì Việt Nam cần xác định mục tiêu cụ thể trong mỗi thời kỳ và thực hiện chính sách hiệu quả trong quản lý điều hành.
Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta trong thời gia tới. Phát huy kết quả đạt được trong những năm vừa qua, trong thời gian tới cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: nghiên cứu và đề suất tổ chức thực hiện các chính sách biện pháp bình ổn giá cả thi trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình, sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động của giá cả thị trường thế giới. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách lạm phát của mỹ và trung quốc.doc