Các tế bào nhiên liệu (tiếng Anh: fuel cell), hay
còn gọi là "pin nhiên liệu", biến đổi năng lượng hóa
họccủa nhiên liệu, thí dụ như là hiđrô, trực tiếp thành năng
lượng điện. Không giống như pin hoặc ắc quy, tế bào
nhiên liệu không bị mất điện và cũng không có khả năng
tích điện. Tế bào nhiên liệu hoạt động liên tục khi nhiên
liệu (hiđrô) và chất ôxi hóa (ôxy) được đưa từ ngoài vào.
Pin nhiên liệu là loại thiết bị năng lượng có mức
thải ô nhiễm gần như "bằng 0", thân thiện với môi trường
tuy nhiên giá thành của nó không hề nhỏ
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2750 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công nghệ xanh và năng lượng sạch hạt nhân, địa nhiệt, fuel cell, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại Học Bách Khoa
Thành phố Hồ Chí Minh
Bài Tập Lớn
Môn Môi Trường Và Con Người
Đề Tài:
CÔNG NGHỆ XANH VÀ NĂNG LƯỢNG SẠCH
HẠT NHÂN, ĐỊA NHIỆT, FUEL CELL
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh
Các thành viên của nhóm:
1. Lê Quốc Trí G1003578
2. Trương Quốc Dũng 51100649
3. Phạm Võ Trọng Ân 51200154
4. Tăng Kiến An 51200024
5. Phạm Đăng Khoa 81201717
6. Hồ Thanh Lâm 81201835
7. Nguyễn Tuấn Anh 81200095
8. Lê Đức Toàn 81203913
1
MỤC LỤC
I. Công nghệ xanh và năng lượng sạch: ..............................................................2
1. Công nghệ xanh: ..........................................................................................2
2. Năng lượng sạch: .........................................................................................2
II. Ứng dụng cộng nghệ xanh và năng lượng sạch:............................................2
1. Tế bào nhiên liệu (fuel cell): ........................................................................2
a) Định nghĩa: ..............................................................................................3
b) Cấu tạo .....................................................................................................4
c) Nguyên lý hoạt động: ...............................................................................4
d) Phân loại: .................................................................................................5
e) Ứng dụng: ................................................................................................7
f) Vấn đề môi trường: ..................................................................................8
2. Năng lượng địa nhiệt: ..................................................................................9
a) Khái niệm về địa nhiệt năng: ..................................................................9
b) Tác động môi trường: .............................................................................12
c) Kinh tế: ....................................................................................................12
d) Triển vọng khai thác và sử dụng điện địa nhiệt ở Việt Nam: ...............13
3. Năng lượng hạt nhân: ..................................................................................14
a) Khai thác: ................................................................................................14
b) Sử dụng và tái sử dụng: ..........................................................................14
c) Tác động môi trường: ..............................................................................15
2
I. Công nghệ xanh và năng lượng sạch:
1) Công nghệ xanh:
Công nghệ xanh là một khái niệm mới của con người trước nguy cơ ô nhiễm toàn
cầu. Đây là một nỗi ưu tư lớn của những nhà làm khoa học chân chính nhằm mục đích
cổ suý việc tạo dựng và tiêu dùng năng lượng qua chiều hướng phát thải phế thải không
độc hại hay ít độc hại ngõ hầu hạn chế được vấn nạn hâm nóng toàn cầu hiện tại. Từ suy
nghĩ đó, họ luôn luôn nghĩ đến phương cách, quy trình mới, sáng tạo và cải tiến các công
nghệ cũ trở thành công nghệ xanh để bảo vệ môi trường chung cho thế giới.
Mục tiêu của chiều hướng giải quyết vần đề qua khái niệm công nghệ xanh gồm
nhiều lãnh vực căn bản liệt kê như sau:
- Phát triển bền vững bằng những công nghệ thân thiện với môi trường (friendly),
không làm tổn hại đền nguồn tài nguyên thiên nhiên hay ảnh hưởng nguy hại đến những
thế hệ tương lai.
- Tạo dựng một chu trình kín trong sản xuất, nghĩa là phế phẩm của một quy trình sẽ
là nguyên liệu của một quy trình sản xuất khác.
- Giảm thiểu tối đa phế thải độc hại và tăng cường khả năng tái tạo sản phẩm cũ
thành nguyên liệu mới.
- Trong nông nghiệp, sáng tạo công nghệ mới thay vì sư dụng phân bón và hoá chất.
- Một trong những lãnh vực quan trọng nhất cần phải nêu ra là lãnh vực năng lượng.
Công nghệ xanh đòi hỏi cần phải sử dụng năng lượng hợp lý hoặc giảm thiểu hầu bảo vệ
mội trường thiên nhiên.
- Hóa học xanh cũng là một yếu tố quan trọng góp phần vào việc giải quyết công
nghệ xanh.
2) Năng lượng sạch:
Là nguồn năng lượng không có chất thải hoặc có chất thải nhưng không gây ô
nhiễm bầu không khí và ô nhiễm nguồn nước hoặc không ảnh hưởng tới môi trường
sống của con người và hệ sinh thái. Ví dụ như điện, gió, năng lượng mặt trời là những
nguồn năng lượng sạch.
II. Ứng dụng cộng nghệ xanh và năng lượng sạch:
1) Tế bào nhiên liệu (fuel cell):
3
a. Định nghĩa:
Các tế bào nhiên liệu (tiếng Anh: fuel cell), hay
còn gọi là "pin nhiên liệu", biến đổi năng lượng hóa
họccủa nhiên liệu, thí dụ như là hiđrô, trực tiếp thành năng
lượng điện. Không giống như pin hoặc ắc quy, tế bào
nhiên liệu không bị mất điện và cũng không có khả năng
tích điện. Tế bào nhiên liệu hoạt động liên tục khi nhiên
liệu (hiđrô) và chất ôxi hóa (ôxy) được đưa từ ngoài vào.
Pin nhiên liệu là loại thiết bị năng lượng có mức
thải ô nhiễm gần như "bằng 0", thân thiện với môi trường
tuy nhiên giá thành của nó không hề nhỏ
* Lịch sử
Năm 1839 nhà khoa học tự nhiên người xứ Wales Sir William Robert Grove đã chế tạo ra
mô hình thực nghiệm đầu tiên của tế bào nhiên liệu, bao gồm hai điện cựcplatin được bao
trùm bởi hai ống hình trụ bằng thủy tinh, một ống chứa hiđrô và ống kia chứa ôxy. Hai điện
cực được nhúng trong axít sulfuric loãng là chất điện phân tạo thành dòng điện một chiều.
Vì việc chế tạo các hệ thống tế bào nhiên liệu quá phức tạp và giá thành đắt, công nghệ này
dừng lại ở đấy cho đến thập niên 1950.
Thời gian này ngành du hành vũ trụ và kỹ thuật quân sự cần dùng một nguồn năng lượng
nhỏ gọn và có năng suất cao. Các tàu du hành vũ trụ và tàu ngầm cần dùng năng
lượng điện không thông qua động cơ đốt trong. NASA đã quyết định dùng cách sản xuất
điện trực tiếp bằng phương pháp hóa học thông qua tế bào nhiên liệu trong các chương
trình du hành vũ trụ Gemini và Apollo. Các tế bào nhiên liệu sử dụng trong chương trình
Gemini được NASA phát triển vào năm 1965. Với công suất khoảng 1 kW các tế bào nhiên
liệu này đã cung cấp đồng thời điện vànước uống cho các phi hành gia vũ trụ. Các tế bào
nhiên liệu của chương trình Gemini chỉ dài 60 cm và có đường kính là 20 cm.
Công việc nghiên cứu về công nghệ tế bào nhiên liệu không phải bị ngưng đến thập niên 50
của thế kỷ 20 mà nó vẫn được tiếp tục phát triển để hoàn thiện.
Nhờ chế tạo được các màng (membrane) có hiệu quả cao và các vật liệu có khả năng
chống ăn mòn hóa học tốt hơn và cũng nhờ vào công cuộc tìm kiếm một nguồn năng lượng
thân thiện môi trường cho tương lai tế bào nhiên liệu được phát triển mạnh vào đầu thập
niên 1990. Thông qua đó việc sử dụng tế bào nhiên liệu dành cho các mục đích dân sự đã
trở thành hiện thực. Ngày nay khả năng sử dụng trải dài từ vận hành ô tô, sưởi nhà qua các
nhà máy phát điện có công suất hằng 100 kW cho đến những ứng dụng bé nhỏ như
trong điện thoại di động hoặc máy vi tính xách tay.
4
b. Cấu tạo:
Một tế bào nhiên liệu có cấu tạo
đơn giản bao gồm ba lớp nằm trên nhau.
Lớp thứ nhất là điện cực nhiên liệu (cực
dương), lớp thứ hai là chất điện
phân dẫn ion và lớp thứ ba là điện cực khí
ôxy (cực âm). Hai điện cực được làm
bằng chất dẫn điện (kim loại, than chì, ...).
Chất điện phân được dùng là nhiều chất
khác nhau tùy thuộc vào loại của tế bào
nhiên liệu, có loại ở thể rắn, có loại ở thể
lỏng và có cấu trúc màng. Vì một tế bào
riêng lẻ chỉ tạo được một điện thế rất thấp
cho nên tùy theo điện thế cần dùng nhiều
tế bào riêng lẻ được nối kế tiếp vào nhau,
tức là chồng lên nhau. Người ta thường gọi
một lớp chồng lên nhau như vậy là stack.
Ngoài ra, hệ thống đầy đủ cần có các thiết bị phụ trợ như máy nén, máy bơm, để
cung cấp các khí đầu vào, máy trao đổi nhiệt, hệ thống kiểm tra các yêu cầu, sự chắc chắn
của sự vận hành máy, hệ thống dự trữ và điều chế nhiên liệu.
c. Nguyên lý hoạt động:
Về phương diện hóa học tế bào nhiên liệu là phản ứng ngược lại của sự điện phân.
Trong quá trình điện phân nước bị tách ra thành khí hiđrô và khí ôxy nhờ vào năng
lượng điện. Tế bào năng lượng lấy chính hai chất này biến đổi chúng thành nước. Qua đó,
trên lý thuyết, chính phần năng lượng điện đã đưa vào sẽ được giải phóng nhưng thật ra vì
những thất thoát qua các quá trình hóa học và vật lý năng lượng thu được ít hơn. Các loại tế
bào nhiên liệu đều cùng chung một nguyên tắc được mô tả dựa vào tế bào nhiên liệu PEM
(Proton Exchange Membrane - tế bào nhiên liệu màng trao đổi bằng proton) như sau:
Ở bề mặt cực dương khí hiđrô bị ôxy hóa bằng hóa điện:
Các điện tử được giải phóng đi từ cực dương qua mạch điện bên ngoài về cực âm.
Các proton H+ di chuyển trong chất điện phân xuyên qua màng có khả năng chỉ cho proton
đi qua về cực âm kết hợp với khí ôxy có sẵn trong không khí (nồng độ 21%) và các điện tử
tạo thành nước:
Tổng cộng:
5
d. Phân loại:
Các hệ thống tế bào nhiên liệu được phân loại theo nhiều cách khác nhau tùy theo
cách nhìn:
+ Phân loại theo nhiệt độ hoạt động
+ Phân theo loại các chất tham gia phản ứng
+ Phân loại theo điện cực
+ Phân theo loại các chất điện phân là cách phân loại thông dụng ngày nay
Liệt kê dưới đây là 6 loại tế bào nhiên liệu khác nhau:
AFC (Alkaline fuel cell - tế bào nhiên liệu kiềm)
PEMFC (Proton Exchange Membrane Fuel Cell - trao đổi
hạt nhân qua mạng lọc)
6
PAFC (Phosphoric acid fuel cell - tế bào nhiên liệu axit
phosphoric)
MCFC (Molten carbonate fuel cell - tế bào nhiên liệu
carbonat nóng chảy)
SOFC (Solid oxide fuel cell - tế bào nhiên liệu oxit
rắn)
DMFC (Direct methanol fuel cell - tế bào nhiên liệu
methanol trực tiếp)
7
e. Ứng dụng:
Tế bào nhiên liệu được sử dụng đầu tiên trong những lĩnh vực mà phí tổn không đóng vai
trò quan trọng. Tế bào nhiên liệu nhẹ và hiệu quả hơn ắc quy đồng thời đáng tin cậy và ít ồn
ào hơn động cơ Diesel. Những điều này giải thích tại sao giới quân sự và ngành du hành vũ
trụ quan tâm đến công nghệ này rất sớm. Một số tàu thuyền trên biển cũng dùng tế bào
nhiên liệu.
Động cơ thúc đẩy cho các ứng dụng dân sự xuất phát từ nhận thức trữ lượng dầu
mỏ trên Trái Đất là có hạn nhưng vẫn mong muốn tiếp tục kinh doanh xe thời kỳ sau dầu
mỏ vốn đang mang về nhiều lợi nhuận.
Từ 20 năm nay nhiều hãng sản xuất xe (DaimlerChrysler, Ford, Honda, Opel) đã nghiên cứu
về xe có nhiên liệu là hiđrô, sử dụng tế bào nhiên liệu để chuyển hóa năng lượng và
dùng động cơ điện để vận hành. Kỷ thuật này đã được phát triển cho xe buýt, xe du lịch, xe
tải nhẹ.Ở Hamburg (Đức) và Stuttgart (Đức) người ta đang thử nghiệm chạy xe buýt sử
dụng nhiên liệu hydro trên các tuyến đường xe buýt bình thường. Từ năm 2003 hai hãng
đóng tàu của Đức đã cung cấp loại tàu ngầm vận hành bằng điện được cung cấp từ máy phát
điện Diesel hoặc từ một hệ thống tế bào nhiên liệu hiđrô.
Các tế bào nhiên liệu sử dụng khí đốt đang chuẩn bị đẩy lùi các thiết bị kết hợp phát điện và
sưởi (combined heat and power plant). Ở hệ thống này khí đốt được biến đổi thành hiđrô
đưa vào tế bào nhiên liệu.
Một số vật dụng cầm tay như điện thoại di động, máy vi tính xách tay, máy quay phim, vật
liệu cắm trại hay quân sự cũng đang tiến tới ứng dụng loại nguồn cung cấp năng lượng này.
Xe máy Yamaha Xe ôtô GM HydroGen Tàu Hydrogen Challenger.
Xe bus dùng pin nhiên liệu Tàu ngầm
8
f. Vấn đề môi trường:
Để thật sự thân thiện với môi trường và khí hậu, một mặt các tế bào nhiên liệu chỉ được
phép thải ra các khí nhà kính và các chất có hại khác càng ít càng tốt, mặt khác quá trình
khai thác chất đốt cũng không được phép thải ra các chất khí đó. Vấn đề chính là ở chỗ này
vì khí hiđrô không có trong tự nhiên mà phải dùng năng lượng để sản xuất ra.
Nước hoặc các hợp chất hydrocacbon như khí tự nhiên, dầu mỏ hoặc mêthanol được xem là
nguồn để sản xuất khí hiđrô. Việc tách nước qua điện phân về nguyên tắc là phù hợp với
môi trường sinh thái nếu như năng lượng cần dùng cũng được sản xuất từ các nguồn năng
lượng tái sinh như nước, Mặt Trờihoặc gió chứ không phải từ các phương pháp sản xuất
điện thông thường.
Trong nhiều loại tế bào năng lượng ngày nay thật ra không phải khí hiđrô tinh khiết được
dùng làm khí đốt mà lại là một chất đốt hóa thạch như khí tự nhiên,xăng hay methanol. Các
loại tế bào nhiên liệu này được sử dụng nhiều nhất là trong công nghiệp ô tô để tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc chuyển đổi từ các động cơ thông thường sang các loại động cơ
thay thế khác. Trong các kiểu động cơ hỗn hợp này khí tự nhiên được chuyển hóa bằng
nhiệt lượng thành oxit cacbon và hiđrô. Hiđrô được dùng trong tế bào nhiên liệu làm chất
đốt và được tiêu thụ hoàn toàn nhưng khí oxit cacbon vẫn còn lại, phản ứng với nước tạo
thành đioxit cacbon, một khí nhà kính tác hại đến khí hậu.
Theo một nghiên cứu của Hội vì môi trường và bảo vệ tự nhiên Đức (Bund für Umwelt und
Naturschutz Deutschland – BUND) các ô tô dùng tế bào nhiên liệu tuy thải khí ra tại chỗ rất
ít hơn so với các động cơ thông dụng nhưng việc sản xuất ra hiđrô từ những nguồn năng
lượng hóa thạch lại tạo ra các khí thải nên nếu tổng cộng lại, lượng các khí tạo ra hiệu ứng
nhà kính được thải ra tăng lên rất nhiều. Việc thải khí chỉ di chuyển từ ô tô về nơi sản xuất
ra hiđrô.
Thay vì hiđrô, nếu sử dụng các nguồn năng lượng hóa thạch khác như methanol thì tác động
đến khí hậu vẫn như các động cơ Otto. Nhưng ít ra thì các hợp chất của lưu huỳnh và các
chất độc hại đến sức khỏe thải ra từ ô tô tế bào nhiên liệu giảm đi rất nhiều.
Tóm lại bản nghiên cứu này cho rằng xe tế bào nhiên liệu thật sự là một lựa chọn cho tương
lai nhưng chỉ khi hiđrô được sản xuất tái sinh ở khối lượng lớn đủ dùng và có thể tích trữ
được. Mặc dù vậy, theo quan điểm của các chuyên gia, xe tế bào nhiên liệu vận hành bằng
các chất đốt hóa thạch vẫn có ý nghĩa: Chúng giúp công nghệ này được phổ biến, phát triển
và chấp nhận tốt hơn và như thế về lâu dài dọn đường cho các xe thật sự không phát sinh ra
khí thải.
Khí tự nhiên được xem là chất đốt thích hợp nhất cho các thiết bị sử dụng tế bào nhiên liệu
trong các nhà máy phát điện và cho các thiết bị nhỏ hơn dùng cho nhà ở. Kết quả bản
nghiên cứu so sánh của BUND cho thấy ở đây khí hiđrô sản xuất tái sinh vẫn là phương
9
cách phù hợp với sinh thái nhất, nhưng mặc dù vậy các thiết bị tế bào nhiên liệu vận hành
bằng khí tự nhiên thải ra lượng oxit nitơ ít đi gấp ba lần và thải ra các hợp chất của lưu
huỳnh cũng ít đi nhiều.
Nếu sử dụng trong các nhà máy phát điện các chuyên gia dự tính việc phát thải các khí nhà
kính có thể giảm đến khoảng 4% cho đến năm 2010. Thêm nữa, việc sản xuất điện và nhiệt
để sưởi ấm được phân tản tiếp tục, các thiết bị nhỏ dùng cho nhà ở được thực hiện dễ dàng
hơn và có hiệu quả nhiều hơn so với các công nghệ thông thường rất nhiều. Tổng kết lại các
chuyên gia cũng khẳng định ở phần này là công nghệ tế bào nhiên liệu vẫn thân thiện
với môi trường hơn các phương pháp sản xuất điện thông dụng rất nhiều.
2) Năng lượng địa nhiệt:
a. Khái niệm về địa nhiệt năng:
Địa nhiệt năng là loại năng lượng lấy từ nguồn nhiệt tự nhiên trong lòng quả đất
bằng cách khoan sâu xuống lòng đất. Độ biến thiên địa nhiệt trong lỗ khoan vào khoảng
10 C/36mét. Nguồn nhiệt này được đưa lên mặt đất dưới dạng hơi nóng hoặc nước nóng.
Nguồn nhiệt này có thể sử dụng trực tiếp để sưới ấm các căn hộ hoặc dùng để sản xuất
điện năng.
Theo tính toán, nhiệt độ ở tâm trái đất vào khoảng 6.650 độ C. Trái đất nguội dần
với tốc độ khoảng 300 ÷ 350OC/1 tỉ năm. Khảng 2% lượng nhiệt nằm ở lớp vỏ của trái
đất, còn lại 98 % ở phần ruột và trung tâm. Như vậy, 2% lượng nhiệt (tương ứng vào
khoảng 840 tỉ W) cũng có thể đáp ứng nhu cầu của loài người trong một thời gian dài.
Các nguồn địa nhiệt:
Một số vùng trong vỏ trái đất, đặc biệt tại những vùng có hoạt động địa chấn
mạnh nhiệt độ tăng rất nhanh theo chiều sâu. Như vậy, tiềm năng địa nhiệt ở những vùng
quanh vành đai động đất là rất lớn.
Phía dưới lớp vỏ trái đất là lớp đá nóng chảy gọi là mác-ma. Tiềm năng của nhiệt
lượng ở độ sâu 10.000 mét gấp khoảng 50.000 lần toàn bộ trữ lượng dầu khí của trái đất.
Nhiều điểm nóng nằm trong vành đai động đất Thái Bình Dương, còn gọi là “vành đai
lửa” vì có rất nhiều núi lửa hoạt động.
Những phương pháp sử dụng năng lượng địa nhiệt
Hai phương pháp cơ bản sử dụng năng lượng địa nhiệt là sử dụng trực tiếp nguồn
nhiệt hoặc dùng cho sản xuất điện năng. Nguồn nhiệt được sử dụng trực tiếp để sưởi ấm
các căn hộ, sấy quần áo, làm tan băng trên các đường giao thông. Nếu dùng nhiệt để sản
xuất điện năng, nhiệt độ cần có phải cao hơn 1500C. Tại Caliphocnia khoảng 5% năng
lượng điện được sản xuất từ nguồn địa nhiệt. Tại Xanvado là khoảng 30%. Tại Iceland
nguồn địa nhiệt được dùng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống và công
nghiệp.
10
Nguyên lý hoạt động của các nhà máy điện địa nhiệt
Hiện nay có 3 loại sơ đồ sản xuất điện năng sử dụng nguồn địa nhiệt: Sơ đồ trực
tiếp sử dụng hơi nóng khô; sơ đồ gián tiếp sử dụng hơi nước và sơ đồ hỗn hợp (hai chu
trình).
Trong sơ đồ trực tiếp, hơi nóng
thổi trực tiếp và tuốc bin, làm quay máy
phát để sinh ra điện. Đây là kiểu nhà máy
điện địa nhiệt lâu đời nhất, lần đầu tiên
được xây dựng ở Italia năm 1904 và vẫn
hoạt động cho đến nay. Tại Caliphocnia
có nhà máy lớn nhất thế giới hoạt động
theo nguyên lý này.
Trong sơ đồ gián tiếp, hơi nước địa
nhiệt được làm tăng độ nóng lên trên
1820C. Hơi nước được dồn vào buồng bay
hơi để giảm áp lực, do vậy một phần dung
dịch được biến thành hơi nước. Hơi nước
sẽ làm quay tuốc bin. Nếu trong bình chứa
còn dư chất lỏng, nó có thể được đưa vào
bình bay hơi để tăng thêm công suất.
11
Trong sơ đồ hỗn hợp, sử dụng nước
nóng có nhiệt độ thấp hơn 2000 C, là
nguồn nước nóng dồi dào nhất trong đa số
các vùng địa nhiệt. Nước nóng địa nhiệt
và chất lỏng thứ cấp có nhiệt độ sôi thấp
hơn được đưa qua buồng trao đổi nhiệt.
Nhiệt năng của nước địa nhiệt làm chất
lỏng thứ cấp bốc hơi và hơi nước sẽ làm
quay tuốc bin. Bởi vì đây là hệ thống khép
kín nên không hề có chất thải vào khí
quyển. Nước nóng có nhiệt độ vừa phải là
nguồn địa nhiệt thông dụng có tiềm năng
dồi dào nhất. Do đó đa số các nhà máy
điện địa nhiệt trong tương lai sẽ hoạt động
theo nguyên lý này.
Iceland đang xây dựng nhà máy điện địa nhiệt cực lớn
Tại Iceland đã thực hiện một lỗ khoan địa nhiệt sâu
3.000 mét tại vùng núi lửa để chuẩn bị cho dự án khai thác
địa nhiệt dùng để sản xuất điện thân thiện với môi trường.
Từ lỗ khoan sâu hai dặm gần núi lửa Krafla sẽ khai
thác nước siêu lỏng (là trạng thái xóa nhòa ranh giới giữa
pha lỏng và hơi). Nếu được sử dụng để phát điện thì
Iceland sẽ tăng gấp 10 lần năng lượng khai thác từ lòng
đất.
Hiện nay có khoảng 50 nước trên thế giới sử dụng địa nhiệt. Iceland xếp vị trí 14
trên thế giới về tiềm năng địa nhiệt nhưng là nước có sản lượng điện địa nhiệt tính theo
đầu người cao nhất thế giới.
Với tổng vốn đầu tư khoảng 22 tỉ USD, thực hiện trong 10 năm, dự án đầy tham
vọng của Iceland ngay từ cuối năm 2009 đã bắt đầu khai thác nguồn nước địa nhiệt siêu
lỏng. Các chuyên gia đặt cược cho sự thành công của dự án là 50/50. Nếu thành công, sẽ
cho ra một sản lượng điện bằng một nhà máy điện nguyên tử cỡ vừa.
Hiện tại, Iceland mới chỉ sử dụng khoảng 20% tiềm năng địa nhiệt đang có. Nếu
khai thác toàn bộ trữ lượng địa nhiệt bằng phương pháp thông thường thì hàng năm sẽ
cho ra sản lượng khoảng 20 tỉ W/giờ, tương đương với sản lượng của 3 lò phản ứng hạt
Krafla Geothermal Station in
12
nhân. Iceland bắt đầu khai thác năng lượng địa nhiệt từ đầu thế kỷ 20. Trên hòn đảo này
hiện đang hoạt động 5 nhà máy địa nhiệt điện với tổng công suất khoảng 420 MW, bằng
26,5% tổng năng lượng điện trong cả nước. Còn nguồn nhiệt dùng để để sưởi ấm và đun
nóng nước bằng địa nhiệt chiếm tới 90% .
Những vấn đề có thể phát sinh
Dự án lớn về khai thác địa nhiệt của Iceland cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định.
Trong trường hợp xấu nhất, nước nóng với áp lực cao có thể cuốn phăng dàn khoan như
đã từng xảy ra năm 1999, tạo thành một hố sâu rộng tới 30 mét. Mặt khác, nước nóng ở
độ sâu dưới lòng đất thường có chứa a-xít clohydric có thể phá hủy các kết cấu bằng
thép. Ngoài ra, nếu khoan thủng tới tầng mác-ma thì chưa có công nghệ sử dụng và chế
ngự nó và sẽ phải chuyển sang lỗ khoan khác.
b. Tác động môi trường:
Các dòng nước nóng được bơm lên từ dưới sâu trong lòng đất có thể chứa một vài
khí đi cùng với nó như điôxít cacbon và hydro sunfua. Khi các chất ô nhiễm này thoát ra
ngoài môi trường, nó sẽ góp phần vào sự ấm lên toàn cầu, mưa axít, và các mùi độc hại
đối với thực vật xung quanh đó. Các nhà máy phát điện địa nhiệt hiện hữu phát thải
trung bình 90–150 kg CO2 trên 1MWh điện, và cũng là một phần nhỏ so với các nhà
máy phát điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Một số nhà máy được yêu cầu phải có hệ
thống kiểm soát lượng phát thải nhằm làm giảm lượng axít và các chất bay hơi.
Bên cạnh các khí hòa tan, nước nóng từ nguồn địa nhiệt có thể chứa các nguyên
tố vết nguy hiểm như thủy ngân, arsen và antimon nếu nó được thải vào các con sông có
chức năng cung cấp nước uống. Các nhà máy địa nhiệt về mặt lý thuyết có thể bơm các
chất này cùng với khí trở lại lòng đất ở dạng cô lập cacbon.
Việc xây dựng các nhà máy phát điện có thể ảnh hượng ngược lại đến sự ổn định
nền đất của khu vực xung quanh. Đây là mối quan tâm lớn cùng với hệ thống địa nhiệt
nâng cao, ở đây nước được bơm vào trong đá nóng và khô không chứa nước trước đó.
Địa nhiệt cũng chiếm một diện tích đất tối thiểu; các nhà máy địa nhiệt hiện hữu
sử dụng 1-8 hecta/1MW so với các nhà máy điện hạt nhân là 5-10ha/MW và 19 ha/MW
đối với nhà máy điện chạy bằng than.
c. Kinh tế
Năng lượng địa nhiệt không cần nhiên liệu và cũng không phụ thuộc vào giá cả
nhiên liệu nhưng chi phí đầu tư ban đầu sẽ cao. Chi phí cho một nhà máy điện địa nhiệt
phải kể đến các chi phí chính như chi phí khoan giếng và thăn dò các nguồn dưới sâu vì
chúng chứa đựng nhiều rủi ro về mặt tài chính rất cao. Hiện tại, chi phí xây dựng các nhà
13
máy điện địa nhiệt và các giếng chiếm khoảng 2-5 triệu € (Euro)/1MW công suất thiết
kế, trong khi chi phí vận hành chiếm khoảng 0,04-0,10€/1kWh.
Năng lượng địa nhiệt cũng có những cấp độ khác nhau: các nhà máy địa nhiệt lớn
có thể cung cấp năng lượng cho toàn bộ các thành phố trong khi đó các nhà máy nhỏ
hơn chỉ có thể cung cấp cho các khu vực nông thôn hoặc một số hộ gia đình.
d. Triển vọng khai thác và sử dụng điện địa nhiệt ở Việt Nam:
Dù phải đứng trước những thách thức về kinh tế, kỹ thuật như trên, các nhà khoa
học về năng lượng địa nhiệt vẫn có những dự báo lạc quan rằng khai thác địa nhiệt đã và
sẽ được vượt qua khó khăn ban đầu để năng lượng địa nhiệt sẽ thực sự có vị trí quan
trọng trong các nguồn năng lượng của tương lai.
Ở Việt Nam, theo khảo sát và đánh giá của các nhà khoa học, hiện có khoảng 264
nguồn, suối nước nóng phân bố tương đối đều trên cả nước: như suối nước nóng Kim
Bôi-Hòa Bình, Thạch Bích-Quảng Ngãi, Bình Châu-Bà Rịa-Vũng Tàu,….với nhiệt độ
trung bình từ 70-100oC ở độ sâu 3km. Ông Tạ Hường, Phó Chủ tịch Hội Nhiệt Việt
Nam cũng nhận định, nước ta được đánh giá là có tiềm năng địa nhiệt trung bình so với
thế giới. Bên cạnh đó, nguồn năng lượng này ở nước ta còn có ưu điểm là phân bố đều
trên khắp lãnh thổ cả nước nên cho phép sử dụng rộng rãi ở hầu hết các địa phương như
Phú Thọ, Quảng Bình, Quảng Trị…
Mới đây, Chính phủ đã đồng ý cấp phép đầu tư xây dựng Nhà máy Điện địa nhiệt
đầu tiên tại Đakrông - Quảng Trị. Nhà máy dự kiến có công suất 25MW với vốn đầu tư
khoảng 50 triệu đô la Mỹ. Việc xây dựng Nhà máy Điện địa nhiệt tại huyện Đakrông sẽ
tận dụng được nguồn tiềm năng thiên nhiên từ khu mỏ nước nóng tại đây và còn có thêm
một ý nghĩa nữa, đó là góp phần cải thiện đời sống sinh hoạt của bà con dân tộc Vân
Kiều đang sinh sống tại địa bàn. Trong quá trình hoạt động, Nhà máy Điện địa nhiệt còn
giúp cải thiện môi trường xung quanh và có thể tận dụng để phát triển du lịch.
Quyết định này được xem là động thái đầu tiên của Chính phủ nhằm đánh thức
tiềm năng lớn về nguồn năng lượng sạch của nước ta; đồng thời mở ra triển vọng khai
thác và ứng dụng nguồn năng lượng hữu ích này rộng rãi vào đời sống kinh tế xã hội của
đất nước, vừa giải quyết được bài toán kinh tế vừa thân thiện với môi trường.
14
3) Năng lượng hạt nhân:
a. Khai thác:
Năng lượng hạt nhân khi so sánh với năng lượng từ nhiên liệu hoá thạch: cực kỳ
tiết kiệm nhiêu liệu, không có nguy cơ phát tán khí thải.
Theo tính toán, 1 tấn Uranium được phân hạch hoàn toàn tạo ra một lượng năng
lượng tương đương với 3 triệu tấn than đá hoặc 14 triệu thùng dầu.
Đáng tiếc là, công nghệ năng lượng hạt nhân hiện nay, chủ yếu dựa trên các Lò
phản ứng Nước Nhẹ (Light Water Reactors-LWR) được vận hành hầu như đối với
Uranium được làm giàu và các neutron nhiệt, còn xa so với những kỳ vọng được lý
tưởng hóa đã đề cập ở trên. Chỉ có 235U (chiếm 0.71%) chứa trong Uranium tự nhiên là
có thể phân hạch trực tiếp được, trong đó, khoảng 60% được tách chiết bằng kỹ thuật
làm giàu. Do đó, chỉ khoảng 0,4% năng lượng tiềm tàng chứa trong Uranium tự nhiên là
được khai thác.
b. Sử dụng và tái sử dụng:
Sử dụng:
Các nhà máy năng lượng hạt nhân biến đổi năng lượng giải phóng từ hạt nhân
nguyên tử thông qua phản ứng phân hạch.
Khi một hạt nhân nguyên tử dùng
để phân hạch (thường là urani 235 hoặc
plutoni-239) hấp thụ nơtron sẽ tạo ra sự
phân hạch nguyên tử. Quá trình phân hạch
tách nguyên tử thành 2 hay nhiều hạt nhân
nhỏ hơn kèm theo động năng (hay còn gọi
là sản phẩm phân hạch) và cũng giải phóng
tia phóng xạ gamma và nơtron tự do. Một
phần nơtron tự do này sau đó được hấp thụ
bởi các nguyên tử phân hạch khác và tiếp
tục tạo ra nhiều nơtron hơn. Đây là phản
ứng tạo ra nơtron theo cấp số nhân.
Đến năm 2005, năng lượng hạt nhân cung cấp 2,1% nhu cầu năng lượng của thế
giới và chiếm khoảng 15% sản lượng điện thế giới, trong khi đó chỉ tính riêng Mỹ, Pháp
và Nhật Bản sản lượng điện từ hạt nhân chiếm 56,5% tổng nhu cầu điện của ba nước
này. Đến năm 2007, theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA)
có 439 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động trên thế giới, thuộc 31 quốc gia.
15
Tái sử dụng:
Chu trình nguyên liệu hạt nhân bắt đầu khi urani được khai thác, làm giàu và chế
tạo thành nguyên liệu hạt nhân, đưa đến nhà máy năng lượng hạt nhân. Sau khi sử dụng
trong nhà máy, nguyên liệu được đưa tới nhà máy tái xử lý. Trong quá trình tái xử lý,
95% nguyên liệu đã xử dụng có thể thu hồi để tái sử dụng.
c. Tác động môi trường:
Tác động của việc khai thác mỏ urani:
Quặng urani chủ yếu được khai thác bằng cách cổ điển ở mỏ lộ thiên hoặc mỏ
ngầm. Nếu là mỏ lộ thiên, chỉ cần bóc lớp đất đá phủ tương đối mỏng để lấy quặng, còn
mỏ ngầm thì phải đào hầm lò khá sâu qua lớp đá không quặng, có khi tới hai ba kilômet
dưới lòng đất. Hàng triệu lít nước ô nhiễm bơm từ mỏ vào sông rạch, khiến lớp trầm tích
ngày càng chứa nhiều chất phóng xạ hơn. Tuy việc thông khí ở mỏ giảm được phần nào
tai hại cho sức khỏe công nhân, nhưng bụi phóng xạ và khí rađon thổi ra ngoài lại làm
tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi cho người dân sống gần đó. Đá thải chất thành gò
lớn cũng hay có độ phóng xạ cao hơn các loại đá bình thường. Kể cả khi mỏ đã ngừng
hoạt động, gò đá thải vẫn còn là mối đe dọa đối với môi trường và các khu dân cư lân
cận vì khí rađon, nước rỉ ô nhiễm có thể thoát ra ngoài.
Sau khi ngừng khai thác, để phòng tai họa cho con người và môi trường, cần phải
thu dọn, cải thiện tình trạng ô nhiễm ở mỏ và phân xưởng gia công, cũng như phải quản
lý chặc chẽ một lượng phế thải (đá và quặng thải) hạt nhân khổng lồ. Chi phí xử lý sau
khi khai thác tuỳ thuộc vào tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Đức phải chi 49 USD cho mỗi
tấn phế thải hay 14 USD cho mỗi cân Anh U3O8 khai thác ở CHDC Đức cũ, trong khi
các chi phí tương ứng của Canađa là 0,48 USD/tấn phế thải và 0,12 USD/lb U3O8. Tổng
chi phí xử lý mấy chục triệu tấn phế thải từ một mỏ urani sẽ lên tới hàng triệu, thậm chí
hàng trăm triệu đô-la Mỹ. Càng để lâu, việc xử lý phế thải càng khó khăn và tốn kém
hơn.
Chất thải hạt nhân:
Chất thải phóng xạ hiện là một vấn đề chưa có được hướng giải quyết triệt để
Nhìn tổng thể, năng lượng hạt nhân tạo ra rất ít chất thải so với năng lượng từ
nhiên liệu hoá thạch.
Tro, bụi, khói từ nhiên liệu hoá thạch có ít phóng xạ hơn chất thải phóng xạ,
nhưng mỗi đơn vị năng lượng khi được tạo ra bằng nhiên liệu hoá thạch sẽ thải ra một
lượng khí thải cao gấp nhiều lần so với năng lượng từ phản ứng phân hạch.
16
Tuy nhiên chất thải phóng xạ lại cực kì độc hại và tồn tại rất lâu trong môi trường
do các nhiên liệu phóng xạ đều có chu kì bán rã cực kì lâu, nên việc xử lý chất thải
phóng xạ có thể coi là nhược điẻm duy nhất của nền công nghiệp hạt nhân. Các chất thải
phóng xạ được trữ trong hơn 430 vị trí trên thế giới, nơi mà nguyên liệu phóng xạ tiếp
tục được tích luỹ.
Xử lý chất thải hạt nhân:
Dưới đây là 8 giải pháp đối mặt với vấn đề chất thải hạt nhân và những rủi ro từ
chúng:
Đưa vào không gian
Nỗi lo về chất thải hạt nhân sẽ tan biến và không thể gây hại cho con người nếu
chúng ta có thể đưa chúng vào hệ mặt trời, hay “thả” vào mặt trời. Nhưng nếu các vụ
phóng tàu để đưa ra các chất thải hạt nhân vào không gian thất bại, hậu quả sẽ khôn
lường như thế nào?
Khi tàu phóng rơi xuống các đại dương, phát nổ trên vùng thượng quyển… hậu
quả với con người, sinh vật trên Trái Đất là khôn lường. Do đó, việc đưa chất thải ra
ngoài vũ trụ cần được cân nhắc.
Thậm chí, giả sử việc phóng ra ngoài không gian thành công theo đúng lộ trình và
an toàn, rất có thể một ngày nào đó, những chất thải đó có thể quay trở lại.
Chôn sâu trong lòng đất
Việc chôn chất thải hạt nhân xuống sâu dưới lòng đất là một lựa chọn ưa thích
của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, nó sẽ được chôn như thế nào là câu hỏi gây ra sự tranh
cãi.
Giải pháp chôn sâu vẫn là một dự tính trên giấy, mô tả việc đưa chất thải vào
trong những chiếc hộp thép rồi chôn sâu hàng km dưới bề mặt Trái Đất. Một lợi thế của
việc chôn chất thải là có thể khoan chúng gần các lò phản ứng hạt nhân, giúp giảm
khoảng cách để vận chuyển những chất thải “nguy hiểm cao độ” xuống nơi chôn lấp.
Tuy nhiên, các nước đều vấp phải vấn đề liên quan đến lựa chọn địa điểm chôn
lấp chất thải, những nguyên tắc tiêu chuẩn để đảm bảo an toàn cho môi sinh khu vực
đó…
Chôn lấp dưới đáy biển
Phần lớn đáy của các đại dương đều cấu tạo từ lớp đất sét dày và nặng, một
nguyên liệu hoàn hảo để hấp thụ phóng xạ của các chất thải hạt nhân phát ra. Biện pháp
này được nhà hải dương học Charles Hollister, thuộc Viện Hải dương Woods Hole khởi
xướng vào năm 1973. Việc lưu giữ chất thải hạt nhân dưới đáy biển được Quốc hội Mỹ
thông qua năm 1986.
Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm với việc lưu trữ, đó là phải thực hiện khoan các giếng
ngầm sâu dưới đáy biển. Thảm họa tràn dầu Deepwwater Horizon là lời cảnh báo đối
với các hoạt động khoan, khai thác dưới đáy biển.
Bên cạnh đó, còn nhiều tranh cãi trong các diễn đàn đa phương của các quốc gia
phát triển hạt nhân nói riêng và toàn cầu về vấn đề xử lý chất thải hạt nhân ra biển. Vì
17
vậy, giải pháp chôn lấp dưới đáy biển cần sự xem xét bằng các thỏa ước quốc tế nhằm
đem lại lợi ích chung.
Chôn lấp ở vùng hút chìm
Khái niệm vùng hút chìm còn lạ lẫm với nhiều người. Đây là thuật ngữ trong địa
chất học, là nơi diễn ra quá trình hội tụ biên giới giữa các mảng kiến tạo: một mảng kiến
tạo di chuyển xuống dưới mảng kiến tạo khác, sau đó bị chìm xuống dưới lớp vỏ trái đất.
Tỉ lệ sự hút chìm khoảng vài cm mỗi năm (trung bình từ 2-8 cm).
Về mặt lý thuyết, việc chôn lấp chất thải hạt nhân ở vùng hút chìm sẽ đưa những
thùng chứa nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng dọc theo đai băng chuyền giữa các mảng
kiến tạo và đi vào trong lớp vỏ Trái Đất.
Tuy nhiên, giải pháp này gặp phải nhiều vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ
quốc gia cũng như sự tham gia của nhiều bên liên quan, giống như dự án chôn lấp dưới
đáy biển
Chôn dưới sông băng
Việc đặt các quả cầu chất thải hạt nhân xuống các phiến băng ổn định, để nó chảy
xuống bên dưới, sau đó sẽ được các lớp băng khác cô đặc lại. Chất thải có thể được bảo
quản vĩnh viễn bên dưới các lớp băng dày hàng chục m. Tuy nhiên, ý kiến này sớm bị
loại bỏ. Lý giải cho việc bác bỏ, là lo ngại việc dịch chuyển các mảng băng cũng như
hiện tượng biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu.
Hiện nay, đỉnh Quelccaya ở Nam Peru, đỉnh núi băng nhiệt đới lớn nhất thế giới,
có tốc độ tan chảy khoảng 60 mét mỗi năm, tăng gấp 10 lần so với tốc độ tan băng của
những năm 1960.
Cất giữ trong đá nhân tạo
Lựa chọn tốt nhất và hiện thực nhất hiện nay là việc cô lập các chất thải phóng xạ
trong các loại đá tổng hợp nhân tạo sau đó chôn xuống dưới lòng đất. Cách này sẽ ngăn
chất thải phóng xạ và làm nhiễm độc đất, đá và nước xung quanh.
Các nhà khoa học đã phát triển loại đá nhân tạo (synroc) từ những năm 1970
nhằm lưu giữ những chất thải hạt nhân có mức phóng xạ lớn. Các loại đá được thiết kế
khác nhau phụ thuộc vào loại chất thải riêng biệt, dựa trên công thức cho phản ứng
nước-ánh sáng cũng như hàm lượng chất plutonium.
Một giải pháp tương tự là sử dụng vật liệu gốm nano trong bảo quản và lưu giữ
chất thải phóng xạ. các nhà khoa học Australia dùng sơn với sợi gốm nano được làm từ
oxit của titan để sơn lên bề mặt các bể hay thùng lớn bằng thép, được dùng để chứa chất
thải phát sinh trong quá trình khai thác các chất phóng xạ và nước thải trong quá trình
làm mát lò phản ứng.
Vật liệu gốm nano có ưu điểm là rất bền và có thời gian tồn tại lâu hơn các ion
chất phóng xạ, có khả năng bẫy các ion dương của chất phóng xạ và giữ chặt chúng mãi
trong đó. Chỉ cần quét một lớp sơn mỏng cỡ nano mét (một phần tỷ mét) sẽ tăng độ an
toàn lên rất nhiều.
Rút ngắn chu kỳ bán rã
Hiện, một số nhà khoa học đang tính tới việc giảm chu kỳ bán rã của các chất thải
phóng xạ, qua đó, xử lý nhanh chóng các chất này, thay vì tìm cách chôn chúng ở đâu đó
và chờ chúng phân rã hết. Máy Laser Vulcan là một thiết bị ra đời từ ý tưởng đó. Máy có
18
thể tạo ra các xung điện mạnh và ngắn, một triệu tỷ Watts, bắn vào một cục vàng nhỏ,
tạo ra đủ bức xạ gama để đánh bật các neutron đơn lẻ khỏi chất thải phóng xạ như Iodine
129.
Iodine129 là một trong nhiều đồng vị phóng xạ được tạo ra khi Uranium bị đốt
trong lò phản ứng hạt nhân. Tuy nhiên, các nhà khoa học đánh giá, máy Laser sẽ không
giải quyết triệt để vấn đề chất thải xong nó giảm độ mức độ phóng xạ.
Phương pháp này mới chỉ thực hiện trong phòng thí nghiệm và chỉ có khả năng
áp dụng ở giai đoạn xử lý ban đầu của chất thải hạt nhân.
Tái chế chất thải hạt nhân
Uranium được sử dụng trong lò phản ứng hạt nhân chỉ lấy được 5% năng lượng
trong khi các nhà máy điện nguyên tử vẫn chưa thể tái sử dụng nhiên liệu này. Nguyên
nhân là do dạng phổ biến nhất của Uranium, ion uranyl rất khó phân tách từ các thanh
nhiên liệu đã qua sử dụng.
Các nhà khoa học ở ĐH Edinburth (Scotland) đã nghiên cứu sáng chế ra phân tử
mạch vòng, có khả năng “ăn” phần lớn các ion khi tiếp xúc với chất uranyl. Nhờ vậy,
cấu trúc của uranyl sẽ bị suy yếu giúp thanh nhiên liệu đã cháy dễ dàng phản ứng với các
chất có khả năng để tách lọc hơn ra khỏi chất thải, không gây ô nhiễm môi trường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_bao_cao_moi_truong_va_con_nguoi_1567.pdf