Công ty đại lý Liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận chuyển từ kho của người gửi đến kho cuả người nhận bằng các phương tiện đường bộ, đường thuỷ, đường biển tới các cảng quốc tế. Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên ở nước ta được tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp này được chính thức chuyển sang công ty cổ phần vào ngày 01/07/1993. Tổng số vốn điều lệ của công ty sau cổ phần hoá là 6.207.655.000 đồng được chia thành 31.038 cổ phiếu với mệnh giá 200.000; trong đó tỷ lệ cổ phần của nhà nước là 18%, của cán bộ công nhân viên chức trong công ty là 77%, của cổ đông ngoài là 5%. Sau 3 năm hoạt động kể từ ngày chuyển sang công ty cổ phần, số lao động của công ty tăng từ 56 người (năm 1993) lên 320 người (năm 1996). Doanh thu năm 1996 tăng gấp gần 4 lần so với năm 1993, nộp ngân sách của công ty cũng tăng từ 3.750 (1993) lên 25.117 (1996) tức khoảng 6,6 lần, thu nhập người lao động tăng từ 900.000 (năm 1993) lên 2. 000.000 (năm 1996).
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2125 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lên và vì thế quy mô tối thiếu mà một nhà tư bản phải có để có thể kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng như ngày càng lớn hơn. Một nhà tư bản cá biệt không thể đáp ứng được số vốn đó phải có sự liên minh tập trung nhiều tư bản cá biệt còn đang phân tán trong nền kinh tế bằng cách góp vốn để cùng kinh doanh. Với sự tập trung vốn như vậy đã hình thành công ty cổ phần. Mặt khác do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn đã thu hút được các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này bằng cách di chuyển tư bản từ các ngành, lĩnh vực và các ngành kinh doanh kém hiệu quả. Điều này càng gây ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di chuyển vốn bởi vì họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp đang có để thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng ngay một doanh nghiệp mới mà chỉ có thể rút bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi. Quy luật đó có thể kéo dài và do vậy họ có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn, cùng chung mục tiêu đi tìm lợi nhuận siêu ngạch họ đã gặp nhau và nhanh chóng thoả thuận cùng nhau góp vốn để thành lập công ty cổ phần để cùng kinh doanh
1.3. Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý
Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật ngày càng cao, cạnh tranh càng khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các doanh nghiệp ngày càng lớn. Để tránh những rủi ro này các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Điều này có thể làm cho họ chia sể sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Mặt khác do cùng được một số đông người quản lý nên tập trung phát huy được sức mạnh trí tuệ của nhiều người trách được rủi ro và thành công hơn trong kinh doanh
1.4. Sự phát triển của tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phảt triển
Kinh tế hàng hoá phát triển dẫn tới sự ra đời và phát triển của nhiều loại thị trường trong đó có thị trường vốn . Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở hữu tiền tệ cho người khác vay trong một thời gian nhất định để thu hồi một món lời gọi đó là lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có một vai trò to lớn trong quá trình cạnh tranh làm giam chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.Tín dụng còn có vai trò, động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần bởi vì:
-Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể thực hiện được nếu không có thị trường tiền tệ phát phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
-Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành.
Tóm lại, công ty cổ phần là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường , nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản. nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản.
2.Vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc điểm rất riêng của mình công ty cổ phần có vai trò quan trong đối với việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, cụ thể là:
- Công ty cổ phần có khả năng tập trung vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh khổng lồ mà không nhà tư bản riêng biệt nào có thể tự mình làm nổi. Các Mác đã đánh giá vai trò nàycủa công ty cổ phần như sau: "Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn không có đường sắt. Ngược lại qua công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện được việc đó chỉ trong nháy mắt"
- Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn bởi vì : Thứ nhất, do hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động vốn đã đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp nâng cao sự quan tâm đến sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Mặt khác do sức ép của cổ đông do việc đòi chia lãi cổ phần và muốn duy trì giá cổ phiếu cao trên thị trường chứng khoán khiến doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiêụ quả sử dụng đồng vốn. Thứ hai, là do lợi nhuận của các công ty cổ phần là khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn rỗi từ nhiều kênh khác nhau trong xã hội vào các ngành, các lĩnh vực có năng suất lao động và tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu quả trong nền kinh tế
- Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù đã hạn chế được những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng. Chế độ đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của rủi ro thua lỗ. Vốn tự có của công ty huy động thông qua việc phát hành cổ phiếu là vốn của nhiều cổ đông do đó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông. Nhờ vậy khi công ty cổ phần phá sản hậu quả về mặt kinh tế xã hội được hạn chế ở mức thấp nhất. Cách thức huy động vốn của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở các công ty ở nhiều ngành khác nhau nên giảm bớt được tổn thất khi công ty bị phá sản so với việc đầu tư vào một công ty. Cơ chế phân bổ rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư vào một công ty làm cho nền kinh tế phát triển và có xu hướng ổn định hơn.
- Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường chứng khoán – trái tim của thị trường vốn. Ý nghĩa căn bản của thị trường chứng khoán là ở chỗ : Đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư, là cơ chế phân bổ các nguồn vốn đầu tư phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế thị trường, và còn là cơ sở quan trọng để Nhà nước qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu lựa chọn
- Công ty cổ phần đảm bảo sự tham gia của đông đảo của công chúng, lại có cơ cấu tổ chức quản lý chắt chẽ, phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh nên đã tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý công ty một cách thực sự, sử dụng được những giám đốc tài năng, đảm bảo được quyền lợi, lợi ích và trách nhiêm của chủ sở hữu, đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, thực hiện tốt nguyên tắc " ai giỏi nghề gì làm nghề ấy " giúp mọi người được làm việc ở vị trí thích hợp để có thể phát huy hết tài năng sáng tạo vốn có của mình
- Công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư của nước ngoài. Với một nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển thì việc đó thu hút nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên doanh liên kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước
CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành là tất yếu khách quan.
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần. Sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế khách quan, một xu hướng tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước la phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy nước ta cần phải hình thành công ty cổ phần dựa trên một số căn cứ sau :
1.1. Sự hạn chế và kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp Nhà nước.
Trong thời gian 10 năm đổi mới một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động không hiệu quả còn nhiều hạn chế. Nằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doang nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Động lực lợi ích là mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp, của người có vốn cũng như người lao động. Nó là cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đòi hỏi phải tìm đến một hình thức kinh tế thích hợp là công ty cổ phần bởi trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản được phân tách rõ ràng nên cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết tương đối ổn thoả.
1.2 Nhu cầu cải cách hệ thống DNNN để nâng cao vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước.
Hiện nay khu vực DNNN kinh doanh với hiệu quả rất kém ( Chiếm 70% tổng số vốn của nền kinh tế xong chỉ tạo ra 40% GDP ). Vì vậy việc cải cách hệ thống DNNN theo hướng đa dạng hoá sở hữu, cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả là cấp bách hơn bao giờ hết, bởi có như thế DNNN mới vươn lên giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo XHCN, ổn định chính trị – xã hội và vững bước đi lên XHCN. Một trong những biện pháp cải cách DNNN hiện nay ở Việt nam là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy quá trình hình thành công ty cổ phần từ cổ phần hoá DNNN là xu hướng tất yếu hiện nay.
1.3. Nhu cầu huy động vốn của các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước để phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH Đất nước.
Đặc biệt của cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần là có thể thu hút các nguồn vốn quy mô lớn của các ngân hàng đến các nguồn vốn vô cùng nhỏ của các tầng lớp dân cư. Cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất cao so với huy động vốn của ngân hàng, đây là cách huy động vốn tiên tiến nhất phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại.
1.4. Sự hình thành công ty cổ phần là sự phát triển hợp với xu thế thời đại
Hiện nay xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra ở mọi nước trên thế giới . Trong bối cảnh đó, sự giao lưu, hoà nhập, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan. Một trong các hình thức liên kết kinh tế giữa các quốc gia dưới hình thức góp vốn kinh doanh là công ty cổ phần vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hoá rất cao, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều quốc gia.
2. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam
Trong lịch sử hình thành và phát triển có hai phương pháp để thành lập các công ty cổ phần đó là thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã có.
Do nền kinh tế Việt nam hiện nay có những đặc điểm cụ thể, riêng biệt so với các các nước khác trên thế giới nên việc thành lập mới các công ty cổ phần không được chú trọng phát triển. Hiện nay ở Việt nam, kinh tế quốc doanh đang nắm vai trò chủ đạo, hiện có 7500 doanh nghiệp nhà nước, nắm giữ khoảng 80% tài sản quốc gia, 90% lao động lành nghề và cán bộ khoa học kỹ thuật, 95% tín dụng nhà nước. Nhưng có đến 20% -30% doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, ngoài ra đây còn là khu vực có rất nnhiều tiêu cực như lãng phí , quân liêu làm thất thoát tài sản ... Mục tiêu cải cách hệ thống DNNN đẻ nâng cao vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế quốc dân đã và đang được đề ra một cách bức bách. Chính việc cải cách hệ thống DNNN bằng cách cổ phần hoá là con đường khả thi và có hiệu quả nhất đang được Đảng và Nhà nước ta quán triệt nên chúng ta chỉ tập chung đi sâu vào việc hình thành các công ty cổ phần bằng cách cổ hoá các DNNN.
Việc cổ phần hoá các DNNN được tiến hành theo ba phương thức sau: một là giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút vốn để phát triển , hai là bán một phần hiện có của doanh nghiệp, ba là tách một bộ phận của doanh nghiệp đã đủ điều kiện cổ phần hoá.
Từ tháng 11năm 1987 trong Quyết định 217 của HĐBT Chính phủ đã xác định chủ trương thí điểm bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên các DNNN. Song phải sang đầu những năm 1990 , chủ trương này mới thực sự được triển khai trong thực tế. Có thể chia quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta thành ba giai đoạn sau đây:
Giai đoạn thí điểm (1992-1995) : Thực hiện chỉ thị 202/ CT ngày 8/6/1992 của chủ tịch Hội đồng bộ trưởng về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần và chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với DNNN. Trong bước đầu hoạt động , các công ty cổ phần mới thành lập này đều thu được những kết quả sản xuất kinh doanh khả quan .
Giai đoạn mở rộng cổ phần hoá (từ tháng 5/1996 đến tháng 6/1998): Từ kết quả thí điểm của giai đoạn trước, ngày7/5/1996 Chính phủ đã ban hành nghị định 28/CP về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định này đã tạo nên khuôn khổ pháp lý đầy đủ để tiến hành cổ phần hoá DNNN , công tác cổ phần hoá được các cấp các ngành quan tâm hơn .
Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá (từ tháng6\1998): Nghị định 44/CP ngày 29/06/1998 đã thay thế nghị định 28/CP với tinh thần tạo đông lực mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp và người lao đọng làm ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, đơn giản hoá các thủ tục chuyển sang công ty cổ phần. Trong bước đầu hoạt động , các công ty cổ phần đều phát triển được sản xuất kinh doanh , không những đảm bao được việc làm mà còn thu hút thêm lao động, thu nhập của người lao động được nâng cao .
3. Các loại công ty cổ phần ở Việt Nam
Loại công ty cổ phần đầu tiên chúng ta đề cập đến đó là công ty cổ phần quốc doanh . Đây là một giải pháp để khắc phục khuyết tật của hình thức sở hữu nhà nước và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong khu vực quốc doanh. Công ty cổ phần quốc doanh gồm nhiều chủ sở hữu : Nhà nước, những người lao động trực tiếp trong công ty cổ phần , các cá nhân và các tổ chức khác Một đặc điểm quan trọng là nhà nước nắm giữ cổ phần khống chế để chi phối các hoạt động của các công ty cổ phần do đó được gọi là các công ty cổ phần quốc doanh. Người thay mặt nhà nước với tư cách là một cổ đông trong Hội đồng quản trị có vai trò, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng hơn so với vai trò chủ sở hữu gắn với bộ máy Nhà nước và viên chức Nhà nước. Ngoài ra do cũng là công ty cổ phần nên nó có đầy đủ các vai trò , đặc điểm của công ty cổ phần đã nêu .
Loại công ty cổ phần thứ hai là công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài. Chúng ta đều biết rằng công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ đầu tư của nước ngoài. Do đó với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay, sự ra đời của công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài đặc biệt quan trọng. Điểm khác cơ bản của loại hình công ty cổ phần này sovới công ty cổ phần quốc doanh đó là sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào mọi bộ phận của công ty. Mặc dù vậy. do nước ta dịnh hướng phát triển một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước nên trong các công ty cổ phần loại này chủ yếu vẫn là Nhà nước nắm cổ phiếu khống chế.
Loại công ty cổ phần thứ ba : là công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài. Đó là những công ty cổ phần do các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài lập nên ở Việt nam. Cũng có thể là một công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài nhưng sau một thời gian làm ăn, các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài dần dần nắm được toàn bộ số cổ phiếu của công ty .
Ta cũng cần phân biệt được công ty cổ phần với công ty hợp doanh và công ty trách nhiệm hữu hạn – hai loại công ty này đang tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam. Điểm khác nhau cơ bản nhất giữa chúng đó là công ty hợp danh và công ty TNHH nhiêù thành viên không được phát hành cổ phiếu và trái phiếu trong quá trình kinh doanh. Trong trường hợp thiếu vốn thì công ty chỉ có thể huy động các cổ đông góp thêm mà thôi . Việc đóng góp này do Đại hội cổ đông quyết định.
II. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
Công ty cổ phần ra đời và phát triển khá sớm ở các nước tư bản chủ nghĩa, đối với nước ta công ty cổ phần xuất hiện muộn hơn nhiều. Chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với việc thực hiện chủ trương đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta mới bắt đầu xuất hiện một số công ty cổ phần với quy mô nhỏ bé, trình độ thấp và đang trong giai đoạn sơ khai. Từ đó đến nay công ty cổ phần phát triển tương đối mạnh mẽ và đã khẳng định được vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế Việt Nam
Ở nước ta điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế là cần phải huy động được nguồn vốn lớn. Huy động vốn trong nhân dân vừa là giải pháp cấp bách vừa là giải pháp cơ bản trong chiến lược tạo vốn cho từng doanh nghiệp hiện nay. Điều này chỉ thực hiện được thông qua công ty cổ phần. Bởi vì so với công ty cổ phần thì hai hình thức huy động vốn chủ yếu ở nước ta hiện nay là hệ thống quỹ tiết kiệm và tín phiếu kho bạc còn nhiều nhược điểm ( cả với người gửi và người đi vay ). Thứ nhất, nếu huy động vốn qua hệ thống tiết kiệm, tín dụng thì chi phí và lãi suất cao gây khó khăn cho người sử dụng vốn vì phải thông qua nhiều khâu chi phí nghiệp vụ và lợi tức tăng lên. Huy động vốn thông qua công ty cổ phần giảm được chi phí không cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng vốn cũng như bảo vệ quyền lợi người có vốn. Thứ hai, gửi tiền vào quỹ tiết kiệm hoặc mua tín phiếu tuy có lãi suất ổn định, hạn chế phần nào rủi ro nhưng người có vốn hoàn toàn mất khả năng chi phối việc sử dụng vốn, không được hưởng những may mắn của việc sử dụng đồng vốn đó. Khi mua cổ phiếu, tuy phải chịu sự rủi ro ở mức độ nhất định nhưng lại được hưởng may mắn mà lúc nào cũng có trong thương trường. Hơn nữa các cổ đông lại có quyền lực trong Đại hội cổ đông và khi điều kiện cùng khả năng cho phép họ có thể được bầu vào các cơ quan lãnh đạo của công ty. Do đó việc mua cổ phiếu hấp dẫn hơn
Ngoài ra công ty cổ phần còn là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự đầu tư của nước ngoài. Nước ta hiện nay đang cần thiết thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho sự nghiệp phát triển kinh tế, hình thức liên doanh góp vốn cổ phần với nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có đủ sức mạnh về mọi mặt vốn, tiềm lực vật chất kỹ thuật, năng lực quản lý
Hệ thống DNNN ở nước ta hiện nay đang hoạt động kém hiệu quả một phần vì không xác định rõ ai là chủ sở hữu đích thực. Đây là nguyên nhân gây ra sự lãnh đạm, thiếu trách nhiệm ,thiếu kỷ cương, kỷ luật của người lao động, sự giảm sút về năng suất, chất lượng và hiệu quả, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập. Còn trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng được xác định rõ ràng nên cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết thoả đáng. Lợi ích của người lao động và người có vốn gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của công ty nên trở thành động lực cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty
Hiện nay quá trình cổ phần hoá ở nước ta đang được triển khai khá mạnh mẽ. Việc hình thành công ty cổ phần thông qua cổ phần hoá góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước bởi chỉ có thế mới nâng cao được hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa Nhà nước với hình thức tham dự cổ phần của mình có thể nhanh chóng can thiệp nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế thúc đẩy sự phát triển và điều tiết thị trường một cách có hiệu quả
Công ty cổ phần ra đời còn góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Tháng 7 năm 1998 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Đồng thời với việc ban hành nghị định 48 /1998 /NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Chính phủ đã ký quyết định số 127 /1998 /QĐ-TTg về thành lập hai Trung tâm Giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, phát đi hiệu lệnh khởi động thị ttrường chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán, các nhà kinh doanh có thể huy động mọi nguồn tiết kiệm trong dân cư. Nó là cơ sở quan trọng để Nhà nước thông qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu đã lựa chọn. Thiếu thị trường chứng khoán sẽ không có nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự ra đời của nó không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người mà là kết qủa của sự phát triển chung về kinh tế xã hội, trong đó sự ra đời và phát triển, hoạt động một cách hoàn hảo của các công ty cổ phần giữ vai trò quyết định.
III. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được bắt đầu thí điểm từ cuối năm 1991. Quá trình cổ phần hoá ở nước ta về cơ bản có thể chia làm hai giai đoạn:
1. Thời kỳ thí điểm cổ phần hoá (6/1992 đến hết năm 1996)
Thực hiện Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, các Bộ, ngành đã hướng dẫn doanh nghiệp nhà nước đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng doanh nghiệp nhà nước đã đăng ký, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ công nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ công nghiệp)
3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Nông nghiệp).
4. Xí nghiệp Chế biến gỗ Lạng Long Bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty Vật tư Tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại).
6. Xí nghiệp Sản xuất Bao bì (Thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp Dệt da may Lagamex (Thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 DNNN được Chính phủ chọn làm thí điểm đều xin rút lui, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá như Lagamex, nhà máy Xà phòng Việt Nam... Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp nhà nước xin chuyển thành công ty TNHH theo chỉ thị 84/TTg. Có 5 doanh nghiệp nhà nước được phép chuyển sang công ty cổ phần, đó là:
1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)
3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần Chế biến hàng Xuất khẩu Long An (Tỉnh Long An)
5. Công ty cổ phần Chế biến Thức ăn Gia súc (Bộ công nghiệp).
Trong một thời gian thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy số lượng các doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần còn ít song giai đoạn thí điểm đã đem lại một số kết quả đáng chú ý:
· Quá trình thí điểm cổ phần hoá đã huy động được một lượng vốn quan trọng trong nhân dân. Qua bán cổ phiếu, nhà nước đã thu được 14,165 tỷ đồng tiền mặt nộp vào Ngân sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để đầu tư vào chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN
· Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 100% cán bộ công nhân viên tham gia mua cổ phiếu. Khi người lao động có vốn trong công ty, lợi ích của họ gắn với lợi ích công ty vì vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình. Mặt khác họ cũng yêu cầu Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành phải chỉ đạo và tổ chức để công ty hoạt động có hiệu quả.
· Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế như doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%; nộp Ngân sách tăng 89%/năm; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 14,10%.
· Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình quân vốn của các doanh nghiệp mỗi năm tăng 45%.
· Người lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của người lao động tăng 20%/năm.
· Nhà nước vẫn giữ được vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ phiếu chi phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ hoạt động phù hợp với quy định của Nhà nước.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996) tổng số doanh nghiệp nhà nước được chuyển sang công ty cổ phần là 12 doanh nghiệp. Dưới đây là danh sách các doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp đó sau thời gian cổ phần hoá.
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Trước CPH
Sau CPH
1992
1993
1994
1995
1996
1. Doanh thu
Tr. đồng
11.120
16.530
24.134
47.538
65.046
2. Nộp NS
Tr.đồng
3.336
3.750
8.700
16.530
25.117
3. Lãi
Tr. đồng
3.400
3.700
8.800
15.200
23.000
4. Thu nhập bình quân người/tháng
1000 đồng
850
900
1.200
1.400
2.000
5. Lao động
Người
56
320
(Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính.)
Công ty đại lý Liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận chuyển từ kho của người gửi đến kho cuả người nhận bằng các phương tiện đường bộ, đường thuỷ, đường biển tới các cảng quốc tế. Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên ở nước ta được tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp này được chính thức chuyển sang công ty cổ phần vào ngày 01/07/1993. Tổng số vốn điều lệ của công ty sau cổ phần hoá là 6.207.655.000 đồng được chia thành 31.038 cổ phiếu với mệnh giá 200.000; trong đó tỷ lệ cổ phần của nhà nước là 18%, của cán bộ công nhân viên chức trong công ty là 77%, của cổ đông ngoài là 5%. Sau 3 năm hoạt động kể từ ngày chuyển sang công ty cổ phần, số lao động của công ty tăng từ 56 người (năm 1993) lên 320 người (năm 1996). Doanh thu năm 1996 tăng gấp gần 4 lần so với năm 1993, nộp ngân sách của công ty cũng tăng từ 3.750 (1993) lên 25.117 (1996) tức khoảng 6,6 lần, thu nhập người lao động tăng từ 900.000 (năm 1993) lên 2. 000.000 (năm 1996).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) được thành lập năm 1987 trên cơ sở công ty liên hợp Thiết bị lạnh trực thuộc Sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ khi mới thành lập, công ty đã tổ chức lại bộ máy gọn nhẹ, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán duy nhất, năng động trong quản lý sản xuất kinh doanh. Công ty đã mạnh dạn nhập các thiết bị lạnh với phương thức trả chậm, tiêu thụ nhanh hàng nhập, thanh toán kịp thời và đầy đủ phần nợ trả chậm cho bên nước ngoài. Cũng chính từ thành công trong hoạt động ngoại thương, tích tụ và tập trung tư bản được hình thành, công ty đã thành lập 2 công ty liên doanh: Công ty liên doanh CERVICO (liên doanh với công ty MEKONG - một công ty Việt kiều ở Đức) nhằm lắp ráp thiết bị lạnh trong nước, vốn đầu tư là 820.000 USD. Công ty liên doanh REEYOUNG (liên doanh với công ty BOUYONG của Nam Triều Tiên) chuyên sản xuất túi sách xuất khẩu, vốn đầu tư 1.600.000 USD. Trong những năm trước cổ phần hoá, công ty hoạt động thực sự có hiệu quả. Công ty luôn dự đoán đúng nhu cầu của thị trường trong nước nên đã tạo được một số lượng hàng hoá, thiết bị vật tư dự trữ đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, tạo được niềm tin và giữ được uy tín với khách hàng. Tháng 11/1993 theo quyết định số 1707/QĐ - UB của UBND TP Hồ Chí Minh, Công ty Cơ điện lạnh chính thức được chuyển sang công ty cổ phần. Tổng số vốn điều lệ mới thành lập của công ty là 16 tỷ đồng được chia thành 160.000 cổ phần với mệnh giá một cổ phiếu là 100.000 đồng, Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần là 30% (gồm 4 đại diện cổ đông), cán bộ công nhân viên chức trong công ty là 50% (gồm 212 cổ đông), các cổ đông ngoài công ty là 20% (gồm 238 cổ đông). Cổ đông là cán bộ công nhân công ty được mua không quá 5% tổng số cổ phiếu, cổ đông ngoài công ty không được mua quá 0,5% tổng số cổ phiếu. Như vậy cổ đông là cán bộ công nhân viên công ty không được mua cổ phần quá 800 triệu đồng, cổ đông ngoài công ty không được mua cổ phần quá 800 triệu. Ngoài ra, các cổ đông là nhân viên công ty còn được vay tiền với lãi suất ưu đãi, được chia quỹ khen thưởng và phúc lợi còn lại để có thể mua cổ phiếu. Ba năm sau khi cổ phần hoá, tổng số vốn của công ty tăng từ 16 tỷ đồng (năm 1993) lên 30 tỷ đồng (năm 1996), doanh thu năm 1996 tăng gấp 5 lần so với năm 1993. Số lao động năm 1996 tăng hơn 3 lần so với những năm công ty chưa được cổ phần hoá. Tổng thu nhập của người lao động đạt 1.800.000/cổ phần. Công ty đang nghiên cứu sẽ bán tiếp cổ phần ưu đãi cho 2/3 số công nhân mới được tuyển vào làm, nhằm thu hút thêm số người có tay nghề cao. Năm 1996, công ty được nhà nước cho phép phát hành thử trái phiếu chuyển đổi bằng ngoại tệ và bán cho các nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị 5 triệu USD, lãi suất 4,5%/năm. Các trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu trong quý 3/1996, trái chủ được chuyển thành cổ đông sẽ không được tham gia Hội đồng quản trị.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Trước CPH
Sau CPH
1992
1993
1994
1995
1996
1. Doanh thu
Tr. đồng
42.000
45.000
77.000
214.000
277.000
2. Nộp NS
Tr. đồng
2.570
54.370
13.126
48.000
61.000
3. Lãi
Tr. đồng
6.800
7.300
11.300
21.300
5.000
4. Thu nhập bình quân người/tháng
1000đồng
774
1.200
1.400
1.500
1.800
5. Lao động
Người
200
800
(Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính)
Công ty cổ phần giầy Hiệp An là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại giày dép phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Công ty được chuyển sang công ty cổ phần tháng 8/1994 với tổng giá trị doanh nghiệp là 4,793 tỷ đồng. Trong đó Nhà nước giữ 30% vốn cổ phần, cán bộ công nhân công ty giữ 35,5%, cổ đông ngoài doanh nghiệp giữ 34,8%. Doanh thu năm 1996 tăng xấp xỉ gấp 2 lần với năm 1993, nộp ngân sách năm 1996 tăng 5,3 tỷ đồng so với năm 1993. Thu nhập người lao động tăng từ 420.000đ/ người/ tháng lên 1.200.000/người/tháng. Dưới đây là một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của công ty
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Trước CPH
Sau CPH
1993
1994
1995
1996
1. Doanh thu
Tr. đồng
11.200
13.493
18.624
25.639
2. Nộp ngân sách
Tr. đồng
2.100
2.800
5.200
8.100
3. Lãi
Tr. đồng
2.718
3.152
5.412
7.918
4. Thu nhập bình quân người/tháng
1000 đồng
420
470
850
1.200
5. Lao động
Người
380
400
(Nguồn: Ban cổ phần Bộ tài chính)
2. Thời kỳ sau thí điểm (từ cuối năm 1996 đến nay)
Thực hiện Nghị định 28/CP (7/5/1996) về chuyển các DNNN sang công ty cổ phần ( CTCP), thời kỳ sau thí điểm cổ phần hoá (từ cuối năm 1996 đến tháng 2 năm 1999) đã có 134 doanh nghiệp được chuyển sang CTCP, tính chung cả thời kỳ thí điểm hiện nay có tất cả 146 doanh nghiệp (theo báo cáo của Ban cổ phần hoá, bộ tài chính). Từ bảng danh sách (phụ lục), chúng ta thấy tốc độ cổ phần hoá diễn ra còn chậm, số các DNNN chuyển sang CTCP “nhỏ giọt” trong các năm 1993 - 1997, cụ thể năm 1993: 2 donah nghiệp; năm 1994: 1 doanh nghiệp; năm 1995: 2 doanh nghiệp; năm 1996: 7 doanh nghiệp và năm 1997: 4 doanh nghiệp. Sang năm 1998 đã có sự tiến bộ: 102 doanh nghiệp. Như vậy số doanh nghiệp chuyển sang CTCP năm 1998 lớn hơn nhiều so với số doanh nghiệp chuyển sang CTCP của các năm trước cộng lại. Song kế hoạch đề ra là thực hiện cổ phần hoá thành công 150 doanh nghiệp trong năm 1998 thì con số 102 CTCP chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Bước sang năm 1999, Chính phủ đặt ra kế hoạch sẽ thực hiện cổ phần hoá thêm khoảng 400 doanh nghiệp. Theo Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương thì từ đầu năm đến nay đã có thêm 42 doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần với tổng số vốn điều lệ gần 180 tỷ đồng. Trong số đó có gần 23 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp xây dựng, 10 doanh nghiệp dịch vụ thương mại, 3 doanh nghiệp giao thông vận tải và 5 doanh nghiệp nông - lâm - thuỷ sản. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chỉ có 3 doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên là công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn thuộc Tổng công ty xi măng (38 tỷ đồng), công ty cổ phần điện cơ thuộc Tổng công ty điện lực Việt Nam (25 tỷ đồng) và công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tân Định thuộc thành phố Hồ Chí Minh (10 tỷ đồng). Các địa phương và ngành triển khai cổ phần hoá tích cực nhất là tỉnh Bình Định (4 doanh nghiệp), thành phố Hồ Chí Minh (4 doanh nghiệp), Tổng công ty cà phê (3 doanh nghiệp), Tổng công ty xi măng Việt Nam (2 doanh nghiệp)... Trong số 34 doanh nghiệp hoàn thành thủ tục bán cổ phiếu đã có 12 doanh nghiệp không có cổ phần của Nhà nước và 27 doanh nghiệp có cổ phần của cổ đông ngoài doanh nghiệp. Như vậy, theo kế hoạch đặt ra cho năm 1999 là sẽ cổ phần hoá từ 400 - 600 doanh nghiệp thì con số 42 doanh nghiệp nhà nước mới được cổ phần hoá từ đầu năm đến nay chỉ bằng 1/10 kế hoạch. Và từ giờ đến cuối năm, chúng ta phải cổ phần hoá thêm hơn 300 doanh nghiệp nữa.
Kết quả bước đầu.
· Về phía doanh nghiệp, nhìn chung hoạt động của công ty cổ phần sau khi cổ phần hoá đều có hiệu quả, các chỉ tiêu tăng nhiều lần so với khi còn là DNNN biểu hiện trên cả 3 mặt lợi ích của: lao động - doanh nghiệp - Nhà nước. Việc huy động vốn của công ty cổ phần chủ yếu đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn trước, đem lại lợi nhuận cao hơn. Cơ câú vốn sở hữu trong các công ty cổ phần, tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất so với các sở hữu khác. Nhà nước nắm từ 18% đến 51% (Bình quân 41%) cổ phần công ty; cổ đông là người lao động từ 18% đến 50% cá biệt có doanh nghiệp trên 70% (bình quân 30%) cổ phần công ty; số cổ phần còn lại là thuộc cổ đông ngoài xã hội nắm giữ (bình quân 29%).
· Về phía Nhà nước, ngoài việc Nhà nước tăng thu các khoản thu từ doanh nghiệp như thuế lợi tức do doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhà nước còn thu được một lượng vốn từ các nguồn phát sinh trong quá trình cổ phần hoá như số thu về tiền bán cổ phiếu. Ví dụ số thu về cổ phần hoá tính đến hết năm 1997 như sau:
Tiền thu về bán cổ phiếu: 30. 207 triệu đồng
Lợi tức của Nhà nước tại các công ty cổ phần: 6.995 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần Nhà nước: 522 triệu đồng.
Tổng cộng: 37. 724 triệu đồng.
· Về phía người lao động: người lao động đã gắn được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình với lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp, đồng thời được tạo điều kiện làm chủ doanh nghiệp. Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là DNNN từ 1,5 - 2 lần, bên cạnh đó người lao động còn nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22% - 24%/năm.
Việc làm của người lao động được đảm bảo, hơn thế ngoài số lao động cũ, các công ty cổ phần còn thu hút thêm nhiều lao động ngoài xã hội vào làm việc. Trong một số công ty cổ phần, người lao động đã đề cử đại diện của mình tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp. Theo kết quả khảo sát của chương trình hỗ trợ phát triển dự án Mêkông (Mekong Project Development Facility - MPDF) năm 1998 trong 13 doanh nghiệp được khảo sát đã thành lập Hội đồng quản trị; 3 công ty người ngoài đại diện cho cán bộ công nhân viên đảm nhận chủ tịch Hội đồng và giám đốc điều hành, 2 công ty khác giữ 1 trong 2 trọng trách trên.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP.
I. CÁC YẾU TỐ KHÓ KHĂN VÀ CẢN TRỞ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM.
Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá ở nhiều nước đang phát triển và Đông Âu là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Đối với Việt Nam cũng như vậy, khi hàng chục năm khu vực này được coi là đối tượng cải tạo XHCN. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu do đó làm cho việc tiến hành chương trình cổ phần hoá ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng.
Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự trong đó có thị trường chứng khoán. Như trên đã trình bày, thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính.
II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
1. Về tư tưởng quan điểm cổ phần hoá
Đối với các doanh nghiệp: người lãnh đạo (giám đốc, phó giám đốc) hầu hết là do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần không dễ gì giữ được chức vụ đó trước Đại hội cổ đông. Sau khi cổ phần thì những quyền lực quan trọng nhất thuộc về Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị công ty. Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước trước đây giả sử có tái cử làm giám đốc điều hành thì chỉ đóng vai trò thực thi của hai tổ chức nói trên mà thôi. Hội đồng của giám đốc có sự giám sát chặt chẽ của Ban kiểm soát (như đã nêu ở chương một) của Hội đồng quản trị công ty. Lẽ đương nhiên thu nhập của giám đốc sẽ bị giảm xuống, không còn hấp dẫn, quyền hành lại bị hạn chế. Chắc chắn trước ngưỡng cửa cổ phần hoá, các vị giám đốc quốc doanh ít nhiều đều có tâm tư mắc mớ, ít nhiệt tình đối với phương án cổ phần hoá. Còn với khả năng xấu hơn, vị trí công tác của giám đốc có thể bị thay đổi, thậm chí có thể bị mất việc thì hậu quả còn tồi tệ hơn.
Chính vì lẽ đó giám đốc các DNNN thường có tâm lý không muốn cổ phần hoá, chuyển đổi sở hữu, mặc dù đã nhận thức được khó khăn trong cạnh tranh thị trường, và biết rằng doanh nghiệp có thể nguy cơ suy sụp trong cuộc cạnh tranh thị trường ngày một gay gắt. Tâm lý chung của các vị giám đốc DNNN là “còn nước còn tát”, tát được ngày nào hay ngày đó.
Còn về phía người lao động, họ sau khi cổ phần hoá có thể bị mất việc, hoặc quyền lợi không được đảm bảo, đặc biệt là vấn đề mua, mua chịu và được cấp cổ phiếu. Thế là từ trên xuống dưới kết thành những mảng trong nhận thức và hành động. Để đảm bảo an toàn và giữ được “ghế”, tránh được nguy cơ “đi chệch hướng XHCH”, thượng sách là không sắn tay vào công tác này.
Làm thế nào để giải toả những vướng mắc về tư tưởng quan điểm và nhận thức trên đây? Trước hết, phải tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần hoá DNNN.
Một là, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước không dẫn đến nguy cơ chệch hướng XHCN và làm suy yếu kinh tế nhà nước, bởi lẽ: Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, Nhà nước vẫn nắm giữ các DNNN thuộc các ngành then chốt, trọng yếu tạo nền tảng cho nền kinh tế quốc dân và sức mạnh của Nhà nước XHCN. Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tài sản Nhà nước không bị suy giảm mà còn có khả năng tăng nhờ lợi tức cổ phần của Nhà nước và sự đóng góp của các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả vào ngân sách Nhà nước. Quá trình cổ phần hoá được tiến hành dưới sự lãnh đạo tập trung của Đảng và sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước XHCN.
Hai là, cổ phần hoá không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động của doanh nghiệp. Đó là một trong những mục tiêu cổ phần hoá mà chúng ta thực hiện. Để có thể đưa những nhận thức đúng đắn trên đây đến tất cả các cơ quan lãnh đạo các ngành, các cấp, đến từng doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ công nhân viên lao động làm việc trong doanh nghiệp, Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ trương, mục tiêu, quan điểm cũng như lợi ích về sự cần thiết của cổ phần hoá trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường.
2. Về môi trường pháp lý cho việc cổ phần hoá.
Môi trường pháp lý của nhà nước bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật trực tiếp và gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá. Từ khi chủ trương cổ phần hoá các DNNN được đề cập lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị lần 2 - Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá 7 (tháng 11/1991) cho đến nay đã có tổng cộng 27 văn bản pháp quy trực tiếp liên quan đến cổ phần hoá.
Về số lượng, tuy các văn bản pháp lý trực tiếp chỉ đạo quá trình cổ phần hoá như vậy là khá nhiều, nhưng chưa có một văn bản pháp lý nào đủ tầm quyết sách để có thể tiến hành một quá trình cổ phần hoá trên diện rộng như luật, pháp lệnh. Đối với các văn bản gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá thì còn thiếu mảng luật về chứng khoán, kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Về chất lượng, một số nội dung trong các văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát như: trách nhiệm của các Bộ, ngành, các địa phương trong việc chỉ đạo cổ phần hoá; thẩm quyền của đại diện chủ sở hữu với việc cổ phần hoá; cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc; việc bán cổ phần cho người nước ngoài có quy định nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Để giải quyết những vấn đề tồn tại về chính sách pháp luật trên đây, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải lắng nghe ý kiến từ phía các doanh nghiệp đã hoàn tất và đang hoàn tất cổ phần hoá và cả những doanh nghiệp chưa tiến hành cổ phần hoá để cụ thể hoá, chi tiết hoá những điểm còn “chung chung”, ban hành thêm những quy định còn thiếu. Đòi hỏi sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp quy ngay trong điều kiện hiện nay là điều không thực tế, song đã đến lúc chúng ta phải có ngay một bộ luật cổ phần hoá hoặc luật công ty cổ phần bởi vì chưa có luật, chưa có pháp lệnh thì chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện, chưa có căn cứ để ban hành các văn bản pháp quy dưới luật, và như vậy việc thực hiện sẽ rất khó khăn. Bên cạnh đó, việc dự thảo và sớm ban hành luật về chứng khoán, kinh doanh chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và việc hình thành thị trường vốn ở nước ta.
3. Hệ thống các cơ quan quản lý công tác cổ phần hoá.
Về tổng thể, bộ máy quản lý hành chính về cổ phần hoá tổ chức chỉ đạo chưa tập trung, thiếu tính nhất quán giữa Trung Ương và địa phương, giữa các Bộ, Ngành. Ví dụ có những doanh nghiệp đã làm xong thủ tục nhưng chính quyền địa phương vẫn không cho phép hoạt động, gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp cổ phần, tạo tâm lý chản nản trong các cổ đông vì trong vòng 2 năm đó vốn không được luân chuyển (như công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An, công ty chế biến thức ăn gia súc VIFOCO...)
Để giải quyết, Nhà nước phải mở rộng quyền hạn cũng như trách nhiệm của ban chỉ đạo Trung Ương cổ phần hoá. Hoặc Nhà nước có thể thành lập một Tổng cục chủ quản hoặc tương đương như vậy chuyên trách về cổ phần hoá để điều chỉnh quá trình cổ phần hoá DNNN và hoạt động của công ty cổ phần. Cơ quan chuyên trách này sẽ chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo và có đủ thẩm quyền để giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ phần hoá cũng như phối hợp hoạt động của các Bộ, Ngành và các cơ quan hữu quan, đồng thời cũng phải quy định rõ quyền hạn và nhiệm vụ của các cấp cơ quan này, tránh sự “chồng chéo, lấn sân” của nhau, tránh tình trạng cấp trên “bàn vào”, cấp dưới “bàn ra” như trong thời gian vừa qua dẫn tới sự chán nản của các DNNN muốn cổ phần hoá. Một yêu cầu quan trọng nữa là phải tập trung về đây các cán bộ có năng lực chuyên môn, có trình độ, quy định rõ rằng về trách nhiệm của từng người.
Tăng cường hơn nữa vai trò chủ đạo của Trung Ương. Chính phủ phải đẩy mạnh việc kiện toàn tổ chức bộ máy chỉ đạo cổ phần hoá từ Trung Ương đến địa phương theo hướng gọn nhẹ, thiết thực, đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quá trình cổ phần hoá để đảm bảo đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
4. Chính sách đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Cần quy định một số ưu đãi thiết thực đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá. Chẳng hạn cho phép tách số tài sản không còn giá trị sử dụng và có tài sản không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh ra khỏi giá trị doanh nghiệp nhằm trợ giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng trong quá trình hoạt động. Những tài sản này sẽ được chuyển giao lại cho nhà nước để xử lý phù hợp với pháp luật hiện hành. Nếu doanh nghiệp có yêu cầu đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất theo phương án được duyệt thì cho phép doanh nghiệp sử dụng một phần số tiền bán cổ phiếu ngoài phạm vi cổ phần giữ lại thuộc sở hữu nhà nước theo hình thức vay tín dụng của ngân sách.
4.1. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử không hợp lý giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các DNNN rõ ràng là còn được hưởng ưu đãi của nhà nước nhiều hơn công ty cổ phần nói riêng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung về XNK, về địa điểm, tín dụng, vay vốn ngân hàng. Để có thể thực sự xoá bỏ sự phân biệt đối xử không hợp lý giữa DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhà nước cần phải từng bước xoá bỏ sự bao cấp dành cho các DNNN, cần có những quy định nhằm nâng cao vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển bằng những biện pháp cụ thể như: chính sách thuế, quyền XNK, vay vốn ngân hàng, tạo điều kiện cho khu vực này liên doanh với nước ngoài, qua đó tạo môi trường bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài góp phần đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.
Theo thông tư số 50 TC/TCDN, gia trị doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định bằng công thức:
Giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp = sau khi kiểm kê + (-) giá trị lợi thế + chi phí tiến hành CPH đánh giá lại.
Theo công thức nói trên, mọi tài sản doanh nghiệp đều được kiểm kê đánh giá lại theo giá hiện hành. Song theo số liệu điều tra thống kê, ở hầu hết các DNNN, trình độ máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ, thậm chí có doanh nghiệp lạc hậu từ 4 - 5 thế hệ. Mặt khác, thông tư 50 TC/TCDN quy định “Toàn bộ tài sản cố định sau khi đã kiểm kê và được tính trên giá sổ sách doanh nghiệp căn cứ vào chất lượng còn lại và giá hiện hành của từng tài sản, giá trị tài sản vô hình để xác định lại giá trị tài sản thực còn”. Vấn đề ở đây là xác định giá hiện hành. Như chúng ta đều biết, tiêu chuẩn để đánh giá giá trị vật chất có nhiều nhưng tựu chung lại có thể sử dụng các tiêu chuẩn sau: giá trị mua vào, giá trị thanh lý, giá trị đổi mới, giá trị nhượng bán. Chính vì vậy, nhà nước nên quy định cụ thể “giá hiện hành” trong việc đánh giá lại giá trị tài sản.
4.3. Thủ tục cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay, thủ tục hành chính để cổ phần hoá một DNNN còn khá rườm rà, tốn kém. Một DNNN trị giá 2 tỷ đồng chuyển sang công ty cổ phần mà hàng chục lượt đoàn cán bộ đến kiểm tra, kiểm toán, thẩm định kiểm toán... rồi sau đó mới trình Bộ, Ngành , UBND tỉnh thành phố, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt... biết bao cửa ải mà doanh nghiệp phải chịu đựng. Mỗi cửa ải kéo dài không biết bao nhiêu thời gian. Điều này có lẽ không phải do một cơ quan hay một cá nhân nào mà do mỗi khâu chậm một ít, do thiếu trách nhiệm, thiếu nhiệt tình và quan liêu. Việc loại bỏ những thủ tục rườm rà, xây dựng một quy trình cổ phần hoá DNNN gọn nhẹ, quản lý chặt chẽ và tránh được những chi phí do doanh nghiệp phải bỏ ra do làm ảnh hưởng tới túi tiền của ngân sách là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó việc phối hợp của các cơ quan chức năng, thống nhất quá trình chỉ đạo thực hiện từ TW tới các Bộ, ngành, địa phương, cơ sở sẽ góp phần tích cực đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.
KẾT LUẬN
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta, yêu cầu của việc phát triển loại hình công ty cổ phần là rất cần thiết. Để thành lập công ty cổ phần có hai cách tiến hành đó là thành lập mới và cổ phần hoá các DNNN. Cổ phần hoá là một trong những giải pháp quan trọng để thực sự khắc phục tình trạng kém hiệu quả của các DNNN, thu hút vốn, cải tiến quản lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thực chất cổ phần hoá nhằm mục tiêu chuyển hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu tập thể, các cổ đông theo hướng đa dạng hoá xử lý, vừa đảm bảo yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế nhiều thành phần, vừa đảm bảo cho các DNNN có chủ thực sự. Việc thành lập mới công ty cổ phần là một vấn đề tương đối mới mẻ ở nước ta. Bởi vì đây là một loại hình doanh nghiệp mới đối với nước ta. Nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Với những ưu điểm như đã trình bày trong đề án thì việc hình thành các công ty cổ phần là một tất yếu khách quan do đòi hỏi của nền kinh tế. Chính vì thế việc tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển loại hình doanh nghiệp này cần phải được quan tâm và thúc đẩy. Điều này không chỉ là đòi hỏi về phía Nhà nước mà còn là yêu cầu đối với chính những người làm kinh doanh là phải có những kiến thức vững chắc về công ty cổ phần và những vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến công ty cổ phần.
Với nhứng lý luận, thưc trạng và đặc biệt là phần giải pháp trong đề án tuy chưa được sâu sát và tỷ mỷ lắm vì lý do thời gian và sự hạn chế về kiến thức. Nhưng em rất hy vọng rằng đề án này sẽ là một bài học thực tế rất bổ ích cho bản thân trong việc cập nhật kiến thức về công ty cổ phần và vấn đề cổ phần hoá DNNN. Những giải pháp, kiến nghị được nêu ra trong đề án sẽ phần nào tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình cổ phần hoá. Hy vọng rằng với quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân cùng với việc thực hiện đồng bộ những giải pháp và kiến nghị nêu trên, chương trình cổ phần hoá và thành lập công ty cổ phần sẽ gặt hái được những thành công và góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh, mạnh bền vững của nền kinh tế đem lại sự phồn vinh cho đất nước.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. Khái niệm, sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần 2
II. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay 6
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt Nam 9
II. Vai trò công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay 12
III. Thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam 13
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ
TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
I. Các yếu tố khó khăn và cản trở quá trình hình thành
và cổ phần hoá doanh nghiệp ở Việt Nam 19
II. Các giải pháp và kiến nghị 19
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Nguyễn Ngọc Quang, NXB Khoa học xã hội.
2. Hỏi đáp về cổ phần hoá DNNN, Hoàng Công Thi, NXB Thống kê.
3. Kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế thị trường, Đào Xuân Sâm, Ngô Quang Minh, NXB Khoa học xã hội.
4. Báo cáo tổng quát tình hình doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài chính tháng 12/1997.
5. Báo cáo về thực hiện cổ phần hoá DNNN, Bộ Tài chính tháng 12/1998.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kc149_292.doc