Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 2011

Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Khi TGHĐ biến động theo chiều hướng không thuận, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nhiều giải pháp như: nới rộng biên độ +/-5% (3/2009); hạ biên độ xuống +/- 3% (2/2010), đồng thời với việc điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng 3,36% ; 4/2010 NHNN yêu cầu các Tổng công ty, Tập đoàn có thu ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và kiểm kiểm soát chặt chẽ các giao dịch mua bán ngoại tệ tại các địa điểm mua bán ngoại tệ. Gần đây nhất vào ngày 18/8/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng lên hơn 2% (từ 18.544VND/USD lên 18.932 VND/USD) và giữa nguyên biên độ. Với những giải pháp này, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã từng bước bình ổn, tỷ giá chính thức so với tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, từng bước lành mạnh hóa các giao dịch vốn trong xã hội.

doc36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5959 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c vào USD mang lại một số lợi thế như ổn định thị trường tiền tệ và NHTW không thể in thêm tiền trong trường hợp thâm hụt ngân sách, vì điều này càng làm cho đồng bản tệ bị mất giá và gây áp lực lạm phát. Tuy nhiên, tình trạng phụ thuộc vào USD sẽ gây khó khăn cho việc kiểm soát tiền cung ứng và điều hành tỷ giá, thậm chí NHTW không thể làm gì để giảm bớt lượng tiền dôi ra để kiềm chế lạm phát. Sau khi phát hành tiền để kiềm chế tăng giá NDT, PBC phải bán nợ và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiềm chế lạm phát, cho dù NDT lên giá. Trong 9 tháng qua, PBC đã bán ròng 209,7 tỷ NDT (32 tỷ USD) trái phiếu sau khi mua ròng 579,5 tỷ NDT trong năm 2009. Đầu tháng 10, PBC đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với 4 NHTM lớn nhất thêm 0,5 điểm phần trăm, động thái này có thể cắt giảm cho vay nền kinh tế khoảng 170 tỷ NDT. Tuy nhiên, những biện pháp thắt chặt tiền tệ trên đây của Trung Quốc đang bị bão hòa bởi tin đồn Mỹ sẽ tung ra thêm 500 tỷ USD trong chiến dịch nới lỏng tiền tệ đợt hai. Nước cờ này của Fed, trong khi chưa thấy mang lại ích lợi cho người lao động Mỹ, đã gây tác động tiêu cực tới Trung Quốc và Ấn Độ: đẩy giá hàng hóa tăng cao và buộc NHTW phải thắt chặt CSTT. Dường như PBC đã nhìn thấy sự cần thiết phải thả NDT lên giá nhanh hơn so với đồng USD để có thể khống chế giá cả hàng hóa nhập khẩu trong tầm kiểm soát. Ngày 19/10/2010, PBC đã bất ngờ tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25%, đưa lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm lên 2,5% và lãi suất cho vay kỳ hạn 1 năm lên 5,56%, lần đầu tiên trong gần 3 năm trở lại đây. Đây là biện pháp bắt buộc, mặc dù PBC biết rằng tăng lãi suất hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc chỉ có thể làm tăng dòng vốn vào ngắn hạn do kỳ vọng NDT phải lên giá. Giới phân tích cho rằng, động thái này phản ánh những lo ngại về sự leo thang của giá tài sản và có thể mở màn cho một thời kỳ CSTT thắt chặt hơn tại nền kinh tế này, góp phần giảm nhẹ lo ngại về một cuộc chiến tiền tệ trước Hội nghị thượng đỉnh G20 sắp tới. Bằng cách nâng lãi suất, Trung Quốc hy vọng là không cần tăng giá NDT mà vẫn duy trì được sự cân bằng trong nền kinh tế.    Như vậy, việc kiềm chế NDT ở mức quá thấp so với giá trị thực tuy mang lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc nhưng cũng gây khó khăn cho việc điều hành CSTT. Hoàng Thế Thỏa SBV Chính sách tỷ giá hậu WTO TCKT cập nhật: 06/05/2007 Khi mà quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên sâu rộng và thực chất, hội nhập về tỷ giá là điều hầu như không thể tránh khỏi. Phải chăng các biến động bất thường của tỷ giá trong thời gian qua là phần khai cuộc cho ván cờ chính sách tỷ giá trong giai đoạn hậu WTO? Bài viết này không đi vào lý luận phức tạp về tỷ giá mà chỉ tập trung làm rõ diễn biến bất ổn của tỷ giá USD/VND trong thời gian qua và cũng chỉ giới hạn thông qua giải mã các phát biểu từ các quan chức NHNN và từ nghiên cứu báo cáo của World Bank cũng như các nghiên cứu của bản thân tác giả. Phần cuối cùng trong bài viết là các dự báo của tác giả về chính sách tỷ giá trong giai đoạn hậu WTO. Tỷ giá đi đâu về đâu? Theo như đăng ký với IMF và phát biểu của chính Thống đốc NHNN, cơ chế tỷ giá hiện nay là “thả nổi có quản lý”. Để có thể dự báo tỷ giá, cần thiết phải giải mã những “tín hiệu” mà Chính phủ muốn gửi gắm – một cách kín đáo – đến thị trường. Theo quan sát của tác giả trong nhiều năm gần đây, tỷ giá thực (real exchange rate) có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giải mã bài toán tỷ giá. Tỷ giá danh nghĩa, ví dụ hôm nay 1 USD bằng 16.000 đồng, là mức tỷ giá mà các ngân hàng công bố cho các giao dịch tiền tệ trên thị trường. Trong khi đó, tỷ giá thực là một chỉ số cho thấy tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo chênh lệch lạm phát trong nước và lạm phát nước ngoài. Tỷ giá thực luôn được xác lập trong mối quan hệ với hàng loạt các đối tác mà VN có quan hệ mậu dịch, còn được gọi là tỷ giá thực có hiệu lực (real effective exchange rate) – gọi ngắn gọn trong bài này là tỷ giá thực. Do có tác động lớn đến giá cả hàng hóa xuất khẩu (và cả nhập khẩu), tỷ giá thực là căn cứ vô cùng quan trọng để NHTW các nước lấy đó làm một trong mức chuẩn để xác lập tỷ giá mục tiêu cho nền kinh tế. Nếu các yếu tố khác như chất lượng hàng hóa là không đổi, khi tỷ giá danh nghĩa tương thích với chênh lệch lạm phát trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu không phải lo lắng gì nhiều đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Việc Trung Quốc luôn duy trì chính sách về một đồng nội tệ yếu theo kiểu tỷ giá danh nghĩa không tương thích với chênh lệch lạm phát trong nước và thế giới để làm tràn ngập hàng hóa của mình trên thị trường quốc tế là điển hình về cách thức dự báo đồng nhân dân tệ đi đâu về đâu. Đồng VN đang được định giá cao hay thấp? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả lấy năm 1999 là kỳ gốc để xác lập tỷ giá thực. Sở dĩ như thế là do năm 1999 là thời điểm diễn ra sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997, đồng tiền của các nước trong khu vực và VND đều đã có sự điều chỉnh lại để hướng đến ngang giá chung. Các đối tác thương mại tham gia vào tính toán tỷ giá thực đại diện cho hầu hết các quốc gia chủ yếu mà VN có quan hệ mậu dịch, gồm có 7 đối tác lớn: Singapore, Nhật, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Pháp và Đức. Số liệu về tỷ giá danh nghĩa giữa đồng tiền VN và các nước, chỉ số giá tiêu dùng CPI và trọng lượng xuất nhập khẩu giữa VN với 7 đối tác thương mại (tính theo quý) dùng để tính tỷ giá thực được tác giả chọn lọc từ cơ sở dữ liệu thống kê tài chính quốc tế (IFS) của IMF và Tổng cục thống kê VN (kết quả tính toán thể hiện trên hình). Con số 100 trên hình là mức ngang giá sức mua. Tại mức này, vào thời điểm năm 1999, xem như hàng hóa VN và các nước đều có sức cạnh tranh về giá cả là ngang nhau. Nhìn tổng thể trong giai đoạn 7 năm qua, VND đã liên tục định giá thấp so với USD (tỷ giá thực cao hơn con số 100 cho thấy VND định giá thấp và ngược lại). Tuy nhiên, càng tiến về cuối năm 2005, tỷ giá thực có xu hướng ngày càng tiến gần về ngang giá sức mua khi liên tục giảm dần về con số 100. Các tính toán của tác giả khớp với công bố từ Global Development Finance 2006 của WB, theo đó tỷ giá thực của VN được định giá “hơi cao” trong giai đoạn 2002-2006. Diễn tiến trên phần nào cho thấy dáng đi của tỷ giá trong thời gian qua. Tỷ giá luôn theo dấu khá sát với chênh lệch lạm phát trong nước và 7 quốc gia mà VN có quan hệ mậu dịch. Đây là diễn biến rất đáng chú ý để dự báo về đường đi của tỷ giá trong giai đoạn sắp đến. Nhóm nghiên cứu EIU của tạp chí The Economist đã đưa ra dự báo về mức tăng của tỷ giá VND/USD với mức trên 16.500 VND trong năm 2007. EIU dự đoán tỷ lệ lạm phát của VN sẽ ở mức tương đối cao trong những năm tới và với những gì phát biểu từ các nhà hoạch định chính sách về việc duy trì tính cạnh tranh trong xuất khẩu, VND sẽ còn tiếp tục sụt giá trong những năm tới. Tuy nhiên, do đồng USD tiếp tục có xu hướng sụt giá so với các ngoại tệ mạnh khác trên thị trường toàn cầu nên EIU dự báo trong năm 2007 trung bình 1 USD sẽ đổi được 16.520 VND. Các phản ứng chính sách Như vậy sau nhiều năm không bao giờ vượt ngưỡng “tâm lý” 16.000, có lúc tỷ giá USD/VND đã lên đến mức 17.000 vào một số thời điểm trong những tháng vừa qua. Đây dường như là điều bình thường. Chỉ mới bình thường và phản ánh đúng tương quan của thị trường, các doanh nghiệp đã hoang mang. Không hiểu rồi đây khi có những cú sốc thực sự từ các biến động tiền tệ, các doanh nghiệp sẽ phản ứng ra sau. Có thể thấy phản ứng khá bình thản của các nhà hoạch định chính sách từ cái gọi là cơn sốt tỷ giá thông qua tín hiệu phát đi từ phát biểu của ông Trương Văn Phước – Vụ trưởng Vụ ngoại hối NHNN – khi tỷ giá USD/VND vượt ngưỡng 16.000: “Không có chuyện ém tỷ giá trong thời gian dài, nay phải điều chỉnh tăng vọt. Thực tế thời gian qua mọi biến động về chỉ số giá tiêu dùng, biến động giá các đồng tiền của các nước...đều đã được đưa vào một bài tính phức tạp để giải bài toán tỷ giá” (Tuổi trẻ ngày 10.5.2006). Ông Lê Xuân Nghĩa – Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển ngân hàng – cũng hàm ý tương tự “Sự biến động tỷ giá có nguyên nhân từ thị trường. Đầu cơ chỉ là giọt nước cuối làm tràn ly” (TBKTSG 11.5.2006). Có thể hiểu đây là thông điệp mà các nhà hoạch định chính sách muốn nhắn gửi, rằng tỷ giá USD/VND hiện nay đã được điều chỉnh khá sát theo thị trường, mà cụ thể là theo dấu khá sát với chênh lệch lạm phát trong nước và quốc tế. Trần tỷ giá USD/VND đã bị phá vỡ Nếu quan sát thường xuyên những diễn biến phương thức điều hành tỷ giá của NHNN trong khoảng thời gian gần đây, chúng ta dễ cảm nhận về một sự chuyển động khá âm thầm nhưng không kém phần mạnh mẽ. Can thiệp của Nhà nước vào tỷ giá đã giảm dần và tuân theo một cơ chế truyền động, dường như là có chủ đích. Tuy Nhà nước có khống chế tỷ giá USD/VND nhưng do thả nổi tỷ giá các ngoại tệ mạnh khác và không còn kiểm tra chứng từ đối với các giao dịch mua bán ngoại tệ không sử dụng VND (Quyết định 1452 ngày 10.11.2004) nên mặc nhiên thị trường có thể phá trần tỷ giá USD/VND một cách hợp pháp. Nếu không hài lòng với mức tỷ giá USD/VND do nhà nước công bố, các doanh nghiệp có thể tự do chuyển đổi từ USD sang EUR theo tỷ giá thỏa thuận, rồi sau đó lại chuyển từ EUR sang VND. Nếu quy lại, tỷ giá USD/VND nhận về theo đường vòng này có thể cao hơn mức tỷ giá do Nhà nước công bố và phản ảnh đúng với mức giá của thị truờng hơn. Tỷ giá USD/VND do Nhà nước công bố giờ đây chỉ còn là hình thức. Có điều, do cơ cấu các ngoại tệ mạnh trên thị truờng, chủ yếu là EUR, chỉ chiếm khoảng 20% trong cơ cấu ngoại tệ (80% còn lại là USD) nên động thái này khó có thể tác động nhiều đến tỷ giá USD/VND chính thức do Nhà nước công bố. Một chuyển biến đáng lưu ý nữa là NHNN đã chính thức xóa bỏ các rào cản trên tỷ giá kỳ hạn. Tỷ giá kỳ hạn giờ đây do các NHTM tự xác định dựa trên các chênh lệch lãi suất trong nước và quốc tế. Khi linh hồn của tỷ giá kỳ hạn là chênh lệch lãi suất được xác lập, tỷ giá kỳ hạn đã phản ánh được các quan hệ cung cầu trên thị trường. Một khi tỷ giá kỳ hạn được xác lập từ các quan hệ thị trường thì tỷ giá giao ngay giờ đây cũng vậy. Có thể thấy rất rõ điều này bằng cách quan sát trên thị trường ngoại hối. Việc NHNN quy định độ dài tối thiểu của một hợp đồng kỳ hạn gần sát với một hợp đồng giao ngay là một ý đồ. Vì độ chênh thời gian giữa 2 hợp đồng kỳ hạn và giao ngay giờ đây là quá bé nên cho phép thị trường thẩm định lại trần tỷ giá giao ngay theo hướng (1) hoặc chấp nhận tỷ giá trần như một ngang giá, hoặc (2) sử dụng tỷ giá kỳ hạn như là một ngang giá mà không tuân thủ hoàn toàn theo biên độ ±0,25% hiện nay do Nhà nước công bố. Đây có thể được xem như là phác thảo đầy ẩn ý (khó thấy) của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý. 3 bước nữa đến thả nổi? Cơ chế tỷ giá từng bước được thả nổi đã dần hiện hữu khi vào cuối năm 2005 IMF chính thức công nhận VN thực hiện hoàn toàn việc tự do hóa các giao dịch vãng lai. Các chủ thể được tạo điều kiện tiếp cận không hạn chế quyền mua ngoại tệ để thực hiện các khoản thanh toán và chuyển tiền trong các giao dịch vãng lai. Tuy nhiên các giao dịch vãng lai chỉ đi vào thực chất nếu như tỷ giá phải phản ánh đúng các diễn biến của thị trường, thay vì tuân theo mức trần tỷ giá do nhà nước công bố. Và rào cản này đã được xóa bỏ khi mới đây NHNN cho phép EXIMBANK đuợc phép thí điểm “mua bán ngoại tệ theo giá thỏa thuận”. Một số chuyên gia nhận định đây là một bước ngoặc trong chính sách ngoại hối. Nhận định này không sai, nhưng nếu quan sát kỹ, ta thấy quy định này có khả năng dẫn đến thay đổi căn bản trong chính sách tỷ giá. Có thể dự báo các bước tiếp theo tuân theo trình tự như sau: (1) Nhà nước sẽ cho phép hàng loạt các ngân hàng thương mại thực hiện mua bán ngoại tệ theo giá thỏa thuận; (2) tiếp theo sau ngoại tệ mặt, sẽ áp dụng mua bán ngoại tệ theo tỷ giá thỏa thuận đối với ngoại tệ chuyển khoản; và (3) bước đi cuối cùng là chính thức bãi bỏ công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Bước đi cuối cùng chính là điểm khởi sự đầu tiên cho một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý một cách thực chất, theo hướng tỷ giá phải linh hoạt hơn nữa theo khuyến cáo của IMF và phù hợp với việc VN là thành viên của WTO. Bao giờ thả nổi? Thách thức lớn nhất cho các nhà hoạch định chính sách là lựa chọn lộ trình thời gian 3 bước đến tỷ giá thả nổi. Nhanh hay chậm? Câu hỏi này không dễ trả lời. Có điều, khi mà các giao dịch thương mại và tài chính với thế giới ngày càng mở rộng, khi mà dòng vốn quốc tế từ các giao dịch này luân chuyển vào và ra nền kinh tế một cách thường xuyên và với quy mô lớn thì việc chậm chân có thể sẽ đặt ra thách thức nhiều hơn là sự cẩn trọng thái quá. Tỷ giá phải phản ánh các quan điểm của thị trường. Ẩn số còn lại là NHNN can thiệp như thế nào và ở mức độ nào để không tạo ra tâm lý bất ổn. Cái gì của Cesar hãy trả lại cho Cesar. Đó có lẽ là thông điệp đáng lưu ý nhất mà chúng ta có thể đọc được ngay từ nước khai cuộc của ván cờ tỷ giá hậu WTO. Từ giờ trở đi có khả năng không còn chuyện nhà nước bảo hộ rủi ro tỷ giá thay cho các doanh nghiệp nữa rồi. Doanh nghiệp nào không tính đến các biến động tỷ giá trong các kế hoạch kinh doanh và tài chính, có khả năng sẽ phải đương đầu với thảm họa. Các tiêu đề đại loại như “USD lên giá, doanh nghiệp lo sốt vó” hay “tỷ giá nhích lên từng ngày” giờ đã xuất hiện khá thường xuyên trên các tờ báo. Diễn biến này cũng khá hợp lý bởi một trong những thách thức hiển nhiên là khi tỷ giá không phản ánh đúng các quan điểm của thị trường, chắc chắn sẽ dẫn đến khủng hoảng. Bài học từ việc cố định cứng nhắc tỷ giá đã dẫn đến cuộc khủng hoàng tài chính châu Á là một điển hình cho các thách thức như thế và hiển nhiên các nhà hoạch định chính sách không thể xem thường nguy cơ này. Tỷ giá ngày càng linh hoạt hơn, nếu không muốn gọi với một cái tên ít được ưa thích là “bất ổn hơn” là điều dường như phải xảy ra. Điều này không phải chỉ xuất phát từ chính bản thân sức ép của nền kinh tế trong nước mà còn từ đòi hỏi của một nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VND NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU Posted on 16/07/2009 by Civillawinfor PGS.,TS. NGUYỄN VĂN TIẾN Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 là sự phát triển và lan tỏa của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 và còn tiếp tục diễn ra trong năm 2009. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại. Mặc dù Việt Nam đã chuyển hướng chính sách để đối phó với khủng hoảng, tuy độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá cao nhưng còn chịu tác động bất lợi trên cả 3 bình diện: thương mại, đầu tư và tài chính nên sẽ đứng trước nhiều thách thức. Năm 2008, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam chiếm 30% tổng đầu tư, đầu tư gián tiếp qua các kênh trái phiếu chính phủ, thị trường chứng khoán chiếm tỉ trọng khá cao (39% trái phiếu và 25% tổng mức vốn hoá của thị trường), nhưng đã có dấu hiệu suy giảm do khủng hoảng. Báo động đối với Việt Nam là thâm hụt cán cân thương mại đã ở mức đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với quốc gia láng giềng Trung Quốc. Trong tổng mức thâm hụt 17 tỉ USD hàng hoá của Việt Nam với thế giới thì riêng thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới 12 tỉ USD, tiếp đến là thâm hụt thương mại với các đối thủ cạnh tranh là các nước ASEAN và Hàn Quốc, chỉ thặng dư với Hoa Kỳ và EU. Như vậy, muốn duy trì tăng trưởng, Việt Nam cần kiểm soát các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát huy hiệu quả của các chính sách này đến các chỉ tiêu kinh tế, đối phó với cuộc khủng hoảng. Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại với mục đích đưa ra các giải pháp cho chính sách tỷ giá VND nhằm cải thiện cán cân thương mại trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trước tiên, bài viết nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại để rút ra được những bài học kinh nghiệm và từ đó đề xuất được các giải pháp khả thi cho Việt Nam. 1. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Từ năm 1997 đến ngày 21/7/2005, đồng CNY được neo cố định với USD tại mức tỷ giá 8,28 CNY/USD. Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh nghiệp của Mỹ (NAM), so với giá trị thực của nó, CNY đang giảm đi mất 40% và chính điều này đã tạo ra một môi trường kinh doanh không công bằng, trong đó, hàng nhập khẩu từ Mỹ trở nên quá đắt và mất đi tính cạnh tranh trên thị trường. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho thấy đồng tiền CNY đang bị Chính phủ nước này “dìm giá” chính là sự tăng lên đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là khá thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm” thu hút lượng lớn ngoại tệ (Bảng 1). Các chuyên gia công nghiệp Hoa Kỳ nói rằng sở dĩ có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về đồng tiền, được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so với USD, như vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn. Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá vào năm 2005. Bảng 1: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc 2002-2007 (Nguồn: Indicators/2008/pdf/Prc.pdf ) Chế độ tỷ giá của Trung Quốc từ 7/2005 đến nay: Năm 2005, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này. Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, NHTW Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của NHTW tại Thượng Hải, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B – Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C – Crawl). Có thể thấy rằng, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl Regime) – là chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì)1. So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc2 1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Hàn Quốc từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp nghèo nhất thế giới. Cho đến năm 1962, khi bắt đầu bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 -1966), GDP bình quân đầu người là 87 USD đã phản ánh rằng Hàn Quốc vẫn chưa thể thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu sau gần thập kỷ nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề bởi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tiếp đó là cuộc chiến Nam – Bắc Triều Tiên. Thế nhưng chỉ hơn 25 năm sau, vào cuối thập kỷ 80, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên sông Hàn”. Đó là một quá trình phi thường đã nhanh chóng giúp cải tạo nền kinh tế Hàn Quốc, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của đất nước. Để có được một Hàn Quốc như ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng hàng loạt các biện pháp nhằm quản lý, điều tiết nền kinh tế, trong đó đặt trọng tâm là hướng về xuất khẩu. Chính sách hướng về xuất khẩu: Trong những năm 60, nền kinh tế Hàn Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn lớn; không có thị trường trong nước cho các loại hàng hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Để đối phó với vấn đề này, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu với 2 bước đi quan trọng đó là khuyến khích và tăng cường tiết kiệm thông qua việc tăng lãi suất, cải thiện thâm hụt thương mại bằng việc phá giá đồng nội tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu như giảm thuế nhập khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu một cách hợp lý, ưu đãi về tài chính cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt, mục tiêu xuất khẩu được cụ thể hóa bởi Chính phủ và khen thưởng, động viên từ Tổng thống Hàn Quốc. Sau hàng loạt những chính sách của Chính phủ, kết quả đạt được là hết sức khả quan. Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 41 triệu USD năm 1960 lên 1.048 triệu USD vào năm 1970. Thành công từ chính sách tỷ giá: Để có được những kết quả trên, Hàn Quốc đã khá thành công trong việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua chiến lược hướng vào xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Từ thực tiễn thành công của Hàn Quốc, một số kinh nghiệm được rút ra như sau: Một là, Hàn Quốc là tấm gương kiên nhẫn theo đuổi chính sách phá giá tiền tệ để tăng trưởng xuất khẩu. Đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các mặt hàng máy móc, nguyên liệu, thiết bị và công nghệ cũng như vay nợ nước ngoài để đầu tư thì việc phá giá tiền tệ có thể làm giảm tăng trưởng do tác động làm cản trở đầu tư lớn hơn khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, sự khôn ngoan của Hàn Quốc chính là việc mở rộng xuất khẩu ở quy mô lớn kết hợp với các nhân tố khác làm giảm chi phí nhập khẩu và gánh nặng nợ. Thực tế cho thấy, sau khi phá giá mạnh đồng Won, Hàn Quốc đã tăng cường năng lực sản xuất và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nên đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao. Hai là, tỷ giá KRW/USD được điều chỉnh theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ trong một thời gian dài song song với quá trình Hàn Quốc chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang thả nổi. Nghệ thuật phá giá tiền tệ ở Hàn Quốc chính là nhờ sử dụng linh hoạt các yếu tố thị trường và chỉ điều chỉnh khi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã rất chủ động tạo ra các điều kiện thuận lợi để đảm bảo tỷ giá KRW/USD không cản trở tới hoạt động xuất khẩu: khi USD lên giá, chính phủ để thị trường tự điều tiết, còn khi USD giảm giá, Chính phủ đã tăng cung đồng KRW nhằm có lợi cho xuất khẩu. Ba là, sau việc phá giá tiền tệ, Hàn Quốc đã có biện pháp thích hợp để loại bỏ khả năng giảm giá kéo dài của nội tệ và sau đó củng cố các nhân tố thị trường khác giúp cho tỷ giá duy trì ở mức độ ổn định. Sự ổn định của tỷ giá KRW/USD đạt được là do Chính phủ Hàn Quốc đã duy trì được một biên độ dao động ổn định suốt trong thời gian dài. Điều này thực sự có lợi cho nhà đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Vì vậy, Hàn Quốc là một trong số ít nước vực dậy sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á nhanh nhất và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, ứng dụng công nghệ hiện đại nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ mục tiêu hướng về xuất khẩu. Bốn là, không nên neo giữ đồng bản tệ với một ngoại tệ mạnh. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trong gây ra khủng hoảng trong giai đoạn đó là các nước trong khu vực neo giữ tỷ giá đồng bản tệ với ngoại tệ duy nhất là USD. Sự ổn định này chỉ mang tính nhất thời và có ảnh hưởng tích cực tới tâm lý nhà đầu tư. Nhà đầu tư tin tưởng vào sự ổn định tiền tệ và nền kinh tế khi đồng USD mất giá. Tuy nhiên, khi USD lên giá mạnh đã làm yếu đi khả năng cạnh tranh của các nước có đồng tiền gắn chặt với USD. 1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan Trước khủng hoảng tài chính năm 1997, nền kinh tế Thái Lan đã trải qua nhiều năm tăng trưởng kinh tế nhanh do có ngành công nghiệp chế tạo phát triển giúp kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ 9,4% từ năm 1985 đến năm 1996. Có được những thành tựu đó là nhờ Thái Lan đã tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào và rẻ, thực hiện chính sách mở cửa kinh tế và phát triển mạnh theo hướng phục vụ xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan trong những năm gần đây chủ yếu tăng được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan từ năm 1996-2007 ĐVT: Triệu USD (Nguồn: Indicators/2008/pdf/tha.pdf) Có được những thành quả trên, Chính phủ Thái Lan đã có những nỗ lực cải thiện cán cân thương mại như: cải thiện môi trường kinh tế, cải thiện cơ cấu chính sách thương mại và phá giá mạnh đồng Baht và tác động đến cán cân thanh toán quốc tế của Thái Lan. Để tập trung, bài viết sẽ phân tích chủ yếu vào công cụ phá giá mạnh đồng Baht và tác động đến cán cân thanh toán quốc tế. Do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên trong giai đoạn trước khủng hoảng, các nước Đông Á neo giữ tỷ giá cố định so với USD. Với Thái Lan, việc thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực của nó. Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Có nhiều nguyên nhân làm giảm xuất khẩu của Thái Lan trong giai đoạn này bao gồm: tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm, tỷ giá hối đoái thực của các nước Đông Á lên giá, lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng điện tử bị suy giảm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1996 lên đến 7,9%GDP. Mức thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào. Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào Thái Lan, trong đó,vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các tổ chức tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản. Bên cạnh đó, tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng tăng. Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài, mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng dư là 11,973 tỷ USD năm 2007. Ngày 2/7/1997, Thái Lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối trong nỗ lực bảo vệ đồng Baht tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn và buộc phải thả nổi đồng Baht. Đồng tiền này ngay lập tức giảm giá mạnh. Phản ứng dây chuyền đã lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các nước có những triệu chứng kinh tế tương tự như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc. Từ cuối năm 1998 – 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm 2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn. 1.4. Bài học sử dụng chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại đối với Việt Nam Qua nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan, một số bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam như sau: - Cần có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trong cải cách. Trong chính sách tỷ giá hối đoái, việc điều chỉnh tỷ giá có ảnh hưởng đến giá cả trong nước và quốc tế, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết trong thay đổi chính sách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa. Tuy nhiên, không có thay đổi trong chính sách thương mại thì việc thay đổi tỷ giá sẽ vận hành không có hiệu quả. Trong sự phối hợp với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, việc điều chỉnh theo hướng thay đổi tỷ giá không mang tính chất cứng nhắc mà được xem như là phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. - Phải duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn. Một chính sách tỷ giá hối đoái được coi là phù hợp bao gồm: + Lựa chọn thời điểm phá giá đồng nội tệ phù hợp. Thành công trong việc phá giá tiền tệ thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nhờ sự nhạy bén của các công cụ trong chính sách tỷ giá mà Trung Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong nước và cân bằng tài chính tiền tệ với bên ngoài. Trong khi các chính sách kinh tế khác như chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa để giảm lạm phát thì chính sách tỷ giá vẫn đạt được mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu. + Duy trì tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý CNY đã tạo ra sự phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng những biện pháp hỗ trợ khôn khéo để giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm bảo cung ứng ngoại tệ được duy trì thường xuyên, liên tục đảm bảo cho sự thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái phải luôn hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. + Không nên neo giữ quá lâu đồng bản tệ với một đồng ngoại tệ mạnh. Tỷ giá cần được xác lập trên cơ sở thiết lập một rổ ngoại tệ để tránh được cú sốc trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng là trong giai đoạn đó, các nước trong khu vực về cơ bản thực hiện chủ trương ổn định tỷ giá so với USD. Ngoài ra, cần thận trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trước những tác động bên ngoài. Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy chính sự hoang mang của các nhà đầu tư đã dẫn đến sự rút vốn ồ ạt, gây nên sự sụp đổ trong hệ thống tài chính ở các nước này. 2. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ cán cân thương mại VIỆT NAM 2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa tỷ giá thực song phương (RER) và cán cân thương mại: Để giải quyết hạn chế của tỷ giá danh nghĩa song phương (NER) là không phản ánh được tương quan sức mua giữa VND và USD, ta đi tìm mối quan hệ giữa phá giá và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam thông qua chỉ số tỷ giá thực eR và tỷ lệ giá trị xuất khẩu /giá trị nhập khẩu3. Đồ thị 2 : Mối quan hệ giữa RER và cán cân thương mại Nguồn: Indicator/2008/Pdf/vie:pdf ) Theo lý thuyết, khi chỉ số tỷ giá thực eR>1, nghĩa là tỷ giá thực tăng, VND giảm giá thực và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện. Ngược lại, khi chỉ số tỷ giá thực eR<1, nghĩa là tỷ giá thực giảm, VND lên giá thực và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bị xói mòn. Mặc dù từ năm 1992-2007, cả chỉ số xuất và nhập khẩu đều lớn hơn 1, điều này chứng tỏ giá trị xuất và nhập khẩu đều tăng qua các năm. Như vậy, chúng ta chưa thể biết được liệu sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện hay xói mòn. Vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết dưới đây: Đồ thị 1 cho thấy tỷ giá RER(VND/USD) được chia làm 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1: từ năm 1993-1999, tỷ giá thực giảm. + Từ năm 1992-1996, tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ tăng giá trị xuất khẩu, đã làm cán cân thương mại liên tục thâm hụt. Trong thời gian này, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8%/ năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế, song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VND có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại thâm hụt. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu mà không khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực lao động. Một yếu tố khác là việc phá giá đồng CNY gần 50% vào năm 1994 của Trung Quốc (từ 1USD= 5,8000CNY lên 1 USD = 8,4462 CNY năm 1994). Việc phá giá CNY đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc quá rẻ đã tràn ngập thị trường Việt Nam qua con đường buôn bán mậu dịch và buôn lậu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước và tăng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc. + Từ năm 1997-1999, sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bắt đầu đươc cải thiện, thể hiện ở chỉ số tỷ giá xuất khẩu lớn hơn chỉ số tỷ giá nhập khẩu và thâm hụt của cán cân thương mại giảm. Đặc biệt, trong năm 1999, lần đầu tiên cán cân thương mại thặng dư. Nguyên nhân là do tháng 10/1997, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999. Ngoài ra, giá cả trên thị trường biến động không đáng kể cũng là một nhân tố góp phần cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam. - Giai đoạn 2: từ năm 2000-2005, chỉ số tỷ giá thực eR>1 nghĩa là tỷ giá thực tăng. Từ năm 2000-2005, mặc dù tỷ giá thực tăng nhưng không cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu lớn hơn tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu. Nguyên nhân là do chịu tác động của hai yếu tố giá và lượng của một số mặt hàng chủ lực như xăng dầu, sắt thép, phân bón do bị ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị có nhiều biến động4, chiến tranh Irắc, căng thẳng về chính trị đặc biệt ở Trung Đông, dịch bệnh SARS vv… - Giai đoạn 3: từ năm 2006-2008, tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. 2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa tỷ giá thực đa phương (REER) và cán cân thương mại: REER được tính thông qua rổ tiền tệ gồm 11 đồng tiền các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam: Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Anh, Úc, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc và Indonexia. Kết quả như sau: Đồ thị 3 : Mối quan hệ giữa REER và cán cân thương mại (Nguồn: Adb.org, wordbank.org, econstat.com, epp.eurostat.ec.europa.eu và thống kê tài chính quốc tế tháng 5/2008) Qua chỉ số REER tính được ở từng năm, có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn 1999-2003, REER có xu hướng tăng, đã làm cho cán cân thương mại trong giai đoạn này được cải thiện, thậm chí là thặng dư chút ít trong một số năm. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2004-2007, REER có xu hướng giảm. Tỷ giá thực giảm làm cho sức mua đối ngoại của VND tăng, VND lên giá thực. VND lên giá thực làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam, thể hiện ở cán cân thương mại trong giai đoạn này thâm hụt rất lớn. Đến đây, có một điều cần lưu ý là: tại năm 2004, REER giảm sẽ làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam (theo lý thuyết) nhưng thực tế, tại năm này đường chỉ số xuất khẩu nằm cao hơn đường chỉ số nhập khẩu, nghĩa là sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện. Điều này có thể được xem là do độ lệch về thời gian tác động của tỷ giá lên xuất nhập khẩu (giai đoạn trước REER tăng). Như vậy, khi tỷ giá REER giảm chứng tỏ giá hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn và giá hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn một cách tương đối, điều này sẽ góp phần làm giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nói cách khác, nếu không điều chỉnh chính thức một cách hợp lý sẽ không có lợi cho cán cân thưong mại của Việt Nam . 3. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VND NHẰM CẢI THIỆN cán cân thương mại TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG 3.1. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam và dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: Theo Outlook 2009: VietNam trên trang web của Ngân hàng phát triển Châu Á: - Khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế có thể làm giảm FDI và luồng vốn vào cũng như xuất khẩu, luồng vốn vào FPI và tăng trưởng kinh tế. Sự giảm giá toàn cầu sẽ ảnh hưởng lên giá hàng hóa thế giới và làm giảm áp lực lạm phát. - Tăng trưởng kinh tế được dự báo là 4,5% trong năm 2009. Nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khóa sẽ hỗ trợ chi tiêu công cộng và đầu tư trong nước. Xuất khẩu ròng dự tính sẽ tăng. Tuy nhiên, tiêu dùng cá nhân sẽ tăng chậm hơn vì thất nghiệp cao hơn và sự tăng chậm của các hoạt động kinh tế, thị trường chứng khoán. Luồng vốn chảy vào FDI được dự đoán là giảm và dẫn đến giảm sút trong đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng kinh tế năm 2010 đạt 6,5%. Với chính sách tiền tệ nới lỏng, sự mở rộng trong tiêu dùng và đầu tư nội địa sẽ kích thích nền kinh tế. Dự báo sự hồi phục của điều kiện tài chính toàn cầu sẽ làm cải thiện đầu tư nước ngoài và xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ròng. - Lạm phát hàng năm được dự báo là thấp (4% năm 2009) vì GDP có thể thấp hơn dưới mức tiềm năng và giá cả hàng hóa thế giới được dự báo thấp hơn mức giá trung bình của năm trước. Lạm phát sẽ tăng lên 5% trong năm tiếp theo vì giá cả hàng hóa thế giới được dự tính tăng trở lại. - Thâm hụt cán cân vãng lai được dự báo là 11,5% GDP năm 2009, đó là do cầu nhập khẩu hàng hóa Việt Nam yếu và sự giảm giá hàng xuất khẩu sẽ làm giảm xuất khẩu. Nhập khẩu thậm chí sẽ giảm nhiều hơn xuất khẩu vì giá hàng nhập khẩu giảm và nền kinh tế đang tăng trưởng chậm. Dòng vốn chảy vào FDI sẽ giảm và dòng vốn chảy vào FPI sẽ duy trì ở mức độ thấp vì điều kiện tài chính toàn cầu khó khăn. Cán cân tổng thể có thể sẽ thâm hụt trong năm 2009. Năm 2010, thâm hụt cán cân vãng lai được dự báo là thu hẹp còn 9,7% GDP. Cầu hàng hóa Việt Nam và giá hàng hóa xuất khẩu cao hơn sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Nhưng kèm theo đó, cũng có sự gia tăng nhập khẩu vì tăng trưởng kinh tế và giá hàng nhập khẩu cao hơn. Luồng vốn vào FDI và FPI sẽ tăng do điều kiện kinh tế toàn cầu được cải thiện và sự phấn khích của các nhà đầu tư. Kết quả là cán cân tổng thể thặng dư. 3.2. Một số giải pháp cho chính sách tỷ giá VND nhằm cải thiện cán cân thương mại - Giải pháp phá giá VND: VND tăng giá sẽ có ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán, do đó đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách quản lý tỷ giá phải có chính sách phá giá VND tương ứng với mức giảm của tỷ giá REER, chẳng hạn nếu ta muốn phá giá VND so với USD thì cần thiết phải tính ra tỷ giá (TG) kỳ vọng dựa trên công thức: TG kỳ vọng = (% thay đổi tỷ giá REER) x (TG danh nghĩa tại thời điểm t) + (TG danh nghĩa tại thời điểm t). Khi tỷ giá thực hiệu lực tăng thì cần phải điều chỉnh tăng giá VND lên cũng với cơ sở như vậy. Cân bằng kinh tế bên trong và bên ngoài: Các khái niệm cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài đã được Trevor Swan (1955) mô tả bằng đồ thị và được biết đến là “Swan Diagram“. Do không đề cập đến luồng chu chuyển vốn quốc tế nên mô hình Swan Diagram coi điều kiện bên ngoài chính là trạng thái cân bằng cán cân vãng lai, nền kinh tế Việt Nam được phân tích theo đồ thị Swan như sau: Đồ thị: Swan Diagram Theo đồ thị, REER =1. Trục tung của đồ thị biểu diễn tỷ giá. Trục hoành biểu diễn chi tiêu trong nước, bao gồm: tiêu dùng (C), đầu tư (I), và chi tiêu của Chính phủ (G). Theo cách tính REER của nhóm nghiên cứu, thì REER của Việt Nam có xu hướng giảm xuống, tức là đang bị định giá cao hơn. Thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài dai dẳng từ năm 2002 đến năm 2008 đưa nền kinh tế Việt Nam nằm bên phải đường cân bằng ngoại EB. Năm 2008, tình trạng thất nghiệp của người lao động tăng cao do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu (Theo Outlook 2009, Vietnam: Năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị ước tính tăng 5% và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn cũng tăng lên mặc dù chính sách nông nghiệp đã được cải cách đáng kể). Có nghĩa là trạng thái nền kinh tế Việt Nam đang nằm bên trái đường cân bằng nội IB, tức tại điểm B, vùng số 2. Để nền kinh tế Việt Nam (điểm B) trở về trạng thái cân bằng đối nội và đối ngoại, tức tại điểm A. Đối với mục tiêu cân bằng nội, Chính phủ phải tăng chi tiêu trong nước, tức là tăng đầu tư, tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ, đưa nền kinh tế duy chuyển tới điểm D. Điều này đưa nền kinh tế đến tình trạng thậm hụt cán cân vãng lai. Đối với mục tiêu cân bằng ngoại, Chính phủ thực hiện phá giá đồng nội tệ, khi đó sẽ kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, do đó đưa nền kinh tế đến điểm C, khi đó kinh tế Việt Nam sẽ đối diện với tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, để đạt được cả 2 mục tiêu cân bằng bên trong và bên ngoài, Chính phủ nên kết hợp cả 2 công cụ: phá giá tiền tệ và tăng chi tiêu trong nước đồng bộ với nhau, không nên dùng một trong 2 phương pháp một cách riêng lẻ. - Xây dựng cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn: Cơ chế tỷ giá của Việt Nam hiện nay nên là cơ chế nào? Lý thuyết về “Bộ ba bất khả thi” – Impossible Trinity được sử dụng để phân tích: Lý thuyết bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity hay Inconsistent Trinity hay Triangle of Impossibility) được phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô5: Sơ đồ 2: Bộ ba bất khả thi · Ổn định tỷ giá · Tự do hóa dòng vốn · Chính sách tiền tệ độc lậpViệc lựa chọn ba mục tiêu kinh tế vĩ mô một cách hợp lý là bài toán khá nan giải, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Việt Nam là thành viên của WTO từ ngày 11/01/2007. Kể từ ngày này, Việt Nam tiếp cận được thị trường thương mại toàn cầu nhưng sẽ gặp những trở ngại không nhỏ trong quá trình hội nhập quốc tế. Một biểu hiện rõ nét nhất ngay sau khi hội nhập, đó là dòng vốn nước ngoài chảy vào nhiều, áp lực lạm phát gia tăng. Cũng như hầu hết các nước khi mở cửa hội nhập, Việt Nam đang phải đối mặt với hiện tượng “Bộ ba bất khả thi”. Đó là, khi dòng vốn nước ngoài vào nhiều, để ổn định tỷ giá NHNN mua ngoại tệ, qua đó gây áp lực lạm phát (Sáu tháng đầu năm 2007, NHNN “bơm” ra lưu thông 112.000 tỷ đồng sau khi mua vào 7 tỷ USD, đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho lạm phát tăng mạnh. Theo qui định của Pháp lệnh Ngoại hối, Việt Nam đã tự do hóa giao dịch vãng lai, còn các giao dịch vốn chưa được tự do hoàn toàn nhưng đã nới lỏng một cách tương đối. Đối với các nền kinh tế mới nổi, nơi mà thị trường tài chính và tiền tệ còn kém phát triển, thì hiện tượng bộ ba bất khả thi là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Vấn đề đặt ra lúc này đối với Việt Nam là phải lựa chọn mục tiêu theo đuổi trong quản lý kinh tế vĩ mô để đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững. Trong ba mục tiêu trên, kiểm soát lạm phát là mục tiêu số một không thể loại bỏ, còn vấn đề tỷ giá và kiểm soát dòng vốn cần có sự lựa chọn cho phù hợp để hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi”. Vậy, chế độ tỷ giá BBC6 có thể là một sự lựa chọn cho chế độ tỷ giá của Việt Nam hiện nay được không? Theo mục 2, Điều 39 Nghị định 160/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối thì cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý do NHNN Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. Như vậy, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, tỷ giá VND được xác định dựa trên rổ tiền tệ (B- Basket) thay vì chỉ dựa vào USD. Ngày 25/2/1999, cơ chế tỷ giá của Việt Nam được cải cách đáng kể, NHNN bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay thế bằng việc thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Các ngân hàng thương mại được xác định tỷ giá mua bán đối với USD không vượt quá +0,1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, sau đó biên độ đã tiếp tục được thay đổi để tạo sự linh hoạt hơn cho chính sách tỷ giá7. Ngoài ra, hàng năm NHNN sẽ công bố mục tiêu như là một vật neo danh nghĩa trong điều hành tỷ giá. Có thể thấy B- Band và C- Crawl là hai đặc điểm còn lại mà NHNN đang cố gắng thực hiện. Tóm lại, lựa chọn này sẽ phù hợp hơn trong điều kiện mục tiêu dài hạn của Việt Nam là linh hoạt hóa cơ chế tỷ giá và liên kết chặt chẽ hơn với các đối tác thương mại chính. Đây còn có thể là sự lựa chọn đúng hướng cho cơ chế tỷ giá Việt Nam trong tương lai, khi Việt Nam liên kết chặt chẽ hơn với các nước ASEAN trong một cộng đồng kinh tế chung, trong đó có yêu cầu cố định tỷ giá giữa các nước thành viên nhằm thúc đẩy đầu tư và thương mại nội khối, đồng thời linh hoạt hóa tỷ giá với các nền kinh tế lớn khác nhằm đảm bảo phát triển bền vững, tránh các đổ vỡ tài chính dây chuyền khi hệ thống tỷ giá với việc neo vào một ngoại tệ mạnh không đứng vững trước các biến động thị trường như đã từng xảy ra năm 1997. TÀI LIỆU THAM KHẢO * Tài liệu tiếng Việt: 1. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến: Giáo trình tài chính quốc tế. Xuất bản lần thứ 3, NXB Thống kê, năm 2009. 2. ThS. Phạm Thị Hoàng Anh: Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung Quốc – Lý thuyết, thực tế và những gợi ý cho Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng số 9/2009. 3. ThS. Nguyễn Thị Kim Thanh: Chính sách tỷ giá với vấn đề tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tạp chí ngân hàng tháng 10/2008. 4. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cân bằng cán cân thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Đề tài NCKH, Trường Đại học ngoại thương. * Tài liệu tiếng Anh: 5. World Economy- Prenceton Encyclopedia, 2009 6. Outlook 2009: Vietnam 7. International statistics – IMF 5/2008 8. ext. worldbank. org/ext/DDPQQ/member. do?method=getMembers 9. 10. 11. 12. (1) Theo World Economy- Prenceton Encyclopedia, 2009: Chế độ tỷ giá BBC dựa trên một rổ tiền tệ (Basket) chứ không phải một đồng tiền nhất định, có biên độ dao động rộng (Band) quanh tỷ giá trung tâm, có thể là 5, 10 và 15% nhưng NHTW sẽ can thiệp ngăn cho tỷ giá thị trường không vượt ra ngoài biên độ. Tỷ giá trung tâm sẽ bò trườn (Crawl) theo từng bước nhỏ và có chu kỳ hơn là thay đổi đột ngột. (2) Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung Quốc – lý thuyết, thực tế và những gợi ý cho Việt Nam – ThS. Phạm Thị Hoàng Anh (3) Về mặt lý thuyết, khi khối lượng xuất khẩu tăng và/ hoặc khối lượng nhập khẩu giảm, thì ta nói rằng sức cạnh tranh thương mại quốc tế được cải thiện. Ngược lại, khi khối lượng xuất khẩu giảm và/hoặc khối lượng xuất khẩu tăng, thì ta nói rằng sức cạnh tranh thương mại quốc tế bị xói mòn. Nghĩa là, sức cạnh tranh thương mại quốc tế ở đây chỉ liên quan đến khối lượng xuất nhập khẩu, mà không liên quan đến giá trị xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong thực tế, việc sử dụng khối lượng xuất nhập khẩu để đánh giá sức cạnh tranh thương mại quốc tế là điều không thể vì mỗi hàng hóa lại có đơn vị đo lường khác nhau. Vì vậy, giá trị xuất nhập khẩu thường được sử dụng để phân tích sức cạnh tranh thương mại quốc tế. (4) Mặc dù tỷ lệ lạm phát của những năm này nhỏ, thậm chí là giảm phát. Tỷ lệ lạm phát của các năm 2000-2005 tương ứng như sau: -1,6%; -0,4%, 4%, 3,2%, 7,8% và 8,4%. Đặc biệt, năm 2004, do tỷ giá thực tăng chậm lại và tỷ lệ lạm phát đột ngột tăng đã làm cho thâm hụt cán cân thương mại càng nặng nề. (5) Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2 trong 3. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ, nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)“- trích lời đề tặng Robert Mundell – Paul Krugman, 1999 (6) Ưu điểm của chế độ tỷ giá BBC là: thứ nhất, chế độ tỷ giá này giúp tỷ giá đa phương ổn định hơn. Thứ hai là bằng việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa đi theo một hướng nhất định, chế độ bù trừ giúp tỷ giá REER ổn định. Thứ ba là với biên độ rộng làm cho tỷ giá linh hoạt hơn với các cơn sốc bên ngoài và góp phần vào sự độc lập của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, chế độ này cũng gặp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 2011.doc
Luận văn liên quan