Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường Việt Nam là một quá trình
vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các nước vào thực tiễn Việt Nam phù hợp
với định hướng của Đảng và Nhà nước. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, kiểm
toán Việt Nam ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Từ khi đi vào hoạt động đến nay kiểm toán Việt Nam đã
góp phần to lớn cho sự phát triển của đất nước, dần khẳng định được vị thế
quan trọng của mình trong nền kinh tế.
33 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5332 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuẩn mực quốc tế về đạo đức nghềnghiệp của kiểm toán viên và vận dụng vào điều kiện của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự tách biệt giữa các cá thể, các sự vật, hiện
tượng với nhau trong các quá trình nghiên cứu.Tính độc lập này được thể hiện
ở chỗ khi xem xét mỗi sự vật, hiện tượng cụ thể chúng ta thường tách chúng
ra so với các sự vật, hiện tượng khác để từ đó có thể nghiên cứu chuyên sâu
về vấn đề đó, xem xét tách biệt này giúp chúng ta nhìn nhận một cách thấu
đáo về sự vật, hiện tượng để từ đó chúng ta có thể đưa ra những nhận xét
chính xác nhất về bản chất của sự vật, hiện tượng đó.
1.2-Đặc điểm khái niệm độc lập trong kiểm toán
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Tính độc
lập trong kiểm toán là việc có một quan điểm vô tư khi thực hiện các cuộc
khảo sát kiểm toán, đánh giá kết quả và công bố báo cáo kiểm toán.Tính độc
lập nhất định phải được xem như một trong những phẩm chất chủ yếu của
kiểm toán viên. Tính độc lập của kiểm toán viên có thể được bộc lộ: độc lập
trong việc lên chương trình kiểm toán; độc lập điều tra và độc lập làm báo
cáo. Độc lập trong việc lên chương trình có nghĩa là kiểm toán viên được tự
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 9
do sắp xếp công việc theo cách mà họ thấy là thích hợp. Quyền tự do này đặc
biệt quan trọng trong bối cảnh của mối quan hệ đang phát triển giữa một công
ty kế toán và công ty đó. Cách tiếp cận của kiểm toán viên phải thay đổi cho
phù hợp khi công ty khách hàng phát triển lên và mở ra những hoạt động mới.
Độc lập điều tra sẽ đảm bảo cách thức họ thực hiện công việc kiểm toán.
Kiểm toán viên phải có quyền tự do tiếp cận các tài liệu và sổ sách ghi chép
của công ty. Độc lập làm báo cáo tạo điều kiện cho kiểm toán viên nâng cao
tính chính xác của báo cáo kiểm toán . Lý do mà rất nhiều người sử dụng
thuộc nhiều thành phần khác nhau sẵn sàng dựa vào báo cáo của kiểm toán
viên về tính trung thực của các báo cáo tài chính là sự tin tưởng của họ vào
quan điểm vô tư đó. Điều cơ bản không chỉ là kiểm toán viên phải giữ thái độ
độc lập khi thực thi trách nhiệm của mình mà còn cả những người sử dụng
các báo cáo tài chính phải có niềm tin vào tính độc lập đó. Trong quá trình
kiểm toán, kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi
bất kì lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực,
khách quan và độc lập nghề nghịêp của mình.
Các kiểm toán viên không chỉ cố gắng giữ vị trí độc lập đối với các
đơn vị được Kiểm toán và các bên liên quan khác mà cần phải khách quan
với các vấn đề xem xét. Nó không chỉ quan trọng đối với các kiểm toán viên
có vị trí độc lập và công bằng mà các bên thứ ba cũng xem xét họ như vậy.
Trong tất cả các vấn đề liên quan đến công việc Kiểm toán thì tính độc
lập của kiểm toán viên không nên bị ảnh hưởng bởi các lợi ích cá nhân hoặc
lợi ích bên ngoài. Tính độc lập có thể bị ảnh hưởng, ví dụ như định kiến của
kiểm toán viên về các cá nhân, đơn vị kiểm toán hoặc bởi các vấn đề liên
quan đến tài chính hoặc cá nhân có thể gây lên các mâu thuẫn về lợi ích. Các
kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có
quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ phần, cho vay hoặc
vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký
kết hợp đồng gia công, dịch vụ đại lý tiêu thụ hàng hoá,... kểm toán viên
không được nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ họ
hàng thân thuộc (như bố, mẹ, vợ,chồng, con cái, anh chị em ruột), với những
người trong bộ máy quản lý (hội đồng quản trị, ban giám đốc, các trưởng, phó
phòng và những người tương đương) trong đơn vị được kiểm toán.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 10
Kiểm toán viên không được vừa làm dịch vụ kế toán (như trực tiếp ghi
chép, giữ sổ kế toán và lập báo cáo tài chính) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho
cùng một khách hàng.Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính
độc lập thì kiểm toán viên phải tìm cách loại bỏ hạn chế này. Nếu không loại
bỏ được thì kiểm toán viên phải nêu rõ điều này trong báo cáo kiểm toán.
1.3- Vai trò của tính độc lập trong kiểm toán
Tính độc lập là một yêu cầu cơ bản và quan trọng trong hệ thống chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán. Đối với kiểm toán viên ,tính độc lập là
yêu cầu bắt buộc khi thực hiện các cuộc kiểm toán, nó là tiền đề cơ bản bảo
đảm cho công tác kiểm tra, kiểm soát có hiệu lực và hiệu quả. Đặc biệt,khi
kiểm tra tài chính công thì kết quả kiểm tra của các cơ quan, đơn vị , các tổ
chức...nói chung, nhất là các cơ quan đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước
nói riêng đều chịu sự tác động của nhiều mặt. Vì vậy, tính độc lập đầy đủ của
cơ quan kiểm toán, cũng như kiểm toán viên phải được bảo đảm về mặt pháp
lý, để cho nó có đủ quyền hạn thực thi công việc. Tính độc lập đầy đủ của
kiểm toán viên là yếu tố quan trọng trực tiếp tác động đến chất lượng kiểm
toán, bởi vì trong hoạt động kiểm toán mọi ý kiến đánh giá, nhận xét và kết
luận của kiểm toán viên đều dựa vào bằng chứng kiểm toán và tuân thủ pháp
luật không chịu sự tác động của bất kì sức ép nào, nhất là sức ép quyền lực...
việc thực hiện nghiêm túc chuẩn mực này giúp kiểm toán viên đưa ra những
kết luận kiểm toán có tính chính xác cao,nâng cao chất lượng hoạt động kiểm
toán cũng như nâng cao độ tin cậy của các báo cáo kiểm toán.
2. Tính chính trực
2.1- Khái niệm về tính chính trực
Chính trực là khái niệm chỉ sự thẳng thắn, trung thực của mỗi cá nhân,
tập thể khi thực hiện, nhận xét đánh giá về một sự vật, hiện tượng nào đó .Sự
thẳng thắn, trung thực này là một yêu cầu quan trọng để chúng ta có thể đưa
ra các kết luận về các sự vật hiện tượng một cách thẳng thắn, chính xác mà
không bị chi phối bởi các nguyên nhân bên ngoài khác, sự trung thực trong
khi nhìn nhận đó giúp chúng ta có được cái nhìn đúng đắn, tổng thể về sự vật
hiện tượng và đưa ra nhận xét đúng với những gì mình thấy được.
2.2-Đặc điểm của tính chính trực trong kiểm toán
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 11
Tính chính trực là phẩm chất cốt lõi trong hệ thống chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp. Kiểm toán viên phải là người thẳng thắn, trung thực trong quá
trình thực hiện kiểm toán. Các kiểm toán viên có nghĩa vụ phải đạt đến một
chuẩn mực cao về hành vi trong quá trình làm việc và trong quan hệ của họ
với các nhân viên của đơn vị kiểm toán. Để có sự tin cậy từ phía người sử
dụng các kết quả của báo cáo kiểm toán, các kiểm toán viên không được để
bị nghi ngờ và không được bị chỉ trích về hành vi của mình. Đây là một yêu
cầu quan trọng đối với kiểm toán viên vì nó ảnh hưởng đến độ tin cậy của các
báo cáo kiểm toán. Vì nếu không thực hiện đánh giá một cách đúng đắn thì
không thể tạo được niềm tin cho người sử dụng báo cáo kiểm toán, điều này
sẽ làm mất ý nghĩa của kiểm toán. Vì thế khi thực hiện kiểm toán luôn yêu
cầu các kiểm toán viên phải thực hiện một cách đúng đắn, trung thực các
chuẩn mực nghiệp vụ cũng như các chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp.Phẩm
chất trung thực cũng đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc
khách quan và độc lập, duy trì các chuẩn mực tốt nhất về hành vi nghề
nghiệp, đưa ra các quyết định vì lợi ích của công chúng và áp dụng phẩm chất
trung thực tuyệt đối trong khi thực hiện kiểm toán .
Một yêu cầu quan trọng về tính chính trực của kiểm toán viên nữa là
kiểm toán viên phải có chính kiến rõ ràng không thay đổi ý kiến do sự tác
động của bên ngoài, yêu cầu này đòi hỏi kiểm toán viên luôn phải giữ vững
lập trường, quan điểm của mình khi thực hiện kiểm toán. Trong các cuộc
kiểm toán, thường có rất nhiều nhân tố tác động đến kiểm toán viên để phục
vụ cho một lợi ích riêng nào đó, nếu kiểm toán viên không có lòng kiên định
thì sẽ bị lay động từ đó có thể dấn đến việc thay đổi ý kiến của mình làm cho
các báo cáo kiểm toán không chính xác với thực tế. Điều này làm cho hoạt
động kiểm toán mất ý nghĩa của hoạt động kiểm toán. Do vậy, kiểm toán viên
cần phải có đủ bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng rõ ràng không chịu sự
chi phối từ bên ngoài để từ đó có thể đưa ra các kết luận kiểm toán chính xác,
tạo sự tin cậy cho người sử dụng các báo cáo kiểm toán.
2.3-Vai trò của tính chính trực
Tính chính trực đòi hỏi kiểm toán viên trong khi thực hiện các nghiệp
vụ kiểm toán phải tuân thủ cả về hình thức và tinh thần các chuẩn mực về đạo
đức và các chuẩn mực về Kiểm toán. Vì thế, yêu cầu về tính chính trực đối
với kiểm toán viên có ý nghĩa quan trọng trong công tác kiểm toán, giúp cho
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 12
kiểm toán viên thực hiện tốt công việc của mình để từ đó đưa ra những báo
cáo kiểm toán chính xác, nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm toán.
3. Khách quan
3.1-Khái niệm tính khách quan
Tính khách quan được hiểu khi xem xét về một sự vật, hiên tượng nào
đó, chúng ta phải nghiên cứu xem xét nó một cách vô tư, theo chính kiến của
bản thân mà không bị chi phối bởi những nhân tố bên ngoài, để có thể đưa ra
kết luận về sự vật, hiện tượng đó một cách trung thực và chính xác.
3.2-Đặc điểm của tính khách quan trong kiểm toán
Yêu cầu lập báo cáo trung thực và chính xác, các kết luận và ý kiến chỉ
nên bị ảnh hưởng bởi các bằng chứng được thu thập theo các chuẩn mực
Kiểm toán của cơ quan Kiểm toán tối cao.
Tính khách quan trong kiểm toán được qui định bởi hai điều kiện cơ
bản sau:
Thứ nhất, là vấn đề trung lập về chính trị. Điều quan trọng đối với một
kiểm toán viên là phải duy trì cả hai yếu tố trung lập về chính trị trong thực tế
cũng như trong nhận thức. Do vậy điều quan trọng đối với các kiểm toán viên
là phải xem xét các tác động của bất kỳ loại hoạt động nào liên quan đến
chính trị mà họ có thể. Kiểm toán viên phải duy trì tính độc lập đối với các
ảnh hưởng về chính trị nhằm mục đích thực hiện công việc kiểm toán của họ
một cách công bằng. Điều này liên quan đến các kiểm toán viên các cơ quan
kiểm toán nhà nước làm việc chặt chẽ với các cơ quan hành pháp và lập pháp
hoặc các tổ chức khác thuộc Chính phủ được uỷ quyền bởi pháp luật để xem
xét các báo cáo của cơ quan kiểm toán tối cao.
Thứ hai, là vấn đề mâu thuẫn về lợi ích. Khi các kiểm toán viên tư vấn
hoặc cung cấp các dịch vụ khác ngoài dịch vụ kiểm toán cho một đối tượng
kiểm toán thì cần thiết phải lưu ý xem các dịch vụ này có dẫn tới sự mâu
thuẫn về lợi ích hay không. Cụ thể là các kiểm toán viên nên đảm bảo rằng
việc tư vấn và các dịch vụ như vậy không bao gồm các trách nhiệm hoặc
quyền hạn quản lý, điều mà luôn cần phải gắn với ban lãnh đạo của đơn vị
được kiểm toán.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 13
Các kiểm toán viên nên bảo vệ tính độc lập và tránh bất kì sự mâu
thuẫn về lợi ích nào bằng cách từ chối nhận quà biếu và tiền thưởng được coi
như nhân tố ảnh hưởng tới tính độc lập và trung thực của kiểm toán viên. Cần
phải tránh các mối quan hệ với ban quản lý và nhân viên ở đơn vị được kiểm
toán và các đơn vị khác có thể gây ảnh hưởng, làm ảnh hưởng hoặc tác động
đến khả năng của kiểm toán viên hoạt động một cách độc lập.
Các kiểm toán viên không nên sử dụng chức vụ chính thức của mình để
đề bạt mục đích riêng và nên tránh các mối quan hệ làm nảy sinh nguy cơ
tham nhũng hoặc gây ra mối nghi ngờ về tính trung thực và khách quan của
kiểm toán viên.
Các kiểm toán viên không nên sử dụng các thông tin nhận được trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ làm phương tiện để mưu cầu lợi ích cá nhân cho
bản thân họ hoặc cho người khác, tương tự như vậy kiểm toán viên không nên
để lộ thông tin mang đến những mặt lợi không đúng hoặc không hợp lý cho
các tổ chức khác, cũng như không sử dụng thông tin như vậy làm hại người
khác.
3.3-Vai trò của tính khách quan
Như trên đã phân tích, yêu cầu về tính khách quan của kiểm toán viên
trong khi thực hiện kiểm toán có ý nghĩa vô cùng quan trọng.Tính khách quan
này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt động kiểm toán. Vì khi thực
hiện kiểm toán, nếu kiểm toán viên thực hiện tốt yêu cầu về tính khách quan,
điều này sẽ giúp cho kiểm toán viên có được cái nhìn đúng đắn đối với các
báo cáo tài chính để từ đó kiểm toán viên đưa ra các kết luận kiểm toán với độ
chính xác cao, đáp ứng tốt yêu cầu mà cuộc kiểm toán đặt ra.
Tóm lại, yêu cầu về tính khách quan đối với kiểm toán viên khi thực
hiện kiểm toán là nhân tố quyết định chất lượng hoạt động kiểm toán.
4. Năng lực chuyên môn và tính thận trọng
4.1-Khái niệm năng lực chuyên môn
Năng lực chuyên môn là khái niệm chỉ khả năng thực hiện công việc của một
người nào đó, dựa trên trình độ, kĩ năng nghề nghiệp mà họ có được thông
qua quá trình học tập, rèn luyện tích luỹ được.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 14
Sự thận trọng có nghĩa là khi thực hiện bất kì một công việc nào cũng
cần phải thực hiện một cách tỉ mỉ, từng bước. Luôn đề cao cảnh giác đề
phòng các tình huống có thể xảy ra trong quá trình thực hiện để hoàn thành
công việc với chất lượng cao nhất.
4.2- Đặc điểm của năng lực chuyên môn và tính thận trọng trong kiểm toán
Các kiểm toán viên có nhiệm vụ để tự họ thực hiện công việc vào tất cả
mọi thời điểm theo cách thức chuyên nghiệp và áp dụng các chuẩn mực
chuyên môn cao trong công việc nhằm mục đích thực hiện trách nhiệm một
cách tốt nhất.
Các kiểm toán viên cần có kiến thức đầy đủ liên quan đến các chuẩn
mực kiểm toán được áp dụng, các chính sách, các quy trình và việc thực hành
cũng như chuẩn mực kế toán và môi trường tài chính được áp dụng. Tương tự
như vậy, kiểm toán viên phải hiểu sâu về các vấn đề liên quan đến luật pháp,
thể chế, tổ chức bao trùm hoạt động của đối tượng kiểm toán.
Các kiểm toán viên cần có sự thận trọng cao về nghề nghiệp trong quá
trình thực hiện và kiểm soát công tác kiểm toán và trong quá trình chuẩn bị
báo cáo liên quan.
Các kiểm toán viên nên sử dụng các phương pháp và thông lệ có chất
lượng cao nhất trong quá trình kiểm toán. Trong khi thực hiện kiểm toán và
đưa ra báo cáo, kiểm toán viên có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và
các chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận.
Các kiểm toán viên cần có trách nhiệm về nghề nghiệp trong việc tự
học hỏi và nâng cao trình độ của mình thông qua giáo dục và đào tạo. Đây là
yêu cầu cần thiết đối với công tác kiểm toán hiện nay.
4.3-Vai trò của năng lực chuyên môn và tính thận trọng
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng là một yêu cầu bắt buộc đối
với kiểm toán viên. Vì kiểm toán là công việc phức tạp đòi hỏi độ chính xác
cao, do đó kiểm toán viên thực hiện công việc đó phải được đào tạo chuyên
môn cao tương xứng để có thể giải quyết được công việc đó. Nếu người thực
hiện công việc đó không đáp ứng được đủ yêu cầu về năng lực chuyên môn
thì sẽ không thể hoàn thành được công việc kiểm toán đó hoặc nếu có hoàn
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 15
thành thì chất lượng của cuộc kiểm toán đó sẽ không chính xác, giảm chất
lượng của hoạt động kiểm toán.
Khi thực hiện kiểm toán các kiểm toán viên phải luôn có ý thức thận
trọng, tỉ mỉ trong từng công đoạn tiến hành, đề phòng các sai phạm có thể xảy
ra trong quá trình kiểm toán như bỏ qua các nghi vấn có thể dẫn đến sai sót
làm sai các kết luận kiểm toán. Do vậy, trong chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
kiểm toán yêu cầu các kiểm toán viên luôn phải tự rèn luyện nâng cao trình độ
chuyên môn cũng như tu dưỡng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để phục vụ
tốt cho công tác kiểm toán đạt chất lượng cao.
5. Tính bí mật nghề nghiệp (bảo mật)
5.1-Khái niệm tính bí mật nghề nghiệp
Tính bí mật nghề nghiệp là yêu cầu giữ kín những thông tin nghề
nghiệp đã thu được trong quá trình hoạt động, không tiết lộ các thông tin này
cho đối tượng khác để phục vụ cho lợi ích riêng tư nào đó.
5.2-Đặc điểm của tính bí mật trong kiểm toán
Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá trình
kiểm toán, không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép
của người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của
pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình. Nếu kiểm
toán viên tiết lộ những thông tin này cho những người ở bên ngoài hoặc cho
các nhân viên ở công ty khách hàng là những người bị ngăn chặn không cho
tiếp cận với các thông tin đó, mối quan hệ giữa họ với ban quản trị sẽ bị căng
thẳng nghiêm trọng và trong trường hợp cực đoan sẽ là nguyên nhân làm hại
đến công ty khách hàng. Hơn nữa, được tiễp cận với các bản tư liệu sẽ cho
các nhân viên của công ty khách hàng một cơ hội để làm thay đổi thông tin
trên các tư liệu đó. Vì những lý do này, luôn luôn phải cẩn trọng để bảo vệ
các bản tư liệu.
Thường thì, tư liệu của kiểm toán viên có thể cung cấp cho người khác
chỉ khi được phép của công ty khách hàng. Đây là điều kiện cho dù một kiểm
toán viên bán kết quả làm việc của mình cho công ty kiểm toán khác hoặc
muốn cho phép kiểm toán viên kế tục xem xét các tư liệu lập cho công ty
khách hàng trước đây. Tuy vậy, sẽ không cần có sự cho phép nếu các tư liệu
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 16
đó được Toà án triệu đòi hoặc được sử dụng như một bộ phận của chương
trình xem xét chất lượng tự nguyện với các công ty kiểm toán khác. Nếu tư
liệu bị triệu đòi, công ty khách hàng phải được thông báo ngay. Công ty
khách hàng và luật sư hợp pháp của công ty có thể phản đối trát đòi này.
Bốn trường hợp ngoại lệ đối với các qui định về tính bảo mật:
Thứ nhất, khi có yêu cầu của toà án theo luật định, thông tin được gọi
là thông tin bí mật nếu vụ kiện tụng không yêu cầu cá nhân cung cấp thông tin
đó, cho dù có yêu cầu của toà. Thông tin do khách hàng cung cấp cho luật sư
hoặc cho một bệnh nhân cung cấp cho thầy thuốc là những thông tin bí mật
mà kiểm toán viên có được từ khách hàng không phải là thông tin bí mật.
Thứ hai, các nghĩa vụ liên quan đến tiêu chuẩn nghiệp vụ, tức là yêu
cầu nghề nghiệp được đặt cao hơn tính bảo mật theo các quy định trong các
chuẩn mực kiểm toán và pháp luật các quốc gia. Khi kiểm toán viên phát hiện
sai sót của báo cáo kiểm toán trước đó đã công bố thì kiểm toán viên phải có
trách nhiệm khắc phục sai sót đó và phải công bố lại báo cáo.
Thứ ba, kiểm tra chéo. Khi một kiểm toán viên hoặc một công ty kiểm
toán tiến hành một cuộc kiểm tra chéo về các quá trình kiểm soát chất lượng ở
công ty kiểm toán khác, thì điều đương nhiên là sẽ xem xét một số tư liệu.
Yêu cầu sự cho phép từ phía khách hàng có thể hạn chế sự tiếp cận của các
nhà kiểm tra chéo và sẽ mất thời gian cho các bên liên quan. Thông thường,
những người kiểm tra chéo phải bảo mật thông tin có được và không được sử
dụng các thông tin đó vào các mục đích khác.
Thứ tư, đáp ứng yêu cầu của uỷ ban kỷ luật thuộc các Hiệp hội kế toán,
kiểm toán. Nếu hội đồng xét xử thuộc bộ phận đạo đức của Hiệp hội kế toán,
kiểm toán căn cứ vào nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp buộc tội người hành
nghề không thực hiện nghiệp vụ đầy đủ, các thành viên của hội đồng sẽ yêu
cầu xem xét các tư liệu. Phải ngăn ngừa công ty kiểm toán từ chối điều tra
viên tiếp cận với các tư liệu bằng cách nói chúng là các thông tin bảo mật.
5.3-Vai trò của tính bí mật
Các kết luận mà kiểm toán viên đưa ra trong các báo cáo kiểm toán có
trách nhiệm pháp lý cao, những thông tin trong báo cáo đó phải tuyệt đối
chính xác và phải được giữ bí mật không được tiết lộ khi chưa có sự cho phép
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 17
của những người có thẩm quyền. Vì những thông tin này rất dễ bị đem sử
dụng cho các mục đích khác không hợp pháp. Do vậy, yêu cầu về tính bảo
mật các thông tin của kiểm toán nhằm thực hiện tốt công tác kiểm toán, phục
vụ cho những lợi ích chính đáng, hợp pháp đối với những người sử dụng các
báo cáo kiểm toán.
6. Tư cách nghề nghiệp
6.1-Khái niệm tư cách nghề nghiệp
Tư cách nghề nghiệp là cụm từ chỉ các điều kiện mà một người nào đó
phải có đủ để có thể thực hiện công việc. Nó có thể bao gồm các điều kiện về
chuyên môn, các điều kiện về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, các hiểu biết
xã hội ... để có thể thực hiện công việc theo đúng chuyên môn .
6.2- Đặc điểm của tư cách nghề nghiệp trong kiểm toán
Kiểm toán viên phải có trình độ và khả năng phù hợp, đáp ứng yêu cầu
với nhiệm vụ được giao và hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất. Chuẩn
mực này giúp kiểm toán viên xác định điều kiện cần có và yêu cầu về năng
lực nghề nghiệp của kiểm toán viên .
Để đảm bảo đủ năng lực nghề nghiệp,yêu cầu kiểm toán viên :
Phải được đào tạo theo những cấp học nhất định và bồi dưỡng trình độ
cần thiết theo qui định của kiểm toán Nhà nước cả lý luận và thực tế về quản
lý nhà nước và nghiệp vụ chuyên ngành tương xứng với tính chất,phạm vi và
mức độ phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán được giao.
Kiểm toán viên phải thường xuyên học tập nắm vững sự phát triển, đổi
mới về kế toán, kiểm toán ở trong nước cũng như nước ngoài và những qui
định của pháp luật có liên quan.
Phải có năng lực kiểm tra, đánh giá, đề xuất các kiến nghị và điều hành,
phối hợp trong khi thực hiện nhiệm cụ được giao.
Phải chủ động, sáng tạo, có khả năng thích ứng với mọi nhiệm vụ được
giao, biết ứng xử phù hợp với sự đa dạng,phong phú và phức tạp của nhiệm
vụ cũng như các đối tượng kiểm toán.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 18
Phải được trang bị đầy đủ năng lực để sử dụng thành thạo các phương
pháp nghiệp vụ và phương tiện hiện đại trong hoạt động kiểm toán.
Đồng thời, chuẩn mực về tư cách đạo đức nghề nghiệp yêu cầu kiểm
toán viên luôn luôn có ý thức bảo vệ uy tín nghề nghiệp, không được gây ra
những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
6.3- Vai trò của tư cách nghề nghiệp
Phải có đủ tư cách nghề nghiệp khi thực hiện công việc là điều kiện vô
cùng quan trọng đối với một kiểm toán viên vì công việc kiểm toán đòi hỏi
phải có trình độ cao, độ tin cậy lớn. Tư cách nghề nghiệp phải được phát huy
mức tối đa để thực hiện công việc một cách hiệu quả nhất.
Chính vì thế, tư cách nghề nghiệp đòi hỏi kiểm toán viên không ngừng
học hỏi, trau rồi kiến thức trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tu dưỡng rèn luyện
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để có thể đáp ứng tốt cho yêu cầu của công
việc.
7. Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn
7.1- Khái niệm tuân thủ chuẩn mực chuyên môn
Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn có thể được hiểu là việc thực hiện các
yêu cầu về chuyên môn trong khi thực hiện công việc. Các yêu cầu này được
cụ thể trong từng lĩnh vực, nghành nghề, nó là các chuẩn mực có tính chất bắt
buộc người thực hiện phải tuân theo nhằm thực hiện công việc một cách hiệu
quả nhất.
7.2- Đặc điểm chuẩn mực chuyên môn trong kiểm toán
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ
thuật và chuẩn mực chuyên môn đã được qui định trong chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam(hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận) và
các qui định pháp luật hiện hành. Các chuẩn mực qui định các nguyên tắc, thủ
tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản
liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính.
Để đảm bảo sự thận trọng và bảo mật nghề nghiệp, yêu cầu kiểm toán
viên :
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 19
Phải thực hiện các phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ tương ứng với
mức độ phức tạp của cuộc kiểm toán; phải thực hiện nhiệm vụ với trách
nhiệm nghề nghiệp cao; thận trọng trước mọi tình huống, không vội vã đưa ra
những đánh giá hoặc phán quyết khi chưa chắc chắn và hiểu biết đầy đủ vấn
đề cũng như chưa có bằng chứng xác thực. Kiểm toán viên phải có thái độ
hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện
kiểm toán và luôn luôn ý thức rằng có thể tồn tại những tình huống dẫn đến
những sai sót trọng yếu trong các báo cáo tài chính. Ví dụ: khi nhận được bản
giải trình của Giám đốc đơn vị, kiểm toán viên không được thừa nhận ngay
các giải trình đó đã là đúng, mà phải tìm được những bằng chứng cần thiết
chứng minh cho giải trình đó.
Khi sử dụng các chuyên gia bên ngoài làm tư vấn hoặc sử dụng các kết
quả của kiểm toán viên độc lập, kiểm toán viên nội bộ, các kết luận thanh
tra... kiểm toán viên phải xem xét, kiểm tra, sử dụng có chọn lọc và phải chịu
trách nhiệm về tính xác thực của các số liệu, tài liệu và bằng chứng liên quan
đến kết luận kiểm toán.
Kiểm toán viên phải có tác phong thận trọng, tỉ mỉ để công việc đạt
chất lượng cao, trước khi đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá phải kiểm tra xem
xét lại tính trung thực, hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ làm việc, tính đầy đủ, chính
xác, thích hợp của các bằng chứng và kết quả tính toán.
Kiểm toán viên phải có trách nhiệm giữ bí mật quốc gia, tính bí mật
nghề nghiệp của các đối tượng được kiểm toán về những thông tin mà kiểm
toán viên đã thu thập được trong quá trình kiểm toán. Không được để lộ bất
cứ thông tin kiểm toán nào cho người thứ ba khi không có sự uỷ quyền hoặc
trách nhiệm nghề nghiệp và theo quy định của pháp luật.
7.3- Vai trò của việc tuân thủ chuyên môn
Công việc kiểm toán là một công việc phức tạp đòi hỏi độ chính xác
cao. Vì vậy, trong kiểm toán luôn đề cao việc tuân thủ các chuẩn mực chuyên
môn .Việc tuân thủ tốt các chuẩn mực này sẽ giúp cho hoạt động kiểm toán có
hiệu quả cao, góp phần giải quyết tốt các vấn đề kinh tế - xã hội.
III. Việc vận dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán vào Việt
Nam hiện nay và một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 20
1. Việc vận dụng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên ở
Việt Nam hiện nay
1.1-Tình hình vận dụng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp vào Việt Nam
Có thể nói, việc hình thành và phát triển của kiểm toán Việt Nam là
nhu cầu không thể thiếu của nền kinh tế thị trường, nhằm tăng cường công tác
kiểm tra, kiểm soát và giám sát quá trình sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
tài chính. Kiểm toán Việt Nam còn non trẻ, hoạt động kiểm toán mới chỉ thực
sự bắt đầu trong những năm gần đây khi mà nền kinh tế thị trường đòi hỏi
phải tăng cường công tác quản lý, giám sát các hoạt động kinh tế – hội.
Trong quá trình hoạt động của mình, kiểm toán Việt Nam đã vận dụng
hệ thống các chuẩn mực của kiểm toán quốc tế, đồng thời từng bước xây dựng
và hoàn thiện các chuẩn mực riêng cho mình. Tuy nhiên, trong quá trình vận
dụng các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, việc vận dụng các chuẩn mực này cho
phù hợp với tình hình trong nước là một việc rất phức tạp đòi hỏi phải trải qua
một quá trình lâu dài. Quá trình vận dụng các chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Trong giai đoạn hiện
nay, việc vận dụng các chuẩn mực quốc tế về đạo đức nghề nghiệp ở nước ta
còn có nhiều hạn chế:
Thứ nhất, Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các kiểm toán viên còn
bị hạn chế rất nhiều. Đây là một vấn đề nổi cộm trong giai đoạn hiện nay,
công tác đào tạo kiểm toán viên của chúng ta còn thấp chưa đáp ứng được
những yêu cầu của công việc kiểm toán đặt ra. Đa số kiểm toán viên của
chúng ta hiện nay đều là những người có nhiều kinh nghiệm trong công tác kế
toán chuyển sang. Thực chất họ được đào tạo về chuyên nghành kiểm toán là
rất ít. Do trình độ chuyên môn của các kiểm toán viên thấp nên trong quá
trình thực hiện kiểm toán sẽ dẫn đến nhiều sai xót, những sai xót này có thể là
rất nghiêm trọng đôi khi làm sai đi các kết quả kiểm toán. Những sai phạm
như vậy sẽ làm mất đi ý nghĩa của cuộc kiểm toán.
Thứ hai, Theo chuẩn mực của kiểm toán quốc tế thì tính độc lập và
khách quan của kiểm toán viên có ý nghĩa quan trọng trong khi thực hiện
kiểm toán cũng như việc đưa ra các kết luận kiểm toán.Tuy nhiên, tính độc
lập và khách quan của kiểm toán viên Việt Nam hiện nay vẫn chưa được thực
hiện một cách triệt để vì thế các kết luận kiểm toán chưa có hiệu lực pháp lý
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 21
cao. Do cơ chế tổ chức hành chính của chúng ta hiện nay còn nhiều bất hơp
lý, vị trí của kiểm toán viên vẫn chưa được xác định rõ ràng, chưa tương xứng
với chức năng kiểm toán. Kiểm toán viên còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố,
sức ép về mặt địa vị, lợi ích... làm ảnh hưởng từ việc lập kế hoạch kiểm toán,
thực hiện kiểm toán tới việc ra các kết luận kiểm toán.
Thứ ba, Việc vận dụng chuẩn mực quốc tế về tính trung thực của kiểm
toán viên là một yêu cầu quan trọng đối với kiểm toán nước ta. Tuy nhiên,
việc thực hiện yêu cầu này còn gặp rất nhiều trở ngại. Tính trung thực của
kiểm toán viên hiện nay còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Cụ thể, như về mặt
lợi ích, đây là một trong những nguyên nhân làm cho kiểm toán viên vi phạm
tính trung thực. Hiện nay, tiền lương trả cho các kiểm toán viên còn thấp chưa
tương xứng với những gì họ bỏ ra, điều này làm ảnh hưởng đến tâm lý làm
việc của họ, đây cũng là khe hở dễ bị kẻ xấu lợi dụng để nhằm thay đổi các
kết luận kiểm toán theo hướng có lợi cho mình. Đã có không ít những kiểm
toán viên đã bị của cải vật chất làm loá mắt, vì lợi ích trước mắt của bản thân
mà họ đã bất chấp lợi ích chính đáng của tập thể làm việc không đúng với
lương tâm mình, dẫn đến các gian lận trong báo cáo. Chúng ta cần phải chấn
chỉnh lại điều này, không thể vì con sâu bỏ rầu lồi canh làm mất uy tín của
nghề kiểm toán. Xây dưng đội ngũ kiểm toán viên phải có đủ năng lực trình
độ, phẩm chất đạo đức, lập trường tư tưởng vững vàng và thật sự phải có lòng
yêu nghề . Có như vậy, công tác kiểm toán mới hoạt động thực sự có hiệu quả
nâng cao chất lượng kiểm toán.
1.2- Nguyên nhân của những hạn chế trong việc vận dụng các chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp kiểm toán
Như trên đã trình bày, kiểm toán Việt Nam thực sự hoạt động mạnh mẽ
trong những năm gần đây do sự đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Do vậy, việc áp dụng các chuẩn mực kiểm toán quốc tế nói
chung và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán nói riêng vào điều kiện
Việt Nam còn có nhiều hạn chế. Nguyên nhân nào gây ra những hạn chế
này?
Có thể trả lời rằng các nguyên nhân gây ra hạn chế gồm:
a. Nguyên nhân khách quan
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 22
* Lịch sử phát triển và phát triển của kiểm toán Việt Nam còn non trẻ
so với các nước trên thế giới. Vì vậy, chúng ta chưa bắt kịp với trình độ quản
lý chung của thế giới, điều này cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến các
hạn chế mà chúng ta gặp phải.
* Kiểm toán chỉ thực sự có tác dụng to lớn trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, điều kiện vận dụng của chúng ta hiện nay còn chưa phù hợp, trình
Điều kiện kinh tế của nước ta còn thấp, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu
cầu cho hoạt động kiểm toán.
* Cũng cần biết rằng, trong một thời gian dài chúng ta đã thực hiện cơ
chế quản lý kế hoạch hoá tập trung. Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ
thực sự bắt đầu trong những năm gần đây, nền kinh tế này còn non trẻ chưa
thực sự hoàn thiện thống nhất, nên rất khó cho việc vận dụng một cách đầy đủ
các chuẩn mực vào điều kiện hiện nay.
* Thói quen cũ của chúng ta vẫn chưa được loại bỏ, điều này làm ảnh
hưởng đến tác phong và khả năng thực hiện công việc của kiểm toán viên.
b. Nguyên nhân chủ quan
* Công tác đào tạo năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp cho kiểm toán viên hiện nay còn thấp chưa đáp ứng đầy đủ được yêu
cầu của kiểm toán nói chung, vì vậy chất lượng hoạt động của kiểm toán Việt
Nam còn thấp. Vấn đề này đang được chúng ta từng bước hoàn thiện. Trong
một tương lai không xa trình độ kiểm toán viên Việt Nam sẽ được nâng lên
ngang tầm với trình độ kiểm toán viên trong khu vực và trên thế giới. Nâng
cao chất lượng hoạt động kiểm toán.
* Truyền thống văn hoá của chúng ta còn nhiều điều không phù hợp
yêu cầu của kiểm toán đặt ra, chúng ta phải tập cho mình thói quen tác phong
nghề nghiệp. Đặc biệt, tính cố hữu bảo thủ, không chịu tự tìm tòi học hỏi
luôn thụ động trước công việc. Đây là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng
đến quá trình vận dụng các chuẩn mực kiểm toán quốc tế vào Việt Nam.
Chúng ta cần khắc phục nhược điểm này để cho quá trình tiếp thu học hỏi,
nhanh chóng nắm bắt các chuẩn mực để tham gia vào quá trình hội nhập kinh
tế.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 23
*chưa xây dựng được hệ thống chuẩn mực phù hợp với tình hình Việt
Nam. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm, mà chúng ta đang vấp phải.
Chúng ta vẫn chưa ban hành được những điều cấm kiểm toán viên không
được làm. Chúng ta chỉ có được lòng tin với mọi người khi chúng ta có đạo
đức trong sáng, không vì cái này, cái khác mà bẻ cong con số, để nói không
đúng sự thật. Đây là một vấn đề rất đáng để cho chúng ta suy nghĩ. Chúng ta
cần có một cơ chế mới, một cơ chế giám sát chặt chẽ.
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp của kiểm toán viên Việt Nam
2.1- Nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
kiểm toán Việt Nam
Để xây dựng được hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nói riêng
và chuẩn mực kiểm toán nói chung, chúng ta phải xuất phát từ những nhận
thức đúng đắn về bản chất của lĩnh vực được đề cập đến và mối quan hệ của
nó với các lĩnh vực khác liên quan. Những nhận thức này lại phải được đặt
trong mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng cùng với hàng loạt
các mối quan hệ khác nữa. Đồng thời để thống nhất về nhận thức, những vấn
đề về bản chất và các mối liên hệ này cũng cần được thể chế hoá đầy đủ.
Trong thực tiễn kiểm toán của các nước, nhất là ở những nước mới hình
thành hoạt động kiểm toán, các chuẩn mực cụ thể thường được nghiên cứu,
vận dụng từ những chuẩn mực quốc tế phổ biến.Trong trường hợp này việc
lựa chọn những chuẩn mực cụ thể cũng không thể tách rời đặc điểm riêng của
từng nước, đặc biệt là truyền thống văn hoá và trình độ tổ chức hoạt động
được chi phối.
Đối với nước ta kiểm toán ra đời và đã trở thành một công cụ đắc lực,
có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát tình
hình tài chính, tổ chức sắp xếp nhân lực trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản
xuất cũng như trong các đơn vị hành chính sự nghiệp. Điều cơ bản là làm sao
sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính, tài nguyên, các tài sản quốc gia tại
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 24
tất cả các cơ quan, các tổ chức xã hội. Điều này đòi hỏi kiểm toán phải sớm
hoàn thiện các chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, trong đó
có cả việc xây dựng một qui trình kiểm toán. Bởi vì các chuẩn mực này sẽ là
cơ sở, là đòn bẩy thúc đẩy sự pháp triển và đảm bảo chất lượng cho mỗi cuộc
kiểm toán và hoạt động kiểm toán nói chung.
Việc xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán dựa
trên bốn nguyên tắc cơ bản sau:
* Nguyên tắc 1: Xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
phải xuất phát từ thực tiễn quản lý phải phù hợp với môi trường pháp luật,
môi trường hạch toán kế toán của Việt Nam.
Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán cũng như
các loại chuẩn mực khác luôn gắn chặt với việc thực hiện chuẩn mực dó bởi
đạo lý và lẽ công bằng phát sinh từ ý chí và quyền lực. Mặt khác, ý chí và
quyền lực lại xuất phát từ thực tại. Xét về mặt biện chứng, đây là mối liên hệ
giữa thực tiễn phải có trước song khoa học phải có tác dụng hướng dẫn. Do
đó, điều khẳng định ở đây là chuẩn mực không phải là cái vĩnh cửu, lại càng
không thể có trước thực tiễn, cũng không thể không có khi thực tiễn tồn tại.
Kiểm toán phải có chuẩn mực và cần hoàn thiện từng bước.
Nhận thức được điều này và nhất là trong điều kiện của Việt Nam đầu
tư nước ngoài ngày càng tăng trong khi mỗi nhà đầu tư đều mong muốn rằng
đầu tư của họ phải có hiệu quả cao nhất và do đó, họ thường gắn với một đơn
vị kiểm toán cụ thể. Sự lớn mạnh của các nhà đầu tư đều đòi hỏi phạm vi hoạt
động của kiểm toán (chủ thể của kiểm toán) phải mở rộng tương ứng.Trên
thực tế, hoạt động kiểm toán không còn là một tổ chức, một quốc gia mà nó
đã vượt qua biên giới của từng nước xâm nhập đan xen lẫn nhau trên cùng
một địa bàn, trên cùng một nước. Việc quản lý từng chương trình, dự án nói
riêng và quản lý ở từng mức cao hơn- quản lý ở tầm vĩ mô ngày gia tăng, đa
dạng và phức tạp. Do đó, cơ sở để tiến hành quản lý tốt nhất thì cần thiết phải
có một khung pháp lý, một hệ thống pháp luật quy định cụ thể. Chúng ta
không thể xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp tách rời
hay trái ngược với hệ thống pháp lý chung. Mà kiểm toán lại là hoạt động gắn
với mọi hệ thống pháp lý. Do đó, xây dựng hệ thống pháp lý kiểm toán không
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 25
thể không xem xét kỹ lưỡng những quan hệ pháp lý trong từng phân hệ, từng
văn bản, điều khoản cụ thể...
Trong hệ thống pháp lý về kiểm toán lại có thể có nhiều hình thức khác
nhau: sắc lệnh, pháp lệnh, chuẩn mực, quy chế...Mỗi hình thức này lại có thể
thực hiện trên các chủ thể kiểm toán khác nhau: kiểm toán nhà nước, kiểm
toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Vấn đề đặt ra cần phải thống nhất các văn
bản pháp lý xây dựng chung hoặc riêng cho các chủ thể kiểm toán.
* Nguyên tắc 2: Xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
phải xuất phát từ yêu cầu và nguyên tắc của hoạt động kiểm toán
Như ta đã biết, yêu cầu của một cuộc kiểm toán nếu xét về khía cạnh
chất lượng của cuộc kiểm toán thì tính hiệu quả, hiệu lực và tính kinh tế được
đề cập đến một cách rõ nét:
Tính hiệu quả, là việc sử dụng các nguồn lực, các kết quả trong mối
quan hệ với đầu ra là đạt được các chỉ tiêu hoặc mục đích đề ra cho mỗi dự
án, chương trình kinh tế hoặc cho mỗi thời kỳ hoạt động của đối tượng kiểm
toán.
Tính kinh tế, được hiểu là việc tận dụng được mọi nguồn lực và phương
tiện hoạt động với chi phí thấp nhất cho mỗi mục tiêu đã được xác định liên
quan đến đối tượng và nội dung kiểm toán.
Tính hiệu lực, phản ánh mục tiêu đã được thực hiện hoá. Nó là phương
diện mà theo đó để đạt được các mục đích và mối quan hệ tác động giữa phần
dự đoán và phần thực tế của hoạt động đó.
Thực tế, chuẩn mực kiểm toán thể hiện ở hình thức luật pháp hay hệ
thống chuẩn mực cụ thể cũng phải xuất phát từ những cơ sở lý luận hoa học
cụ thể. Đó là những nhận thức đúng về bản chất của kiểm toán, loại hình kiểm
toán và đối tượng kiểm toán cụ thể. Đồng thời, khi xây dựng chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp kiểm toán thì việc tuân thủ những nguyên tắc trong việc thiết
kế nội dung cũng phải thống nhất. Có nghĩa là khi xây dựng các chuẩn mực
cụ thể vừa phải đáp ứng được đầy đủ các nguyên tắc mà không được mâu
thuẫn hay ngoại trừ một nguyên tắc nào khi xây dựng chuẩn mực kiểm toán
cụ thể. Mỗi nguyên tắc được đặt trong tổng thể các nguyên tắc khác, cùng làm
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 26
căn cứ cho việc xây dựng chuẩn mực kiểm toán được dễ ràng, hợp lý và khoa
học.
* Nguyên tắc 3: Xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
cần chọn lọc và sử dụng nhưng thành quả của chuẩn mực kiểm toán quốc tế.
Xuất phát từ quan điểm trong việc lựa chọn những chuẩn mực quốc tế
không thể không tách rời đặc điểm riêng của từng nước, đặc biệt là truyền
thống văn hoá và trình độ tổ chức, trình độ quản lý của từng quốc gia. Khi xây
dựng chuẩn mực kiểm toán nói chung và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nói
riêng cần có sự lựa chọn những chuẩn mực cụ thể phù hợp với những nét
riêng biệt của chúng ta về truyền thống đạo đức và đặc trưng về quản lý. Đối
với Việt Nam, tuy yêu cầu của mở cửa và hội nhập buộc chúng ta phải tiếp
cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, song chúng ta không thể vận dụng
một cách máy móc một hệ thống chuẩn mực chung nào đó của IFAC và
INTOSAI và chính các tổ chức kiểm toán quốc tế cũng chỉ rõ rằng: các quốc
gia, tuỳ vào điều kiện pháp lý và quản lý cụ thể của mình, cần xuất phát từ
chuẩn mực kiểm toán quốc tế để xây dựng một hệ thống chuẩn mực phù hợp.
Với định hướng phát triển riêng và những nét đặc thù quản lý riêng, việc tham
khảo chuẩn mực kiểm toán của các nước trong khu vực và trên thế giới là bổ
ích và cần thiết. Song cần phải nhận biết rõ nguyên tắc này để có phương
hướng rõ ràng trong việc hoạch định chi tiết các mối liên hệ cần hướng dẫn,
điều tiết, từng bước xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm
toán ở nước ta, đưa hoạt động kiểm toán Việt Nam lên một tầm cao mới
tương xứng với sự phát triển, hoàn thiện của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và tương thích với xu hướng hội nhập về kinh tế.
* Nguyên tắc 4: Xây dựng hệ thống chuẩn mực kiểm toán nói chung và
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán nói riêng, cần tính đến sự phát
triển lâu dài của kiểm toán Việt Nam.
Trên thế giới, hoạt động kiểm toán xuất hiện trước đây hàng trăm năm,
hệ thống chuẩn mực kiểm toán nói chung đã có bề dày lịch sử, kinh nghiệm
cũng như trình độ của họ về kiểm toán có thể nói đã đạt được một cung bậc
nhất định. Đối với Việt Nam, kiểm toán có thể xem xét như là mới bắt đầu.
Do vậy, trong quá trình từng bước xây dựng lĩnh vực này chúng ta cần phải có
những định hướng cụ thể cho sự phát triển của nó ở hiện tại cũng như trong
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 27
tương lai. Sự phát triển theo sau của kiểm toán Việt Nam cũng có nhiều
thuận lợi, chúng ta có thể kế thừa nhưng cái đã có trong hệ thống chuẩn mực
kiểm toán, có quyền lựa chọn các chuẩn mực cụ thể trong hệ thống chuẩn
mực quốc tế, đồng thời phát huy, sáng tạo ra những chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của thông tin, chúng ta cũng cần phải
có sự linh hoạt trong lĩnh vực hoạt động này, vi tính điện tử, điện toán là
những công cụ, là phương tiện không thể thiếu trong sự phát triển như vũ bão
cả về kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia. Do đó, khi xây dựng chuẩn mực
kiểm toán nói chung và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán nói riêng
chúng ta cần phải có sự tính toán đến sự phát triển đến kiểm toán Việt Nam.
Đây cũng là một trong những nguyên tắc không thể không đề cập đến khi xây
dựng hệ thống chuẩn mực kiểm toán ở Việt Nam trong điều kiện xuất hiện
mạng điện tử tin học, kinh tế tri thức, dựa chủ yếu trên công nghệ thông tin.
Việc tin học hoá hoạt động kiểm toán phải được tính đến trong chuẩn mực
kiểm toán.
2.2- Một số phương hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp kiểm toán ở Việt Nam
Quá trình xây dựng các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam bắt đầu chính
thức từ tháng 9/1997 sau Hội thảo về chuẩn mực kiểm toán được Bộ tài chính
và dự án EUROTAPVIET về kế toán và kiểm toán tổ chức tại Nha Trang. Đã
xác định phương hướng xây dựng chuẩn mực kiểm toán Việt Nam dựa trên cơ
sở các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và có những điều chỉnh thích hợp cho
Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế diễn ra nhanh chóng dẫn
đến sự gia tăng của nhu cầu thông tin toàn cầu đến nhiều lĩnh vực ngoài các
thông tin tài chính lịch sử truyền thống. Vì vậy, nó có tác động tích cực phát
triển các chuẩn mực liên quan đến việc kiểm toán các thông tin khác ngoài
thông tin tài chính. Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế đã cho chúng ta
một cơ hội lớn để phát triển kinh tế, tuy nhiên nó cũng đặt ra những thách
thức cho tiến trình xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm
toán nói riêng và chuẩn mực kiểm toán Việt Nam nói chung. Đòi hỏi chúng
ta phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán để đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 28
Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn của hoạt động kiểm toán
ở Việt Nam . Em xin mạnh dạn đề xuất một số phương hướng nhằm xây dựng
và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam
như sau:
Thứ nhất, hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán được
xây dựng dựa trên cơ sở các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và có xem xét các
chuẩn mực kiểm toán các quốc gia khác. Tuy nhiên, chúng ta cần phải xem
xét một cách có chọn lọc cho phù hợp với điều kiện ở Việt Nam. Tránh sự
vận dụng máy móc chuẩn mực quốc tế vì như vậy sẽ không phù hợp với tình
hình thực tiễn của Việt Nam. Việc xây dựng các chuẩn mực phù hợp với đặc
điểm của Việt Nam nhằm bảo đảm khả năng đưa chuẩn mực vào thực tiễn
hoạt động một cách có hiệu quả . Điều chỉnh, bổ sung những yếu tố riêng của
Việt Nam, phải được chuyển sang hình thức phù hợp với văn bản pháp quy
thay vì là các hướng dẫn nghề nghiệp như chuẩn mực quốc tế. Phải phù hợp
với cách nghĩ cách làm của người Việt Nam.
Thứ hai, việc xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp phải
hướng vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty kiểm toán
Việt Nam, đồng thời kiểm soát được chất lượng của các công ty kiểm toán
quốc tế hoạt động ở Việt Nam. Thực hiện điều này nhằm nâng cao chất lượng
kiểm toán Việt Nam ngang tầm chung của thế giới.
Thứ ba, xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
phải có khả năng ứng dụng cao trong thực tiễn công tác kiểm toán tại Việt
Nam. Điều này có nghĩa phải đảm bảo được các bên liên quan hiểu đúng và
áp dụng đúng trong thực tiễn hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Điều này liên
quan đến:
* Các hướng dẫn và giải thích về chuẩn mực cho các thành viên nghề
nghiệp cũng như cho xã hội.
* Trình độ của đội ngũ kiểm toán viên phải đủ để sử dụng các chuẩn
mực trong công việc.
* Chương trình đánh giá việc áp dụng các chuẩn mực trong thực tế, các
điều chỉnh bổ xung hoặc giải thích kịp thời trong quá trình áp dụng các chuẩn
mực.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 29
Thứ tư, xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
phải đồng bộ với hệ thống kế toán Việt Nam. Vì bản thân mối quan hệ giữa
hai lĩnh vực kế toán và kiểm toán đã đòi hỏi sự đồng bộ này, khi xây chuẩn
mực kiểm toán phải dựa trên chuẩn mực kế toán có liên quan.
Thứ năm, Quy trình xây dựng các chuẩn mực kiểm toán phải chuyển
sang chuyên nghiệp hoá để đáp ứng được nhu cầu phát triển của kiểm toán
Việt Nam.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 30
KẾT LUẬN
Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường Việt Nam là một quá trình
vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các nước vào thực tiễn Việt Nam phù hợp
với định hướng của Đảng và Nhà nước. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, kiểm
toán Việt Nam ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Từ khi đi vào hoạt động đến nay kiểm toán Việt Nam đã
góp phần to lớn cho sự phát triển của đất nước, dần khẳng định được vị thế
quan trọng của mình trong nền kinh tế.
Hoạt động kiểm toán Việt Nam dựa trên việc áp dụng các chuẩn mực
của kiểm toán quốc tế, đồng thời từng bước xây dựng hệ thống chuẩn mực
cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tuy nhiên, việc áp dụng chuẩn mực
kiểm toán nói chung và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán nói riêng
ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất hợp lý. Nhiều chuẩn mực không phù hợp
với điều kiện của nước ta trong khi chúng ta chưa xây dựng được hệ thống
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán cụ thể. Điều này đã ảnh hưởng lớn
tới chất lượng hoạt động kiểm toán, đây là thực trạng nhức nhối mà chúng ta
cần sớm khắc phục để đáp ứng được yêu cầu đổi mới nền kinh tế hội nhập với
khu vực và quốc tế hiện nay.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng kiểm toán, Nhà nước, cơ quan kiểm
toán Nhà nước phải bảo đảm các điều kiện cần thiết phục vụ cho hoạt động
kiểm toán, sớm xây dựng hoàn thiện hệ thống chuẩn mực chuẩn mực kiểm
toán. Đối với bản thân các kiểm toán viên phải không ngừng học tập, rèn
luyện để nâng cao trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn kiện
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (Nxb chính trị quốc gia 1996).
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (Nxb chính trị quốc gia 2001).
II. Giáo trình
1. Lý thuyết kiểm toán (Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội khoa kế
toán – Nhà xuất bản tài chính 1/2003).
2. Kiểm toán (Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh khoa kế
toán – kiểm toán, bộ môn kiểm toán – Nhà xuất bản thống kê 2001).
III. Sách tham khảo
1. Kiểm toán căn bản – PGS.TS Nguyễn Đình Hựu.
2. Cẩm nang kiểm toán viên nhà nước ( Kiểm toán nhà nước - Nxb chính
trị quốc gia 8-2000).
3. Kiểm toán ( AlVIN A.REN–––Nhà xuất bản thống kê)
III. Tạp chí.
1. Tạp chí kiểm toán
- Cần quan tâm hơn nữa tới văn hoá nghề nghiệp và đạo đức hành nghề
của kiểm toán viên ( Trích bài phát biểu của đ/c Đỗ Bình Dương- tại
hội nghị tổng kết ngành–– số 2/2003).
- Đạo đức nghề nghiệp dưới góc nhìn của kiểm toán viên
(Trần-Huấn –––– số 3/2003).
- Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo kiểm toán ở nước ta
trong những năm tới (PGS.TS Ngô Thế Chi ––số 4/2003).
- Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (TS.Mai Minh ––số
Xuân 2003).
- Các mối quan hệ cơ bản trong kiểm toán ( Phạm Ngọc Hữu –số
7/2000).
- Xây dựng đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước đủ về số lượng, bảo đảm
về chất lượng (TS.Trần Đức Quế––– số Xuân 2003).
- Một vài suy nghĩ về trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm
toán độc lập đối với các báo cáo được phát hành (Hoàng Giang––số
4/2001).
TR¦êNG §HKtqd HN §Ò ¸n m«n häc
Lª Thanh §¨ng KiÓm to¸n 43B 32
- Nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán (Đỗ thị Thục– tạp chí
kế toán)
2.Tạp chí kinh tế phát triển
- Vấn đề xây dựng chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (Vũ Hữu Đức - số
2/2000)
- Phương hướng xây dựng chuẩn mực kiểm toán Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay – số 2/2000).
–––––––@@@––––––––
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9_8946.pdf