LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tỷ giá hối đoái là công cụ quan trọng của mỗi quốc gia trong việc xác định các chính sách về tiền tệ, tín dụng và nhiều chính sách kinh tế khác có liên quan. Với chính sách tỷ giá hối đoái, chính phủ các quốc gia có thể đưa nền kinh tế thoát khỏi những cơn khủng hoảng và ngược lại cũng có thể vì một chính sách tỷ giá hối đoái không hợp lý đưa nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Thêm vào đó, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp, cân bằng cán cân thương mại luôn là những mục tiêu kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay; để thực hiện được những mục tiêu đó, tùy vào tình hình cụ thể mà áp dụng những chính sách tỷ giá phù hợp.
Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề tỷ giá hối đoái trong xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới cũng như tính cấp thiết của vấn đề này, chúng tôi đã chọn đề tài: “Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái – Kinh nghiệm một số nước và bài học cho Việt Nam ” cho bài tiểu luận này.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hiểu rõ hơn về mặt khái niệm và cơ sở lý luận của tỷ giá hối đoái, thực trạng của một số quốc gia trên thế giới, cụ thể là Nhật Bản trong những thời kỳ nâng giá đồng nội tệ, Trung Quốc với chính sách phá giá thành công nay đang chịu sức ép nâng giá, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm và những giải pháp điều hành chính sách tỷ giá hối đoái cho Việt Nam.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự tận tình quan tâm, giúp đỡ của Thạc sỹ Đặng Chí Thọ, người đã hướng dẫn chúng tôi hoàn thành bài tiểu luận này.
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2934 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái – Kinh nghiệm một số nước và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong một biên độ hẹp đã được định trước. Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi
ro của việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác do tỷ giá được cố
định. Tuy nhiên ngày nay nó ít được các nước sử dụng do gây ra các vấn đề
phụ thuộc của CSTT vào các biến động của bên ngoài và cán cân thanh toán
không thể tự động cân bằng.
2.2.2. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn
Tỷ giá hối đoái được xác định hoàn toàn tự do theo qui luật cung cầu của thị
trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTW. Chế độ tỷ
giá này được đánh giá là giúp cho CSTT quốc gia được độc lập, cán cân thanh
toán quốc tế được tự động điều chỉnh cho cân bằng. Tuy vậy, chế độ tỷ giá này
lại gây sự biến động thường xuyên của tỷ giá hối đoái, khiến cho hoạt động
chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác luôn hàm chứa rủi ro.
2.2.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
NHTW tiến hành can thiệp lên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ
giá, nhưng NHTW không cam kết duy trì một tỷ giá cố định hay biên độ dao
động nào xung quanh tỷ giá trung tâm. Nói cách khác, NHTW thực hiện các
nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để điều tiết thị trường ngoại hối, song can thiệp
của NHTW không nhằm mục đích để cố định tỷ giá như đối với các chế độ tỷ
giá cố định.
2.3. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái
2.3.1. Chính sách tỷ giá phục vụ cho mục tiêu cân bằng nội:
Khi các nguồn lực kinh tế của một quốc gia được sử dụng đầy đủ với
mức giá được duy trì ổn định thì quốc gia đó được xem là có tình trạng cân
bằng nội. Việc sử dụng không đầy đủ hay quá mức các nguồn lực đều dẫn đến
những hậu quả xấu và lãng phí ở các dạng khác nhau đối với nền kinh tế của
bất cứ quốc gia nào. Không những thế nó còn dẫn đến những biến động về
mức giá chung, làm cho giá trị thực tế của các đơn vị tiền tệ kém ổn định, dẫn
đến có tính chất hướng dẫn kém đối với các quyết định kinh tế và sẽ làm giảm
hiệu quả của nền kinh tế. Sự không ổn định của giá cả còn tác động làm thay
đổi và tăng tính rủi ro của các khoản nợ. Lợi ích của chủ nợ và con nợ sẽ bị
11
thay đổi khi giá cả thay đổi (đặc biệt là giá cả của tiền tệ). Kinh nghiệm thực
tế cho thấy, không phải mọi sự biến động của giá cả nói chung, của tỷ giá nói
riêng đều gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Thường chỉ có những biến
động không thể đoán trước mới gây ra những hậu quả nguy hại. Còn những
biến động trong giá cả có thể dự kiến được thì có khả năng khắc phục và
không gây nhiều tổn thất.
Vì vậy mục tiêu của chính sách tỷ giá là góp phần tránh tình trạng mất
ổn định của giá cả và ngăn chặn sự dao động lớn trong tổng sản phẩm. Trực
tiếp là chính sách tỷ giá phải góp phần tránh cho nền kinh tế rơi vào tình trạng
lạm phát hoặc giảm phát kéo dài và đảm bảo việc cung ứng tiền không tăng
lên nhanh quá hoặc chậm quá (không quá mở rộng cũng như không quá thắt
chặt).
2.3.2. Chính sách tỷ giá phục vụ cho mục tiêu cân bằng ngoại:
Mục tiêu cân bằng ngoại phụ thuộc vào nhiều biến số phức tạp và khó
định lượng nên rất khó xác định một cách cụ thể. Cách phổ biến hiện nay được
dùng để xem xét cân bằng ngoại là dựa vào trạng thái của cán cân tài khoản
vãng lai.
Một sự thâm hụt của cán cân tài khoản vãng lai hàm ý một nước đang đi
vay nợ của nước ngoài sẽ không phải là vấn đề gì nghiêm trọng nếu số tiền đi
vay đó được sử dụng để đầu tư có hiệu quả, đảm bảo trả được nợ trong tương
lai và có lãi. Tình hình sẽ thực sự nghiêm trọng, nếu một sự thâm hụt cán cân
tài khoản vãng lai lớn, kéo dài là kết quả của chính sách tài chính mở rộng quá
mức nhưng đồng thời không tạo ra những cơ hội đầu tư có hiệu quả. Đây
chính là trường hợp thường thấy ở nhiều nước đang phát triển, trong khi tìm
mọi cách tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài thì lại để một phần lớn
lượng vốn thu hút được sử dụng không hiệu quả.
Ngược lại, một sự dư thừa trong cán cân tài khoản vãng lai nói lên rằng
một nước đang tích tụ tài sản của họ ở nước ngoài. Sự khác nhau về các loại
lợi thế và chính sách giữa các nền kinh tế đảm bảo rằng các tài sản đầu tư ra
nước ngoài có thể đem lại lợi ích cao hơn cho cả nước đầu tư và nhận đầu tư.
Nhưng một dư thừa lớn, liên tục trong cán cân tài khoản vãng lai có thể dẫn
đến có ảnh hưởng nghiêm trọng đến những cân đối bên trong nền kinh tế.
Nhiều nguồn lực bị bỏ lãng phí không được sử dụng, sản xuất một số ngành bị
đình trệ, tăng trưởng giảm và thất nghiệp tăng. Sự dư thừa lớn trong cán cân
tài khoản vãng lai còn phản ánh sự vay nợ quá mức của nước ngoài, và nước
12
cho vay có thể không thu hồi được tài sản của mình nếu các nước đi vay
không sử dụng tài sản đó có hiệu quả (rủi ro về khả năng trả nợ của nước
ngoài).
Như vậy, mục tiêu cân đối bên ngoài đòi hỏi duy trì một tài khoản vãng
lai phải không thâm hụt hoặc dư thừa quá mức để tránh những hậu quả nghiêm
trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của một nước. Và chính sách tỷ giá
được lựa chọn phải có khả năng điều chỉnh trạng thái của tài sản vãng lai để
không rơi vào tình trạng mất cân bằng ngoại.
2.4. Mối quan hệ của chính sách tỷ giá hối đoái và thương mại
quốc tế
2.4.1. Các tác động của thương mại quốc tế đến tỷ giá hối đoái
nhìn từ góc độ cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán là những ghi chép về các giao dịch mà dân cư và
chính phủ một nước thực hiện với thế giới bên ngoài trong một khoảng thời
gian nhất định, thường là một năm. Cán cân thanh toán bao gồm các khoản
mục chủ yếu liên quan và tác động đến những thay đổi của tỷ giá. Đó là tài
khoản vãng lai, tài khoản vốn và tài khoản dự trữ chính thức. Chính trạng thái
không cân bằng trong các khoản mục của cán cân thanh toán là nguyên nhân
dẫn đến những thay đổi trong tỷ giá hối đoái.
*Tác động của tài khoản vãng lai đến tỷ giá hối đoái:
Tài khoản vãng lai ghi chép các hoạt động mua bán hàng hóa – dịch vụ, thu
nhập từ đầu tư và các khoản chuyển giao có liên quan đến tiền tệ của một
nước với nước khác. Trong đó, cán cân thương mại là nội dung quan trọng
nhất của tài khoản vãng lai. Những thay đổi trong cán cân thương mại có tác
động trực tiếp và quan trọng đến tỷ giá hối đoái. Do vậy, những yếu tố có khả
năng tác động làm thay đổi tình hình xuất nhập khẩu đều là những nhân tố tác
động đến tỷ giá hối đoái. Cách tiếp cận xác định tỷ giá hối đoái dài hạn đã chỉ
rõ những nhân tố làm thay đổi cung cầu ngoại tệ có liên quan trực tiếp đến sự
thay đổi của cán cân thương mại chính là: mức giá tương đối, chính sách bảo
hộ, năng suất lao động… Mọi sự biến đổi của các nhân tố này đều làm thay
đổi về cầu xuất nhập khẩu. Nếu những nhân tố làm cho cán cân thương mại
thặng dư (xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu) nước đó có khả năng tăng dự
trữ ngoại tệ, giảm tỷ giá hối đoái và tăng giá đồng nội tệ. Ngược lại, những
thay đổi về cầu xuất nhập khẩu làm tăng thâm hụt cán cân thương mại sẽ làm
giảm dự trữ ngoại tệ, dẫn đến tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ giảm giá.
13
*Tác động của tài khoản vốn đến tỷ giá hối đoái:
Tài khoản vốn ghi chép các giao dịch liên quan đến việc mua bán tài sản của
một nước với nước ngoài, bao gồm sự di chuyển của các nguồn vốn vay và
các nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Mọi nguồn vốn chảy vào một nước sẽ làm tăng
tài sản ngoại tệ của nước đó và bất cứ lượng vốn nào từ nước đó được chuyển
ra nước ngoài cũng đều làm suy giảm tài sản ngoại tệ của nước đó. Chính vì
vậy các nhân tố làm thay đổi luồng di chuyển của dòng vốn, làm thay đổi cán
cân tài khoản vốn đều có tác động làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị
trường tài sản. Tiếp theo, quan hệ cung cầu tài sản đến lượt nó sẽ làm thay đổi
tỷ giá hối đoái và giá trị của các đồng tiền.
2.4.2. Các tác động của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối
đoái đến thương mại quốc tế, thể hiện ở cán cân thanh toán:
Chính sách tỷ giá hối đoái tác động làm thay đổi cán cân thanh toán sẽ
dẫn tới những biến động trong ngoại thương. Từ đó sẽ có tác dụng thúc đẩy
hay kìm hãm sự phát triển của thương mại quốc tế. Do vậy, cán cân thanh toán
thay đổi tốt hay xấu thể hiện rõ nét khi tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối
đoái thay đổi, và được biểu hiện tập trung trước hết là đối với cán cân thương
mại – nội dung chủ yếu nhất của tài khoản vãng lai.
Tỷ giá và sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả
của hàng hóa dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷ giá thay đổi theo
hướng giảm sức mua đồng nội tệ thì giá cả hàng hóa dịch vụ của nước đó sẽ
tương đối rẻ so với hàng hóa dịch vụ của nước ngoài trên thị trường trong
nước và quốc tế. Hàng hóa và dịch vụ của nước đó có khả năng cạnh tranh tốt
hơn, dẫn đến cầu về xuất khẩu hàng hóa dịch vụ của nước đó sẽ tăng, cầu về
nhập khẩu hàng hóa dịch vụ nước ngoài của nước đó sẽ giảm và cán cân
thương mại sẽ chuyển về phía thặng dư. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái thay đổi
theo hướng tăng giá đồng nội tệ sẽ làm cho giá hàng hóa dịch vụ của nước đó
tăng tương đối so với hàng hóa dịch vụ nước ngoài, và khi đó sẽ dẫn tới giảm
xuất khẩu, tăng nhập khẩu và cán cân thương mại chuyển sang phía thâm hụt.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái còn tác động một cách gián
tiếp đến ngoại thương của một nước thông qua sự tác động làm thay đổi cán
cân tài khoản vốn. Một sự thay đổi về tỷ giá theo hướng tăng giá đồng nội tệ
có tác động thúc đẩy và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước đó đẩy mạnh
đầu tư ra nước ngoài. Bởi vì khi đó một đồng nội tệ khi tăng giá sẽ đổi được
một lượng ngoại tệ nhiều hơn so với trước khi tăng giá.
14
Chế độ tỷ giá cố định có tác động tích cực đến ngoại thương và thúc
đẩy thương mại quốc tế phát triển. Vì xét ở góc độ là một loại giá, một khi tỷ
giá được duy trì ổn định thì nó có thể giảm thiểu được những rủi ro từ giá cả
trên thị trường hàng hóa – dịch vụ và do đó góp phần duy trì được trạng thái
cân bằng tương đối trong cán cân thương mại của một nước thông qua việc ổn
định xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, chế độ và chính sách tỷ giá hối đoái cố định
cũng không cho phép một nước có thể thông qua cơ chế giá làm tăng lợi ích từ
thương mại quốc tế cho mình khi có cơ hội. Hơn nữa, quy luật nội tại thúc đẩy
nền kinh tế thị trường phát triển vốn không nằm trong những mối quan hệ
công bằng mà nằm trong những mối quan hệ ở ngoài trạng thái cân bằng và có
xu hướng vận động về điểm cân bằng.
Trái ngược với chế độ và chính sách tỷ giá cố định, chế độ và chính
sách tỷ giá thả nổi, biểu hiện ở sự biến đổi thường xuyên theo quan hệ cung
cầu trên thị trường, có tác động làm tăng những rủi ro về yếu tố giá cả đối với
các hoạt động ngoại thương và cả hoạt động tài chính quốc tế. Do đó, xét ở
góc độ giá cả, tỷ giá thả nổi sẽ có những tác động tiêu cực đến ngoại thương
nói riêng và cán cân thanh toán nói chung. Nhưng tỷ giá thả nổi bằng những
thay đổi thường xuyên, lại có khả năng phản ánh được tương quan và lợi ích
thương mại luôn thay đổi giữa các nước đã tạo ra động lực để chuyển dịch
ngoại thương đến vị trí cân bằng mới, cao hơn. Chế độ và chính sách tỷ giá thả
nổi còn có thể cho phép một nước tránh được những cú sốc từ bên ngoài hoặc
ít ra cũng tạo cho nước đó một cơ hội để giảm sóc. Tỷ giá thả nổi cũng tạo cơ
chế để một nước có thể khai thác tối đa các nguồn lợi của nước đó và thế giới
thông qua ngoại thương.
Cả chế độ và chính sách tỷ giá cố định và thả nổi đều có rất nhiều ưu
nhược điểm trái ngược nhau. Chính thực tế này đã gợi ý rằng một chế độ và
chính sách tỷ giá kết hợp hai cực cố định và thả nổi có thể mang lại nhiều lợi
ích hơn cho ngoại thương nói riêng và kinh tế nói chung của một nước, chế độ
tỷ giá linh hoạt.
II. Thực tiễn điều hành tỷ giá hối đoái ở một số nước:
Phần I đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về tỷ giá hối đoái và chính sách
tỷ giá hối đoái cùng với mục tiêu, tác động và mối quan hệ với thương mại
quốc tế. Vì vậy trong phần II, chúng ta sẽ tìm hiểu thực tế thế giới về việc điều
hành chính sách tỷ giá hối đoái và tác động của nó đến thương mại. Điểm lại
kinh nghiệm điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của các nước trên thế giới,
một số nước thì lựa chọn chính sách phá giá tiền tệ, nghĩa là một đồng nội tệ
15
yếu để phát triển kinh tế – xã hội; một số nước khác thì lại theo đuổi chính
sách nâng giá tiền tệ trong quá trình phát triển nền kinh tế. Ở mỗi nước đã gặt
hái được những thành công nhất định và cũng có nước không thành công khi
sử dụng chính sách để nỗ lực đạt được những mục tiêu kinh tế, chính trị và xã
hội của mình. Điển hình nhất là Nhật Bản với việc điều hành chính sách nâng
giá tiền tệ hết sức thành công, đã đem lại cho Nhật Bản những thành quả tuyệt
vời trong việc phát triển cả về kinh tế và xã hội. Thêm vào đó, nhiều chuyên
gia kinh tế đã nhận định rằng Trung Quốc và Việt Nam có nét tương đồng
trong việc định hướng phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, chúng ta sẽ đề cập về
Trung Quốc, tình hình kinh tế Trung Quốc với chính sách phá giá tiền tệ, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1. Nhật Bản
Nền kinh tế Nhật Bản cũng như các nền kinh tế khác trên thế giới, đặc
biệt là các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển, đã chịu nhiều tác
động tiêu cực bởi những cú sốc từ giá dầu và sự thay đổi của chế độ tỷ giá hối
đoái. Sau cú sốc giá dầu lửa và sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ tỷ giá Bretton
Woods 1973, từ sau năm 1976 nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu giai đoạn suy
giảm tăng trưởng và tiếp tục suy thoái nhiều lần trong suốt mấy thập kỷ còn lại
của thế kỷ 20. Tuy nhiên nhờ có những chính sách kinh tế phù hợp, điển hình
là chính sách nâng giá tiền tệ Nhật Bản đã vượt qua cơn khó khăn, vững bước
phát triển kinh tế.
Từ sau sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton Woods đến nay, diễn biến tỷ
giá của Nhật Bản có nhiều biến động quan trọng, tuy nhiên chúng ta sẽ cùng
xem xét giai đoạn 1974 – 1980: Thời kỳ thành công rực rỡ nhất với chính
sách nâng giá tiền tệ
Thời kỳ những năm 70 là thời kỳ thể hiện rõ nét nhất sự thành công của
Nhật Bản với chính sách nâng giá đồng nội tệ. Tăng trưởng nhanh và mạnh
trong suốt thời gian dài trước thập kỷ 70 đã tạo tiền đề cho đồng JPY lên giá
mạnh. Đặc biệt là sau khi Mỹ tuyên bố thả nổi đồng USD và chuyển sang chế
độ tỷ giá hối đoái linh hoạt thì đồng JPY đã liên tục lên giá rất mạnh so với
USD và các đồng tiền khác. Tính đến cuối những năm 70, đồng JPY đã lên giá
gần 50% so với USD, tỷ giá hối đoái từ 357,60 JPY/1USD năm 1970 giảm
xuống còn 181,80 JPY/1USD vào năm 1979. Đồng JPY lên giá vào giai đoạn
này tạo điều kiện thuận lợi cho Nhật giảm sóc cho nền kinh tế do tác động của
các cuộc khủng hoảng, thay đổi chiến lược phát triển cơ cấu kinh tế và xuất
khẩu để khai thác những thế mạnh hiện có của mình. Đồng JPY lên giá làm
16
cho giá hàng nhập khẩu vào Nhật rẻ hơn đã góp phần quan trọng vào việc
giảm bớt những tác động từ cú sốc giá dầu năm 1973. Vì vậy, kinh tế và ngoại
thương Nhật Bản trong giai đoạn này vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao
hơn nhiều nước công nghiệp phát triển khác.
Biểu đồ 2.1 cho thấy từ năm 1970 đến 1976, tốc độ tăng trưởng GDP
của Nhật Bản là 7,0% tăng gần gấp 3 lần các cường quốc Anh, Mỹ và Đức lần
lượt là 2,5%, 2,8% và 2,5%. Kể từ sau cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1973,
tuy tốc độ tăng trưởng GDP có giảm nhưng tình hình chung là tốc độ tăng
trưởng của các nước công nghiệp phát triển khác cũng giảm đáng kể. Trong
giai đoạn 1976 – 1982, Nhật Bản vẫn có xuất nhập khẩu tăng mạnh và duy trì
mức độ tăng trưởng cao hơn các cường quốc như Anh, Mỹ và Đức. Lượng
nhập khẩu của Nhật Bản vẫn ở mức ngang ngửa với các nước đó nhưng xuất
khẩu thì tăng gần gấp đôi với tốc độ 8,0% trong khi đó Anh là 4,3%, Mỹ là
5,4% và Đức là 5,3%. Tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn này giảm xuống còn
3,9% so với giai đoạn trước (7,0%) nhưng vẫn gấp hơn 2 lần so với các nước
công nghiệp phát triển trên.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 12 năm 1992.
Có thể thấy rõ hơn tác động tăng giá của đồng JPY vào thời gian này có
tác động giảm sóc cho nền kinh tế Nhật thông qua việc xem xét mức độ phụ
thuộc của nền kinh tế Nhật vào bên ngoài. Do đặc điểm về địa lý, đất nước này
Biểu đồ 2.1: So sánh tốc độ tăng trưởng của Nhật và các
cường quốc
7
2,5 2,8 2,5
3,9
1,4
2 1,9
8
4,3
5,4 5,3
2,4 2,3
2,8 3
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Nht Anh M c
%/năm
Tốc độ tăng
GDP
(1970-1976)
Tốc độ
tăng GDP
(1976-1982)
Xuất
Khẩu(1976-
1982)
Nhập
Khẩu (1976-
1982)
17
phải phát triển kinh tế trong điều kiện phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn lực từ
bên ngoài, đặc biệt là nguồn lực về nguyên nhiên vật liệu. Có tới gần 100%
các nguyên nhiên vật liệu chủ chốt cho phát triển công nghiệp Nhật Bản phải
nhập khẩu từ nước ngoài (xem bảng 2.2). Nhật Bản nhập khẩu 100% quặng
sắt là nguyên liệu cho các ngành chế tạo máy móc thiết bị, cơ khí…, chủ yếu
từ các nước Úc, Braxin và ấn Độ. Đặc biệt là dầu thô, một nhiên liệu quý luôn
được mọi quốc gia quan tâm khai thác và sử dụng rất nhiều, Nhật Bản phải
nhập khẩu đến 99,6%. Thêm vào đó là một số nguyên nhiên liệu khác như
quặng đồng nhập khẩu 99,1%, khí đốt 96,0% và than với 93,4%... Vì vậy,
những cú sốc từ bên ngoài, như là những cú sốc từ giá dầu có ảnh hưởng trực
tiếp và nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản.
Bảng 2.2: Mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu của Nhật Bản về nguyên nhiên
vật liệu.
Nguồn nhập từ 3 nước chủ yếu (%)
Hàng nhập Tỷ lệ phụ
thuộc (%) 1 2 3
Than 93,4 Úc (51,6) Canada (17,9) Mỹ (9,6)
Dầu thô 99,6 Các TVQ ả
rậpthống nhất
(21,6)
ả rập Xêút
(19,3)
Iran (9,7)
Khí đốt 96,0 Indonesia (45,0) Malaysia(18,0)
Quặng sắt 100,0 Úc (42,4) Braxin (27,2) Ấn Độ (12,3)
Quặng đồng 99,1 Chilê (25,2) Indonesia(18,4) Canada (14,4)
Nguồn: IMF, International Financial Statistics (IFS).
Chính sự tăng giá của đồng JPY trong thời gian này đã có những tác
động quan trọng giúp Nhật giảm bớt những tác động từ cuộc khủng hoảng giá
dầu, nhanh chóng ra khỏi thời kỳ suy thoái (do tác động của các cú sốc) và
tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định. Trong suốt thập kỷ 70,
18
Nhật Bản chỉ có duy nhất một năm (1974, đó là năm sau khi xảy ra cuộc
khủng hoảng giá dầu lần 1, năm 1973, giá dầu đột ngột tăng lên gấp 4 lần) là
có mức tăng trưởng thực tế âm (-0,7%), còn lại đều có mức tăng trưởng dương
tương đối cao (từ 3,8% đến 9,3% GNP thực tế năm sau so với năm trước (xem
đồ thị 2.3).
Tuy đồng JPY tăng giá có tác động làm giảm sức cạnh tranh của hàng
hoá Nhật và gây khó khăn cho xuất khẩu, nhưng chính việc lợi dụng sự lên giá
đồng JPY phối hợp với những chính sách điều chỉnh thích hợp kịp thời, Nhật
đã đưa nền kinh tế nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục tăng
trưởng (như chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành kinh
tế sử dụng công nghệ tốn ít nguyên nhiên vật liệu và các nguyên nhiên vật liệu
mới, phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh và cạnh tranh…,
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu; và lợi dụng đồng JPY lên giá
chuyển hướng từ xuất khẩu mạnh hàng hoá sang xuất khẩu vốn…). Kết quả là
nền kinh tế tiếp tục có tốc độ tăng trưởng khá cao và đã tác động trở lại thúc
đẩy xuất khẩu tăng trưởng nhanh và mở rộng ra phạm vi toàn thế giới. Nên
chính vào thời kỳ này, cán cân thương mại của Nhật đã chuyển mạnh sang
thặng dư vào cuối những năm 70.
Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng GNP danh nghĩa và thực tế của
Nhật Bản những năm 1970 – 1980.
-5
0
5
10
15
20
25
1970 1971 1972 1973 1974 1975 1976 1977 1978 1979 1980
Năm
%
Tốc độ
tăng GNP
danh nghĩa
Tốc độ
tăng GNP
thực tế
19
Bảng 2.4: Tình hình cán cân thương mại của Nhật Bản thập kỷ 70.
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân
thương mại
Năm
Triệu USD
Tỷ lệ tăng
(%) Triệu USD
Tỷ lệ tăng
(%) Triệu USD
1970 19.318 20,8 18.881 25,7 437
1971 24.019 24,3 19.712 4,4 4.307
1972 28.591 19,0 23.471 19,1 5.120
1973 36.930 29,2 38.314 63,2 -1.384
1974 55.536 50,4 62.110 62,1 -6.574
1975 55.753 0,4 57.836 -6,8 -2.110
1976 67.225 20,6 64.799 12,0 2.426
1977 80.495 19,7 70.809 9,3 9.686
1979 103.032 5,6 110.672 39,5 -7.640
Nguồn: Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 3/6 năm 2000
Bảng 2.4 cho thấy sự tác động có tính giảm và tính trễ của những thay
đổi trong tỷ giá hối đoái và giá trị đồng JPY. Khi chuyển đổi chế độ tỷ giá,
đồng JPY lên giá mạnh từ năm 1971 nhưng sang năm 1973 cán cân thương
mại của Nhật mới chuyển sang thâm hụt, trong 3 năm tiếp sau cán cân thương
mại thâm hụt lần lượt từ -1.384 triệu USD vào năm 1973, năm 1974 thâm hụt
lớn gấp khoảng 5 lần so với năm 1973 với con số lên tới -6.574 triệu USD; tuy
nhiên đến năm 1975 cán cân thương mại vẫn thâm hụt nhưng giảm xuống còn
-2.110 triệu USD. Những điều chỉnh trong chính sách kinh tế, tiền tệ (trong đó
có chính sách hạn chế và kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ), thương mại sau cuộc
khủng hoảng giá dầu 1973 làm giảm tốc độ lên giá của đồng JPY và khuyến
khích xuất khẩu cũng chỉ khôi phục lại cán cân thương mại thặng dư bắt đầu
vào năm 1976, 1977 sau đó.
Cú sốc giá dầu lần 2 vào năm 1978 tuy mức độ ảnh hưởng tới nền kinh
tế Nhật Bản không lớn, nhưng cũng đã một lần nữa làm cán cân thương mại
Nhật Bản quay lại thâm hụt khoảng -7.640 triệu USD vào năm 1979.
20
Bảng 2.5: Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản
những năm 1970 – 1980.
Năm 1970 1975 1976 1977 1978 1979 1980
FDI(TriệuUSD) 904 3.280 3.462 2.806 4.598 4.995 4.693
% thay đổi +262,8 +5,5 -18,9 +63,9 +8,6 -6,0
Nguồn: Tạp chí ngoại thương số 17 năm 1995.
Đồng thời với những tác động giảm sóc cho nền kinh tế Nhật Bản, đồng
JPY lên giá vào thời kỳ này đã tạo điều kiện cho Nhật xuất khẩu vốn ra nước
ngoài. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI) của Nhật Bản đã tăng lên nhanh
chóng (xem bảng 2.5). Đặc biệt năm 1975 luồng vốn đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của Nhật là 3.280 triệu USD, tăng thêm 262,8% so với năm 1970. Năm
1976 tăng thêm 182 triệu USD, tương đương với mức tăng 5,5% so với năm
1975. Năm 1977 là năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần 2
(1978) nên FDI của Nhật là -18,9%, giảm 656 triệu USD so với năm 1976.
Tiếp sau đó là những năm 78 và 79, FDI ra nước ngoài của Nhật Bản luôn đạt
khoảng 4,5 tỷ USD cho đến gần 5 tỷ USD. Điều này góp phần quan trọng thực
hiện nhanh chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu, khai
thác những lợi thế so sánh mới được hình thành trong giai đoạn trước và
chuẩn bị điều kiện để tạo những lợi thế so sánh mới cho Nhật trong tương lai.
Thời kỳ 1973 – 1980 với 2 cuộc khủng hoảng dầu mỏ xảy ra trên toàn
cầu, Nhật Bản với chính sách nâng giá đồng nội tệ và các biện pháp điều hành
nền kinh tế khác, trong đó chính sách nâng giá là yếu tố quan trọng nhất, đã
khiến nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng mạnh, đó là mục tiêu mà chính phủ
Nhật Bản hướng tới và họ đã đạt được mục tiêu đó.
2. Trung Quốc và chính sách phá giá đồng nội tệ
Thay đổi chính sách tỉ giá hối đoái ở Trung Quốc và tác động đột phá
Kinh nghiệm phá giá đồng nhân dân tệ để thúc đẩy xuất khẩu. Trong trường
hợp của Nhật Bản, sự đốt phá gắn với việc tăng giá đồng Yên. Còn trong
trường hợp của Trung Quốc, sự đột phá gắn với việc phá giá đồng Nhân Dân
Tệ (NDT).
21
Từ năm 19879 đến năm 1993, Trung Quốc đã điều chỉnh mạng tỷ giá
hối đoái tới 7 lần. Xu hướng điều chỉnh là phá giá mạnh đồng NDT. Năm
1993, mức điều chỉnh tỷ giá (phá giá) so với năm 1985 đã là gần 70%. Nhưng
mặc dù phá giá liên tục và với biên độ lớn như vậy, tổn thất xuất khẩu do tỷ
giá (đánh giá cao đồng NDT) gây ra vẫn rất lớn (Bảng A). Lý do là vì tỷ giá
NDT/USD có mặt bằng xuất phát “phá giá” quá thấp nên dù phá giá mạnh như
vậy, mức tỷ giá vẫn chưa đạt đến điểm “hòa vốn” cho các doanh nghiệp xuất
khẩu.
Bảng 2.6: Tổn thất tài chính đối với xuất khẩu do tỷ giá ở Trung Quốc (đơn
vị: NDT)
Năm 1979 1981 1983 1985 1988
1993
Chi phí để thu 1USD
xuất khẩu
2,40 2,31 3,02 3,67 5,80 6,32
Tổn thất ứng với 1USD
xuất khẩu
0,85 0,49 0,22 0,73 2,08
1,0
Nguồn: N. Lardy 1992; Wong 1998.
Để cải thiện tình hình, năm 1994, Chính phủ Trung Quốc quyết định
phá giá mạnh đồng NDT. Biên độ phá giá lên tới 50%: từ mức
5,75NDT/1USD năm 1993 lên 8,7NDT/1USD kể từ ngày 1/1/1994. Cùng với
việc thay đổi chính sách tỷ giá, chế độ quản lý ngoại hối của Trung Quốc cũng
được cải cách mạnh mẽ, tỷ giá chính thức thống nhất với mức giá hoán đổi
hiện hành, chế độ giữ lại ngoại tệ được bãi bỏ, thị trường ngoại hối liên ngân
hàng được thành lập. Việc cải cách chế độ tỷ giá (thực chất là thống nhất các
loại tỷ giá đi liền với việc phá giá đồng tiền) đã có tác động rất mạnh và hầu
như ngay tức thời đến động thái của nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là đối
với các hoạt động ngoại thương và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
22
2.1 Ngoại thương
Việc phá giá đồng NDT với quy mô 50% dẫn tới kết quả tức thì: cán
cân thương mại từ chỗ thâm hụt 12,2 tỷ USD năm 1993 chuyển thành cán cân
thặng dư 5,4 tỷ USD năm 1994. Kể từ đó đếnkhi Trung Quốc gia nhập WTO
(2001), xu hướng này luôn được giữ ở mức thặng thương mại cao ổn định.
Bảng số liệu dưới đây cho thấy đã thật sự có một cú nhảy vọt đột biến trong
nền kinh tế Trung Quốc từ năm 1994, tức là khi đồng NDT được phá giá 50%.
Bảng 2.7: Tình hình tỷ giá, lạm phát và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế
Trung Quốc 1994 – 2007.
Chỉ tiêu TGHĐ
(NDT/USD)
Tốc độ tăng
trưởng (%/năm)
Lạm phát
1993 5,7620 13,49 14,58
1994 8,6187 12,70 24,24
1995 8,3514 10,50 16,90
1996 8,3142 9,59 8,32
1997 8,2898 8,80 2,80
1998 8,2790 7,80 -0,80
1999 8,2783 7,11 -1,40
2000 8,2785 8,00 0,40
2001 8,2771 7,30 0,70
2002 8,2770 8,00 -0,80
2003 8,2770 9,10 1,20
2004 8,2768 9,50 3,90
2005 8,1938 9,80 3,00
2006 7,9734 10,70 2,50
2007 7,5069 11,50 6,50
Nguồn: Foreign Exchange Data, Central Bank of China, Republic of China; IMF
International Financial Statistics.
Kể từ đó, thặng dư thương mại của Trung Quốc liên tục tăng với tốc độ
cao. Kết hợp với một số yếu tố khác, như sự tăng trưởng FDI, là một kết quả
23
khác trực tiếp bắt nguốn từ sự biến đổi tỷ giá NDT, nền kinh tế Trung Quốc
bước vào nhịp tăng trưởng mới với hai động lực mạnh mẽ nhất là xuất khẩu và
đầu tư nước ngoài trực tiếp. Và cũng giống như Nhật Bản trước đây, xuất khẩu
của Trung Quốc tăng mạnh đã đẩy thâm hụt mậu dịch của thế giới nói chung
và của Mỹ nói riêng lên tới điểm “không thể chịu nổi”. Nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng này được quy về “lỗi” chính sách tỷ giá của Trung Quốc.
Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu được quy về "lỗi" chính sách tỷ giá
của Trung Quốc. Mỹ và hầu như cả thế giới đều cho rằng nguyên nhân chính
của tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng trong quan hệ mậu dịch này có
nguồn gốc trực tiếp và cơ bản từ việc Chính phủ Trung Quốc duy trì quá lâu
chính sách tỷ giá “đồng NDT yếu” (từ 1994 -2006). Trong 12 năm đó, sự cộng
hưởng tác động của chính sách “đồng tiền yếu” và của việc Trung Quốc gia
nhập WTO (năm 2001) đã tạo thành sức thúc đẩy to lớn để nền kinh tế Trung
Quốc trỗi dậy và trở thành khổng lồ, có khả năng làm đảo lộn các cân bằng
phát triển vốn có của thế giới. Kết quả tất yếu của sự lớn mạnh kinh tế nhanh
chóng này là sự tăng giá đồng NDT. Vì vậy, đòi hỏi Trung Quốc phải tăng giá
đồng NDT ngày càng gay gắt từ các nước phương Tây là có căn cứ lý lẽ và
thực tiễn vững chắc.
2.2. Tác động của thay đổi tỷ giá đồng NDT đến dòng FDI
Các công ty nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc phát hiện ra những sức
hấp dẫn mới của đất nước này với tư cách là một “cứ điểm” sản xuất: chi phí
thấp, sức cạnh tranh cao. Giá thành sản phẩm thấp ở Trung Quốc đồng nghĩa
với một thông điệp đầu tư hấp dẫn ở Trung Quốc. Sức mạnh của thông điệp đó
được nhân lên nhờ quyết tâm và hành động liên tục phá giá mạnh đồng NDT
vào năm 2003, 2004 của Chính phủ Trung Quốc đã làm cho sức cạnh tranh về
giá của hàng xuất khẩu từ Trung Quốc vượt qua giới hạn thông thường để trở
thành một sự đột phá mạnh, khiến dòng FDI đổ vào lập tức tăng mạnh. Năm
1993, lượng FDI thực hiện tăng 250% so với năm 1992; còn năm 1994 tăng
23% so với năm 1993. Đến năm 1998, mức tăng so với năm 1993 đã là 200%.
Và bước sang thế kỷ mới, Trung Quốc trở thành một trong những nền kinh tế
24
thu hút nhiều FDI nhất trên thế giới, với lượng FDI đổ vào hàng năm đạt mức
55-70 tỷ USD
2.3. Khả năng lên giá đồng NDT và tác động của nó
Hiện nay, tình trạng thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc của hầu như tất
cả các nền kinh tế phát triển đã trở nên ngày càng gay gắt và động chạm đến
nhiều nhóm lợi ích xã hội, làm tổn thương “uy tín” quốc gia, đã đặt trước
Chính phủ nhiều nước, đặc biệt là Mỹ và EU yêu cầu cấp bách phải nhanh
chóng giảm thâm hụt thương mại, lập lại cân bằng trong các cán cân tài khoản
vốn và tài khoản vãng lai với Trung Quốc. Để đạt mục tiêu đó, giống như với
Nhật Bản trước đây, Mỹ và các nước G7 khác đang gây áp lực rất mạnh buộc
Trung Quốc phải tăng giá đồng NDT lên 20-40% trong một thời gian ngắn. Cả
áp lực đòi đồng NDT lên giá lẫn quá trình lên giá của đồng tiền này đều đang
diễn ra trên thực tế. Áp lực thì ngày càng gia tăng; còn Chính phủ Trung Quốc
thì cố gắng trì hoãn sự tăng giá để tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao tiềm
lực tài chính và tránh gây sốc trong nền kinh tế và xã hội. Vì vậy, quá trình lên
giá của đồng NDT đang diễn ra nhưng với tốc độ chậm và được Chính phủ
Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ.
Với giải pháp lên giá đồng Yên do chính thế giới áp đặt, Nhật Bản đã
từng bắt thế giới “chịu nạn” chứ không phải Nhật Bản là "nạn nhân”. Vậy thì
liệu thế giới có phải chịu một tác động tương tự một khi đồng NDT tăng giá?
Và nền kinh tế Trung Quốc sẽ như thế nào khi điều đó xảy ra - lại một cú “đột
phá” mạnh nữa chăng?
Trước hết, theo nguyên lý truyền thống, đồng NDT lên giá sẽ làm cho
sản phẩm của Trung Quốc trở nên kém cạnh tranh hơn về giá trên thị trường
quốc tế. Nhờ đó, các nền kinh tế nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ có khả năng
giảm được tình trạng “nhập siêu”; còn các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu với
Trung Quốc cũng sẽ có cơ hội tăng xuất khẩu các mặt hàng cạnh tranh với
hàng hóa Trung Quốc Nhưng đó chỉ là một mặt của vấn đề. Dễ nhận thấy rằng
bù lại những bất lợi và tổn thất (tiềm năng) do đồng NDT lên giá, chính điều
này lại tạo ra cho Trung Quốc những cơ hội thu lợi không nhỏ.
25
Về dài hạn, sự lên giá của đồng NDT sẽ giúp Trung Quốc thu được
nhiều lợi ích. Những lợi ích đó bắt nguồn từ chỗ: Khi đồng NDT lên giá, giá
sản phẩm đầu vào nhập khẩu của Trung Quốc, tính ra NDT, sẽ rẻ đi tương
ứng. Điều này sẽ làm giảm đáng kể tác động tiêu cực do giá thành sản phẩm
xuất khẩu tăng lên gây ra. Về dài hạn, nền kinh tế Trung Quốc sẽ phải tái cơ
cấu lại để thích ứng với xu hướng lên giá của đồng NDT. Xu hướng cơ bản
của quá trình tái cơ cấu này là dịch chuyển các quá trình sản xuất lên các nấc
thang công nghệ cao hơn.
Có thể khẳng định việc tăng giá NDT không mang lại tác động tích cực
một chiều như nhiều nước đang kỳ vọng. Ngay cả đối với các nền kinh tế
“nhập siêu” từ Trung Quốc cũng vậy.
III. Bài học kinh nghiệm trong điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam
1. Khái quát về chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam và các tác
động đến thương mại
Thời kỳ 1989 – 1998 là thời kỳ “đổi mới” trong cơ chế điều hành chính
sách tỷ giá của chính phủ, xoá bỏ chế độ cố định đa tỷ giá gồm tỷ giá chính
thức và tỷ giá kết toán nội bộ không còn phù hợp với thực tế; Việt Nam
chuyển sang một thời kỳ mới với những thay đổi linh hoạt hơn trong cơ chế tỷ
giá, tỷ giá thả nổi từ 1989 đến 1991 và tỷ giá cố định với những thay đổi trong
biên độ giao dịch kết hợp với sự điều tiết không thường xuyên của ngân hàng
nhà nước trong giai đoạn 1992 – 1998. Kể từ tháng 2/1999, tỷ giá hối đoái
chính thức được ngân hàng nhà nước công bố hàng ngày, được xác định trên
cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
của ngày giao dịch gần nhất. Đây là một bước tiến quan trọng, một bước ngoặt
lịch sử trong chính sách điều hành tỷ giá - chuyển từ một chế độ tỷ giá hối
đoái cố định với những công cụ điều hành chủ yếu mang tính hành chính sang
chế độ tỷ giá mới linh hoạt hơn và mang tính thị trường, chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi có quản lý.
26
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nhìn vào biểu đồ 3.1 ta thấy tỷ giá chính thức bình quân mà ngân hàng
nhà nước đưa ra giữa VND và USD là tăng lên liên tục từ năm 1999 đến năm
2007. Theo đó, Ngân hàng nhà nước quy định các giao dịch kinh doanh ngoại
tệ trên thị trường liên ngân hàng không được vượt quá biên độ dao động là
0,1% so với tỷ giá được Ngân hàng nhà nước công bố. Đó là công bố của ngân
hàng nhà nước vào năm 1999. Sau đó, biên động đã được nới rộng qua các
năm: ngày 1/7/2002, mở rộng biên độ từ +/- 0,1% lên +/- 0,25%; ngày
31/12/2006 lên đến +/- 0,5%; đến 24/12/2007, nới rộng thêm lên +/- 0,75% và
cho đến tháng 6/2008 thì biên độ này là +/- 1%.
Công cụ điều hành tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối đúng đắn
cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 đã có tác động tích cực
khiến lượng kiều hối liên tục tăng cao qua các năm, từ 400 triệu USD năm
1997 lên 2,6 tỷ USD năm 2003; 3,8 tỷ USD năm 2005 và gần đây nhất là 5,5
tỷ USD trong năm 2007.
Sang năm 1999, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á và
hậu quả của nó đã hết, nền kinh tế nhiều nước bị rơi vào khủng hoảng đã bắt
đầu có dấu hiệu phục hồi. Đồng thời, cán cân thương mại của Việt Nam cũng
được cải thiện (năm 1999 thâm hụt thương mại là 200,7 thấp hơn nhiều so với
năm 1998 là 2134 triệu USD được thể hiện trong bảng 3.8 và 3.10).
Tuy nhiên, sau năm 1999, thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia
tăng, cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng mạnh qua các năm nhưng tốc độ
BiÓu ®å 3.1: Tû gi¸ chÝnh thøc b×nh qu©n VND/USD giai
®o¹n 1999 - 2007
13940
14159
14796
15235
15560
15749 15875
16101 16114
12500
13000
13500
14000
14500
15000
15500
16000
16500
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
N¨m
tû gi¸ VND/USD
Tû gi¸
VND/USD
27
tăng của nhập khẩu vẫn lớn hơn. Kể từ năm 2000, thâm hụt cán cân thương
mại nằm trong khoảng từ 1.200 triệu USD đến 5.500 triệu USD, đặc biệt năm
2007, thâm hụt thương mại tăng lên tới 12.450 triệu USD, gấp gần 3 lần năm
2006.
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tóm lại, chính sách tỷ giá hối đoái cùng các công cụ điều tiết khác của
chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã mang lại không ít thành công
cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn hội nhập ngày nay,
cùng sự gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO và sự bùng nổ của tài
chính – tín dụng trong thời gian gần đây cho thấy Việt Nam cần phải nỗ lực
nhiều hơn nữa để phát triển nền kinh tế và hạn chế những sai lầm của mình
thông qua việc học hỏi những kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước. Có thể
thấy rằng chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng
có những tác động nhất định đối với nền kinh tế. Vì vậy, chính phủ cần chọn
đúng hướng cho chính sách tỷ giá hối đoái trong tương lai.
2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ chính sách điều hành tỷ giá của
các nước và một số giải pháp để phát triển cho Việt Nam:
Nhật Bản là một kinh nghiệm về sự nâng giá đồng nội tệ nhưng có lẽ
đồng JPY tăng giá lại đem lại nhiều thành công cho Nhật Bản. Bài học cho
Việt Nam khi nghiên cứu chính sách nâng giá tiền tệ của Nhật có thể được
tổng kết như sau:
§å thÞ 3.2: §Çu t− n−íc ngoµi vµo ViÖt Nam giai ®o¹n
1999 - 2007.
1,96 2,3
3,1 2,7 2,95
4,2
5,8
10,2
21,3
0
5
10
15
20
25
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
N¨m
Tû USD
Tæng
vèn
®¨ng ký
28
Đầu tiên là cần phải biết kết hợp chính sách nâng giá với các công cụ
tài chính – tiền tệ khác như hạn mức tín dụng, khung lãi suất, nghiệp vụ thị
trường mở (mua, bán chứng khoán,tín phiếu, trái phiếu…), chính sách tái
chiết khấu…
Thứ hai, khi nâng giá tiền tệ cần phải có các biện pháp hạn chế những
tác động tiêu cực của việc đồng nội tệ lên giá như khuyến khích dùng hàng nội
địa, sử dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước như hàng
rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), hạn chế định lượng…
Từ kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy Nhật Bản đã đi đúng hướng với
đồng nội tệ mạnh, đồng JPY lên giá liên tục kể từ thập kỷ 70 đến nay mặc dù
cũng có đôi lúc sụt giá. Chính phủ các nước cần lấy Nhật Bản làm tấm gương
về sự điều hành tỷ giá hết sức thành công để biến nước Nhật thành một trong
những cường quốc trên thế giới. Chính sách nâng giá cũng như phá giá đều có
những tác động tiêu cực và tích cực, điều quan trọng là chúng ta chọn lựa một
trong hai sao cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế lúc đó và phải kết hợp với các
chính sách khác để hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra, tốt hơn nữa là biến
những tác động tiêu cực đó thành những cơ hội tốt, có lợi cho quốc gia.
Khác với Nhật Bản, Trung Quốc là một ví dụ về sự phá giá thành công.
Việt Nam cũng thường xuyên áp dụng chính sách phá giá tiền tệ, vì vậy Trung
Quốc sẽ là một minh chứng hết sức rõ ràng cho Việt Nam về một quốc gia đã
thành công với phá giá nội tệ và nay với sức ép lên giá thì nền kinh tế Trung
Quốc sẽ bị ảnh hưởng như thế nào. Đây là một bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam về một quốc gia đi đúng hướng với chính sách phá giá và khi cả thế giới,
đặc biệt là các đối tác kinh tế tầm cỡ như Mỹ và EU gây sức ép nâng giá, với
áp lực đồng nội tệ nâng giá Trung Quốc đã làm gì.
Bài học đầu tiên cho Việt Nam từ kinh nghiệm của Trung Quốc là thời
điểm và mức điều hành tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối với
hiệu quả của chính sách tỷ giá.
Thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc đã củng cố thêm
kết luận của các nhà kinh tế cho rằng với Việt Nam, phá giá đồng tiền trong
những điều kiện cho phép có thể là một giải pháp góp phần tăng trưởng tốt
hơn mà phải trả giá thấp hơn, xét cả trong ngắn hạn và dài hạn. Thông qua
chính sách phá giá đồng nội tệ ở một thời điểm hợp lý, Việt Nam có thể tạo ra
một lợi thế so sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, thay đổi cơ cấu xuất
nhập khẩu, mở rộng nhanh ngoại thương, quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút
đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
29
Bài học quan trọng thứ hai cho Việt nam rút ra từ Trung Quốc là việc
tăng giá đồng tiền phải được tiến hành theo lộ trình, không thể gấp gáp.
Cho đến nay, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều nhận định về Trung Quốc
có thể làm bài học cho Việt Nam như sau:
- Thứ nhất, việc nâng giá đồng nội tệ có thể không ảnh hưởng quá lớn đến
nền kinh tế Trung Quốc hay Việt Nam. Hơn nữa, về dài hạn, Trung Quốc lại
thu được khá nhiều lợi ích như xuất khẩu vốn ra nước ngoài, đổi mới cơ cấu
kinh tế… và đặc biệt là nâng cao vị thế của đồng NDT trên trường quốc tế.
- Thứ hai, khi đồng nội tệ lên giá, nó sẽ kiềm chế bớt sự tăng trưởng quá nóng
của nền kinh tế Trung Quốc hay Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh – xu hướng tất yếu để phát triển khu vực doanh nghiệp và tái cơ cấu nền
kinh tế một cách hợp lý. Môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn khiến các
doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hơn nữa để tăng sức cạnh tranh của hàng
hoá mình so với đối thủ, nhập khẩu đầu vào tương đối rẻ giúp các doanh
nghiệp trong nước sản xuất với chi phí thấp hơn. Do vậy, đồng nội tệ lên giá
không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc xuất khẩu giảm và nhập khẩu
tăng, nó có thể tăng sức cạnh tranh, khiến hàng hoá chất lượng tốt hơn và xuất
khẩu cũng không gặp khó khăn nếu nhập khẩu đầu vào rẻ và nhà nước có
những chính sách hợp lý dành cho các doanh nghiệp sản xuất nội địa.
- Thứ ba, nâng giá tiền tệ có thể khuyến khích xuất khẩu tư bản ta nước ngoài.
Trung Quốc có thể xuất khẩu tư bản ra nước ngoài một cách hiệu quả với khối
lượng khổng lồ. Chính sách nâng giá nội tệ có lẽ là một hướng đi tất yếu của
Trung Quốc, nhờ đó chính phủ có thể khuyến khích đầu tư ra nước ngoài ở
mức độ hợp lý và có lẽ thị trường các nước trong khu vực sẽ là những điểm
đến đầu tiên của các luồng tư bản từ Trung Quốc. Đó là những thị trường với
nguồn nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý thuận
lợi.
Tóm lại, từ thực tiễn kinh nghiệm quý báu trong việc điều hành chính
sách tỷ giá hối đoái của các nước, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện chính sách TGHĐ ở Việt Nam như sau:
Một là: Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong
nước để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn.
Hai là: Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
- Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách
phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập
những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu
30
trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị
trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu
ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng
trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để
phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá.
- Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm
việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà
nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính
trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam,
sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ
động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại …
Ba là: Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc
thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường
ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia
thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ
hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến
ngoại tệ tự bảo vệ mình.
Bốn là: Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết
để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng
thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước
mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ
tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố
và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt
động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị
trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
Năm là: Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam.
Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị
trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá
chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các
giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/- 0.25%). Ngân hàng Nhà nước
chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo
hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện
tượng găm giữ đô la.
Sáu là: Thực hiện chính sách đa ngoại tệ.
Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ,
bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán,
31
thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều
chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật
là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với
một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
Bảy là: Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam.
Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích
thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ
cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông
nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng …
Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền
chuyển đổi được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn
chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la
hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế
trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động
hơn.
Tám là: Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính
phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là
một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của
chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can
thiệp hành chính của Chính phủ.
Chín là: Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ
giá đạt hiệu quả cao.
Đối với chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước
để bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm
hụt ngân sách nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay
nợ nước ngoài.
Mười là: Xem phá giá nhỏ như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm
thâm hụt cán cân thương mại.
Trong điều kiện hiện nay, một chính sách giảm giá nhẹ đồng Việt Nam sẽ có
thể tác động tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên trong và
cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, sử dụng đầy
đủ hơn các nguồn lực hiện có, làm tăng việc làm, sản lượng và thu nhập của
nền kinh tế, trong khi vẫn kềm chế được lạm phát ở mức thấp.
Mười một: Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt
động dự báo có một tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc
đầu cơ. NHTW có thể sử dụng các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng
32
Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến
thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ sở vững
chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt.
Mười hai: Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều
kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần phải gấp rút
triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM
thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp
đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp
nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi
bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro
tỷ giá.
Chúng tôi cho rằng chính sách TGHĐ Việt Nam trong thời gian tới phải
được phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại
hiệu quả cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng,
Chính phủ Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp. Chúng tôi hy vọng
rằng trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước
cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
KẾT LUẬN
Ngày nay, tài chính tiền tệ luôn là một vấn đề nóng bỏng của tất cả các
nhà phân tích tài chính kinh tế quốc tế và đóng vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế của mọi quốc gia. Chính sách tỷ giá hối đoái là một công cụ của
chính sách tiền tệ và là một trong những chính sách vô cùng cần thiết để giúp
chính phủ các nước đạt được những mục tiêu kinh tế – chính trị và xã hội. Nó
có tầm ảnh hưởng rất lớn, là một trong những nhân tố quyết định hướng phát
triển của quốc gia. Do vậy, điều hành tỷ giá hối đoái luôn là vấn đề vừa mang
tính quốc gia lại vừa mang tính quốc tế, nó rất phức tạp nên mỗi nước, trong
những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định cần lựa chọn những phương pháp
điều hành tỷ giá một cách cụ thể, phù hợp với quốc gia mình. Vì vậy, cần phải
điều hành tỷ giá hối đoái một cách hiệu quả và chặt chẽ, đồng thời đặt nó
trong mối quan hệ với các công cụ điều tiết, quản lý nền kinh tế khác.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, Việt Nam
cũng cần linh hoạt hơn trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái. Thực
tiễn của một số các quốc gia trong vấn đề tỷ giá mang lại cho Việt Nam những
bài học vô cùng quí giá nhằm điều hành chính sách tốt hơn, học tập những
điểm tốt và phòng ngừa những rủi ro, tác động tiêu cực do chính sách tỷ giá
gây ra. Với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, Việt Nam
33
hoàn toàn có cơ sở để tin vào một chính sách tỷ giá hợp lý, phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đem lại cho Việt Nam một tương lai
tươi sáng và tốt đẹp hơn, vươn lên một tầm cao mới, đứng vững trên trường
quốc tế.
34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Fredric S.Mishkin,
Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật, Hà Nội, 2001.
2. Thị trường hối đoái – GS.TS Lê Văn Tư, Nhà xuất bản thống
kê, 2003
3. Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương – PGS Đinh
Xuân Trình, Nhà xuất bản Giáo dục, 2002
4. Kinh tế học vĩ mô – Robert J.Gordon, Nhà xuất bản khoa học
và kĩ thuật, 1994
5. Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung
ương - TS. Lê Vinh Danh, Nhà xuất bản tài chính, 2005
6. Lựa chọn chế độ và điều hành tỷ giá hối đoái – Kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam - PGS.,TS Nguyễn Thị Mùi
Nhà xuất bản Hà nội, 2006
7. Một số tạp chí như: Tạp chí kinh tế đối ngoại, Thời báo kinh tế
Việt Nam, Tạp chí ngân hàng.
8. Các Website:
chinh/giai-phap-cho-viec-dieu-hanh-chinh-sach-ty-gia-o-vie.html
chinh/chinh-sach-ty-gia-thich-hop-cho-viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-
3.html
ty-gia-nao.chn
35
36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái – Kinh nghiệm một số nước và bài học cho Việt Nam.pdf