LỜI NÓI ĐẦU
Đối với quốc gia, thất nghiệp thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp và thiếu việc làm làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp và nóng bỏng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sự phát triển con người. Do đó, việc giải quyết việc làm và tạo mở việc làm trong giai đoạn Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước hiện nay là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi thành phần trong xã hội nhằm đưa đất nước đi lên theo kịp sự phát triển chung của khu vực và của thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, qua thời gian thực tập tại Phòng Nội vụ Lao động và Xã hội huyện Đan Phượng, cùng với sự hướng dẫn của GS Mai Quốc Chánh, em đã lựa chọn đề tài: “Công tác tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn huyện Đan Phượng – Hà Tây” để nghiên cứu cho bài báo cáo thực tập cuối khoá của mình. Đồng thời cũng mong muốn được đóng góp những kiến thức mà bản thân đã được học tập trong trường ĐH Kinh tế Quốc dân làm cho công tác tạo mở việc làm của huyện được thực hiện ngày càng tốt hơn.
Chuyên đề thực tập này được chia làm ba phần:
Phần I: Những lý luận chung về vấn đề việc làm
Phần II: Thực trạng về việc làm và công tác tạo mở việc làm của huyện Đan Phượng trong những năm vừa qua.
Phần III: Kiến nghị và đề xuất.
MỤC LỤC
LỜ I NÓIĐẦU 1
PHẦN I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM 3
I, Lao động và nguồn lao động: 3
1, Lao động: 3
2, Nguồn nhân lực và nguồn lao động: 4
3, Vai trò của nguồn lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội: 4
II, Việc làm và thất nghiệp: 6
1, Việc làm: 6
2, Tình trạng việc làm và thất nghiệp: 6
2.1, Việc làm đầy đủ: 6
2.2, Việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả: 7
2.3, Thiếu việc làm: 7
2.4, Thất nghiệp: 7
3, Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề việc làm: 12
3.1, Số lượng chất lượng nguồn lao động và cơ cấu đào tạo: 12
3.2, Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động 12
3.3, Sự ổn định kinh tế chính trị: 13
4.4. Sự di chuyển lao động: 13
3.5, Cơ chế, chính sách và các biện pháp phát triển kinh tế xã hội: 14
3.6, Hỗ trợ cộng đồng và dịch vụ việc làm: 14
3.7, Trợ giúp Quốc tế và giải quyết việc làm: 14
III, Ý nghĩa của vấn đề việc làm đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội: 15
1.Về mặt kinh tế: 15
2, Về mặt xã hội: 16
IV, Vai trò của nhà nước và xã hội trong lĩnh vực giải quyết việc làm: 17
V, Sự cần thiết khách quan của tạo việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn huyện Đan Phượng: 18
PHẦNII: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TẠO MỞ VIỆC LÀM CỦA HUYỆN ĐAN PHƯỢNG
I, Giới thiệu chung về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Đan Phượng: 20
1, Đặc điểm về vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của huyện: 20
2, Đặc điểm về kinh tế-xã hội, thành tựu đã đạt được và mục tiêu trong những năm tới: 20
II, Thực trạng lao động huyện Đan Phượng: 21
1, Về số lượng: 21
2, Về chất lượng: 24
III, Thực trạng về công tác tạo mở việc làm trong những năm gần đây: 27
1, Thực trạng: 27
2, Đánh giá công tác giải quyết và tạo mở việc làm của huyện Đan Phượng trong thời gian qua: 37
PHẦNIII: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 41
I, Mục tiêu đặt ra: 41
II. Một số giải pháp nhằm làm cho công tác giải quyết và tạo việc làm có hiệu quả hơn trong thời gian tới : 42
1,Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương: 42
2, Về phát triển cụm điểm công nghiệp – làng nghề: 42
3, Phát triển thưong mại - dịch vụ: 43
4, Về phát triển nông nghiệp, nông thôn: 43
5, Về đào tạo nghề: 44
6, Về giáo dục: 44
7, Về vay vốn, giải quyết việc làm: 45
8, Về hợp tác lao động nước ngoài: 45
9, Thực hiện cơ chế, chính sách đối với hộ nông dân giao đất nông nghiệp khi nhà nước thu hồi: 46
10, Huy động các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các công ty đóng trên địa bàn huyện hoạt động thuận lơi: 47
III, Một số kiến nghị: 47
1, Đối với các cơ quan quản lý của huyện Đan Phượng: 47
2, Đối với các cơ quan quản lý cấp trên: 48
KẾT LUẬN 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
50 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2679 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn huyện Đan Phượng – Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h thổ. Nếu không có các biện pháp tạo mở việc làm hợp lý cho khu vực nông thôn, nhiều người lao động ở khu vực này sẽ ra thành thị để tìm việc làm, gây sức ép cho khu vực thành thị trên tất cả các mặt như: nhà ở, điện nước, y tế, phúc lợi xã hội…
IV, Vai trò của nhà nước và xã hội trong lĩnh vực giải quyết việc làm:
Sự ra đời và phát triển của Nhà nước gắn liền với sự hình thành và hoàn thiện các chức năng của mình. Giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội là một chức năng bao trùm mà Nhà nước thường xuyên phải thực hiện. Khi vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm nảy sinh, Nhà nước phải đứng ra giải quyết nhằm ngăn chặn và giảm bớt các hậu quả về kinh tế - xã hội mà nó có thể gây ra, đồng thời hướng những tác động đó vào phát triển đất nước. Chính vì đó, khi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm càng cao thì vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giải quyết và tạo việc làm sẽ càng lớn.
Nhà nước có thể đưa ra nhiều chính sách và biên pháp khác nhau để giải quyết việc làm. Nhà nước tạo ra khuôn khổ pháp lý để giải phóng sức lao động, khuyến khích toàn dân tham gia vào phát triển sản xuất, tự tạo việc làm, khuyến khích các đơn vị kinh tế thu hút thêm nhiều lao động. Nhà nước sử dụng công cụ tài chính, phát huy vai trò của bộ máy Nhà nước, các đoàn thể xã hội để thực hiện các chính sách, biện pháp đưa ra như cho các đối tượng vay vốn với lãi suất thấp (hoặc ưu đãi), phát triển các dịch vụ việc làm và dạy nghề, tạo chỗ làm mới trong các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế…Kết quả giải quyết việc làm ở các quốc gia sẽ phụ thuộc rất lớn vào mức độ quan tâm của Nhàn nước cũng như các chính sách và biện pháp mà Nhà nước đã thực thi.
Việc làm có mối quan hệ mật thiết tới chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Vì vậy, giải quyết việc làm không những là nhiệm vụ cuả Nhà nước mà còn là trách nhiệm của mọi người lao động và toàn xã hội. Trong đó các tổ chức kinh tế xã hội, các đoàn thể quần chúng đóng vai trò tích cực trong việc hướng dẫn giúp đỡ người lao động trang bị kiến thức nghề nghiệp, tìm việc làm và tạo việc làm cho họ. Sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể này sẽ góp phần quan trọng cùng với Nhà nước giải quyết có hiệu quả những vấn đề lao động, việc làm đang được đặt ra.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: Nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, do đó, Nhà nước và các đoàn thể xã hội cần phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong lĩnh vực giải quyết việc làm, một trong những vấn đề kinh tế xã hội cấp bách hiện nay.
V, Sự cần thiết khách quan của tạo việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn huyện Đan Phượng:
Sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác, quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực của đất nước bao gồm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, trình độ khoa học, kỹ thuật công nghệ và tiềm lực về con người hay nguồn nhân lực.
Việc tạo việc làm nhằm khai thác có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên sẵn có trên địa bàn huyện, đồng thời, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và các tệ nạn xã hội hiên đang có xu hướng gia tăng do hiện tượng thất nghiệp gây ra.
Trong khoảng 8-10 năm trở lại đây, huyện Đan Phượng đang chuyển mình mạnh mẽ cùng hoà nhịp với quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của đất nước. Cơ sở hạ tầng và điều kiện kinh tế của huyện đang ngày càng được hiện đổi mới theo hướng hiện đại hoá, trong khi đó trình độ nguồn nhân lực của huyện lại chưa theo kịp được với yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Để phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trên địa bàn huyện, có một diện tích lớn đất sản xuất nông nghiệp được chuyển thành khu công nghiệp, kéo theo nhiều lao động hoạt động trong lĩnh vực này lâm vào tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.
Từ các nguyên nhân trên cho thấy công tác giải quyết việc làm và tạo việc làm cho người lao động huyện Đan Phượng là một yêu cầu cần thiết khách quan và đóng vâi trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của huyện
PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TẠO MỞ VIỆC LÀM CỦA HUYỆN ĐAN PHƯỢNG TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA.
I, Giới thiệu chung về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Đan Phượng:
1, Đặc điểm về vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của huyện:
Huyện Đan Phượng nằm về phía Tây Bắc tỉnh Hà Tây, phía Tây của Thủ đô Hà Nội. Cách trung tâm tỉnh khoảng 20 km, là huyện đồng bằng có diện tích tự nhiên khoảng 76.82 km2; diện tích đất canh tác là 3.600 ha. Giáp với các huyện Phúc Thọ, Quốc Oai của tỉnh ở phía Tây, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nội và huyện Hoài Đức ở phía Đông. Với vị trí địa lý là cửa ngõ của thủ đô như vậy đã tạo cho huyện nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay.
2, Đặc điểm về kinh tế-xã hội, thành tựu đã đạt được và mục tiêu trong những năm tới:
Trong những năm vừa qua (từ năm 2002-2007) các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong huyện Đan Phượng đã quán triệt, vận dụng sáng tạo các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, tạo những bước tiến quan trọng, những khâu đột phá mang tính quyết định, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động; thu ngân sách khá và tăng dần hàng năm; giảm mạnh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, kết cấu hạ tầng được tăng cường, nhất là hệ thống đường giao thông nông thôn và các công trình phúc lợi công cộng, an ninh quốc phòng được giữ vững; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao. Cụ thể như sau:
- Tổng sản phẩm GDP năm 2007 ước thực hiện 645 tỷ đồng bằng 116.85% so với năm 2006.
- Tổng giá trị sản xuất ước thực hiện 1312 tỷ đồng bằng 112,33% năm 2006. Cơ cấu ngành: nông nghiệp thuỷ sản chiếm 21,4%; công nghiệp xây dựng chiếm 39,6% và dịch vụ chiếm 39%
- Giá trị sản xuất bình quân 1 hecta canh tác đạt 52 triệu đồng. bình quân thu nhập đầu người năm 2007 là 7 triệu 610 nghìn đồng trên một người bằng 126,35% so với năm 2006.
- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 138 tỷ 115 triệu đồng tăng 149,2% so với năm 2006.
Hiện nay trên địa bàn huyện có 19 khu công nghiệp vừa và nhỏ thu hút hơn 160 dự án đầu tư trong nước và nước ngoài đang trong quá trình hoạt động và đầu tư cơ sở hạ tầng đi vào hoạt động
Bên cạnh đó hệ thống điện đường trường trạm của huyện đang được đầu tư xây dựng tạo cở sở vật chất tốt nhất phục vụ cho phát triển kinh tế.
Hiện nay huyện Đan Phượng đang trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế: hệ thống đường xá được mở rộng và hiện đại hoá, nhiều khu công nghiệp mới được thành lập ở các xã. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp thu hẹp do bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, các công trình kinh tế xã hội. Bộ mặt của huyện hiện nay đang chuyển biến mạnh mẽ từng ngày theo hướng hiện đại hoá nhằm khai thác tốt hơn các nguồn tiềm năng của huyện: Đất đai, nguồn lao động, nguồn vốn đầu tư…Tuy nhiên, tốc độ tăng tưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm so với lợi thế về điều kiện tự nhiên và vị trí của huyện ven đô, tình trạng thiếu việc làm vẫn còn là vấn đề nan giải ở địa phương.
II, Thực trạng lao động huyện Đan Phượng:
1, Về số lượng:
Theo tổng điều tra dân số ngày 01/07/2007 toàn huyện Đan Phượng có 141.993 người với 31.966 hộ dân phân bố ở 15 xã và thị trấn.Là một huyện đồng bằng đất chật người đông, diện tích tự nhiên 76.57 km2, mật độ dân số trung bình 1854 người/1km2.
Tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 1.36%, chủ yếu là tăng dân số tự nhiên, tỷ lệ tăng dân số cơ học chỉ chiếm một con số rất nhỏ không đáng kể, so với trung bình của cả nước là 1.3 % (năm 2007) là khá cao, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc gia tăng nguồn nhân lực trong những năm tới, đồng thời làm gia tăng sức ép về giải quyết việc làm cho các cơ quan quản lý nhà nước.
Tính đến ngày 1/7/2007 dân số của huyện Đan Phượng là 141.993 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 77.085 người chiếm 56,7% so với tổng số dân của huyện trong đó lao động nữ là 41048 người chiếm tỷ lệ 53.25% so với tổng số lao động. Số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm vào khoảng 2.115 người. Lực lượng lao động phân bổ trong các lĩnh vực gồm 63.485 người, trong đó:
+ Lao động nông nghiệp, thuỷ sản: 48.950 chiếm 77,1%
+ Lao động công nghiệp – xây dựng: 5.850 chiếm 9.2%
+ Lao động dịch vụ - thương mại: 5.855 chiếm 9,2%
+ Lao động hành chính sự nghiệp: 2.830 chiếm 4,5%
+ Lao động tại các xã không có việc làm: 4.500
+ Số đến tuổi lao động nhưng đang học ở các trường: 6500.
Sơ đồ thể hiện cơ cấu lao động theo ngành nghề
Như vậy, lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn chiếm một tỷ lệ lớn nguyên nhân là do Đan Phượng là một huyện thuần nông với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (Chiếm tới 45%), hiện nay đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ cấu nên vẫn còn một số lượng lớn lao động vẫn còn hoạt động trong lĩnh vực này. Nó cũng đặt ra thách thức lớn về tạo việc làm và giải quyết việc làm cho số lượng lao động này khi huyện thu hẹp dần diện tích đất sản xuất nông nghiệp
Theo cuộc tổng điều tra dân số và lao động việc làm do phòng Thống kê kết hợp với phòng Nội vụ - Lao động và Xã hội thực hiện và tổng kết kết quả vào tháng 7/2007 thì toàn huyện có khoảng 46.254 người trong độ tuổi lao động có độ tuổi từ 18-35 tuổi (chiếm 60%), còn lại có độ tuổi từ 35 – 60 tuổi chiếm khoảng 40%. Điều này cho thấy lực lượng lao động của huyện rất trẻ, năng động và có tiềm năng đóng góp công sức vào sự phát triển kinh tế xã hội của huyện là vô cùng to lớn. Lao động trẻ là một trong những điều kiện thuận lợi của huyện, vì chỉ có lực lượng lao động trẻ mới có điều kiện về tri thức và sức khoẻ cần thiết để nâng cao trình độ văn hoá chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại, khả năng thích ứng với cơ chế thị trường đầy biến động nếu được định hướng và quan tâm đúng mức của gia đình và các cơ quan quản lý Nhà nước.
Bảng 1: Tốc độ tăng nguồn nhân lực của Đan Phượng giai đoạn từ năm 2002-2007
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Nguồn nhân lực(Người)
50.982
54.367
58.589
65.848
72.105
77.085
Tốc độ tăng NNL (%)
1.18
1.07
1.08
1.12
1.1
1.07
(Nguồn:PhòngThống kê huyện Đan Phượng)
Như vậy trong sáu năm qua nguồn nhân lực của huyện liên tục tăng và tăng với tốc độ khá ổn định trung bình khoảng 1.1%/ 1năm.
Với quy mô nhân lực như hiện tại, cùng với tốc độ tăng của nguồn nhân lực cho thấy Đan Phượng là một huyện có quy mô nguồn nhân lực tương đối lớn. Do đó cần phải có chính sách ổn định dân số bằng cách giảm tỷ lệ sinh, thực hiện kế hoạch hoá gia đình để hạn chế tốc độ gia tăng nguồn nhân lực đảm bảo hoàn thành kế hoạch tăng trưởng kinh tế.
2, Về chất lượng:
* Trình độ văn hóa:
Trong những năm gần đây, do mức sống của người dân trong huyện được nâng cao nên sức khoẻ của nguồn nhân lực trong huyện cũng được cải thiện đáng kể. Năm 2007,theo báo cáo cuối năm của huyện uỷ huyên Đan Phượng tỷ lệ trẻ em bi suy dinh dưỡng là 15 % giảm 3% so với năm 2006, công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện tốt. Tạo ra nguồn nhân lực trong tương lai có nền tảng thể lực tốt, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.
Nói chung Đan Phượng là huyện có mặt bằng trình độ văn hoá cao, tỷ lệ phổ cập giáo dục của đạt 96% (năm 2007). Lao động có trình độ cấp II, cấp III có xu hướng tăng lên cả về quy mô và tốc độ, năm 2000 tỷ lệ này là khoảng 70% con số này đã được tăng lên 84% năm 2007 (Theo báo cáo tổng hợp cuối năm 2007 của phòng Giáo dục huyện). Có được kết quả này là do Đảng uỷ và các cấp chính quyền và toàn xã hội đã có sự quan tâm đầu tư thích đáng cho công tác giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh phổ cập giáo dục các cấp, đặc biệt Đan Phượng là một trong những huyện đi đầu của tỉnh trong tỉnh về hoàn thành cong tác phổ cập giáo giục tiểu học của tỉnh. Điều này góp phần nâng cao dân trí, cải thiện chất lượng lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu kiến thức mới và nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động.
* Trình độ chuyên môn:
Hiện nay, hầu hết lao động của huyện làm việc trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, các làng nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được đào tạo nghề dài hạn – làng nghề thuộc cấp độ II, hoặc được đào tạo nghề ngắn hạn – bán lành nghề thuộc cấp độ I, đến tháng 7-2007 số được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ 39.23% tổng số lao động; trong đó:
- Trình độ đại học là 10.96%
- Cao đẳng là 18.73%
- Trung cấp chiếm 25.76%
- Công nhân kỹ thuật, sơ cấp, chứng chỉ nghề chiếm 44.55%
Sơ đồ thể hiện cơ cấu trình độ chuyên môn của
lao động huyện Đan Phượng
Nói chung chất lượng lao động của huyện như vậy là khá cao so với mặt bằng chung của cả nước, có thể tham gia lao động và đáp ứng được yêu cầu của người chủ sử dụng lao động. Đây là lợi thế rất lớn cho Đan Phượng có thể phát triền các ngành kinh tế một cách đa dạng, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, đồng thời tạo đà nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong những năm tiếp theo.Tuy nhiên tỷ lệ hộ nông dân đã qua đào tạo thì lại thấp chỉ đạt 12.24%, bởi vậy công tác đào tạo cho người nông dân sau khi bị thu hồi đất hiện nay đang được huyện đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu.
Tính đến tháng 12 năm 2007, trên huyện Đan Phượng, sau khi thực hiện các dự án đầu tư xây dựng các khu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì nhu cầu lao động chuyển đổi nghề khi nhà nước thu hồi đất là: 29.4477 người (chủ yếu là các nghề may, dệt 3.311 người, dịch vụ 3.988 người, cơ khí 1.937 người, điện công nghiệp, dân dụng 1523 người…). nhu cầu đào tạo nghề hàng năm là khoảng 10000 người (chủ yếu là dệt may, điện và một số nghề khác…).
Hơn nữa, do đặc điểm vị trí địa lý nằm gần thủ đô Hà Nội, ngoài những lao động đã có công việc tại các doanh nghiệp đóng trên địa bàn của huyện thì còn có một bộ phận lao động của huyện đã và đang có công việc tại các khu công nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Hà Nội, vì vậy họ có điều kiện được tiếp xúc với môi trường làm việc theo kiểu công nghiệp có áp lực cao, kỷ luật chặt chẽ. Tuy nhiên, giống như đặc điểm chung của lao động Việt Nam, vẫn còn một số lượng lao động không nhỏ của huyện vẫn còn tình trạng ý thức kỷ luật kém, thích làm thì làm không thích làm thì bỏ việc, không tích cực trang bị cho mình những kiến thức chung nhất về pháp luật lao động, nên đã gây ấn tượng không tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài khi họ tiến hành thực hiện các dự án của mình trên địa bàn của huyện.
*Một số đặc điểm khác:
Về thu nhập bình quân hàng tháng: Thu nhập bình quân mà một lao động kiếm được vào khoảng 600.000-900.000 đồng/người. Mức thu nhập này vẫn còn thấp chưa đảm bảo được mức sống cho người lao động, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay giá cả của các mặt hàng tiêu dùng đang tăng nhanh do ảnh hưởng của sự biến động giá dầu trên thế giới.
Lao động của huyện hoạt động chủ yếu là ở trong các làng nghề (nghề mộc, sản xuất gạch, thêu ren, sản xuất hương trầm…), buôn bán, một bộ phận khác làm việc trong các công ty trong các khu công nghiệp ( như công ty may, công ty dược phẩm..) Nhưng số này chiếm một tỷ lệ nhỏ vì hiện nay các khu công nghiệp đang trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản nên chưa có nhiều doanh nghiệp đi vào hoạt động. Mặt khác, là huyện cửa ngõ thành phố Hà Nội nên có một số lượng lớn lao động của huyện hàng ngày đổ về Thành phố để làm việc và buôn bán.
Năm 2000 tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế không có việc làm thường xuyên là 13% tương ứng với 6470 lao động, năm 2005 giảm xuống còn 7.5% tương ứng với 4197 lao động, tỷ lệ lao động thiếu việc làm hiện nay 2.48%. Tỷ lệ thời gian lao động khu vực nông thôn từ 64,5% năm 2000 tăng lên 83.6% năm 2005; thời gian nông nhàn giảm đi rõ rệt.
III, Thực trạng về công tác tạo mở việc làm trong những năm gần đây:
1, Thực trạng:
Trong giai đoạn từ năm 2002-2007, căn cứ vào thực trạng lao động trên địa bàn huyện, các cấp lãnh đạo mà cơ quan quản lý trực tiếp là phòng Nội vụ – Lao động và xã hội đã xây dựng chương trình việc làm, tích cực đưa vào thực hiện và thu được nhiều kết quả khả quan, làm giảm sức ép của xã hội về lao động việc làm, đem lại lợi ích cho người lao động, từng bước nâng cao đời sống cho đại đa số nhân dân lao động, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Trong năm năm từ 2002-2007, huyện Đan Phượng đã tích cực đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, sinh thái bền vững, duy trì tạo sự chuyển biến tích cực về cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ, thương mại; hàng năm đã tổ chức giới thiệu việc làm mới cho các doanh nghiệp trên 1000 lao động trên địa bàn huyện và vùng lân cận với mức thu nhập ổn định từ 500.000- 800.000 đồng/người/tháng.
Ngoài ra, cán bộ phòng còn tổ chức nghiên cứu, xây dựng các chương trình tạo mở việc làm mới thông qua các dự án, cụ thể như sau:
* Xây dựng các dự án vay vốn, giải quyết và tạo việc làm:
Nguồn vốn vay từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, từ Ngân hàng nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ tín dụng nhân dân; nguồn vốn vay từ các tổ chức đoàn thể đã phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình sản xuất với số dư 230 tỷ đồng, giải quyết cho hơn 1 vạn hộ gia đình và nhiều tổ chức kinh tế vay vốn, tạo thêm việc làm tại chỗ cho 25.000 lao động/1 năm. Số tiền đươc vay người lao động sử dụng vào việc xây dựng kinh tế trang trại trồng cây nông nghiệp (nấm, mộc nhĩ…), cây ăn quả có giá trị như: bưởi Diễn,cam..., chăn nuôi các con giống cao sản (lợn siêu nạc, bò sữa, bò lai sin…)
Một trong những nội dung của chương trình này là Dự án dạy nghề cho người nghèo, đối tượng được hướng đến là những người nghèo trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo nghề, người ở những địa phương chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp. Theo đó, người lao động được tham gia vào lớp học nghề của các cơ sở dạy nghề hoặc được dạy nghề gắn với tạo việc làm tại chỗ thông qua các doanh nghiệp, sau khi học nghề xong, người lao động được tiếp nhận vào làm việc ngay. Bằng chương trình này, năm 2007 huyện Đan phượng đã tổ chức đào tạo nghề được cho 280 người với mức kinh phí là 100 triệu đồng. Dự kiến trong năm 2008 huyên Đan Phượng sẽ phối hợp với các đoàn thể, doanh nghiệp để đào tạo cho khoảng 400 lao động thuộc diện đã nói ở trên với kinh phí khoảng 150 triệu đồng ở các nghề như: may công nghiệp, nghề tiện, lái xe, thêu ren…
Bảng 3: Kết quả hoạt động cho vay vốn của huyện
Năm
Số dự án
Số tiền cho vay
(triệu)
Số lao động
được thu hút
(người)
2003
35
1010
8065
2004
45
1355
8953
2005
48
1556
7883
2006
46
1650
6566
2007
50
1807
7443
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của ngân hàng chính sách huyện Đan Phượng)
Dự án cho vay vốn từ ngồn quỹ quốc gia giải quyết việc làm không nhưng đã tạo mở thêm nhiều việc làm mới cho lao động của huyện mà còn góp phần quan trọng trong công tác xoá đói, giảm nghèo, khôi phục, giữ gìn và các ngành nghề truyền thống của huyện như: thêu ren, làm bánh kẹo, khảm trai, nghề mộc…đồng thời phát triển thêm nhiều ngành nghề mới.
* Tạo thêm việc làm thông qua chương trình hợp tác lao động nước ngoài.
Những năm về trước, việc tuyển lao động đi nước ngoài làm việc là do tự người dân liên hệ và tìm kiếm các công ty, tổ chức xuất khẩu lao động để đăng ký, điều đó dẫn đến tình trạng có nhiều người bị lừa đảo hoặc được đi ra nước ngoài làm việc nhưng phải chịu chi phí môi giới trung gian cao do gặp phải cò mồi, bị thiệt thòi nhiều quyền lợi. Trước tình hình đó, nhận thức được rằng việc tổ chức cho lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là hướng giải quyết việc là hiêụ quả bền vững đồng thời là nguồn bổ sung lao động có chất lượng cao cho địa phương và khu vực sau khi họ về nước; huyện đã tích cực tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hợp tác lao động nước ngoài. Cụ thể là phòng Lao động đã trực tiếp liên hệ với các công ty chuyên doanh xuất khẩu lao động có uy tín đưa lao động của huyện đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài với chi phí thấp mà đem lại thu nhập cao và ổn định như công ty SOVINACO (thuộc bộ Lao động Thương binh và Xã hội), Công ty hợp tác lao động nước ngoài, Công ty thương mại Hà Nội, Công ty xây lắp sản xuất vật liệu Bộ Quốc phòng… . Bình quân hàng năm, phòng đã phối hợp đưa được 205 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài dự kiến năm 2008 sẽ đưa được khoảng 450 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đối tượng lao động chủ yếu là người nông dân bị thu hồi đất, bộ đội xuất ngũ, thanh niên vừa ra trường chưa tìm kiếm được việc làm và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác. Về chi phí để được đi lao động nước ngoài, bên cạnh số tiền tự có của người lao động, huyện còn phối hợp với Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, quỹ tín dụng xã và các tổ chức đoàn thể (Hội nông dân, hội Phụ nữ…) cho vay với lãi xuất thấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhiều người lao động có khả năng được ra nước ngoài làm việc. Để hỗ trợ về thông tin, huyện đã kết hợp với các công ty chuyên doanh về xuất khẩu lao động mở các cuộc họp tư vấn, tuyên truyền thông tin về xuất khẩu lao động.
Ngành nghề chủ yếu mà lao động huyện Đan Phượng làm việc ở nước ngoài là: giúp việc gia đình, nghề mộc, công nhân may, công nhân chế biến thuỷ sản…ở các nước: Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc…Mặc dù được sự hỗ trợ lớn từ phía các cơ quan, đoàn thể của huyện nhưng số lượng lao động được ra nước ngoài làm việc như vậy là vẫn còn ít, chưa xứng đáng với tiềm năng lao động của huyện. Các nguyên nhân có thể đến như:
+ Giống như tình trạng chung của cả tỉnh Hà Tây, là một trong những tỉnh có số lao động làm việc bỏ trốn ra làm ngoài nhiều nhất cả nước, lao động của huyện bị mất uy tín với các nhà tuyển dụng nước ngoài, cho nên họ đòi hỏi các chế độ cam kết rất chặt chẽ như: Tăng tiền đặt cọc, hạn chế số lượng tuyển dụng …
+ Chất lượng lao động, trình độ tay nghề của huyện còn hạn chế do vậy phần lớn lao động của huyện ra nước ngoài làm công việc phổ thông, tiền lương thấp trong khi tiền đặt cọc và chi phí bỏ ra lại cao.
+ Kiến thức pháp luật và thông tin về công tác xuất khẩu lao động của người dân không được cập nhập thường xuyên và đầy đủ
+ Thị trường xuất khẩu lao động còn nhỏ chưa được quan tâm mở ộng.
Tuy vậy nhưng xuất khẩu lao động cũng đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết công ăn việc làm đáng kể cho người lao động và cần được chú ý phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
* Chương trình đào tạo nghề:
Việc đào tạo nghề dài hạn luôn được các cấp uỷ, chính quyền và mỗi hộ gia đình quan tâm. Số lao động được đào tạo tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các trường công nhân kỹ thuật trung bình đạt 630 người năm và tăng dần hàng năm.
Bảng 4: Số lao động được đào tạo qua các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp:
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Số người
379
444
351
410
434
(Nguồn: Phòng Nội vụ Lao động và Xã hội huyện đan Phượng)
Tính riêng số lao động được đào tạo nghề dài hạn có việc làm ổn định đạt trên 80%.
Bên cạnh đó huyện còn tổ chức mở các lớp dạy nghề, mà kênh quan trọng nhất là phối hợp với các doanh nghiệp đầu tư vào huyện. Tính riêng 8 công ty có quy mô vừa, đã đào tạo cho 3185 lao động, trong đó các công ty: TNHH may Hà Đông, TNHH Tân Hoàng Long, TNHH Minh Phát, Dệt may Bắc Đô đã đào tạo 2015 công nhân may công nghiệp xuất khẩu. Công ty cổ phần ghạch Thạch Bàn II, Alpha đào tạo 560 công nhân sản xuất ghạch ngói. Công ty hoá dệt Hà Tây đào tạo được 650 công nhân sản xuất giày xuất khẩu, Công ty Nhật Hàn đào tạo 250 công nhân may thêu xuất khẩu. Hầu hết những lao động này đều là người địa phương và được tuyển dụng vào làm việc tại công ty.
Với sự phối hợp giữa Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh, phòng Nội vụ - Lao động và Xã hội, phòng Công nghiệp Khoa học – Thương mại, Phòng hạ tầng kinh tế, Trạm khuyến huyện, các cơ sở sản xuất kinh doanh và UBND các xã - thị trấn đã tổ chức trên 50 lớp dạy nghề, với nhiều nghề khác nhau:
- Dạy nghề may tại Phương Đình, Đan Phượng, Thọ Xuân, Thượng Mỗ, Tân Hội, Tân Lập…520 người.
- Dạy nghề gò, hàn, nguội tại Tân Hội Tân Lập, Đồng Tháp, Thị trấn Phùng, Song Phượng 230 người
- Dạy nghề xây dựng tại Tân Lập, Tân Hội 350 người.
- Dạy nghề mộc dân dụng tại Liên Hà, Liên trung, Liên Hồng 370 người.
-Dạy nghề thêu xuất khẩu tại Hạ Mỗ, Thượng Mỗ, Hồng Hà 95 người
- Dạy nghề tết thảm bèo tây tại Thượng Mỗ, Đồng Tháp 90 người
Số lao động được dạy nghề ngắn hạn tại các cơ sở trên 1600 người, bình quân 320 người/1 năm, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động tìm kiếm việc làm có thu nhập ổn định, hơn nữa vừa có thể đồng thời vừa làm nông nghiệp vừa có thể làm những công việc này vào những lúc nông nhàn.
Mặt khác, công tác huấn luyện, thông tin chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân được chú ý, đã có trên 200 lớp tập huấn được tổ chức cho gần 2 vạn lượt nông dân, từ đó nhiều biện pháp kỹ thuật mới đã được áp dụng vào trong sản xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi. Góp phần tăng năng suất lao động, hiệu quả của cây trồng vật nuôi, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại hoá.
Trường Dân lập Bách nghệ Hà Tây có cơ sở tại huyện cũng đã tích cực tham gia đào tạo nghề cho lao động trong huyện và khu vực. Có 470 lao động (trong đó có 95% là người địa phương) đã và đang học nghề tại đây chủ yếu là nghề may công nghiệp, gò, hàn, điện dân dụng. Quân khu thủ đô mỗi năm dạy nghề cơ khí, điện tử, sửa chữa ô tô xe máy cho trên năm mươi quân nhân phục viên xuất ngũ.
Phần lớn lao động của huyện sau khi tốt nghiệp các khoá học nghề do huyện tổ chức này đã được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ sở sản xuất, các đơn vị sự nghiệp hoặc tự tìm kiếm được việc làm ổn định; lao động nông nghiệp, thủ công nghiệp được bổ túc nghề, chuyển giao kỹ thuật đã áp dụng vào sản xuất đạt hiệu quả, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm được cải thiện tốt hơn.
Bảng 5 : Kết quả dạy nghề 5 năm (2003-2007)
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng số dạy nghề
- Dài hạn
- Ngắn hạn
Người
Người
Người
450
300
150
500
320
180
580
400
180
630
400
230
730
450
280
Trong đó:
- Đào tạo dài hạn có thời gian từ 1 năm trở lên, chủ yếu đào tạo trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp , các trường nghề. Sau khi người lao động học hết chương trình phổ thông (THCS, THPT)
- Đào tạo ngắn hạn: Thời gian từ 3 tháng đến dưới 1 năm, chủ yếu đào tạo nghề, tuyển lao động vào làm việc tại các doanh nghiệp, các trường nghề hoặc các lớp đào tạo ngắn hạn theo chỉ tiêu kế hoạch của UBND huyện, Sở Lao đông Thương binh và xã hội tỉnh, do doanh nghiệp, các xã - thị trấn phối hợp với các trường nghề thực hiện.
Cùng với việc gia tăng về số lượng, cơ cấu đào tạo trong một số ngành nghề nhất là các ngành trong lĩnh vực công nghiệp đã tăng lên, đáp ứng với yêu cầu sản xuất phát triển, thể hiện qua bảng thống kê sau:
Đơn vị tính: %
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Thủ công nghiệp
41.3
43.2
44.7
Cơ khí, điện
14.3
16.2
17.6
Giao thông, xây dựng
23.9
20.7
21.4
Du lịch, dịch vụ
8.2
9.5
9.3
Các ngành khác
12.8
10.4
7.0
Tổng
100
100
100
Để công tác đào tạo nghề tốt hơn huyện Đan Phượng đã xây dựng chương trình đào tạo nghề từ năm 2008-2010.
Bảng 7: Chỉ tiêu về đào tạo nghề đến năm 2010
STT
Hình thức, nơi đào tạo
Đơn vị tính
Chỉ tiêu hàng năm
Tổng cả 3 năm
2008
2009
2010
Tổng số
Người
1730
1940
2130
5800
1
Đào tạo dài hạn (trên 1 năm)
Người
750
820
880
2450
- Tại các trường ĐH, CĐ, TC
Người
600
650
680
1930
- Tại các trường dạy nghề
Người
150
170
200
520
2
Đào tạo ngắn hạn (dưới 1 năm)
Người
980
1120
1250
3350
- Tại các doanh nghiệp
Người
800
900
1000
2700
- Tại các trường dạy nghề
Người
180
220
250
650
3
Bồi dưỡng nghề, truyền nghề
Người
3650
3770
4000
11420
- Các lớp khuyến công, khuyến nông
Người
3500
3600
3800
10900
- Các cơ sở sản xuất, làng nghề
Người
150
170
200
520
Đối với công tác giải quyết việc làm, thực hiện định hướng dạy nghề gắn với giải quyết việc làm trong 5 năm qua, huyện Đan Phượng đã quan tâm đẩy mạnh phát triển thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (2 điểm công nghiệp, 1 cụm công nghiệp), củng cố và phát triển làng nghề (hiện nay huyện Đan Phượng có 7 làng nghề được tỉnh công nhận), chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hoá, sinh thái bền vững, tạo sự chuyển biến tích cực về cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp hiện còn chiếm trên 50%, tăng tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ thương mại (lên tới 47-49%).tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế không có việc làm thường xuyên giảm dần từ 10.5% năm 2002 xuống 7% năm 2006. Tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn, đã khắc phục cơ bản tình trạng nông nhàn. Mặt khác, mục tiêu tạo việc làm mới cho người lao động tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề, trang trại cũng đem lại kết quả tích cực mỗi năm có trên 1000 lao động có việc làm mới. Việc sử dụng đúng mục đích các nguồn vốn vay từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân, các tổ chức đoàn thể xã hội…đã giúp cho nhiều gia đình phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm tại chỗ cho 1.5 vạn lao động hàng năm. Tổ chức cho lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được coi là một hướng giải quyết việc làm có hiệu quả, huyện và các xã - thị trấn đã phối hợp với các công ty chuyên doanh thực hiện xuất khẩu lao động trên 150 người/ 1 năm, đảm bảo việc ổn định, thu nhập khá; và họ cũng là nguồn bổ sung lao động có chất lượng cho địa phương sau khi về nước.
Kế hoạch giải quyết việc làm từ nay đến năm 2010 được thể hiện dưới bảng tổng kết sau:
Bảng 8: Kế hoạch giải quyết việc làm từ nay đến năm 2010
STT
Các kênh giải quyết việc làm
Đơn vị tính
Chỉ tiêu hàng năm
Tổng cả 3 năm
2008
2009
2010
1
Tạo việc làm mới
Người
2100
2280
2620
7000
- Vào các doanh nghiệp
Người
1000
1100
1300
3400
- Vào các làng nghề
Người
200
200
220
620
- Vào các cơ sở sản xuất nông nghiệp trong trang trại, vườn trại
Người
150
150
150
450
- Vào các cơ sở kinh doanhthương mại, dich vụ
Người
200
200
250
650
- Tư vấn, giới thiệu để tự tìmkiếm việc làm
Người
400
450
500
1350
- Lao động có thời hạn ở nước ngoài
Người
150
180
200
530
2
Tạo việc làm mới
Người
16500
17000
18000
51500
- Vay vốn từ NHNN, các quỹ tín dụngnhân dân phát triển sản xuất
Người
6000
6000
6500
18500
- Vay vốn từ NHCSXH, quỹ quốc gia XĐGN phát triển sản xuất đoà tạo nghề
Người
6500
7000
7500
21000
- Chuyển giao kỹ thuật khuyến công, khuyến nông
Người
4000
4000
4000
12000
Nguồn: Phòng Nội vụ lao động và xã hội
2, Đánh giá công tác giải quyết và tạo mở việc làm của huyện Đan Phượng trong thời gian qua:
a, Những kết quả đã đạt được:
Cùng với nỗ lực của Đảng bộ, UBND huyện và các cấp ngành trong giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở huyện trong thời gian qua đã đạt được kết quả to lớn, có thể kể đến như: Một số lượng lớn lao động đã được tạo việc làm khi bước vào độ tuổi lao động góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm. Áp dụng các hình thức giải quyết phong phú, đa dạng theo hướng khai thác và phát huy tối đa các yếu tố, nguồn lực của xã hội. Do vậy, công tác giải quyết và tạo việc làm mới cho người lao động có nhiều chuyển biến rõ nét, mang sắc thái mới, phù hợp với công cuộc chuyển đổi kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
b, Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân:
* Hạn chế
Chất lượng nguồn lao động của huyện nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá cả về kiến thức, tay nghề, tác phong làm việc; nhất là lao động nông thôn. Xuất hiện tình trạng mất cân đối theo yêu cầu sử dụng lao động và giữa các khu vực: Lao động khu vực nông nghiệp có số lượng lao động lớn nhưng tỷ trọng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hơn nhiều so với lao động ở các khu vực khác. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn tương đối thấp, nên ít có cơ hội chuyển nghề làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất. Lao động nông nghiệp nơi bị Nhà nước thu hồi đất sản xuất chưa được chú trọng dạy nghề, để tuyển vào làm việc tại doanh nghiệp nên còn tồn tại một thực tế là doanh nghiệp thiếu lao động, nhưng chưa giải quyết được nhu cầu lao động tại chỗ ở địa phương. Lao động giản đơn vẫn là chủ yếu, việc làm thiếu ổn định, thu nhập thấp.
Công tác giáo dục hướng nghiệp còn bất cập. Việc tuyên truyền, tư vấn để người lao động lựa chọn ngành nghề đào tạo phù hợp chưa được chú trọng. Việc học nghề tại các các cơ sở dạy nghề, các trường công nhân kỹ thuật chưa được người lao động quan tâm đúng mức, lao động được đào tạo tại các trường trung học, Cao đẳng, Đại học chiếm tỷ lệ cao hơn so với lao động được đào tạo nghề dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ.
Quy mô năng lực dạy nghề ở địa phương còn nhỏ, chưa có trung tâm hướng nghiệp dạy nghề của huyện, chủ yếu mới thực hiện các chương trình dạy nghề ngắn hạn, bổ túc nghề, truyền nghề, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thông qua các dự án dạy nghề nhỏ, các công trình khuyến công, khuyến nông; cơ sở vật chất dạy và học còn thiếu thốn; đội ngũ giáo viên dạy nghề, truyền nghề còn hạn chế cả về trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm, khả năng thực hành của người học chưa cao.
Thực hiện quản lý nhà nước, hỗ trợ người lao động về dạy nghề, giải quyết việc làm còn hạn chế. Việc điều tra nắm nguồn lao động, cơ cáu, chất lượng lao động, nhu cầu cung ứng lao động, tình hình biến động lực lượng lao động, kế hoạch sử dụng lao động giải quyết việc làm chưa được thực hiện thường xuyên. Việc học nghề, truyền nghề của người lao động chưa nhận được sự quan tâm hỗ trợ, định hướng có hiệu quả từ phía chính quyền.
Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, định hướng cho công tác dạy nghề, giải quyết việc làm còn thiếu toàn diện, thiếu đồng bộ, chưa gắn chặt việc dạy nghề và giải quyết việc làm với thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Công tác xuất khẩu lao dộng chưa được quan tâm đúng mức, tổ chức nhà nước địa phương chưa chiếm vị trí chủ đạo trong kết quả xuất khẩu lao động. phần nhiều người lao động tự liên hệ ký kết hợp đồng xuất khẩu lao động, số lượng lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài hang năm còn ít ở một số xã nghèo và có lượng lao động dôi dư lớn như: Phương Đình, Thọ Xuân, Thượng Mỗ…
Việc điều tra năm nguồn lao động, cơ cấu, chất lượng lao động, tình hình biến độnglực lượng lao động, xây dựng kế hoạch sử dụng lao động, giải quyết việc làm còn chưa được thực hiện thường xuyên, đồng bộ.
* Nguyên nhân:
Nhận thức của một số cấp uỷ Đảng, chính quyền về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của công tác lao đông - việc làm trong giai đoạn hiện nay chưa đầy đủ nên quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện không thường xuyên, hiệu quả còn thấp. Do vậy công tác tham mưu cho lãnh đạo để hoạch định những chỉ tiêu về lao động việc làm chưa chính xác, sự phối hợp giữa các ngành, các tổ chức có liên quan đến công tác lao động việc làm và việc thống kê lực lượng lao động hàng năm còn hạn chế.
Một số chính sách của Nhà nước về lao động còn chồng chéo gây nên nhiều khố khăn khi thực hiện.
Đầu tư kinh phí của ngân sách địa phương vào việc dạy nghề còn ít; chưa thực hiện tốt chế độ hỗ trợ doanh nghiệp kinh phí đào tạo nghề một lần cho người lao động. việc phối hợp giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp về dạy nghề, tuyển dụng lao động tại chỗ vào làm việc trong doanh nghiệp chưa thường xuyên với quy chế rõ ràng.
Lực lượng lao động chiếm số đông là lao động nông nghiệp trình độ thấp, nhận thức nghề nghiệp chưa đủ. Một bộ phận lao động, nhất là lao động trẻ chưa xác định đúng động cơ học nghề, thiếu chủ động tìm kiếm việc làm, ỷ lại, trông chờ vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Kinh phí hỗ trợ học nghề, truyền nghề với lao động nơi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chưa được sử dụng đúng mực đích, đạt hiệu quả.
PHẦN III: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
I, Mục tiêu đặt ra:
Trong giai đoạn 2007-2010, huyện Đan Phượng tiếp tục tập trung giải quyết việc làm cho người lao động theo hướng tăng dần tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, thương mại dịch vụ. Đẩy mạnh chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng dãn xuất hàng hoá bền vững và từng bước nâng cao chất lượng lao động, thực hiện các biện pháp hỗ trợ về vốn, đào tạo nghề giúp người lao động có việc làm, giảm mức thấp nhất tỷ lệ thiếu việc làm thường xuyên, người lao động đều có việc làm để nâng cao đời sống nhân dân lao động, là cho nền kinh tế của huyện ngày càng phát triển hơn nữa.
Các chỉ tiêu cụ thể được đặt ra như sau:
- Lực lượng lao động bình quân hàng năm tăng 1.900 lao động. Năm 2010 có 72.905 lao động, trong đó số lao động có việc làm 71.592
- Cơ cấu lao động đến năm 2010:
Nông nghiệp - Thuỷ sản: chiếm 53.58% so với số lao động có việc làm
Công nghiệp – Xây dựng: chiếm 33.9% so với số lao động có việc làm
Dịch vụ - Thương mại: 12.52% so với số lao động có việc làm
- Cơ cấu kinh tế năm 2010:
Nông nghiệp - Thuỷ sản: chiếm 22.5%
Công nghiêp – Xây dựng: chiếm 40%
Dịch vụ - Thương mại: chiếm 37.5%
- Hàng năm tạo việc làm mới cho 1000 đến 1500 lao động (trong đó xuất khẩu lao động 500 người), tạo thêm việc làm tại chỗ cho 25.000 lao động nông thôn.
- Đến năm 2010:
+ Giảm tỷ lệ lao động không có việc làm, việc làm không thường xuyên từ 7.5% xuống còn 5%.
+ Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 83.6%trở lên
- Lao động được đào tạo nghề từ 35% trở lên
- Quá trình thực hiện mực tiêu giải quyết việc làm và tạo việc làm cần quan tâm đến các đối tượng lao động là người có công, con em các gia đình có công với cách mạng, bộ đội phục viên xuất ngũ, những hộ nông dân giao đat nông nghiệp bị Nhà nước thu hồi…
II. Một số giải pháp nhằm làm cho công tác giải quyết và tạo việc làm có hiệu quả hơn trong thời gian tới :
1,Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm bằng nhiều hình thức, phương pháp đến các cấp ngành, các đơn vị kinh tế và nhân dân: thông qua cơ quan truyền thanh, tờ rơi, cán bộ tuyên truyền..
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền, tổ chức thực hiện của các tổ chức, các doanh nghiệp và người dân về công tác lao động-việc làm ở địa phương. Xây dựng các nghị quyết, chương trình về lao động đồng thời có sự hướng dẫn cụ thể, sát sao.
2, Về phát triển cụm điểm công nghiệp – làng nghề:
Xây dựng cụm - điểm công, phát triển cơ sở sản xuất đưa các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư để mở rộng sản xuất. Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.Thực hiện cách chính sách hỗ trợ về thông tin và pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi nhất khi các doanh nghiệp đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh ở huyện. Nâng cấp, phát triển mạnh hệ thống đường giao thông nông thôn thao quy hoạch của Tỉnh, tạo điều cho phát triển công nghiêp - dịch vụ; phát triển các nhóm ngành công nghiệp: cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản thực phẩm, đồ uống; dệt may, chế biến lâm sản, đồ mộc
3, Phát triển thưong mại - dịch vụ:
Quy hoạch đất cho phát triển thương mại dịch vụ để cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu thuê đất để kinh doanh dịch vụ đồng thời giao đất và cho thuê đất cơ chế có thu tiền sử dụng đất cho những hộ có đất nông nghiệp bị thu hồi theo quy định.
Tăng cường các biện pháp để nâng cao giá trị hàng xuất khẩu, đẩy mạnh các hình thức xuất khẩu.
Thu hút lao động nông nghiệp sang lĩnh vực kinh doanh, dich vụ đào tạo bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, viên chức trong các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngành thương mại dịch vụ.
4, Về phát triển nông nghiệp, nông thôn:
Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung, đảm bảo năng suất, chất lượng, giá trị cao (như cây Bưởi Diễn, xây dựng vùng rau an toàn…). Phát triển điểm sản xuất công nghệ cao về trồng hoa, trồng phong lan ở các xã.
Xây dựng mô hình chăn nuôi tập trung xa khu dân cư kết hợp với đẩy mạnh công tác khuyến nông, trang bị kiến thức và kỹ năng về khuyến nông, khuyến ngư với phương pháp tổ chức sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Cần có chính sách hỗ trựo việc hình thành và tổ chức hoạt động của các tổ chức khuyến nông tự quản; câu lạc bộ khuyến nông, nhóm tín dụng tiết kiệm. Nhân rộng các mô hình giải quyết việc làm đạt hiệu quả, tạo them việc làm tại chỗ cho hàng nghìn lao động nông nghiệp trong thời gian nông nhàn.
5, Về đào tạo nghề:
Cần quan tâm và đầu tư hơn nữa đối với công tác dạy nghề cho người lao động trong huyện, nhất là đối với những nơi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề dài hạn, ngắn hạn, tự đào tạo qua lao động sản xuất, ưu tiên đào tạo nghề, sử dụng lao động của các hộ giao đất nông nghiệp cho các doanh nghiệp.
Thành lập trung tâm hướng nghiệp dạy nghề của huyện. Tuyên truyền, thu hut nhiều đối tượng học nghề tại trường dân lập bách nghệ Hà Tây, đóng trên địa bàn huyện. Nâng cao chất lượng đào tạo lao động, gắn đào tạo nghề với việc làm, tạo điều kiện để người học nghề được trợ giúp và giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động.
Trong quá trình đào tạo nghề, cần kết hợp tư vấn, tuyên truyền nâng cao kiến thức về pháp luật lao động cho người lao động. Thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ tiếp xúc giữa các doanh nghiệp trên địa bàn huyện với người lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động, mà ở đây là phòng Nội vụ Lao đông và Xã hội, từ đó người lao động biết được thị trường đang cần gì, họ sẽ có nhiều thông tin hơn để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bản than, còn doanh nghiệp biết được họ phải làm gì để thu hút được lao động giỏi, đáp ứng được yêu cầu của công việc…
Tăng kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn để lao động được học nghề, đào tạo nghề có cơ hội tìm được việc làm mới.
6, Về giáo dục:
Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, xây dựng xã hội học tập để làm tốt việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài; tạo cơ sở nền móng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm.
Thực hiện tốt công tác hướng nghiệp trong các trường THPT, trung tâm giáo dục thường xuyên để nâng cao tỷ lệ người học phổ thông được đào tạo nghề vào làm một nghề cụ thể.
7, Về vay vốn, giải quyết việc làm:
Ngành Ngân hàng đảm bảo chủ động nguồn vốn hỗ trợ các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình vay để phát triển sản xuất, tạo việc làm mới hoặc tạo thêm việc làm tại chỗ cho người lao động. Nguồn vốn từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng chính sách xã hội huyện, từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, các quỹ tín dụng nhân dân, kể cả nguồn vốn quỹ của các đoàn thể: Hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh huyện và các xã - thị trấn cần phát huy tác dụng tốt hơn nữa. Từ các kênh tiền vay, các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất hoặc tạo them việc làm tại chỗ như: chăn nuôi bò thịt, bò sinh sản, lợn hướng nạc, cá lồng, trồng cây ăn quả, nấm, mộc nhĩ… hoặc có điều kiện đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
Cần tổ chức giám sát nhằm đảm bảo các dự án vay vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng từ đó tăng hiệu quả của các dự án.
8, Về hợp tác lao động nước ngoài:
Hiện nay, trong điều kiện toàn cầu hoá thì xuất khẩu lao động không chỉ mang lại lợi ích cho người lao động mà còn cho cả xã hội. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của Đan Phượng trong năm qua tuy mới chỉ dừng lại ở những con số nhỏ bé nhưng cũng đã mang lại những hiệu quả kinh tế xã hội trong công tác giải quyết và tạo việc làm. Vì thế trong thời gian tới, các cấp các ngành lãnh đạo của huyện Đan Phượng cần phải nhận thức sâu sắc hơn vai trò của xuất khẩu lao động trong công tác tạo việc làm cho lao động của huyện. Do vậy, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xuất khẩu lao động, mở rộng thị trường và thành phần tham gia xuất khẩu lao động. Đồng thời trợ giúp vốn ưu đãi và giảm chi phí để khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Kiện toàn Ban chỉ đạo hợp tác lao động nước ngoài của huyện và các xã - thị trấn, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các công ty chuyên doanh có đủ tư cách pháp nhân, có uy tín để giới thiệu được lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu thông qua công tác dạy nghề, đào tạo nghề.
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền nhằm đưa được những thông tin mới nhất về xuất khẩu lao động đến người dân thông qua mạng lưới truyền thông và cán bộ cấp cơ sở, các đoàn thể xã hội. Kịp thời chuyển đến người lao động đầy đủ các nội dung về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định pháp luật về xuất khẩu lao động và chuyên gia nhằm tạo ra nhận thức đúng đắn trong các ngành, các cấp và người lao động.
Tiếp tục quản lý, tổ chức thực hiện tốt các dự án đã có, khai thác, thu hút các dự án của các tổ chức phi chính phủ đầu tư mang tính chất tạo việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng.
9, Thực hiện cơ chế, chính sách đối với hộ nông dân giao đất nông nghiệp khi nhà nước thu hồi:
Đối với các xã hiện tại có nhiều đất nông nghiệp bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công nghiệp hoá - hiện đại hoá cần thực hiện tốt cơ chế chính sách của Nhà nước về giao đất dịch vụ Sản xuất kinh doanh, về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, thực hiện quy hoạch đất dịch vụ theo quy định của UBND tỉnh Hà Tây, để người dân ổn định sản xuất.
10, Huy động các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các công ty đóng trên địa bàn huyện hoạt động thuận lơi:
Do đặc điểm là một huyện có diện tích không lớn nên các thành phần kinh tế hoạt động trên địa bàn huyện chủ yếu là tư nhân, cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn. Các doanh nghiệp này, đóng vai trò là nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng của nền kinh tế, phát triển ngành công nghiệp…Vì vậy, huyện cần tạo hành lang pháp lý thông thoáng và khuyến khích người dân tự do kinh doanh. Thực hiện chính sách khuyến khích và trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình có cơ sở sản xuất kinh doanh bằng cách cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi khi họ có phương án mở rộng sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, phải làm cho các chủ doanh nghiệp nhận thức được cạnh tranh là vấn đề bức xúc khi họ gia nhập vào nền kinh tế thị trường, từ đó nâng cao chất lượng và năng suất. Muốn vậy thì việc đổi mới công nghệ, đào tạo lại nguồn nhân lực…phải được coi là nhiệm vụ được tiến hành thường xuyên trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
III, Một số kiến nghị:
1, Đối với các cơ quan quản lý của huyện Đan Phượng:
UBND huyện cần phối hợp với phòng Nội vụ Lao động và Xã hội và các cơ quan chức năng liên quan quan tâm hơn nữa đến việc phát triển các ngành trọng tâm, mũi nhọn của huyện và việc đầu tư xây dựng các cụm điểm công nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo mở việc làm.
Chỉ đạo sát sao hơn nữa việc sử dụng các nguồn vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, để nguồn vốn được phân bổ có hiệu quả cao nhất.
Tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được trong công tác đào tạo nghề trong đó nhấn mạnh vào mảng đào tạo nghề tại các doanh nghiệp.
Đầu tư hợp lý và có hiệu quả vào công tác xuất khẩu lao động để ngày càng đưa được nhiều lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra các doanh nghiệp nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm về pháp luật lao động, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động.
Xin cấp trên thêm biên chế, cán bộ chuyên trách về công tác xuất khẩu lao động, vì hiện nay đội ngũ cán bộ của phòng Nội vụ Lao động và xã hội còn thiếu và yếu, các cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực trong khi khối lượng công việc lại nhiều dẫn đến tình trạng quá tải.
2, Đối với các cơ quan quản lý cấp trên:
Cần có sự chỉ đạo sát sao, cụ thể đến việc thực hiện các quyết định, chính sách về lao động việc làm.
Có chính sách khen thưởng hợp lý đối với các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp điển hình đi đầu trong công tác giải quyết và tạo mở việc làm.
Thực hiện các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, nhằm thu hút nguồn vốn trong nước và nước ngoài đầu tư vào phát triển kinh tế, xã hội cũng là tạo thêm nhiều chỗ làm mới cho xã hội.
KẾT LUẬN
Việc làm không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của quốc gia mà còn là vấn đề nóng bỏng của toàn xã hội. Giải quyết và tạo việc làm mới có ý nghĩ quyết định trong sự đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của huyện Đan Phượng nói chung và toàn tỉnh Hà Tây nói riêng.
Công tác giải quyết và tạo mở việc làm cho lưc lượng lao động huyện Đan Phượng thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng trong tương lai vẫn đòi hỏi phải có những chính sách, phương hướng và giải pháp có tính khả thi cao, phù hợp với tình kinh tế xã hội của huyện. Việc triển khai thực hiện các chính sách, giải pháp này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các cấp chính quyền và của toàn xã hội, có như vậy thì công tác giải quyết và tạo mở việc làm mới đạt được kết quả cao nhất đưa kinh tế - xã hội huyện Đan Phượng ngày một phát triển hoà nhịp cùng với sự đi lên của đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Bộ luật Lao động (Sửa đổi bổ sung năm 2006)
2, Giáo trình kinh tế lao động – Nhà xuất bản giáo dục 1998
3, Báo cáo cuối năm về tình hình lao động việc làm huyện Đan Phượng các năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007
4, Báo cáo kết quả xuất khẩu lao động huyện Đan Phượng những năm 2002-2007
5, Báo cáo kết quả cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm các năm 2002-2007
6, Báo cáo kết qủa thực hiện chương trình mục tiêu việc làm 2002-2007
7, Báo cáo kết quả công tác Lao đông – Thương binh và Xã hội các năm 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007.
8, Chương trình mục tiêu việc làm 2008-2010 của huyện Đan Phượng.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công tác tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn huyện Đan Phượng – Hà Tây.docx