Đề tài Cho thuê tài chính - Thực trạng và giải pháp

Tiểu luận: Cho thuê tài chính - thực trạng & giải pháp MỤC LỤC 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1.1.Giới thiệu 1.2.Tóm tắt nội dung 2. TỔNG QUAN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 2.1.Nguồn gốc và sự ra đời 2.2.Cho thuê tài chính là gì 2.2.1.Khái niệm 2.2.2.Đối tượng 2.2.3.Điều kiện 2.2.4.Thời hạn 2.3.Những đặt trưng của cho thuê tài chính 2.4.Lợi ích của cho thuê tài chính 3. CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM- THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP 3.1.Cho thuê tài chính ở Việt Nam 3.1.1.Công ty cho thuê tài chính 3.1.2.Tổ chức và phân loại công ty cho thuê tài chính 3.1.2.1.Tổ chức 3.1.2.2.Phân loại 3.1.3.Hoạt động của công ty Cho thuê tài chính 3.1.4.Pháp luật về cho thuê tài chính 3.1.4.1.Bản chất pháp lý của hoạt động cho thuê tài chính 3.1.4.2.Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện 3.2.Thực trạng và giải pháp 3.2.1.Thực trạng cho thuê tài chính ở Việt Nam 3.2.2.Giải pháp thúc đẩy cho thuê tài chính 4. PHỤ LỤC 4.1 Một số công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam 5. TỔNG KẾT

pdf19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7629 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cho thuê tài chính - Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
..................................... 18 4.1 Một số công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam........................................................................................ 18 5. TỔNG KẾT............................................................................................................................................... 19 Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 3 of 19 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1.1. Giới thiệu Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Cộng với sự biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, các doanh nghiệp ngày càng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mới. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phá sản hàng loạt, những doanh nghiệp ngấp nghé đứng bên bờ vực phá sản cũng không ít. Con đường để tồn tại lúc này là phải nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, kỹ thuật công nghệ lạc hậu với vốn đầu tư thấp, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, manh mún, chưa tạo lập được cho mình một cơ sở vật chất kĩ thuật đầy đủ, vững chắc nhất định để nắm bắt những cơ hội phát triển kinh tế. Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện các nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vốn có đã trở thành giải pháp kịp thời và đúng đắn góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tuy buổi đầu hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam đã có những thành công nhất định song do mơí đi vào hoạt động chưa lâu nên các công ty cho thuê tài chính còn gặp nhiều khó khăn, bất cập...Do vậy, việc nghiên cứu hoạt động của nó ra sao, tổ chức như thế nào, hoàn thiện và phát triển hoạt động này như thế nào ... đang là những vấn đề cấp bách, cần được quan tâm nghiên cứu. 1.2. Tóm tắt nội dung Nội dung tài liệu bao gồm 4 phần chủ yếu như sau:  Giới thiệu đề tài.  Tổng quan về cho thuê tài chính: giới thiệu một cách tổng quát về nguồn gốc, sự ra đời, những đặt trưng, phân loại và lợi ích của loại hình cho thuê tài chính.  Cho thuê tài chính ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp: sơ lược đôi nét về loại hình kinh doanh cho thuê tài chính ở Việt Nam, cách thức tổ chức, hoạt động đồng thời giới thiệu đôi né về pháp luật cho thuê tài chính ở Việt Nam. Tiếp theo là sẽ bàn về thực trạng của cho thuê tài chính và các giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa loại hình kinh doanh này.  Phụ lục: danh sách một số công ty tài chính ở Việt Nam. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 4 of 19 2. TỔNG QUAN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 2.1. Nguồn gốc và sự ra đời Cho thuê Tài chính đã có từ lâu, từ những năm 384-322 trước công nguyên khái niệm thuê tài sản đối với người đi thuê là sự cần thiết khách quan của nền sản xuất xã hội. Ý nghĩa của từ “tài sản” nói chung là vấn đề sử dụng nó, chứ không phải vấn đề sở hữu nó và chính việc sử dụng tài sản mới tạo ra của cải. Trên thế giới, dáng dấp của loại hình cho thuê tài chính xuất hiện vào khoảng thế kỷ 18 tại Mỹ với mục đích là tài trợ vốn cho ngành vận tải, nhưng loại hình này thực sự phát triển từ sau Thế chiến 2 ở hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Đức, Anh, Pháp, Nhật... Tại Mỹ, ngành cho thuê tài chính chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Doanh thu từ hoạt động cho thuê tài chính trung bình hàng năm ở Hàn Quốc là 17 tỉ USD, ở Thái Lan 3 tỉ USD... Và tổng doanh thu hàng năm của ngành này ước đạt trên 500 tỉ USD với đà tăng trưởng trung bình 7% hàng năm. Hoạt động cho thuê Tài chính tại Việt nam đã được hình thành trên cơ sở tín dụng thuê mua nhằm khắc phục nhược điểm nghiệp vụ cho vay và khuyến khích Doanh nghiệp đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ mới để đẩy mạnh sản xuất. Cho thuê tài chính chính thức đi vào hoạt động từ 1995 theo Nghị định 64/CP của Chính phủ nay là Nghị định 16/CP và các văn bản khác. 2.2. Cho thuê tài chính là gì ? 2.2.1. Khái niệm Thuê tài chính là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển, Úc... Loại hình cho thuê tài chính đã được một số công ty tài chính đưa ra thị trường tài chính vào những năm cuối những năm 50 đầu những năm 60 của thế kỷ 20 với tên gọi là thuê tài chính (finance lease....). Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiên vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa Bên cho thuê là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và Bên thuê là khách hàng. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của Bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản thuê trong suốt quá trình thuê. Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, Bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận. 2.2.2. Đối tượng Những đối tượng nào được thuê tài chính ? Bao gồm các khách hàng là tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh tại Việt nam Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 5 of 19 có nhu cầu thuê tài sản trực tiếp sử dụng tài sản thuê cho mục đích hoạt động của mình và đáp ứng đủ điều kiện thuê. 2.2.3. Điều kiện Điều kiện cho thuê ra sao? Về mặt pháp lý: Phải có tư cách pháp nhân, hoạt động theo pháp luật Việt nam. Về mặt tài chính: Tình hình tài chính lành mạnh, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế và đảm bảo khả năng trả nợ. 2.2.4. Thời hạn Thời hạn cho thuê được tính thế nào? Là khoảng thời gian tính từ thời điểm Công ty thanh toán khoản tiền đầu tiên cho nhà cung cấp tài sản đến khi khách hàng trả hết nợ gốc, nợ lãi thuê tài chính và các khoản chi phí khác đã được thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính giữa Công ty và khách hàng. Thời hạn cho thuê được thỏa thuận giữa Công ty và khách hàng căn cứ vào chu kỳ sản xuất xuất kinh doanh, thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, nguồn vốn cho thuê tài chính của Công ty. Với tổ chức nước ngoài, thời hạn cho thuê tài chính không vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam; đối với cá nhân nước ngoài, thời hạn cho thuê tài chính không vượt quá thời hạn được phép sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Thời gian ân hạn là khoảng thời gian tính từ thời điểm Công ty thanh toán khoản tiền đầu tiên cho nhà cung cấp đến thời điểm bắt đầu tính thời gian của kì hạn trả nợ thứ nhất, mà trong khoảng thời gian đó khách hàng chưa phải trả nợ gốc. Thời gian ân hạn được quy định tùy thuộc loại hình tài sản. Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho thuê tài chính đã được thoả thuận giữa Công ty và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ số tiền thuê tài chính cho Công ty. 2.3. Những đặt trưng của cho thuê tài chính Khác với việc khi vay vốn của ngân hàng phải có các thủ tục về thế chấp tài sản, đặc trưng của phương thức cho thuê tài chính là đơn vị cho thuê sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi ích kinh tế mang lại từ những tài sản đó trong một thời gian nhất định. Ưu điểm rõ nhất của phương thức cho thuê tài chính chính là việc không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Chính vì thế, loại hình cho thuê tài chính rất thích hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có 5 đặt trưng chủ yếu:  Cho thuê tài chính là một dạng cho thuê tài sản, nhưng khác về căn bản so với các loại cho thuê tài sản khác là có sự chuyển dịch về cơ bản các rủi ro và các lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê.  Xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản (tài sản này có thể là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, động sản khác, không kể đất đai nhà cửa...) giữa bên cho thuê là công ty cho thuê tài chính (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) với khách hàng thuê (khách hàng có nhu cầu thuê thường là các doanh nghiệp, các bên đối tác trong liên kết kinh tế). Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 6 of 19  Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng.  Công ty cho thuê tài chính giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê, bên thuê có nghĩa vụ nộp tiền thuê (tiền trích khấu hao tài sản cho thuê) cho công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục cho thuê tài sản đó theo các thỏa thuận trong hợp đồng thuê.  Loại hình cho thuê tài chính có lợi thế là người thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy móc, thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản như trong các giao dịch vay vốn khác; bên đi thuê tài chính không phải chịu những rủi ro do sự mất giá của tài sản, hao mòn tự nhiên... 2.4. Lợi ích của cho thuê tài chính Cho thuê tài chính hiện đang là một loại hình kinh doanh dịch vụ được ưa chuộng trên thế giới, nhất là ở những nước đang phát triển. Lợi thế của cho thuê tài chính là sự khác biệt về thủ tục giữa dịch vụ này với dịch vụ cho vay thông thường của các ngân hàng. Cho thuê tài chính không cần thế chấp tài sản, doanh nghiệp dựa vào các công ty cho thuê tài chính để lựa chọn cho mình những công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại phù hợp với tiến trình phát triển của hội nhập. Thực tế, sử dụng cho thuê tài chính doanh nghiệp sẽ thấy lời hơn, hiệu quả hơn so với những hình thức vận động tài chính khác… Trong khi các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản khi vay vốn ở các ngân hàng thì việc có mặt của các công ty cho thuê tài chính đã mở ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là mặc dù có mặt đã lâu nhưng thực sự cho thuê tài chính là khái niệm còn khá mới mẻ với nhiều doanh nghiệp. Ít doanh nghiệp hiểu được rằng cho thuê tài chính là hình thức tài trợ tín dụng thông qua cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển… là nhu cầu mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mong muốn để đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất kinh doanh. Đặc trưng của phương thức này là - đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản làm đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để sản xuất kinh doanh. Loại hình này rất thích hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi vì với ưu điểm không phải thế chấp tài sản, các doanh nghiệp khi thuê tài chính không bị vướng thủ tục thế chấp tài sản nếu phải vay vốn ở các ngân hàng. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 7 of 19 3. CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM- THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP 3.1. Cho thuê tài chính ở Việt Nam 3.1.1. Công ty cho thuê tài chính Theo quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam ( ban hành kèm theo nghị định số 64/CP ngày 9-10-1995 của chính phủ) thì: Công ty cho thuê tài chính là một loại Công ty tài chính, hoạt động chủ yếu là cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác Còn theo nghị định số 95/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Theo Nghị định vừa ban hành, công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam; được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới 3 hình thức: công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty cho thuê tài chính cổ phần. 3.1.2. Tổ chức và phân loại công ty cho thuê tài chính 3.1.2.1. Tổ chức Công ty cho thuê tài chính là một Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau:  Công ty cho thuê tài chính Nhà nước.  Công ty cho thuê tài chính cổ phần.  Công ty cho thuê tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng.  Công ty cho thuê tài chính liên doanh.  Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài. Công ty cho thuê tài chính Nhà nước là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu 100% vốn. Công ty cho thuê tài chính cổ phần là một công ty cổ phần được thành lập bằng vốn góp của các cá nhân hoặc các tổ chức tín dụng. Công ty cho thuê tài chính trực thuộc của tồ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Một tổ chức tín dụng nào đó làm chủ sở hữu 100% vốn, được xây dựng theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Công ty cho thuê tài chính liên doanh được thành lập bằng vốn góp giữa Bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và Bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều Tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở Hợp đồng liên doanh. Công ty cho thuê tài chính liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài được thành lập bằng vốn góp của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 8 of 19 Ngoài ra, công ty cho thuê tài chính liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài muốn hoạt động hợp pháp phải được tổ chức có thẩm quyền cho phép hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam; có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn, trừ trường hợp Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và nước nguyên xứ có quy định khác. 3.1.2.2. Phân loại Cho thuê tài chính là một định chế mới được coi như là một phương thức giúp doanh nghiệp phát triển hơn trên thương trường. Khi đi thuê tài chính có hai vấn đề chính được đặt ra. Theo chế độ kế toán hiện hành, món nợ phải ghi vào bảng cân đối, còn tài sản thuê không phải ghi. Đối với số tiền mà bên thuê phải chi trả thì cơ quan thuế coi nó như một chi phí khấu hao. Thuê tài chính có hai loại: Thuê chỉ để sử dụng (operate lease), thường được dịch là thuê vận hành. Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê hoạt động, tức cho thuê tài sản có thời hạn nhất định (thời gian thuê chỉ chiếm một phần trong khoảng thời gian hữu dụng của tài sản) và sẽ trả lại bên cho thuê khi kết thúc thời gian thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng đã thỏa thuận. Tại Việt Nam, hình thức cho thuê vận hành đã tồn tại từ rất lâu nhưng chủ yếu là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trước đây, hình thức cho thuê chủ yếu là sự thỏa thuận thuê giữa chủ sở hữu những thiết bị không sử dụng đến. Hiện nay các tài sản được sử dụng để thuê vận hành phần lớn là máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải, thiết bị văn phòng, thậm chí cả văn phòng làm việc … Cho thuê vận hành được xem là công cụ tài chính hữu hiệu giúp các doanh nghiệp giảm thiểu các chi tiêu tài chính. Theo Công ty cho thuê tài chính II (ACLII), thuê vận hành tài sản còn mang lại cho doanh nghiệp những lợi thế về công nghệ, thuế, chi phí quản lý... Khi thuê vận hành tài sản, bên đi thuê chỉ phải trả trước vốn đầu tư ở mức thấp, các khoản thuế và phí liên quan đến thiết bị sẽ được tính gộp vào tiền thuê và trả dần trong suốt thời gian thuê. Do không phải khấu hao tài sản trong suốt thời gian sử dụng hữu dụng của tài sản như khi mua tài sản, thuê vận hành giúp doanh nghiệp dễ dàng hạch toán và thu hồi chi phí của từng dự án riêng biệt. Thuê tài chính (financial leasing), còn gọi là “thuê để rồi mua”. Và Ngân hàng nhà nước gọi là “hoạt động tín dụng trung và dài hạn”. Về hình thức pháp lý, người ta chia ra hai loại hợp đồng: Hợp đồng không nâng đỡ người cho thuê (non leverage lease) có hai bên ký là người cho thuê và người thuê. Một bên mua thiết bị cho bên kia thuê; bên kia cam kết sẽ trả tiền khi sử dụng. Bên thuê lựa chọn thiết bị với một nhà sản xuất, bàn bạc về giá cả, điều kiện bảo hành, giao nhận và ký hợp đồng mua bán. Bên cho thuê trả tiền mua thiết bị bằng tiền của mình hay đi vay. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 9 of 19 Hợp đồng có nâng đỡ người cho thuê (leverage lease) có ba bên ký kết và mỗi bên có thể có nhiều người khác can dự. Hợp đồng này dành cho các thiết bị đắt tiền. Bên thuê chọn thiết bị, bàn bạc với nhà sản xuất về giá cả, bảo hành, giao hàng. Bên cho thuê trả khoảng 20% trị giá thiết bị và trở thành chủ nhân của thiết bị đó. Bên thuê có thể rủ thêm những người khác để trả số 20% kia và được hưởng các ưu đãi thuế liên quan đến thiết bị. Thuế sẽ được căn cứ trên tổng giá trị tài sản trong khi họ mới chỉ bỏ ra khoảng 20% tổng giá trị thiết bị. Đây là sự nâng đỡ dành cho bên cho thuê. Bên thứ ba gồm một hay nhiều người cho vay, gọi là nhà đầu tư, như các ngân hàng, các định chế tài chính. Họ sẽ bỏ ra số tiền mua thiết bị còn lại. Khoản cho vay này được bảo đảm bằng bên cho thuê thế chấp thiết bị kia hay nhận thẳng tiền cho thuê thiết bị từ bên thuê. Trường hợp mỗi bên có nhiều người tham gia, họ sẽ cử người đại diện gọi là trustee và ký hợp đồng với nhau để thực hiện. Bên thuê có khi cũng phải có người bảo lãnh để được thuê. Người bảo lãnh có thể nằm trong tổ hợp của bên thuê hay là một ngân hàng độc lập ở bên ngoài. Trong loại hợp đồng đầu, có bốn yếu tố được thực hiện bởi ba hay bốn thành phần là bên cho thuê, bên đi thuê, nhà sản xuất và bảo trì (hai cái này có thể là một hoặc hai thành phần). Trường hợp sau thì có thêm hai thành phần là nhóm người cho vay và nhà bảo lãnh của bên thuê. Tóm lại, hoạt động cho thuê tài chính là một loại hình tín dụng có nhiều ưu điểm, đặc biệt phát huy hiệu quả trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư chiều sâu, máy móc, thiết bị… để mở rộng sản xuất. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thường hạn chế về vốn tự có, uy tín cũng như tài sản thế chấp dẫn đến khó tiếp cận với nguồn vốn tài chính, nên đi thuê máy móc, thiết bị của công ty cho thuê tài chính đã được nhiều doanh nghiệp thực hiện. Hiện nay, các dịch vụ tài chính ngân hàng trên thị trường cạnh tranh khá gay gắt, nhiều công ty cho thuê tài chính đã có những phương thức khác nhau để thu hút khách hàng. 3.1.3. Hoạt động của công ty Cho thuê tài chính Các hoạt động chủ yếu của cho thuê tài chính gồm:  Huy động vốn từ các nguồn sau: o Được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên có tổ chức, theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước. o Được phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá trị khác có kỳ hạn trên một năm để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. o Được vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước. o Được nhận các nguồn vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.  Cho thuê tài chính  Mua và thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính. Theo hình thức này, công ty cho thuê tài chính mua lại máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 10 of 19 động sản thuộc sở hữu của bên thuê, sau đó cho bên thuê thuê lại chính các tài sản ấy để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình.  Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính  Thực hiện các nhiệm vụ ủy thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính. Mặc dù công ty cho thuê tài chính có tác dụng cho các doanh nghiệp như vậy nhưng hoạt động công ty tài chính thời gian vừa qua vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được khả năng, trong khi nhu cầu về thuê máy móc, thiết bị của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất lớn. Nguyên nhân của hạn chế này là do môi trường pháp lý về công ty tài chính chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện. Thời gian tới, khi cơ chế chính sách về hoạt động cho thuê tài chính được hoàn thiện, các doanh nghiệp cần chủ động “đón đầu” để phát huy tối đa lợi thế của kênh tín dụng này. 3.1.4. Pháp luật về cho thuê tài chính 3.1.4.1. Bản chất pháp lý của hoạt động cho thuê tài chính Theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức tín dụng có thể cấp tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh hình thức cho vay – một hình thức cấp tín dụng khá “cổ điển” và phổ biến, hiện nay pháp luật còn cho phép tổ chức tín dụng thực hiện cấp tín dụng dưới những hình thức khác như bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá, bao thanh toán và cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng được pháp luật lần đầu tiên ghi nhận tại Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 với tên gọi là hoạt động thuê mua tài chính. Tuy nhiên, phải đến khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 149/QĐ-NH5 ngày 27/5/1995, sau đó là Nghị định 64/CP của Chính phủ ngày 9/10/1995 và Thông tư 03/TT-NH5 của Ngân hàng Nhà nước ngày 9/2/1996, thì hoạt động này mới được sự điều chỉnh cụ thể của pháp luật. Sau khi Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) được ban hành, hoạt động cho thuê tài chính ngày càng được điều chỉnh một cách chi tiết và hệ thống (tại Điều 20, Điều 61 đến Điều 63). Các văn bản dưới luật lần lượt ra đời để cụ thể hoá Luật các tổ chức tín dụng, trong đó đáng chú ý nhất là Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Cho thuê tài chính vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là một dạng cho thuê tài sản mà theo đó, tổ chức tín dụng cho khách hàng quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, với điều kiện khách hàng phải trả tiền thuê. Tuy nhiên, không phải một giao dịch cho thuê tài sản nào của tổ chức tín dụng cũng được coi là cho thuê tài chính. Xét về mặt bản chất, giao dịch cho thuê tài chính có những đặc điểm nổi bật sau đây: Thứ nhất, cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó, tổ chức tín dụng chuyển giao một khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng tiến hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ thể (máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 11 of 19 hoặc động sản khác) để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thoả thuận. Tính chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch cho thuê tài chính cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này. Tổ chức tín dụng được bảo đảm về khả năng hoàn trả của khách hàng đối với khoản tín dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê. Cũng tương tự như pháp luật một số quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam ghi nhận cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm của đối tượng cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao thường từ một năm trở lên. Thứ hai, cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu (bên cho thuê) được chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình thức thuê tài sản thông thường theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động cho thuê tài chính, bên cho thuê thường chỉ giữ quyền sở hữu “danh nghĩa” đối với tài sản cho thuê (quyền này cho phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn những quyền năng cụ thể đối với tài sản cho thuê được chuyển giao hầu như hoàn toàn cho bên thuê. Điều này được lý giải bởi bản chất tín dụng của hoạt động cho thuê tài chính: Tổ chức tín dụng chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín dụng, còn việc sử dụng khoản tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng (bên thuê). Đặc điểm này đã được Uỷ ban về chuẩn mực kế toán quốc tế ghi nhận: “Cho thuê tài chính là loại cho thuê có khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản”. Cụ thể hoá những đặc trưng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, quy định của pháp luật hiện hành ghi nhận giao dịch cho thuê tài chính phải có một trong những dấu hiệu sau đây:  Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên;  Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại;  Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê;  Tổng số tiền thuê tài sản theo thoả thuận it nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Cho thuê tài chính được phân loại thành nhiều phương thức tuỳ theo từng tiêu chí phân loại. Một số tài liệu phân loại cho thuê tài chính dựa theo nguồn gốc sở hữu hoặc nguồn gốc tài chính của tài sản thuê mà theo đó, cho thuê tài chính bao gồm: Cho thuê đơn giản, cho thuê hợp vốn, cho thuê bắc cầu, bán và cho thuê lại v.v.. Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài chính mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê. Khi kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Đối với phương thức này, số tiền thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết hợp đồng và Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 12 of 19 khi chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao. Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài sản mà theo đó, tài sản thuê không đương nhiên được chuyển giao quyền sở hữu khi chấm dứt hợp đồng thuê. Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp hơn giá trị của tài sản tại thời điểm thuê. Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê. Giá chuyển nhượng (nếu có) sẽ được các bên thương lượng dựa trên giá trị còn lại của tài sản thuê. 3.1.4.2. Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện Hiện nay, pháp luật về cho thuê tài chính còn tồn tại nhiều bất cập. Những bất cập này không những làm giảm hiệu quả điều chỉnh pháp luật, mà còn hạn chế rất nhiều khả năng kinh doanh của tổ chức tín dụng trong hoạt động cho thuê tài chính. Thứ nhất, theo quy định của khoản 3 Điều 1 Nghị định 16/2001/NĐ-CP: “Hoạt động cho thuê tài chính trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện qua các công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam”, đồng thời khẳng định: Công ty cho thuê tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng (tại Điều 2 văn bản đã dẫn). Quy định như vậy là không công bằng đối với loại hình tổ chức tín dụng là ngân hàng, đồng thời không phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng (văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn nghị định trên) trong điều chỉnh về hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung cũng như hoạt động cho thuê tài chính nói riêng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật Các tổ chức tín dụng thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Như vậy có nghĩa rằng, ngân hàng hoàn toàn có thể được thực hiện hoạt động cho thuê tài chính vì đây là một hình thức cấp tín dụng, chứ hoạt động này không chỉ dành riêng cho công ty cho thuê tài chính như quy định tại Nghị định 16/2001/NĐ-CP Thứ hai, hiện nay pháp luật chỉ cho phép tổ chức tín dụng tiến hành cho thuê tài chính với đối tượng là động sản. Sở dĩ bất động sản không thể là đối tượng của hoạt động cho thuê tài chính là do quy định tại Điều 73 Luật các tổ chức tín dụng mà theo đó, tổ chức tín dụng không được trực tiếp kinh doanh bất động sản. Để giải thích cho quy định này, có thể đưa ra ba lý do chính:  Một là, thị trường bất động sản ở Việt Nam hiện nay quá thất thường, không có quy luật rõ ràng và tiềm ẩn quá nhiều rủi ro;  Hai là, tính thanh khoản của thị trường bất động sản ở Việt Nam hiện nay là quá kém;  Ba là, bất động sản là tài sản bảo đảm thông dụng, và việc để tổ chức tín dụng thực hiện kinh doanh bất động sản có thể gây ra các rủi ro đạo đức. Tuy nhiên cả ba lý do trên chỉ là sự giải thích được coi là tương đối thoả đáng đối với hình thức cấp tín dụng cho vay, mà không hợp lý đối với hoạt động cho thuê tài chính. Sẽ không có gì đáng ngại cho khả năng thu hồi vốn của tổ chức tín dụng khi đối tượng cho thuê tài chính là bất động sản, bởi vì : Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 13 of 19  Một là, quyền sở hữu tài sản thuộc về bên cho thuê, do đó, nếu bên thuê vi phạm hợp đồng thì bên cho thuê có thể thu hồi tài sản cho thuê;  Hai là, bên thuê phải thanh toán đầy đủ tiền thuê và số tiền này theo tính toán là đảm bảo cho bên cho thuê thu hồi cả gốc và lãi;  Ba là, các bên vẫn có quyền thoả thuận việc áp dụng các biện pháp bảo đảm cho khả năng thanh toán tiền thuê của bên thuê. Bên cạnh đó, hiện nay, thị trường cho thuê bất động sản mà chủ yếu là cho thuê văn phòng đang có nhu cầu rất lớn, việc để cho tổ chức tín dụng với sức mạnh tài chính vượt trội là người đứng ngoài cuộc sẽ không có lợi cho bất kỳ ai. Điều 73 Luật các tổ chức tín dụng theo hướng loại trừ hạn chế này đối với hoạt động cho thuê tài chính, như vậy mới góp phần làm cho thị trường cho thuê tài chính phát triển tương xứng với tiềm năng của nó, để tạo ra khả năng đầu tư tốt hơn cho nền kinh tế, có lợi cho các doanh nghiệp trong kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ ba, quy định pháp luật hiện hành về phương thức xử lý tài sản thuê để thu hồi vốn trong trường hợp bên thuê không thanh toán đủ tiền thuê khi hợp đồng chấm dứt trước hạn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Nghị định 16/2001/NĐ-CP, công ty cho thuê tài chính có thể chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước hạn trong những trường hợp sau đây: - Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính; - Bên thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng cho thuê tài chính; - Bên thuê bị phá sản, giải thể; - Người bảo lãnh bị phá sản, giải thể và bên cho thuê không chấp thuận đề nghị chấm dứt bảo lãnh hoặc đề nghị người bảo lãnh khác thay thế của bên thuê. Trong những trường hợp trên, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Nghị định 16/2001/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2005/NĐ-CP), nếu bên thuê không thanh toán đầy đủ tiền thuê thì: - Công ty cho thuê tài chính có quyền thu hồi ngay lập tức tài sản cho thuê mà không chờ có phán quyết của Toà án và yêu cầu bên thuê phải thanh toán ngay toàn bộ số tiền thuê chưa trả theo hợp đồng; - Sau khi thu hồi tài sản cho thuê, trong thời gian tối đa là 60 ngày, bên cho thuê phải xử lý xong tài sản cho thuê. Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản cho thuê dùng để thanh toán khoản tiền còn thiếu của bên thuê và các chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi tài sản cho thuê. Nếu số tiền thu được không đủ thanh toán, bên thuê có trách nhiệm thanh toán số tiền còn thiếu đó cho bên cho thuê; - Trường hợp bên thuê đã hoàn trả một phần số tiền thuê phải trả và công ty cho thuê tài chính đã xử lý xong tài sản cho thuê, nếu số tiền thu được vượt quá số tiền thuê phải trả theo hợp đồng và các chi phí phát sinh trong quá trình thu hồi tài sản cho thuê thì công ty cho thuê tài chính phải hoàn trả cho bên thuê số tiền chênh lệch đó; Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 14 of 19 - Trong thời gian bên cho thuê xử lý tài sản thuê, nếu bên thuê hoàn trả được toàn bộ số tiền thuê theo hợp đồng thì bên cho thuê chuyển quyền sở hữu tài sản thuê cho bên thuê như trường hợp đã hoàn thành hợp đồng thuê. Ví dụ: Công ty cho thuê tài chính X ký hợp đồng cho thuê tài chính với Công ty TNHH Y, tài sản thuê là chiếc xe ôtô TOYOTA trị giá 500 triệu, thời gian thuê là 24 tháng, số tiền thuê hàng tháng là 10 triệu đồng. Công ty Y thanh toán đầy đủ được 1 năm thì không trả tiền thuê nữa. Nếu theo quy định trên, công ty cho thuê tài chính X có quyền thu hồi lại chiếc xe và đem bán đấu giá. Số tiền bán xe thu được là 380 triệu. Như vậy, sau khi trừ đi số tiền thuê còn thiếu là 12 tháng x 10 triệu/tháng = 120 triệu, số tiền còn lại là 260 triệu, công ty cho thuê tài chính X phải trả cho công ty Y. Chỉ cần một tính toán đơn giản cũng có thể thấy sự vô lý nếu quy định trên đây được áp dụng. Số tiền mà công ty cho thuê tài chính X phải bỏ ra ban đầu là 500 triệu, còn số tiền thu về chỉ là toàn bộ tiền thuê 240 triệu. Như vậy, công ty Y không những được sử dụng xe mà còn được lợi số tiền 140 triệu đồng! Nguyên nhân của sự bất cập này được lý giải phần nào khi xem xét quá trình hoàn thiện pháp luật về cho thuê tài chính. Trước khi ban hành Nghị định 65/2005/NĐ-CP, theo Nghị định 16/2001/NĐ-CP, chỉ có một trường hợp cho thuê tài chính mà theo đó, tổng số tiền thuê phải tương đương với giá trị tài sản tại thời điểm ký kết hợp đồng. Cũng tại Điều 28 Nghị định này, trong những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 27, bên cho thuê có quyền thu hồi tài sản cho thuê và đòi bồi thường nếu bên thuê không trả đầy đủ tiền thuê. Quy định này có sự bất cập ở chỗ, trong trường hợp tổng số tiền thuê lớn hơn giá trị của tài sản hoặc bên thuê được chuyển giao quyền sở hữu sau khi chấm dứt hợp đồng thuê, rõ ràng rất bất lợi cho bên thuê vì họ phải thanh toán toàn bộ tiền thuê (nghĩa là đã đảm bảo quyền lợi cho bên cho thuê), nhưng vẫn không được sở hữu tài sản thuê. Có thể nói, Điều 28 được sửa đổi theo Nghị định 65/2005/NĐ-CP đã khắc phục được bất cập này nhưng lại vướng vào một bất cập khác do một nguyên nhân là: Khái niệm cho thuê tài chính cũng được chính văn bản này sửa đổi theo hướng mở rộng hơn rất nhiều. Thứ tư, pháp luật còn có quy định bất cập về quản lý, sử dụng và trích khấu hao đối với tài sản cố định thuê tài chính. Theo Quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ tài chính ban hành Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định thì về nguyên tắc, doanh nghiệp đi thuê tài chính tài sản cố định phải quản lý, sử dụng và trích khấu hao như đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Đối với việc thuê tài sản cố định không thoả mãn điều kiện cho thuê tài chính thì được coi là thuê hoạt động (thuê vận hành) và trong trường hợp này, bên cho thuê có nghĩa vụ trích khấu hao chứ không phải bên thuê. Vấn đề là ở chỗ, trong Quyết định 206/2003/QĐ-BTC lại định nghĩa một cách rõ ràng về cho thuê tài chính y hệt như Nghị định 16/2001/NĐ-CP trước khi sửa đổi, nên rất nhiều trường hợp là thuê tài chính theo sự sửa đổi của Nghị định 65/2005/NĐ-CP không được coi là cho thuê tài chính theo Quyết định này.Trong khi đó, theo Quyết định 731/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 15/6/2004 ban hành Quy chế tạm thời về hoạt động cho thuê vận hành của các công ty cho thuê tài chính thì đối với hoạt Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 15 of 19 động cho thuê vận hành, nghĩa vụ thuế (có liên quan đến nghĩa vụ trích khấu hao tài sản cố định) của công ty cho thuê tài chính được thực hiện theo quy định của Bộ tài chính. Nên chăng, cần thiết phải sửa đổi Quyết định 206/2003/QĐ-BTC theo hướng bỏ việc định nghĩa thế nào là cho thuê tài chính, để việc áp dụng được thuận lợi và rõ ràng hơn.” Trên đây là một số bất cập cơ bản của pháp luật hiện hành về hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính. Để hình thức cấp tín dụng này ngày càng thể hiện được vai trò của nó trong việc khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh, cần thiết phải có những sửa đổi pháp luật cho phù hợp 3.2. Thực trạng và giải pháp 3.2.1. Thực trạng cho thuê tài chính ở Việt Nam Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau 11 năm có mặt, thị trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 11 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau. Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150 tỉ đồng - rất nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại (thường là trên 1.000 tỉ đồng). Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Hoạt động CTTC ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại một số vấn đề sau: Thứ nhất là việc quy định nguồn vốn huy động còn có những bất cập. Theo đó pháp luật Việt Nam quy định số vốn đầu tư cho các DN đi vay không được vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty. Trên thực tế những quy định này đang gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC. Bởi vì với quy định như trên phần lớn việc đầu tư chỉ dừng lại ở các DN có quy mô vừa và nhỏ. Việc huy động được nguồn vốn cũng như khả năng tích luỹ của các công ty CTTC là rất khó khăn trong khi đó việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn gần như không thực hiện được vì phải có sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Thứ hai, hoạt động CTTC của chúng ta hiện nay còn phát triển khá manh mún chưa có định hướng chiến lược phát triển trong tương lai, trong đó vấn đề nhu cầu thị trường chưa được tập trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn. Không những thế hoạt động thuê mua ở Việt Nam cho đến nay còn khá đơn điệu, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn và phần lớn các công ty CTTC đều chưa thành lập được hệ thống các chi nhánh. Điều đó cũng giải thích tại sao tuy ra đời từ khoảng năm 1997 nhưng đến nay cả nước mới chỉ có 9 công ty CTTC. Thứ ba, phải kể đến hạn chế rất phổ biến hiện nay đó là các công ty CTTC chưa thiết lập được một mối quan hệ sâu rộng đến các cơ sở cung ứng máy móc, thiết bị...Và đội ngũ cán bộ của công ty còn thiếu những chuyên gia giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến, điều này sẽ làm công ty mất đi tính chủ động khi tham gia thị trường. Thứ tư, việc phân biệt giữa giao dịch CTTC và các giao dịch cho thuê thông thường khác (cho thuê vận hành) chưa thật sự rõ ràng. Hoạt động CTTC là hình thức tín dụng trung và dài hạn thông qua hợp đồng CTTC, còn hợp đồng cho thuê vận hành là hình thức tín dụng ngắn hạn thông qua hợp đồng cho thuê tài sản. Nếu Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 16 of 19 hợp đồng cho thuê tài sản nào không đáp ứng được yêu cầu của CTTC thì được xem là hợp đồng cho thuê vận hành. (Theo quy định của quốc tế và Mục 6- "Thuê tài sản" của Chuẩn mực kế toán Việt Nam). Với quy định như vậy hợp đồng cho thuê vận hành của các công ty CTTC chịu sự quản lý của NHNN còn có rất nhiều các DN khác cho thuê vận hành tài sản có giá trị rất lớn nhưng lại không chịu sự quản lý như trên. Thứ năm, vấn đề quyền được thu hồi tài sản khi bên thuê vi phạm hợp đồng cũng là một trong những vấn đề gây nhiều bàn cãi. Trên thực tế quyền này gần như không thể thực hiện được vì bên thuê thường không chịu giao tài sản, nếu không có sự hỗ trợ của các cơ quan thi hành pháp luật. Việc bán tài sản cho bên thứ ba lại phải được sự đồng ý của Bộ Thương mại và như vậy nảy sinh vấn đề truy thu thuế nhập khẩu? Liệu có nghịch lý không khi mà chủ sở hữu lại không có quyền định đoạt đối với tài sản của mình? Một vấn đề nữa thường được nhắc đến hiện nay chính là vấn đề quáng cáo, tuyên truyền cho các công ty CTTC. Có thể nói mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam từ khoảng năm 1997 đến nay nhưng nhìn chung các công ty CTTC còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Trên thị trường Việt Nam hiện nay rất nhiều DN cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị...nhưng thay vì đến các công ty tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các DN này lại tìm đến ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để được vay vốn khó hơn rất nhiều. Thực trạng trên một mặt là do thói quen khó thay đổi của các DN ở Việt Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt động kinh doanh CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi ở Việt Nam. Đặc biệt pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định đối tượng CTTC là các máy móc...và các động sản khác chứ chưa quy định đối tượng cho thuê là các bất động sản. Điều này trái với thông lệ quốc tế và nhu cầu của thị trường, vì thế chúng ta cần nhanh chóng nghiên cứu và điều chỉnh những quy định này. Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì: Thứ nhất, doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu. Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại... Thứ hai, giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 17 of 19 Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra. Thứ ba, hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn. Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính. 3.2.2. Giải pháp thúc đẩy cho thuê tài chính Phát triển thị trường cho thuê tài chính là một yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hội nhập của nước ta hiện nay. Vì vậy người viết xin nêu ra một số giải pháp như sau: Một là, lựa chọn doanh nghiệp nhỏ và vừa là mục tiêu chính, vì theo đánh giá của các chuyên gia, các doanh nghiệp này được coi là yếu, thể hiện ở sáu chữ M trong tiếng Anh là Man Power (nguồn nhân lực); Management (quản trị); Machinery (máy móc, công nghệ); Materials (vật tư); Marketing (tiếp thị), và cuối cùng là Money (vốn). Bên cạnh đó còn có một thực tế là có đến 50% doanh nghiệp phải giải thể hoặc phải tái cơ cấu sau sáu năm hoạt động. Hiện nay, ở Việt Nam số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp. Hơn nữa, xét về bản chất, đây là một “khoản vay tài chính” và phải trả lãi (trên cơ sở tính phí thuê tài chính được trả cho đến khi hết hạn hợp đồng), và đương nhiên đã là một “khoản vay” thì rủi ro liên quan đến vay vốn luôn luôn hiện hữu và có thể dẫn đến phải áp dụng các biện pháp, thậm chí là biện pháp phá sản bất cứ khi nào nếu doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Do đó, để thúc đẩy thị trường cho thuê tài chính hoạt động có hiệu quả đòi hỏi sự phát triển của chính cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, bởi chính các doanh nghiệp là khách hàng và là mục tiêu hướng tới của các công ty cho thuê tài chính. Hai là, từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động liên quan đến dịch vụ cho thuê tài chính trong Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP đối tượng tài sản để cho thuê tài chính chỉ là các động sản, đây là một trong những bất cập cần được sửa đổi. Ngoài ra, các quy định về phương thức xử lý, quản lý, sử dụng, trích khấu hao tài sản thuê tài chính cũng nên chỉnh sửa cho phù hợp với thông lệ quốc tế... Ba là, nhà nước, các hiệp hội và chính các công ty cho thuê tài chính cần phải quảng bá rộng rãi hơn nữa dịch vụ của mình đến cộng đồng doanh nghiệp. Bốn là, các công ty cho thuê tài chính cố gắng giảm các loại chi phí đầu vào nhằm hạ giá dịch vụ để thu hút khách hàng. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 18 of 19 4. PHỤ LỤC 4.1. Một số công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam TT Tên Công ty Giấy phép Trụ sở Vốn điều lệ 1 Công ty CTTC NH Sài Gòn Thương Tín 04/GP-NHNN 12/04/2006 278 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P8, Q3, TP Hồ Chí Minh 100 tỷ đồng 2 Cty CTTC ANZ-VTRAC (100% vốn nước ngoài) 14/GP- CTCTTC 19/11/1999 14 Lê Thái Tổ, Hà Nội 5 Triệu USD 3 Cty CTTC I - NH Nông nghiệp & PTNT 06/GP- CTCTTC 27/08/1998 Số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà nội 150 tỷ đồng 4 Cty CTTC II - NH Nông nghiệp & PTNT 07/GP- CTCTTC 27/08/1998 422 Trần Hưng Đạo, P2, Quận 5, TPHCM 150 tỷ đồng 5 Cty CTTC II NH Đầu tư và Phát triển VN 11/GP-NHNN 17/12/2004 Lầu 6 Cao ốc 146 Nguyễn Công Trứ, Q1, TP Hồ Chí Minh 150tỷ đồng 6 Cty CTTC Kexim (KVLC) (100% vốn nước ngoài) 02/GP- CTCTTC 20/11/1996 Tầng 9 Diamond Plaza, 34 Lê Duẩn, QI, TPHCM 13 Triệu USD 7 Cty CTTC NH Đầu tư và Phát triển VN 08/GP- CTCTTC 27/10/1998 191 Bà Triệu, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội 102 tỷ đồng 8 Cty CTTC NH Công thương VN 04/GP- CTCTTC 20/03/1998 18 Phan Đình Phùng, Hà Nội 105 tỷ đồng 9 Cty CTTC NH Ngoại thương VN 05/GP- CTCTTC 25/05/1998 T3, Nhà 10b Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội 100 tỷ đồng 10 Cty CTTC Quốc tế VN (VILC) (liên doanh) 01/GP-TCTTC 28/10/1996 Sài Gòn Tower, 29 Lê Duẩn, Q1,TPHCM 5 Triệu USD (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước) Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. Tiểu luận: CHO THUÊ TÀI CHÍNH – THỰC TRẠNG & GIẢI PHÁP Page 19 of 19 5. TỔNG KẾT Cho thuê tài chính (CTTC) được xem là giai đoạn phát triển cao của hoạt động tín dụng thuê mua và được đánh giá là một hình thức mới để đầu tư vốn vào tài sản sản xuất. Với những ưu thế nổi bật như hạn chế rủi ro, tiết kiệm chi phí, thủ tục tương đối đơn giản, không phải thế chấp ... CTTC ngày nay đang là một loại hình kinh doanh dịch vụ được ưa chuộng trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển. Với xu hướng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa như hiện nay, sự ra đời của các công ty nhất là các công ty vừa và nhỏ sẽ không ngừng phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi cho loại hình cho thuê tài chính ngày càng phát triển và trở thành một lựa chọn hàng đầu cho sự mở rộng và phát triển của các doanh nghiệp trong tương lai. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTiểu luận- Cho thuê tài chính - thực trạng & giải pháp.pdf
Luận văn liên quan