Trong Luật thúc đẩy sáng tạo hoạt động kinh doanh mới cũng có những quy
định nhằm phát triển công nghệ kỹ thuật như tăng ngân sách vào các hoạt động
nghiên cứu và phát triển. (Năm 2004, chính phủ Nhật đã chi hơn 30 tỉ yên vào hoạt
động này). Cũng trong Luật này, chính phủ cũng có những biện pháp thương mại
hoá kết quả R&D như giảm chi phí bằng sáng chế Trong năm 2006, chính phủ
Nhật cũng đã ban hành Luật hỗ trợ nâng cao công nghệ sản xuất của các SME. Luật
mới này được ban hành nhằm hỗ trợ việc nghiên cứu và phát triển trong các SME,
chịu trách nhiệm về tiến bộ công nghệ sản xuất như đúc khuôn, mạ Mục tiêu của
các hỗ trợ này là tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của ngành sản xuất và phát
triển số lượng doanh nghiệp.
Hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin : Trong giai đoạn công nghệ thông tin
phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các biện pháp nhằm nâng cao trình độ công nghệ
thông tin cũng được chú ý nhiều.
108 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2577 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ bản, tạo nền tảng cho việc xây dựng
hệ thống pháp luật và chính sách điều tiết vĩ mô, tạo cơ sở thuận lợi cho việc phân
định các yếu tố thời cơ thuận lợi bên ngoài cho SME khi hoạch định và triển khai
chiến lược cạnh tranh.
2. Tạo môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động của các SME
Ở Nhật, các SME hoạt động trong môi trường hết sức thuận lợi.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
Từ rất sớm môi trường pháp lý dành cho SME đã được hình thành. Những
quy định chung liên quan đến SME hay những quy định riêng dành cho SME đã
được ra ban hành. Điều này tạo ra những định hướng rõ ràng và những khung khổ
nhất định mà các SME có thể dễ dàng hoạt động và phát triển theo.
Ngoài ra, chính phủ Nhật luôn cố gắng tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi
cho sự phát triển của các SME. Trong những giai đoạn khi khoảng cách giữa các
doanh nghiệp lớn và các SME rất lớn, các doanh nghiệp lớn có nhiều biện pháp
không công bằng đối với các SME. Do vậy, chính phủ đã có những chính sách
nhằm đảm bảo quyền bình đẳng cho các SME trong Luật chống độc quyền, Luật
thanh toán chi phí hợp đồng thầu phụ...Hơn nữa, mặc dù tất cả các hành vi cản trở
cạnh tranh lành mạnh đều bị nghiêm cấm và bị xử lý theo Luật chống độc quyền
nhưng Luật chống độc quyền tư nhân của Nhật cũng chấp nhận một số trường hợp
ngoại lệ. Một trong số đó là chấp nhận sự tồn tại và hoạt động của các tập đoàn sản
xuất được thành lập từ các SME theo đúng Luật doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hay khi
nền kinh tế gặp khó khăn, chính phủ cũng đã ban hành Luật đảm bảo đơn đặt hàng
từ chính phủ, Luật khuyến khích hợp đồng thầu phụ.
Trong thời gian gần đây, các biện pháp hỗ trợ kinh doanh đã có những thay
đổi phù hợp với tình hình thực tế. Đó là tổ chức các hội chợ thương mại, các trung
tâm buôn bán để tăng cơ hội giới thiệu sản phẩm, cơ hội giao thương, tìm kiếm đối
tác kinh doanh…Các doanh nghiệp cũng có thể tìm kiếm đối tác qua mạng “match
net”, đặc biệt là trang web: www.matchnet.zenkyo.or.jp. Ngoài ra, còn có xúc tiến
các hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của các SME.
Ở Việt Nam hiện nay, tuy môi trường hoạt động của các SME đã thuận lợi
hơn trước nhiều. Khung khổ pháp luật kinh doanh, pháp luật về tài chính, tiền tệ, tín
dụng, thương mại, lao động đã được cải thiện nhiều với sự ra đời, sửa đổi bổ sung
của các Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Đầu tư (2005), Luật Ngân hàng nhà nước
và Luật các tổ chức tín dụng năm 2003, Bộ Luật Lao động…Hệ thống cơ chế, chính
sách của Nhà nước về căn bản không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, còn có một số quy định pháp luật riêng cho các SME như Công văn số
681/CP-KTN ngày 26/6/1998 của Văn phòng chính phủ về việc định hướng chiến
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
lược và chính sách phát triển SME, Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001
của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Song trong hoạt
động thực tiễn khu vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn hơn các loại hình
doanh nghiệp khác.
Trở ngại lớn đối với sự phát triển của các SME hiện nay là môi trường pháp lý
chưa đồng bộ, hoàn thiện; còn nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất
quán hay thay đổi phức tạp, chồng chéo, dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và
các doanh nghiệp lúng túng trong việc chấp hành pháp luật.
Mặc dù các cơ quan nhà nước đã tạo điều kiện để doanh nghiệp được tham gia
ý kiến đóng góp vào nhiều văn bản, chính sách khác nhau, song nhìn chung kết quả
còn hạn chế, mới chỉ dừng ở mức tham khảo có giới hạn, chưa thành quy chế. Một
số ý kiến, đề xuất của doanh nghiệp chưa được tiếp thu, nhiều khó khăn cho doanh
nghiệp chưa được giải quyết cơ bản, triệt để.
Sự thiên lệch trong đối xử của nhiều cấp thừa hành giữa doanh nghiệp lớn và
SME cũng là một yếu tố tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh. Trong các
chính sách của Đảng và Nhà nước đều thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, tuy nhiên giữa các doanh nghiệp lớn và SME còn tồn tại nhiều hiện tượng
phân biệt đối xử. Đặc biệt là trong việc thực hiện chính sách, thừa hành công vụ của
một số cán bộ nhà nước, như trong lĩnh vực vay ngân hàng, tiếp cận chế độ ưu đãi
của Chính phủ, thuê đất, tiếp nhận thông tin về thị trường xuất khẩu, trong việc đào
tạo, bồi dưỡng lao động…
Môi trường tâm lý xã hội cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các SME. Tuy nhiên, môi trường tâm lý xã hội ở Việt Nam hiện nay còn
nhiều điểm bất lợi cho các SME. Còn có nhiều định kiến, mặc cảm đối với các
SME, chưa nhìn nhận đúng mức vai trò của các SME trong nền kinh tế. Quan niệm
về SME còn gắn với những tiêu cực như làm hàng giả, trốn lậu thuế, gian lận
thương mại…Từ đó dẫn đến tâm lý kỳ thị, phân biệt đối xử đối với SME trong một
số không nhỏ cán bộ ở các cấp của Đảng, Nhà nước và trong nhân dân.
Như vậy, tuy môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, môi trường tâm lý
xã hội đã có những bước cải thiện, song trong hoạt động thực tiễn, khu vực SME
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
còn gặp nhiều khó khăn. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy động các
nguồn lực, tiềm năng của SME cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Do đó,
việc nhận thức đúng đắn và cải thiện môi trường hoạt động cho các SME là hết sức
cần thiết.
3. Hỗ trợ các SME phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh
Khi nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các chính sách phát
triển SME của Nhật, ta có thể thấy một xu hướng biến đổi rõ rệt. Trong giai đoạn
sau chiến tranh, các SME gặp nhiều khó khăn, khoảng cách về tiền lương, năng
suất…giữa các SME và các doanh nghiệp lớn là khá xa. Chính phủ Nhật đã cho
rằng các SME là điểm yếu của nền kinh tế, cần hỗ trợ để rút ngắn khoảng cách với
các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, khi tình hình kinh tế trong nước và thế giới có
nhiều thay đổi, đặc biệt từ khi nền kinh tế bắt đầu suy thoái, phải tiến hành các biện
pháp điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế thì Nhật Bản đã nhận ra ý nghĩa và vai trò thật
sự của các SME. Do vậy, các chính sách phát triển SME đã chuyển sang những biện
pháp hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực nội tại, phát huy cao nhất nội lực, nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các SME. Hình ảnh mà chính phủ Nhật mong muốn ở các
SME trong thế kỷ 21 là các doanh nghiệp tự lực phát triển. Điều này hoàn toàn phù
hợp với xu thế chung của thế giới. Bởi lẽ dù điều kiện khách quan có thuận lợi như
thế nào thì khả năng tồn tại và phát triển của các SME cũng do những nhân tố nội
lực quyết định.
Nội lực của doanh nghiệp được nâng cao trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị
kinh doanh( cả nhân sự, tài chính, kỹ thuật), trình độ tay nghề của công nhân, trình
độ thiết bị- công nghệ, mức độ sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vật tư- nguyên vật liệu
cho sản xuất, năng lực marketing. Thực chất của yêu cầu đối với việc nâng cao năng
lực bên trong của doanh nghiệp gắn với việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả, giảm giá thành tương đối, sản xuất đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của khách
hàng.
Điều này có thể thấy rõ qua các chính sách mà chính phủ Nhật đã thực hiện.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
3.1. Hệ thống các biện pháp hỗ trợ về vốn phong phú
Chính phủ Nhật đã có nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ vốn cho các SME. Thông
qua đó, các SME có thể tăng nguồn vốn trực tiếp cũng như gián tiếp. Bởi lẽ chỉ khi
có được nguồn vốn thì các SME mới có đủ khả năng để cạnh tranh.
SME có thể tăng nguồn vốn gián tiếp thông qua các chương trình của ba tổ
chức tài chính Nhà nước là Công ty tài chính doanh nghiệp nhỏ Nhật Bản(JFS),
Công ty tài chính nhân dân (NLFC), và Ngân hàng Shoko Chukin(SCB). Ngoài ra,
chính phủ cũng đã hỗ trợ tín dụng cho các SME thông qua hệ thống bảo lãnh tín
dụng và bảo hiểm tín dụng, các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, hiện nay bên cạnh
các tổ chức tín dụng của Nhà nước, vai trò của các tổ chức tín dụng tư nhân đang
ngày càng được nâng cao. Tỉ lệ số vốn cho các SME vay của các tổ chức này chiếm
hơn 90% tổng số vốn vay.
SME cũng có thể tăng vốn trực tiếp thông qua bán cổ phiếu với sự trợ giúp
của Tổ chức các công ty tư vấn và đầu tư SME bảo lãnh.
Việt Nam hiện nay cũng đã có nhiều chính sách để các SME có thể vay vốn
ngân hàng tốt hơn. Như việc xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng( Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức
tín dụng năm 2003 đã xoá bỏ ưu tiên và ưu đãi vay vốn đối với các doanh nghiệp
nhà nước và hợp tác xã). Chính phủ tạo điều kiện cho một số đối tượng là SME
được vay vốn của tổ chức tín dụng không phải có đảm bảo bằng tài sản.( Nghị quyết
số 02/2003/NQ-CP ngày 17-01-2003 của Chính phủ quy định cho vay đến 30 triệu
đồng đối với chủ trang trại; đến 50 triệu đồng đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh giống thuỷ sản đến 100 triệu đồng đối với hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng
vật tư, cây , con giống để sản xuất nông, lâm, ngư , diêm nghiệp; đến 500 triệu đồng
đối với hợp tác xã sản xuất hàng xuất khẩu, làm nghề truyền thống). Ngoài ra, pháp
luật còn tạo môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực tín dụng và dịch vụ ngân hàng, tự
do hoá lãi suất…Ngoài các hình thức cho vay truyền thống, Ngân hàng Nhà nước
đã ban hành cơ chế về các hình thức cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cho thuê tài
chính, chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá,
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
bao thanh toán…Nhờ đó, đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn
nguồn vốn, hình thành và phát triển thị trường tài chính.
Tuy nhiên, hiện còn có một số vấn đề gây trở ngại đối với doanh nghiệp trong
thể chế tín dụng hoặc các thể chế liên quan như: việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất còn chậm làm hạn chế khả năng thế chấp vay vốn ngân hàng; hệ thống
đánh giá tài sản chưa phát triển và không dựa vào thị trường; thủ tục công chứng và
đăng ký giao dịch bảo đảm còn phiền hà. Việc triển khai thể chế về Quỹ bảo lãnh
tín dụng cho các SME theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP còn chậm. Đến nay chỉ
mới có 2 địa phương thành lập được quỹ này là Tây Ninh và Trà Vinh[4.119].
Vốn trực tiếp thông qua phát hành cổ phiếu cũng chỉ mới trong giai đoạn bắt
đầu, chưa có nhiều SME có đủ khả năng niêm yết trên thị trường chứng khoán.
3.2. Hỗ trợ thúc đẩy nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ thông tin
Trình độ công nghệ kỹ thuật đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của các SME. Đặc biệt khi quá
trình công nghiệp hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì các SME rất cần phải nâng
cao công nghệ. Ngay từ giai đoạn tăng trưởng cao, chính phủ Nhật đã bắt đầu có
những biện pháp để nâng cao trình độ công nghệ kỹ thuật của các SME. Hiện nay,
với sự phát triển của công nghệ trên toàn thế giới những chính sách của Nhật nhằm
hỗ trợ về công nghệ kỹ thuật đã có nhiều thay đổi.
Hỗ trợ phát triển kỹ thuật: Hỗ trợ vốn cho các hoạt động mua các thiết bị
công nghệ trình độ cao, sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Khi mua
những thiết bị như vậy, các doanh nghiệp sẽ được giảm thuế. Chính phủ thành lập
những tổ chức cho thuê thiết bị với lãi suất thấp hoặc không có lãi suất.
Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển: Đối với các hoạt động nghiên cứu
và phát triển, chính phủ Nhật cũng có nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy như hỗ trợ
vốn khuyến khích phát triển và ứng dụng.
Khuyến khích hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, các cơ quan
chính phủ và các doanh nghiệp về nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
Trong Luật thúc đẩy sáng tạo hoạt động kinh doanh mới cũng có những quy
định nhằm phát triển công nghệ kỹ thuật như tăng ngân sách vào các hoạt động
nghiên cứu và phát triển. (Năm 2004, chính phủ Nhật đã chi hơn 30 tỉ yên vào hoạt
động này). Cũng trong Luật này, chính phủ cũng có những biện pháp thương mại
hoá kết quả R&D như giảm chi phí bằng sáng chế… Trong năm 2006, chính phủ
Nhật cũng đã ban hành Luật hỗ trợ nâng cao công nghệ sản xuất của các SME. Luật
mới này được ban hành nhằm hỗ trợ việc nghiên cứu và phát triển trong các SME,
chịu trách nhiệm về tiến bộ công nghệ sản xuất như đúc khuôn, mạ…Mục tiêu của
các hỗ trợ này là tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của ngành sản xuất và phát
triển số lượng doanh nghiệp.
Hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin : Trong giai đoạn công nghệ thông tin
phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các biện pháp nhằm nâng cao trình độ công nghệ
thông tin cũng được chú ý nhiều.
Tổ chức các hội thảo đào tạo thương mại điện tử cho các doanh nghiệp tại các
trung tâm hỗ trợ SME tại các tỉnh, tổ chức SMRJ, JCCI, cử các chuyên gia về công
nghệ thông tin đến các doanh nghiệp để hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc ứng
dụng.
Phát triển các mô hình ứng dụng và đầu tư cho công nghệ thông tin. Nếu
doanh nghiệp nào có mô hình tốt, trở thành mô hình kiểu mẫu sẽ được hỗ trợ 1/2 chi
phí nghiên cứu nâng cao.
Tại Việt Nam, hiện nay, trình độ công nghệ của các SME còn rất kém. Về
trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công
nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Còn doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh
tranh về công nghệ của các doanh nghiệp phía Bắc là rất thấp. Bên cạnh đó, chỉ tiêu
về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng máy
vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội
bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%. Đây là một kết quả rất
đáng lo ngại vì khả năng tham gia thương mại điện tử và khai thác thông tin qua
mạng của các doanh nghiệp phía Bắc còn rất thấp, chưa tương xứng với mong muốn
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
phát triển thương mại điện tử của Chính phủ. Trong khi trình độ về kỹ thuật công
nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có
tỷ lệ rất thấp; chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công
nghệ. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh
nghiệp phía Bắc nói riêng, chưa coi trọng đúng mức đến các vấn đề về kỹ thuật và
công nghệ. Mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên
thương trường.
Một mặt đó là do bản thân các SME vẫn chưa nhận thức đầy đủ về sự cần
thiết của việc nâng cao trình độ công nghệ. Mặt khác, những quy định của chính
phủ về vấn đề này vẫn chưa thật sự đầy đủ. Các quy định được ban hành trong thời
gian qua như Luật khoa học và công nghệ(2000), Nghị định số 81/2002/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ, Nghị định số
99/2003/NĐ-Cp ban hành Quy chế khu công nghệ cao mặc dù phần nào đã định
hướng và hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ
nhưng còn có một số bất cập. Ví dụ như việc khuyến khích, hỗ trợ mới chỉ bó hẹp
trong vài lĩnh vực; thủ tục, trình tự xét duyệt còn chậm, cơ chế cấp và thanh quyết
toán còn lúng túng dẫn đến việc tổ chức thực hiện và giải ngân chậm; việc tổ chức
xét duyệt tập trung( đăng ký, xét duyệt, thẩm định kinh phí tại Bộ khoa học và công
nghệ, cấp kinh phí trực tiếp từ Bộ Tài chính) với hình thức chủ yếu dựa trên hồ sơ
đăng ký. Do vậy, các SME vẫn chưa thật sự hào hứng với những khuyến khích
trong lĩnh vực này.
3.3. Hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp là một nguồn lực hết sức quan trọng, có
sự tác động đến tất cả các nguồn lực còn lại. Vì vậy, chính phủ Nhật đã hết sức
quan tâm để phát triển nguồn lực này. Chính phủ rất khuyến khích các hoạt động
phát triển kỹ năng trong các doanh nghiệp thông qua các khoá học dành cho những
người có trách nhiệm phát triển hoạt động hướng nghiệp và các hội thảo quốc gia về
phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra, chính phủ cũng hỗ trợ chi phí cho những doanh
nghiệp có chương trình đào tạo nghề và hoạt động hướng nghiệp được công nhận.
Nhiều trung tâm tư vấn, thông tin và trợ giúp về kỹ năng nghề nghiệp cũng được hỗ
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
trợ. Những người lao động chuyển việc hoặc nghỉ việc cũng được chú ý đào tạo.
Trong trường hợp các SME tăng chi phí đào tạo so với mức trung bình của hai năm
trước đó thì thuế sẽ được giảm 25% tính cho phần tăng thêm.
Như vậy, có thể thấy chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ hoạt động
kinh doanh của các SME. Điều đó đảm bảo cho các SME có thể nâng cao năng lực
cạnh tranh và phát triển.
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê của Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 ngàn doanh
nghiệp tại 30 tỉnh thành phiá Bắc, có tới 55.63% số chủ doanh nghiệp có trình độ
học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học
vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%;
thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt
nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều
đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp, ngay cả những người có trình độ học vấn
từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và
quản trị doanh nghiệp. Về lao động kỹ thuật, lực lượng lao động có chuyên môn kỹ
thuật còn hạn chế, hơn 84% lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật.
Chênh lệch giữa tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học và kỹ thuật viên, công
nhân kỹ thuật có xu hướng ngày càng giãn rộng( 1:1,5:1,7 ; trong khi tỷ lệ hợp lý tại
các nước phát triển là 1:4:7)[4.102]. Như vậy, cơ cấu lao động của Việt Nam không
hợp lý, ngoài ra chất lượng đào tạo thấp, không phù hợp với nhu cầu thực tế.
3.4. Xây dựng hệ thống tư vấn, đào tạo nâng cao năng lực kinh doanh
trong cả nước
Nếu như trong các giai đoạn trước, các chính sách tập trung vào các biện pháp
hỗ trợ về vốn, công nghệ, chống độc quyền thì hiện nay một trong những mục tiêu
mà chính phủ Nhật thực hiện là nâng cao năng lực quản lý cho SME( theo Luật cơ
bản về SME 1999). Do vậy, bên cạnh những biện pháp hỗ trợ về vốn, công nghệ,
đảm bảo cạnh tranh công bằng vốn đã được thực hiện từ giai đoạn trước, các biện
pháp của chính phủ hiện nay tập trung vào hệ thống tư vấn, dịch vụ phát triển kinh
doanh rộng khắp trong cả nước.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
Thành lập các trung tâm hỗ trợ “ một điểm”
Chính phủ đã thiết lập một hệ thống các trung tâm hỗ trợ “một điểm ” nhằm
hỗ trợ về vốn, và các nguồn lực vô hình khác như thông tin, công nghệ nhằm đáp
ứng nhu cầu đa dạng của các SME ở từng tỉnh, thành phố, quận huyện. Đây là một
hệ thống tận dụng được kỹ năng và kinh nghiệm của những nhà chuyên môn trong
lĩnh vực tư nhân nhằm hỗ trợ cho các SME về thông tin, chính sách của nhà nước
cũng như hỗ trợ kinh doanh và công nghệ. Điểm đặc biệt là trong hệ thống này, tất
cả những trung tâm hỗ trợ của nhà nước và tư nhân được hợp nhất chỉ tại một địa
điểm ở mỗi địa phương. Tại đây, các doanh nghiệp có thể được tư vấn về bất cứ vấn
đề gì. Mục tiêu của những trung tâm thuộc hệ thống này là các SME khi đến đây
đều có thể giải đáp mọi thắc mắc, không cần phải sang trung tâm thứ hai. Chính vì
vậy hệ thống này có tên là "một điểm".
Hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các SME còn có thể
nhận hỗ trợ qua hệ thống internet thông qua một hệ thống các trang web có tên là J-
Net21.
Các hệ thống hỗ trợ này đều có hệ thống đánh giá hiệu quả. Thông qua đó
chính phủ có thể biết được hiệu quả thực tế của các biện pháp hỗ trợ đã thực hiện.
Từ đó chính phủ sẽ có những biện pháp hỗ trợ phù hợp hơn.
4. Khuyến khích hình thành các liên kết kinh tế
Ở Nhật Bản, điều quan trọng hàng đầu là truyền thống của một cộng đồng
hơn là của cá nhân, và đặc trưng này đã đóng góp nhiều vào tính chất đồng nhất của
xã hội Nhật Bản. Trong nền kinh tế nói chung và trong khu vực kinh tế của các
SME nói riêng, đặc điểm này cũng đóng một vai trò quan trọng. Có thể thấy điều đó
qua những đóng góp của các keiretsu và các hiệp hội doanh nghiệp đối với các
thành tựu mà kinh tế Nhật đã đạt được trong nhiều thập niên qua. Sự hình thành và
phát triển của các keiretsu cũng như sự liên kết giữa các công ty Nhật có thể xuất
phát từ đặc điểm truyền thống, từ yêu cầu của tình hình thực tế nhưng cũng không
thể phủ nhận được những tác động của các chính sách mà chính phủ Nhật đã thực
hiện.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích việc thành lập sự liên kết
giữa các doanh nghiệp. Nhờ đó, các doanh nghiệp có thể liên kết chặt chẽ hơn, có
sự hợp tác hỗ trợ nhau nhiều hơn. Mặc dù, những sự liên kết này có thể là một trong
những yếu tố tạo ra tính chất "co cụm và khép kín" của thị trường Nhật Bản nhưng
khi so sánh với những gì mà nó đã làm được cho nền kinh tế Nhật thì quả thật điều
đó là xứng đáng. Hơn nữa, sự liên kết chặt chẽ của các doanh nghiệp với chính
quyền các cấp, các viện, các trường đại học…cũng rất đáng để Việt Nam học tập.
Với điểm xuất phát thấp, năng lực cạnh tranh không cao, các doanh nghiệp
Việt Nam chắc chắn sẽ không đủ khả năng chống chọi với những doanh nghiệp lớn,
những công ty xuyên quốc gia. Vì vậy, nếu muốn tồn tại các SME Việt Nam không
còn con đường nào khác phải tăng cường các mối liên kết kinh tế. Đối với các SME
Việt Nam hiện nay, vấn đề trước mắt vẫn là thầu phụ công nghiệp. Trong những
nghiên cứu mới đây về thầu phụ công nghiệp do Trung tâm hỗ trợ SME đưa ra thì
các SME Việt Nam dường như đang rất khó khăn trong việc lọt vào chuỗi cung cấp
nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài
tại Việt Nam. Cho dù đây được xem như là một trong những chiến lược thị trường
ngách tối ưu song những gì mà sản phẩm Việt Nam len chân được vào các hãng tên
tuổi cho tới thời điểm này chỉ là thùng carton và xốp chèn. Do vậy, liên kết giữa
SME với hệ thống ngân hàng, các cơ quan chính phủ, các hiệp hội ngành nghề và
với các SME chính là cơ hội để các SME của Việt Nam định vị trong chuỗi giá trị
toàn cầu, là con đường để các SME Việt Nam lớn mạnh.
5. Thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành
Có thể thấy, các chính sách chính phủ Nhật đưa ra đều đã được thực hiện một
cách hiệu quả. Mỗi chính sách đưa ra đều được theo dõi, kiểm tra sát sao tình hình
thực hiện. Hàng năm, Nhật Bản đều tổ chức các cuộc điều tra, khảo sát về môi
trường hoạt động, về hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ. Từ đó, chính phủ sẽ có
những điều chỉnh về biện pháp, những chương trình phù hợp với tình hình thực tế
hơn. Do vậy, những chính sách, biện pháp mà Nhật đã thực hiện có thể đáp ứng đầy
đủ các nhu cầu của các SME. Những chính sách đó, một mặt phát huy hết tiềm lực
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
của các SME. Mặt khác, loại bỏ những hạn chế, bất lợi đối với sự phát triển của các
SME.
Ở Việt Nam hiện nay, công tác theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện các chính
sách ưu đãi đầu tư còn yếu. Việc theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
chính sách hỗ trợ SME hầu như không được tiến hành thường xuyên, nên không
đánh giá được tác động thực sự của các chính sách này. Việc phối hợp giữa các cơ
quan thực thi chính sách còn chưa đồng đều ở các ngành và địa phương. Việc tổ
chức thực hiện chính sách hỗ trợ SME ở một số ngành và địa phương vẫn chưa tốt.
Chính sách hỗ trợ của Nhà nước là đúng đắn, song một số Bộ, ngành hướng
dẫn triển khai chậm, có khi các quy định dưới Luật lại chưa hoàn toàn phù hợp với
quy định của Luật; cơ quan cấp dưới không tuân thủ đúng quyết định, chỉ thị của
cấp trên; có nhiều cơ quan Nhà nước cùng quản lý một lĩnh vực…Do vậy, có tình
trạng chính sách ưu đãi của Chính phủ không đến được với các doanh nghiệp.
Do vậy, để các chính sách hỗ trợ SME thật sự phát huy tác dụng, trước hết cần
tập trung tổ chức thực hiện tốt các quy định hiện hành. Đồng thời, cần sớm phát
hiện các quy định bất cập để có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời và ban hành những cơ
chế chính sách mới để tạo sự đồng bộ, hỗ trợ SME hiệu quả hơn.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SME Ở VIỆT NAM
Từ những bài học kinh nghiệm của Nhật và tình hình thực tế tại Việt Nam, có thể
thấy trong thời gian trước mắt, Việt Nam cần tiến hành một số biện pháp như sau:
1. Đổi mới nhận thức, quan điểm và định hƣớng về SME trong bối cảnh
hiện nay
Ở Việt Nam, nhận thức và quan điểm về việc phát triển SME hình thành khá
muộn so với các quốc gia trên thế giới. Mặc dù hiện nay vai trò của các SME đã
được khẳng định và không ngừng tăng lên nhưng còn có những nơi không nhận
thức hết vai trò và đánh giá không đúng khả năng của các SME. Hơn nữa, quá trình
toàn cầu hóa, khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay càng đòi hỏi cần phải có
sự đổi mới nhận thức, quan điểm và định hướng về SME.
Ở nước ta đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều hợp tác nghiên cứu về SME, song
đến nay gần như vẫn chưa có các văn bản pháp lý chính thức về loại hình doanh
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
nghiệp này. Vấn đề còn đang dừng lại ở thuật ngữ và những định hướng chung
(mặc dù Chính phủ đã có những văn bản như: Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày
23 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa; Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg ngày 11 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính
phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa;…). Vì vậy, việc đầu tiên là cần phải khẩn trương xúc tiến
đầu tư kinh phí và lực lượng để nghiên cứu và ban hành ngay các văn bản luật hoặc
nghị định Chính phủ về vị trí, vai trò, tiêu chí đánh giá, cũng như các chính sách hỗ
trợ cho SME.
2. Tạo môi trƣờng thuận lợi cho SME
2.1. Xây dựng môi trường pháp lý đồng bộ
Để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của SME. Điều đầu tiên là cần
phải hoàn thiện môi trường pháp lý chung. Mặc dù hệ thống pháp luật của Việt
Nam điều chỉnh hoạt động của các SME trong thời gian qua đã thường xuyên được
ban hành mới, bổ sung và sửa đổi. Tuy nhiên, trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp
tục hoàn chỉnh khung khổ pháp lý cho một sân chơi bình đẳng đối với các loại hình
doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu. Cụ thể là: cần hoàn thiện hơn nữa khung
khổ pháp lý để tự do hoá hơn nữa quyền kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn
nữa cho việc gia nhập và rời khỏi thị trường của doanh nghiệp; thiết lập khung khổ
pháp lý cho việc duy trì đối thoại thường xuyên và hiệu quả giữa chính phủ với
doanh nghiệp, giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp, giữa các cơ quan
nhà nước khác với doanh nghiệp để đảm bảo các cuộc đối thoại này là hữu ích và
thiết thực, mang lại lòng tin cho doanh nghiệp và tăng thêm trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước. Ngoài ra,Việt Nam cũng cần hoàn chỉnh khung khổ pháp lý cho hỗ
trợ SME (ban hành Luật về các hoạt động hỗ trợ phát triển SME). Khung khổ này
cần quy định bản chất của sự hỗ trợ, đối tượng được hỗ trợ thông qua các chương
trình, các hình thức hỗ trợ, trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với việc hỗ trợ
SME, xác định rõ vai trò của Nhà nước ở trung ương và ở địa phương trong việc hỗ
trợ phát triển SME.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
2.2. Cải thiện môi trường kinh doanh
Không những tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi trong nước,
trong điều kiện hội nhập kinh tế mạnh mẽ như hiện nay nhà nước cần có những biện
pháp thích hợp để các SME có thể hoạt động thuận lợi hơn nữa ở thị trường nước
ngoài. Để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, các cơ quan ngoại giao và
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc
cung cấp thông tin về pháp luật, thị trường, thị hiếu, yêu cầu chất lượng sản phẩm,
các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm của các nước giúp SME trong
nước có thể thu thập được đầy đủ thông tin, từ đó xây dựng được chiến lược thâm
nhập thị trường hiệu quả. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cần đẩy
mạnh hoạt động phối hợp với các SME trong nước tổ chức chiến dịch quảng cáo,
triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài. Vì hiện nay, trong hầu hết các chương trình
xúc tiến thương mại, đầu tư, tham gia hội chợ ở nước ngoài do Nhà nước tổ chức thì
các doanh nghiệp lớn của Nhà nước luôn là đối tượng được ưu tiên trước, “phần còn
lại” mới dành cho doanh nghiệp tư nhân…Bên cạnh đó còn có sự phân biệt giữa các
doanh nghiệp ở trung tâm kinh tế như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.. với các
doanh nghiệp tại các địa phương, cơ hội tiếp cận chương trình xúc tiến thương mại
của Nhà nước là rất chênh lệch giữa các doanh nghiệp. Nhà nước cần hỗ trợ mạnh
hơn nữa để nâng cao năng lực của mạng lưới xúc tiến thương mại, hỗ trợ đại diện
thương vụ tại các nước nhằm tăng cường năng lực cho các tổ chức xúc tiến thương
mại trong hoạt động phát triển thị trường cho SME.
2.3. Tạo môi trường tâm lý xã hội tích cực
Ngoài ra, cũng cần tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến
nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của các SME. Một mặt, tiếp
tục tạo môi trường tâm lý xã hội tích cực cho SME thông qua việc tuyên truyền sâu
rộng đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với SME.
Mặt khác, động viên khích lệ, biểu dương, khen thưởng kịp thời những doanh nhân
kinh doanh thành công, có nhiều đóng góp cho xã hội. Ngoài ra, cũng cần giáo dục
văn hoá kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
nghiệp…Trên cơ sở đó, tiến tới xoá bỏ mặc cảm về tâm lý xã hội đối với SME, giúp
các nhà kinh doanh dần khắc phục tâm lý e dè, thiếu tự tin để họ yên tâm huy động
các nguồn vốn cho đầu tư, nhằm phát huy nội lực, phát triển sản xuất kinh doanh.
Chính điều này sẽ là động lực tạo những điều kiện thuận lợi hơn cho các SME trong
quá trình hoạt động và phát triển.
3. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các SME trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo ra nhiều cơ hội, thuận lợi; mặt
khác cũng tạo ra những khó khăn, thách thức rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển
của các SME. Càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, các SME phải hoạt động
trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Muốn tồn tại và phát triển các SME
buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân. Do vậy, sự hỗ trợ của Nhà
nước để nâng cao khả năng cạnh tranh của các SME là rất cần thiết.
3.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn
Do yếu thế về quy mô nên các SME rất khó tiếp cận vốn. Để hỗ trợ các doanh
nghiệp tiếp cận các nguồn vốn, cần chú ý một số biện pháp như: đẩy nhanh việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà cho các doanh nghiệp để họ có
những giấy tờ cần thiết thế chấp vay vốn. Sớm thành lập quỹ đầu tư vốn hoặc đầu tư
mạo hiểm của địa phương từ nhiều nguồn khác nhau như ngân sách nhà nước, các
nguồn tài trợ quốc tế, đóng góp của các doanh nghiệp. Mục đích chủ yếu là cho vay
đối với những dự án theo các ý tưởng mới, có triển vọng, có độ rủi ro cao nhưng
cũng có thể thu được lợi nhuận lớn. Ngoài ra, để các doanh nghiệp có thể tiếp cận
được với ngân hàng, cần thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng là trung gian kết nối giữa
ngân hàng với doanh nghiệp; các cơ quan chức năng có thể cung cấp thông tin cần
thiết để các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn nước ngoài.
3.2. Hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp
Để hỗ trợ các SME trong việc đào tạo nguồn nhân lực, cần có sự nối kết giữa
các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo, thông qua đó để nắm bắt nhu cầu của doanh
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
nghiệp, xây dựng nội dung, chương trình phù hợp. Ngoài ra, các SME cần hợp tác
chặt chẽ với các trung tâm nghiên cứu khoa học; Nhà nước cần có cơ chế tài chính
hỗ trợ các SME trong hoạt động đào tạo, có chính sách khuyến khích mở rộng các
hình thức đào tạo lại doanh nghiệp. Tạo điều kiện và khuyến khích hình thành các
trung tâm đào tạo, thu hút người tài từ nhiều nguồn để bổ sung cho đội ngũ cán bộ
đào tạo nghề. Ngoài ra, cần khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường hợp tác,
liên kết trong đào tạo , thông qua các hội nghề nghiệp để trao đổi kinh nghiệm; có
chính sách thu hút kiều bào ở nước ngoài góp vốn, kiến thức về tham gia công tác
đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Cần khuyến khích các công ty tư vấn
cung ứng các dịch vụ đào tạo.
3.3. Hỗ trợ về công nghệ
Cần có chủ trương chính sách về công nghệ đối với khu vực SME. Một mặt,
khuyến khích việc nghiên cứu và phát triển tại các SME. Mặt khác, tạo điều kiện
thuận lợi cho các SME có thể tiếp cận được với công nghệ cao. Việt Nam có thể
học tập những kinh nghiệm mà Nhật đã áp dụng thành công trong việc nhập khẩu
các phát minh khoa học có khả năng ứng dụng thực tiễn cao. Bên cạnh đó, cũng cần
có sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các tổ chức làm công tác nghiên cứu
phát triển như các cơ quan, tổ chức khoa học công nghệ, các trường đại học, các
viện nghiên cứu trong việc chuyển giao công nghệ, cung cấp công nghệ thích hợp.
Kinh nghiệm ở Nhật Bản cho thấy, Nhật đã tìm cách gắn kết các trường đại học với
các doanh nghiệp, buộc các nhà nghiên cứu, giảng dạy phải gắn với thực tế nên đã
có rất nhiều sáng kiến, giải pháp tốt giúp đỡ cho các doanh nghiệp trong việc cải
tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới.
3.4. Hỗ trợ về cung cấp thông tin cho doanh nghiệp
Để hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin trong và ngoài
nước như: thông tin về thị trường, thông tin về pháp luật, chính sách, thông tin về
công nghệ, về nguồn nguyên liệu…Hiện nay, các doanh nghiệp thiếu thông tin rất
nghiêm trọng và do vậy làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng
cao năng lực cạnh tranh. Để giúp các SME có thông tin, cần có sự hỗ trợ từ phía các
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
cơ quan nhà nước, các tổ chức. Hình thức hỗ trợ có thể là hình thành các cơ sở dữ
liệu cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, phát triển “ chính phủ điện tử”. Ngoài ra,
cần tổ chức cho doanh nghiệp tiếp xúc với các cơ quan chức năng, các cơ quan
ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài… Khuyến khích hình thành và hỗ trợ các tổ
chức cung cấp thông tin, các hiệp hội, câu lạc bộ...Các hiệp hội và tổ chức này có
thể tổ chức sinh hoạt, giao lưu, giới thiệu, và cập nhật thông tin, kinh nghiệm hoạt
động trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho sự phát triển của từng SME thành
viên.
3.5. Phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh đối với các SME
Một trong những giải pháp mà Nhà nước cần thực hiện trong thời gian tới là
xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh
chuyên nghiệp, có chất lượng cao. Để làm được điều đó, cần thành lập các cơ sở
đào tạo chuyên gia cung cấp dịch vụ về kế toán, kiểm toán, tư vấn chiến lược phát
triển kinh doanh…Đồng thời phải thu hút cả các giảng viên có kinh nghiệm trên thế
giới tham gia vào việc đào tạo đội ngũ này.
Nhà nước cũng cần tăng cường hỗ trợ để phát triển thị trường dịch vụ phát triển
kinh doanh. Chính phủ cần hỗ trợ cho các nhà cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh
nhằm tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ, đặc biệt trong các lĩnh vực: nguồn nhân
lực, máy móc, công nghệ, kỹ thuật và kỹ năng tiếp thị…để họ có thể đáp ứng được các
yêu cầu của khách hàng. Hàng năm, thông qua các tổ chức và bằng các cơ chế thích
hợp cần đánh giá khả năng của các nhà cung cấp dịch vụ dựa trên các tiêu chuẩn và
điều kiện đã đặt ra. Dựa trên đánh giá này, chính phủ lập ra một danh sách các nhà
cung cấp đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng sử dụng dịch vụ. Danh sách này
cần được thông tin rộng rãi cho các SME biết và cần hỗ trợ cho các nhà cung cấp để họ
có thể tăng khả năng cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các SME là rất cần thiết. Tuy nhiên, để hỗ
trợ một cách hiệu quả, trước hết cần ưu tiên hỗ trợ những SME trong những ngành
hàng có tiềm năng phát triển, có sức cạnh tranh nhất.
4. Khuyến khích hình thành và tăng cƣờng các mối liên kết giữa doanh
nghiệp, ngân hàng, tổ chức tƣ vấn …
Để liên kết tốt cần phải tập hợp các doanh nghiệp vào trong một tổ chức kinh
doanh mạnh, chẳng hạn như các tập đoàn kinh tế hoặc trong một hiệp hội ngành
hàng hay một hiệp hội theo vùng lãnh thổ để phối hợp hoạt động. Hiện nay, ở Việt
Nam có hơn 200 hội nghề nghiệp. Tuy nhiên, nhiều hội nghề nghiệp còn mang tính
hình thức, chưa hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Do vậy, cần khuyến khích thành lập
hội nghề nghiệp và nâng cao vai trò của các hội nghề nghiệp trong việc hỗ trợ các
doanh nghiệp trao đổi kinh nghiệm, cung cấp thông tin, tìm kiếm hợp đồng…
Ngoài ra, chính phủ cũng cần có những biện pháp khuyến khích, hỗ trợ để các
SME có thể làm thầu phụ công nghiệp cho các tập đoàn lớn, đặc biệt là các doanh
nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
mạnh mẽ như hiện nay, các SME có nhiều cơ hội liên doanh, liên kết, hợp tác kinh
doanh, thầu phụ trên nhiều mặt: cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài, hợp tác cung cấp đầu vào, tham gia một số công đoạn hay sản xuất một
số bán thành phẩm, tham gia vào khâu phân phối sản phẩm…thì việc hỗ trợ, khuyến
khích các SME làm thầu phụ càng trở nên cần thiết. Mặc dù, hiện nay những hoạt
động thương mại này đã được quy định song mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái
niêm, chưa nói đến việc phát triển sâu hơn hoặc giải thích kỹ hơn. Do vậy, cần phải
có những quy định hoặc khung pháp lý cụ thể hơn cho những hoạt động thương mại
có tính đặc thù nói trên. Đó là những quy định đảm bảo cho việc thực hiện các hợp
đồng thầu phụ trên thị trường công nghiệp như: giá cả, chất lượng và thời gian giao
hàng.
Sự thành công của các SME Nhật Bản cũng phần lớn do sự gắn bó, phối hợp
hoạt động với các doanh nghiệp lớn. Sự phát triển của các doanh nghiệp lớn không
chỉ còn là tấm gương cho các doanh nghiệp nhỏ mà còn là chỗ dựa cho họ trong các
hoạt động sản xuất và kinh doanh. Đó không chỉ đơn thuần là việc kết hợp các lợi
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
thế qui mô để làm năng động nền kinh tế, mà còn là con đường tất yếu để định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5. Đẩy mạnh công tác theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện
Các chính sách được ban hành mà không được thực hiện tốt và triệt để thì coi
như việc xây dựng các chính sách là vô ích, có khi còn phản tác dụng. Vì vậy, cần
phải xem công tác thực hiện là yếu tố có quan hệ gắn bó hữu cơ đối với công tác
ban hành. Khi ban hành các chính sách cần có các quy định cụ thể, rõ ràng về việc
thực hiện các chính sách đó. Cụ thể là, cần xác định cụ thể trách nhiệm của từng cơ
quan ở cả Trung ương và địa phương, tránh tình trạng chồng chéo về thẩm quyền
dẫn đến vô hiệu hóa lẫn nhau. Đối với từng vấn đề cụ thể, phải xác định rõ thẩm
quyền của từng cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan này với nhau và giữa các
cơ quan này với các SME. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng ở Trung ương và
địa phương cần theo dõi một cách sát sao quá trình thực hiện. Từ đó các chính sách
hỗ trợ SME mới có thể phát huy hiệu quả một cách tốt nhất.
Như vậy, trong chương III chúng ta có thể thấy những điểm tương đồng và
khác biệt giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trên cơ sở đó, từ những bài học kinh nghiệm
phát triển SME của chính phủ Nhật, nội dung trong chương III đã trình bày các biện
pháp nhằm hoàn thiện hơn chính sách phát triển SME tại Việt Nam.
Khoá luận tốt nghiệp
Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
KẾT LUẬN
Qua đề tài “Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật và bài
học kinh nghiệm với Việt Nam”, chúng ta đã có một cái nhìn tổng quát về các
chính sách phát triển SME của Nhật qua các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Có
thể nói, chính phủ Nhật trong từng giai đoạn đã và đang đưa ra được nhiều chính
sách hỗ trợ hiệu quả nhằm phát triển và nâng cao vai trò của các SME.
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc thực
hiện các chính sách phát triển SME. Mặc dù các chính sách đã và đang không
ngừng thay đổi và nâng cao hiệu lực nhưng thực tế chưa thật sự khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện các chính sách này còn bộc lộ
nhiều nhược điểm cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
Trong thời gian tới Việt Nam cần có chiến lược phát triển SME một cách đầy
đủ; tiếp tục giải quyết những khó khăn vướng mắc đối với các SME, nhất là chính
sách thuế, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách huy động vốn, chính sách
thị trường…; phát huy sức mạnh tổng hợp của chính quyền trung ương, địa phương,
các tổ chức, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ, các doanh
nghiệp lớn…trong việc hỗ trợ SME. Như vậy, sự hỗ trợ thực sự có hiệu quả khi có
sự nỗ lực từ ba phía: Nhà nước, cộng đồng và bản thân các doanh nghiệp.
Hi vọng từ những bài học kinh nghiệm từ chính sách phát triển SME của Nhật,
Việt Nam có thể có những chính sách hỗ trợ SME phù hợp và hiệu quả. Từ đó các
SME có thể khắc phục khó khăn, phát huy được mọi thế mạnh để ngày càng vững
mạnh, ngày càng có những đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân, đưa nước ta
thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu tạo ra những tiền đề về kinh tế đưa Việt Nam tiến lên
con đường xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.Sách chuyên khảo
1. PGS. TS Nguyễn Cúc( 2000), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. PTS. Đỗ Đức Định(1999), Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp
vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
3. TS. Vũ Văn Hà( 2003), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong bối
cảnh toàn cầu hoá, Nhà xuất bản khoa học và xã hội, Hà Nội.
4. TS. Trần Kim Hào( 2006), Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà
Nội.
5. TS. Phạm Thúy Hồng(2004), Chiến lược cạnh tranh cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. GS.TS Nguyễn Đình Hương(2002), Giải pháp phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Lê Văn Sang(1988), Kinh tế Nhật Bản giai đoạn thần kỳ, Uỷ ban khoa
học và xã hội Việt Nam, Hà Nội.
8. PGS. PTS. Lê Văn Sang( 1997), Vai trò của các doanh nghiệp trong phát
triển kinh tế Nhật Bản, khả năng hợp tác Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học
xã hội, Hà Nội.
9. Lưu Ngọc Trịnh( 1998), Kinh tế Nhật Bản những bước thăng trầm trong
lịch sử, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
10. PTS. Nguyễn Minh Tú( 2000), Các chính sách huy động và phân bổ
nguồn lực cho phát triển kinh tế Nhật Bản, Nhà xuất bản chính trị quốc
gia, Hà Nội.
11. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hoà(2001), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa: kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Việt Nam, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
12. TS. Vũ Thị Bạch Tuyết(2004), Giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội.
13. D.H WHITTAKER, Small firms in the Japanese economy, Cambridge
university press.
14. G.C. Allen(1988), Chính sách kinh tế Nhật Bản, Uỷ ban khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
15. Shinichi Ichimura(1999), Kinh tế chính trị của sự phát triển của Nhật Bản
và Châu Á, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
16. Takafusa Nakamura(1988), Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh: sự phát
triển và cơ cấu, Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
17. GS. Takafuasa Nakamura(1998), Những bài giảng về lịch sử kinh tế Nhật
Bản hiện đại, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Hội thông tin giáo dục quốc tế(2003), Tìm hiểu Nhật Bản, Nhà xuất bản
văn hóa- thông tin, Hà Nội.
19. Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý Trường đại học khoa học xã hội
và nhân văn( 2000), Kỷ yếu hội thảo chính sách, pháp luật và một số giải
pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Viện Konrad Adenauer (2005), Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế, kinh nghiệm trong nước và quốc tế, Nhà xuất bản thế
giới, Hà Nội.
II. Báo, tạp chí
21. TS. Ngô Xuân Bình, Các xí nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Nhật
Bản, Tạp chí thị trường giá cả số 4 năm 1994, trang 17-18.
22. TS. Nghiêm Xuân Đạt, Khả năng cạnh tranh của các công ty Nhật, Tạp
chí nghiên cứu kinh tế, số 2 năm 1998, trang 65- 72.
23. Ngô Văn Giang, Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 2 tháng 4 năm
2003, trang 16-23.
24. Đặng Hiếu- Vũ Văn Hà, Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ của các nước và một số ý kiến với chính sách phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 60 tháng 6/ 2002,
Trang 42- 44.
25. Phạm Thị Nga, Mở cửa hội nhập và phát triển kinh tế: kinh nghiệm Nhật
Bản trong thời kỳ phát triển 1955-1973, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản số 2
năm 1997 trang 3-10.
26. Dương Hồng Nhung, Thử so sánh tính cách người Việt Nam và Nhật Bản,
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 2 năm 1994, trang 65-73.
27. Tasuku Noguchi, Sự phát triển của châu Á và những vấn đề cơ bản của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 3 tháng 5
năm 1999.
28. Lê Văn Sang, Các giai đoạn phát triển kinh tế Nhật, Tạp chí nghiên cứu
Nhật Bản, số 2 năm 1997, trang 12-15.
29. TS. Lưu Ngọc Trịnh, Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ Nhật, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 5 năm
1993, trang 31-35.
30. Hoạt động tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản, Tài liệu của đoàn
khảo sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Nhật từ ngày 3 đến 12/3/2003,
Tạp chí Ngân hàng số 13 tháng 10 năm 2003, trang 65-67.
III. Tài liệu khác
31. Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ (1993), Vai trò của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản, Tài liệu tóm tắt bài phát biểu tại hội thảo
kinh tế Việt Nhật tháng 10/1993.
32. Leila Webster(1999), Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Trên đường tiến
đến phồn vinh, Tài liệu chương trình phát triển dự án Mê Kông, Hà Nội.
33. Noriyuki Yonemura(2006), Kinh nghiệm của Nhật trong xúc tiến SME
bằng việc hỗ trợ phát triển công nghiệp, Tài liệu tại Hội nghị bàn tròn
“Việt Nam- Nhật Bản: chính sách đối với SME Việt Nam trước tác động
của toàn cầu hoá”
34. Satoshi Otaka(2006), Challenges of Globalization: What it means for
Japan’s SME, Tài liệu tại Hội nghị bàn tròn “Việt Nam- Nhật Bản: chính
sách đối với SME Việt Nam trước tác động của toàn cầu hoá”
35. Taro Morita(2006), Tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Nhật Bản, Tài
liệu tại Hội nghị bàn tròn “Việt Nam- Nhật Bản: chính sách đối với SME
Việt Nam trước tác động của toàn cầu hoá”
36. Tatsuya Hoshino(2006), SME Nhật Bản tiến vào Việt Nam và các nước
ASEAN khác trong ngành công nghiệp phụ trợ và các tình huống, Tổ chức
hỗ trợ SME Nhật.
IV.Website
37. Vũ Văn Hà- Đặng Hiếu (ngày 8/8/2006),
Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật.
38.
&sid=723&mode=thread&order=0&thold=0:Nozomi (Ngày 24/ 12/2003),
Bí quyết phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật.
39. www.chusho.meti.go.jp/SME_English/whitepaper/whitepaper.html : Japan
small business research Institute (1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002,
2003, 2004, 2005), White paper on Small and Medium Enterprises in
Japan.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BICO : Trung tâm đổi mới doanh nghiệp Osaka
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
GHQ : Bộ tổng tư lệnh các tư lệnh tối cao Liên hợp quốc
GNP : Tổng sản phẩm quốc dân
JCCI : Phòng thương mại và công nghiệp Nhật Bản
JETRO : Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
JFS : Công ty tài chính doanh nghiệp nhỏ Nhật Bản
KRP : Trung tâm nghiên cứu doanh nghiệp Tokyo
MITI : Bộ công thương Nhật
NACGG : Hội bảo lãnh tín dụng
NLFC : Công ty tài chính nhân dân
SBCIC : Công ty bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp nhỏ
SBIR : Hệ thống nghiên cứu đổi mới doanh nghiệp nhỏ
SBIC : Công ty tư vấn và đầu tư SME
SCB : Ngân hàng Shoko Chukin Bank
SME : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
SMEA : Cục doanh nghiệp vừa và nhỏ
SMRJ : Tổ chức đổi mới các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
1
MỤC LỤC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ
Trang
Bảng 1. Tiêu thức xác định SME ở Đài Loan qua các thời kỳ 7
Bảng 2. Tiêu thức xác định SME ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ 10
Bảng 3. Phân loại SME ở Việt Nam theo công văn 681/CP-KTN 12
Bảng 4. Doanh thu của các doanh nghiệp ngành sản xuất ở Nhật 16
Bảng 5. Giá trị gia tăng do SME Nhật tạo ra 16
Bảng 6. Tỷ trọng doanh thu SME trong nền kinh tế Nhật 17
Bảng 7. Số lượng doanh nghiệp Nhật năm 2001 18
Bảng 8. Số lượng lao động trong các SME Nhật 19
Đồ thị 1. Số lượng các SME ở Nhật qua các giai đoạn 18
Đồ thị 2. Tỷ lệ các SME làm thầu phụ qua các giai đoạn 43
Đồ thị 3. Khoảng cách giữa các SME và các doanh nghiệp lớn 47
qua các giai đoạn
Đồ thị 4. Tỷ lệ số SME thành lập mới và SME giải thể 58
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3579_0692.pdf