LỜI MỞ ĐẦU
Phần I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY
Thông tin chung về công ty
Quá trình hình thành và phát triển
Giai đoạn 1
Giai đoạn 2
Lĩnh vực hoạt động, sản phẩm, thị trường
Lĩnh vực hoạt động
Danh mục sản phẩm
Thị trường tiêu thụ và khách hàng
Đặc điểm về cơ cấu sản xuất
Công nghệ sản xuất
Nguyên nhiên liệu sử dụng
Quy trình công nghệ sản xuất gạch
Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty
Chức năng, nhiệm vụ của các cấp và các bộ phận
Cơ cấu lao động
Đặc điểm cơ cấu vốn, tài sản
Phần II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
Công tác quản trị nhân sự
Về hoạt động tuyển dụng
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên
Chế độ lương, thưởng, phúc lợi
Công tác Marketing, tiêu thụ sản phẩm
Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Công tác marketing, kế hoạch tiêu thụ
Hoạt động tài chính-kế toán
Phần III: HƯỚNG ĐI CỦA CÔNG TY TRONG TƯƠNG LAI
Về hoạt động quản trị nhân sự
Về sản xuất, tiêu thụ
Về chiến lược phát triển
KẾT LUẬN
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2916 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn - Đánh giá thực trạng tình hình hoạt động và định hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để có thể trở thành một nước công nghiệp, yêu cầu đầu tiên là chúng ta phải có được một nền tảng vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng hiện đại đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển của cả xã hội trong một tương lai lâu dài. Đây là nhiệm vụ của cả đất nước, của mọi ngành, mọi lĩnh vực, nhưng trực tiếp nhất, chính là vai trò của lĩnh vực xây dựng. Càng ngày, nhu cầu xây dựng của nước ta càng lớn. Mỗi năm có hàng ngàn công trình lớn nhỏ ra đời, từ các công trình cấp nhà nước, cho đến các công trình của các hộ dân. Chính vì thế, thị trường cho xây dựng luôn luôn là một thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn nhiều sự phát triển trong cả hiện tại cũng như tương lai. Các tổng công ty xây dựng, các doanh nghiệp xây dựng, các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cung ứng dịch vụ phục vụ cho xây dựng… cũng luôn nhìn thấy những cơ hội phát triển cho mình. Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn cũng vậy. Nhìn thấy nhu cầu về vật liệu xây dựng tại Bắc Ninh là khá lớn, trong khi nguồn cung không đủ đáp ứng cầu, ban lãnh đạo của công ty quyết định xây dựng nhà máy để đáp ứng lượng cầu còn đang dư thừa đó. Là một doanh nghiệp mới thành lập tại Bắc Ninh, chuyên sản xuất và cung cấp các loại vật liệu xây dựng cho các thị trường lớn như Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên… công ty đang dần dần từng bước khẳng định được vị trí của mình trên thị trường.
Là một sinh viên chuyên ngành Quản trị kinh doanh Công nghiệp và Xây dựng, nên lĩnh vực xây dựng cũng là lĩnh vực mà em đang quan tâm và muốn tìm hiểu. Vì thế, em đã lựa chọn Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn để thực tập. Sau 6 tuần thực tập, tìm hiểu về thị trường vật liệu xây dựng cũng như tình hình hoạt động của công ty, với sự giúp đỡ của ban giám đốc, các phòng ban, và sự hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Điệp, em đã hoàn thành được 1 báo cáo tổng hợp về tình hình chung của công ty. Báo cáo với nội dung 3 phần chính như sau:
Phần I Tổng quan về công ty
Phần II Đánh giá thực trạng tình hình hoạt động của công ty
Phần III Định hướng phát triển công ty trong thời gian tới
Do kiến thức của em còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều, nên bài viết của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được chỉ bảo của cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 10/2010
Phần I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY
1. Thông tin chung về công ty
Tên công ty viết bằng tiếng Việt: Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn.
Tên công ty viết bằng tiếng nước ngoài: Tan Son Building Materials Joint Stock Company.
Tên công ty viết tắt: TSBM ., JSC
Địa chỉ trụ sở chính: Thôn Lương, xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Mã số thuế: 2300280778
Giấy phép kinh doanh số: 2300280778
Fax: 02413719388
Tài khoản ngân hàng: 102010000468370 tại ngân hàng Công thương Tiên Sơn.
Ngành nghề kinh doanh chính: sản xuất và kinh doanh các sản phẩm gạch phục vụ cho xây dựng công trình.
Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, hoạt động theo quy định của Pháp luật. Là công ty cổ phần nên nguồn vốn của công ty là vốn góp của các cổ đông. Các cổ đông sẽ cùng nhau chia sẻ lợi nhuận, cũng như chịu lỗ theo tỷ lệ số cổ phần đang nắm giữ và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Lợi ích của các cổ đông được Pháp luật bảo hộ.
Quá trình hình thành và phát triển
CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT LIỆU XÂY DỰNG TÂN SƠN chính thức thành lập từ giữa năm 2006, khi công ty được Phòng Đăng Ký Kinh Doanh của Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư Tỉnh Bắc Ninh cấp giấy phép đăng ký kinh doanh số 2300280778 ngày 26 tháng 05 năm 2006. Sau khoảng hơn 1 năm rưỡi chuẩn bị, tiến hành xây dựng nhà máy cũng như đầu tư cho một dây chuyền máy móc trang thiết bị, đến đầu năm 2008, công ty mới bắt đầu chính thức đi vào hoạt động, sản xuất sản phẩm. Đồng thời với việc bắt đầu đi vào sản xuất trên 1 dây chuyền, thì cũng từ đầu năm 2008, công ty tiến hành đầu tư xây dựng tiếp dây chuyền sản xuất thứ hai. Như vậy, xét theo quá trình bỏ vốn đầu tư, có thể chia sự phát triển của công ty thành 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1:
+ Đầu tư mới đồng bộ các thiết bị gia công nguyên liệu, tạo hình, sấy, nung Tuynel liên hợp, cho phép thực hiện các tuyến công nghệ thuận lợi, rút ngắn được các công đoạn trung chuyển trong các khâu sản xuất.
+ Xây dựng các khu nhà chế biến tạo hình, nhà bao che hầm sấy, nhà phơi mộc, nhà chứa đất, nhà ăn, hệ thống vệ sinh, điện nước…
Sau giai đoạn này, công ty đã có một dây chuyền sản xuất gạch với công suất thiết kế là 30 triệu viên/năm và một hệ thống nhà xưởng hoàn thiện.
Giai đoạn 2:
+ Đầu tư thêm dây chuyền sản xuất thứ hai để nâng cao năng lực sản xuất cho nhà máy.
+Xây thêm nhà ở cho công nhân viên, mở rộng thêm 4ha phục vụ cho việc lắp đặt, vận hành dây chuyền 2.
+ Mở rộng khu nhà chế biến tạo hình, nhà bao che lò nung, sấy…
+ Công suất dây chuyền là 30 triệu viên QTC/năm. Tập trung vào một số loại sản phẩm chính được tiêu thụ mạnh trên thị trường là gạch xây tiêu chuẩn KT 220*105*60 và một số loại sản phẩm cao cấp khác như gạch chẻ 250*250; gạch chẻ 300*300 và ngói lợp màu đỏ.
Sau giai đoạn 2, công ty đã có thể hoạt động với công suất lên đến 60 triệu viên/năm.
Trong tương lai, tùy theo nhu cầu của thị trường, công ty sẽ tiến hành sản xuất thêm các chủng loại sản phẩm trang trí khác như ngói mũi, gạch lát lá dừa, sản phẩm giả cổ…
Như vậy, tính đến nay, công ty đã có gần 3 năm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. Do đó, đây là một công ty còn rất non trẻ, và chưa có nhiều thành tựu lớn đáng kể. Nhưng ngay từ năm đầu tiên đi vào hoạt động, công ty đã bắt đầu làm ăn có lãi. Điều này có được là nhờ sự nỗ lực hết mình từ phía ban lãnh đạo công ty cũng như toàn thể nhân viên đã cố gắng hết sức để đưa công ty vượt qua được thời điểm khó khăn ban đầu.
Lĩnh vực hoạt động, sản phẩm, thị trường
Lĩnh vực hoạt động
Theo Giấy chứng nhận Đăng Ký Kinh Doanh và Đăng Ký Thuế số 2300280778 của Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn, thì ngành nghề kinh doanh của công ty bao gồm:
“Sản xuất kinh doanh các sản phẩm gốm, sứ, vật liệu xây dựng và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm gốm, sứ, vật liệu xây dựng. Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi, công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị. Trang trí nội, ngoại thất và lắp đặt trang thiết bị cho các công trình xây dựng. Sản xuất kinh doanh, gia công, lắp đặt kết cấu thép; Sản xuất, kinh doanh, gia công, sửa chữa các sản phẩm cơ khí, kim loại màu, sắt, thép. Sản xuất, kinh doanh các sản phẩm từ gỗ. Trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đánh bắt thủy sản, nuôi trồng thủy hải sản. Vận tải hàng hóa, hành khách bằng ô tô.”
Nhưng hiện tại, công ty vẫn đang hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thuộc về vật liệu xây dựng.
Danh mục sản phẩm
Hiện tại, công ty đang sản xuất các sản phẩm gạch theo công nghệ nung Tuynel với chất lượng cao. Trong đó, Gạch 2 lỗ TC là loại sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu sản phẩm sản xuất.
Bảng 1: Danh mục sản phẩm của công ty năm 2009
Sản phẩm
Sản lượng (viên)
Tỷ trọng
Gạch 2 lỗ TC
52.500.000
78,6%
Gạch chẻ 250
5.700.000
8,5%
Gạch chẻ 300
5.500.000
8,2%
Ngói 22 viên/m2
3.100.000
4,7%
Tổng
66.800.000
100%
(Nguồn: Phòng kế toán – công ty cổ phần VLXD Tân Sơn)
Như vậy, công ty đã thực hiện đa dạng hóa danh mục sản phẩm, nhưng vẫn xác định cho mình một sản phẩm trọng tâm. Điều này sẽ giúp công ty giảm bớt rủi ro khi thị trường gạch 2 lỗ có biến động mạnh, đồng thời mở rộng thêm được thị trường khách hàng, khai thác được năng lực hiện có.
Thị trường tiêu thụ và khách hàng
Bắc Ninh là một tỉnh nằm về phía Đông-Bắc của thủ đô Hà Nội, là một trong những cửa ngõ quan trọng của thủ đô nối liền với với các tỉnh Lào Cai, Quảng Ninh, giao thông thuận tiện cả về đường bộ, đường thuỷ lẫn đường sắt, nên việc mở rộng thị trường tiêu thụ sang các tỉnh lân cận là rất dễ dàng. Hiện tại, Công ty đang tiêu thụ sản phẩm tại các thị trường khu vực Bắc Ninh, Hà Nội, Bắc Giang, Hưng Yên… nhưng chủ yếu vẫn là tại thị trường Hà Nội do nhu cầu về vật liệu xây dựng tại thị trường này vẫn lớn hơn các thị trường còn lại.
Đối tượng khách hàng của công ty là các doanh nghiệp xây dựng, các tổng công ty. Công ty đã cung cấp gạch cho các công ty lớn như Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng HUD1, HUD3,HUD4, bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh…, cung cấp cho các công trình như Công trình Vân Canh, công trình Trung Văn, Công trình An Dương Vương, công trình 18LTK.
Ngoài việc cung cấp gạch trực tiếp cho các công ty xây dựng lớn, công ty còn cung cấp gạch đến các đại lý bán buôn lớn trong tỉnh Bắc Ninh và Hà Nội.
Đặc điểm về cơ cấu sản xuất
Công nghệ sản xuất
Công nghệ sản xuất gạch mà công ty đang sử dụng là công nghệ sản xuất dùng phương pháp sử dụng lò sấy nung Tuynel liên hoàn với các thiết bị gia công nguyên liệu và tạo hình được cơ giới hóa toàn bộ trên máy.
Đây là kỹ thuật sản xuất gạch đỏ được coi là tiên tiến nhất hiện nay với ưu điểm nổi bật là có thể sản xuất gạch trong cả năm, không phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Mọi công đoạn sản xuất đều được thực hiện hoàn toàn trong nhà xưởng như: nhào đất, ra gạch mộc, sấy khô, nung… Đồng thời, lò tuynel được đốt liên tục giúp nâng cao chất lượng, cũng như số lượng sản phẩm. Quan trọng hơn, sử dụng công nghệ nung tuynel viên gạch ra lò không còn nóng, cơ bản triệt tiêu độ nóng độc. Đặc biệt, than đốt bằng lò tuynel cháy hoàn toàn và khói được xử lý qua nước vôi giảm 80-90% lượng khí CO2 thải ra gây tác hại cho môi trường. Chính từ những khả năng trên, hiện sản lượng gạch của Công ty Cổ phần VLXD Tân Sơn đã đạt 100% công suất so với công suất xây dựng.
Như vậy, công nghệ mà công ty đang sử dụng được coi là công nghệ sản xuất có trình độ tiên tiến với mức cơ giới hóa cao, tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao và ổn định, phù hợp với nhu cầu thị trường, mặt khác góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiết kiệm tài nguyên và diện tích đất trồng trọt, đồng thời cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Công nghệ này đang dần thay thế cho các lò gạch thủ công không đảm bảo chất lượng và gây ô nhiễm môi trường.
Nguyên nhiên liệu sử dụng
Nguyên liệu: hiện nay, công ty đang sử dụng nguồn nguyên liệu là đất bồi tại các bãi bồi ven sông Đuống từ Phù Đổn đến bến Hồ. Vị trí nhà máy gần sông nên rất thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên liệu. Đặc biệt, nguồn phù sa ven sông hoàn toàn có khả năng đủ để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho nhà máy hoạt động ổn định và lâu dài. Đây là một lợi thế rất lớn của công ty, vì so với các nhà máy khác hiện vẫn phải tìm mua nguyên liệu với giá cao, khoảng cách vận chuyển xa, chất lượng không ổn định, thì việc đặt nhà máy ngay cạnh nguồn nguyên liệu đã giúp công ty tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nhiên liệu: nhiên liệu cung cấp cho nhà máy là than cám 6 lấy từ khu vực Quảng Ninh được vận chuyển về bằng phương tiện đường thủy. Do có lợi thế về vị trí nên giá mua và vận chuyển nhiên liệu than cũng được giảm bớt.
Nguồn nước: nhu cầu cung cấp nước của nhà máy không lớn, chủ yếu là cung cấp cho công đoạn ngâm ủ đất, chế biến tạo hình và nước phục vụ cho sinh hoạt. Nguồn nước cho sản xuất lấy từ ao của nhà máy, còn nước sinh hoạt được lấy từ hệ thống giếng khoan có qua xử lý.
Ngoài ra còn có xăng, dầu mỡ, điện phục vụ sản xuất…
Nhu cầu cụ thể của các loại vật tư trong 1 năm (cho công suất 60 triệu viên) như sau:
Nguyên liệu (đất): 72.288 m3/năm
Nhiên liệu (than) : 8.344 tấn/năm
Điện năng: 2.634.908 Kwh/năm
Quy trình công nghệ sản xuất gạch
(Sơ đồ quy trình được trình bày ở trang tiếp theo)
Máy nhào 2 trục có lưới lọc
Máy cán thô
Cấp liệu thùng
Máy ủi
Kho nguyên liệu
Máy cán mịn
Xếp xe vận chuyển
Sấy tuynel
Nung tuynel
Sân phơi
Máy nhào đùn liên hợp
Máy tạo hình
Máy cắt gạch tự động
Máy nghiền than
Than nghiền
Nước bổ sung
Máy pha than
Phân loại sản phẩm
Xếp kho thành phẩm
Than nghiền mịn
Kho than
SƠ ĐỒ 1. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GẠCH
Từ sơ đồ quy trình trên, có thể chia quy trình sản xuất gạch thành các bước như sau:
Xử lý đất
Tạo hình
Phơi gạch mộc
Sấy gạch
Ra lò
Nung gạch
Gạch thành phẩm
Sơ đồ 2. Các bước chính trong quy trình sản xuất gạch nung Tuynel
Mô tả sơ bộ quá trình công nghệ:
Khai thác và dự trữ nguyên liệu
Đất sét được khai thác, tập kết trong kho. Tại đây đất sẽ được ngâm ủ, phong hóa ít nhất 3 tháng. Các hạt sét khi được ngâm nước sẽ tăng tính dẻo, nồng độ ẩm. chất lượng đất được tăng lên do các tạp chất có thời gian phân hủy.
Gia công nguyên liệu và tạo hình sản phẩm
Nguyên liệu sau khi đã phong hóa được ủi về kho có mái che, rồi đưa vào cấp liệu thùng, qua hệ thống cắt thái, đất được thái nhỏ và làm tơi. Sau đó, đất rơi xuống băng tải và đưa vào máy cán thô. Tại đây, đất và than được ép, phá vỡ cấu trúc ban đầu, rồi được đưa vào máy nhào trộn, đồng thời nước được cấp vào máy nhào lọc để điều chỉnh độ ẩm cho phù hợp.
Than cám nghiền mịn được rải tự động đều khắp phễu cấp liệu của máy nhào lọc để trộn vào đất tạo ra một phối liệu. Sau đó phối liệu được chuyển sang máy cán mịn bằng một băng tải cao su. Tại đây, phối liệu được phá vỡ cấu trúc một lần nữa và được đưa sang máy nhào đùn liên hợp có hút chân không bằng một hệ thống băng tải khác. Sau khi qua hệ thống nhào trộn của máy, phối liệu được đưa vào buồng hút chân không, không khí được hút ra khỏi phối liệu, do đó sẽ làm tăng độ rắn chắc cho gạch mộc, giúp cho gạch trong quá trình vận chuyển không bị biến dạng.
Sau khi hút chân không, nhờ khuôn tạo hình và máy cắt, các phối liệu sẽ được tạo hình theo các kích thước và hình dáng nhất định. Các viên gạch mộc sau khi tạo hình sẽ được các công nhân xếp lên xe chuyên dùng vận chuyển để đem đi phơi trong nhà kính.
Phơi sản phẩm mộc
Sau khi tạo hình, gạch mộc sẽ có độ ẩm từ 20-22% (đối với hệ máy của Việt Nam). Gạch mộc sẽ được phơi từ 8-12 ngày tùy theo nhiệt độ cũng như tốc độ gió, để giảm độ ẩm xuống còn từ 14-18%. Việc xếp cáng và phơi gạch trên sân phải tuân thủ theo đúng quy trình để giảm tối thiểu thời gian phơi cũng như phế phẩm ở khâu này.
Sau đó, sản phẩm mộc sẽ được vận chuyển tập kết lên xe goòng để chuẩn bị đưa vào sấy nung Tuynel.
Sấy nung sản phẩm trong lò tuynel
Sản phẩm mộc sau khi được xếp lên xe goòng được đưa vào hầm sấy nhờ kích thủy lực ở đầu hầm. Tác nhân sấy là khí nóng được thu hồi từ vùng làm nguội của lò nung.
Gạch mộc sau khi qua ló sấy sẽ có độ ẩm giảm còn 0-5%, được xe phà, kích đẩy thủy lực đưa vào lò nung. Than cám nghiền mịn được dùng làm nhiên liệu cấp vào qua các lỗ đổ than từ nóc lò theo đúng yêu cầu công nghệ, để đảm bảo nung chín sản phẩm.
Ra lò, phân loại sản phẩm
Sản phẩm sau khi qua khỏi vùng nung sẽ được làm nguội ở cuối lò nhờ vào hệ thống thu hồi khí nóng.
Sau khi ra khỏi lò, sản phẩm được công nhân bốc dỡ, phân loại theo tiêu chuẩn kỹ thuật và được tập kết về bãi thành phẩm nhờ các xe vận chuyển 2 bánh.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị
Giới thiệu về bộ máy tổ chức quản lý chung
Công ty CP Vật liệu xây dựng Tân Sơn được tổ chức theo mô hình của một công ty cổ phần điển hình, trong đó các cổ đông sáng lập đồng thời là các cổ đông phổ thông sẽ nằm trong hội đồng quản trị, và chủ tịch hội đồng quản trị kiêm chức danh giám đốc sẽ lãnh đạo, điều hành mọi hoạt động của công ty.
Giúp việc và chịu trách nhiệm trước Giám đốc là Phó Giám đốc sản xuất-kinh doanh, trưởng phòng Hành chính, trưởng phòng Kế toán.
Phó giám đốc SX-KD và các quản đốc phân xưởng sẽ cùng chịu trách nhiệm điều hành và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến quy trình sản xuất. Trong mỗi phân xưởng sản xuất có các cán bộ kỹ thuật trực tiếp theo dõi ở từng ca sản xuất và các tổ trưởng sản xuất sẽ chịu trách nhiệm điều phối, phân công nhiệm vụ đến từng công nhân, bám sát từng công đoạn sản xuất.
Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty
Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến-chức năng.
Theo cơ cấu này, lãnh đạo sẽ được sự giúp sức của các phòng ban, của những người phụ trách cấp dưới trong việc suy nghĩ, nghiên cứu, bàn bạc tìm ra các giải pháp tối ưu cho các vấn đề trong quá trình điều hành hoạt động công ty. Mối quan hệ giữa các nhân viên trong công ty được thực hiện theo đường thẳng: người thừa hành sẽ chỉ nhận và thi hành mệnh lệnh của người phụ trách cấp trên trực tiếp. Người cấp trên sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc của cấp dưới quyền mình. Điều đó sẽ giúp tăng cường trách nhiệm cá nhân, tránh chồng chéo mệnh lệnh. Những quyết định quản lý do các phòng chức năng nghiên cứu, đề xuất khi được giám đốc và phó giám đốc thông qua, sẽ biến thành mệnh lệnh và được truyền đạt từ trên xuống đến cấp dưới theo đúng tuyến đã định. Như vậy, các phòng chức năng chỉ có nhiệm vụ tham muu cho lãnh đạo chứ không có quyền ra mệnh lệnh và quyết định. Kiểu cơ cấu này vừa phát huy năng lực chuyên môn của bộ phận chức năng, vừa đảm bảo quyền chỉ huy trực tuyến.
Hội đồng quản trị
Trưởng Phòng Kinh doanh
Quản đốc Phân xưởng SX- xếp đốt
Quản đốc Phân Xưởng Tạo Hình
Trưởng Phòng Hành Chính -Nhân Sự
PGĐ Sản Xuất-Kinh Doanh
Chủ Tịch HĐQT Giám Đốc
Quản đốc cơ điện
Tổ chế biến 1
Tổ ra lò
Tổ đốt
Tổ chế biến 2
Tổ xếp goòng
Tổ cơ
Tổ điện
Tổ máy ủi
Bộ phậnBán hàng
Bộ phận Kho ngoại
Trưởng Phòng Tài Chính- Kế Toán
Sơ đồ 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty
Chức năng, nhiệm vụ của các cấp và các bộ phận
Hội đồng quản trị: gồm 5 thành viên là các cổ đông sáng lập ra công ty. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty.
Chủ tịch hội đồng quản trị-Giám đốc: là người nắm giữ nhiều nhất số cổ phần trong hội đồng quản trị (31%), là người đại diện theo pháp luật của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị cũng như trước Pháp luật. Giám đốc là người điều hành mọi hoạt động kinh doanh của công ty thông qua phó giám đốc và các bộ phận phòng ban.
Phó giám đốc Sản xuất-Kinh doanh: là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước Giám đốc về hoạt động sản xuất-kinh doanh của công ty. Các quản đốc phân xưởng và trưởng phòng Marketing sẽ là những người giúp PGĐ thực hiện tốt công việc của mình, trực tiếp chịu sự quản lý của PGĐ.
Phòng hành chính-nhân sự: có nhiệm vụ giúp việc cho Giám đốc về các công việc hành chính, tham mưu, giải quyết các chế độ chính sách, xây dựng nội quy, quy chế của công ty. Đồng thời chịu trách nhiệm về hoạt động quản lý nhân sự của công ty như tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng…
Phòng tài chính-kế toán: cũng là bộ phận chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc, phòng tài chính-kế toán sẽ giúp đề xuất, xây dựng, thực hiện các kế hoạch tài chính; quản lý và giám sát tình hình tài chính; theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của công ty qua các thời kỳ thông qua các báo cáo tài chính, …
Phòng kinh doanh: chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của công ty trước PGĐ sản xuất-kinh doanh. Phòng kinh doanh có các nhiệm vụ như lập và thục hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, xây dựng các chương trình marketing, tìm kiếm và thực hiện các đơn đặt hàng, …
Phân xưởng tạo hình: bao gồm 3 tổ đội nhỏ hơn thực hiện các công việc khác nhau. Đó là:
Tổ chế biến 1: nhiệm vụ của tổ này là sản xuất ra gạch mộc (bán thành phẩm), chịu trách nhiệm từ khâu bắt đầu đưa đất vào máy cấp liệu cho đến khi gạch mộc được xếp theo quy định trong nhà cáng kính.
Tổ chế biến 2: tổ này có nhiệm vụ nghiền than, vận chuyển than và gạch mộc từ khâu tạo hình rồi vận chuyển lên lò phục vụ cho công việc nung sản phẩm.
Phân xưởng SX-xếp đốt: gồm 3 tổ đội nhỏ là tổ đốt, tổ xếp goòng và tổ ra lò.
Tổ đốt: phụ trách từ khâu gạch mộc ở trên goòng, vào hầm sấy, vào lò Tuynel đến khi gạch ra lò thành phẩm.
Tổ xếp goòng: vận chuyển gạch mộc khô từ trong nhà cáng kính xếp lên goòng.
Tổ ra lò: nhiệm vụ của tổ này là chuyển gạch thành phẩm từ trên goòng đến xếp trong khu vực kho thành phẩm, vệ sinh toàn bộ những goòng ra lò và toàn bộ khu vực kho.
Phân xưởng cơ điện: gồm tổ điện, tổ cơ và tổ máy ủi.
Tổ điện: có nhiệm vụ duy nhất là đảm bảo cung cấp đầy đủ điện để toàn bộ quá trình sản xuất được diễn ra bình thường.
Tổ cơ: bảo dưỡng, sửa chữa toàn bộ các thiết bị thuộc phân xưởng tạo hình.
Tổ máy ủi: nhiệm vụ tổ này là khai thác và vận chuyển đất từ vùng nguyên liệu đến công ty.
Như vậy, có thể thấy, với một công ty quy mô còn nhỏ thì bộ máy lãnh đạo và quản lý như vậy là khá gọn nhẹ. Cơ cấu này đảm bảo chế độ một thủ trưởng. Các bộ phận, phòng ban có quyền hạn và trách nhiệm được phân chia rõ ràng, không có sự chồng chéo trong quản lý.
Cơ cấu lao động
Bảng2: cơ cấu lao động của công ty theo trình độ học vấn.
(đơn vị tính: người)
Trình độ học vấn
2008
2009
2010
Số lượng
Tỷ trọng
Số lượng
Tỷ trọng
Số lượng
Tỷ trọng
Chưa tốt nghiệp THPT
110
53.9%
140
55.4%
155
55.2%
Tốt nghiệp THPT
67
32.9%
96
40%
99
35.2%
Trình độ Cao đẳng, trung cấp
20
9.8%
20
7.9%
20
7.1%
Trình độ Đại học
7
3.4%
7
2.77%
7
2.5%
Trình độ trên Đại học
0
0%
0
0%
0
0%
Tổng số
204
100%
253
100%
281
100%
(Nguồn: phòng tổ chức hành chính-Công ty CP vật liệu xây dựng Tân Sơn)
Từ bảng số liệu trên, điều đầu tiên nhận thấy là tổng số lao động tăng dần qua các năm. Năm 2008 là 204 người, thì năm 2009 là 253 người, tăng lên 24%, và năm 2010 là 281 người, tăng 37% so với năm 2008. Có sự tăng lên như vậy chủ yếu là do sự tăng lên ở những lao động trình độ thấp. Đây là những lao động làm việc trực tiếp tại phân xưởng, là các công nhân vận hành máy và vận chuyển, bốc dỡ gạch. Sự tăng lên này là do đến cuối năm 2008, công ty đưa vào vận hành dây chuyền sản xuất thứ hai, đòi hỏi phải tuyển thêm công nhân. Còn các lao động trình độ cao hơn, có bằng cấp lại không thay đổi mấy, do đây cũng là những cán bộ quản lý, làm việc văn phòng.
Bên cạnh đó, nhìn vào tỷ trọng, ta cũng thấy lao động làm việc trong công ty đa số là có trình độ tương đối thấp, tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp THPT lên tới hơn 50% tổng số lao động (năm 2008 là 53,9%, năm 2009 là 55,4%, đầu năm 2010 là 55,2%). Do là doanh nghiệp sản xuất, nên không đòi hỏi lao động phải có trình độ cao, mà lao động quanh khu vực cũng đa số có trình độ như vậy, nên việc lao động chưa tốt nghiệp THPT chiếm tỉ trọng lớn cũng là điều bình thường. Công ty không có lao động nào có trình độ trên Đại học, số lao động có trình độ cao đẳng, đại học tương đối thấp (số lao động này ở cả 3 năm đều ổn định ở số lượng 27 người, chỉ ở mức trên dưới 10% trong tổng số lao động). Do đó, công ty nên có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ người lao động trong công ty, để công ty có thêm nhiều người giỏi, giúp công ty có thể phát triển tốt hơn nữa.
Đặc điểm cơ cấu vốn, tài sản
Bảng 3: Cơ cấu vốn và tài sản của công ty trong 3 năm 2007- 2009
(Đơn vị tính: 1000 đồng)
Năm
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Tài sản ngắn hạn
4.249.372
12.309.890
15.318.509
Tài sản dài hạn
16.419.496
23.979.515
26.697.429
Tổng tài sản
20.668.868
36.289.405
42.015.938
Vốn nợ
16.643.930
26.067.743
19.021.162
Vốn chủ sở hữu
4.024.938
10.221.663
22.994.776
Tổng nguồn vốn
20.668.868
36.289.405
42.015.938
(Nguồn: Tổng hợp từ bản cân đối kế toán năm 2007- 2009 của công ty CP VLXD Tân Sơn).
Từ bảng số liệu trên, ta thấy cả tài sản và nguồn vốn của công ty đều tăng lên qua các năm. Năm 2007, tổng tài sản (cũng như tổng nguồn vốn) là 20,668 tỷ đồng, thì đến năm 2008, đã tăng lên là 36,289 tỷ đồng, tăng 75%, và đến năm 2009, con số này là 42 tỷ, tăng thêm 15% so với năm 2008 và là tăng 103% so với năm 2007. Sự tăng lên đó là do công ty đã mở rộng sản xuất, đầu tư thêm dây chuyền công nghệ, đồng thời cũng cho thấy khả năng huy động thêm vốn của công ty.
Xét riêng với nguồn vốn, số nợ năm 2008 có tăng lên so với năm 2007 (tăng 9,423 tỷ), nhưng đến năm 2009, phần vốn nợ lại giảm đi so với năm 2008 (giảm 7,046 tỷ). Trong khi đó, phần vốn chủ sở hữu lại tăng lên dần qua các năm.
Nếu tính tỷ trọng vốn nợ và vốn chủ sở hữu qua các năm, ta có bảng số liệu sau:
Bảng 4: Tỷ trọng các thành phần trong tổng nguồn vốn các năm 2007-2009
Năm
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Vốn nợ
80,5%
71,8%
45,3%
Vốn CSH
19,5%
28,2%
54,7%
Tổng
100%
100%
100%
Vốn nợ/Vốn CSH
4,14
2,55
0,83
(Tính toán dựa trên số liệu từ bảng 3)
Rõ ràng, tỷ lệ vốn nợ trong tổng nguồn vốn có xu hướng đang giảm dần. Từ tỷ lệ lên tới 80,5% vào năm 2007, thì đến năm 2008, vốn đi vay đã giảm còn 71,8%, và đến năm 2009 chỉ còn 45,3%. Tương ứng với sự giảm đi đó là sự tăng lên của vốn chủ sở hữu. Nếu năm 2007, công ty còn chưa đi vào hoạt động, phần vốn chủ chỉ chiếm 19,5%, thì đến năm 2009, đã lên đến 54,7%. Nhìn vào tỷ lệ giữa vốn nợ và vốn chủ sở hữu ta cũng thấy ngay sự thay đổi đó. Nếu trong năm 2007, vốn nợ cao gấp 4 lần vốn chủ, thì đến năm 2009, tỷ lệ này chỉ còn là 0,83 lần. Như vậy, có thể thấy cơ cấu vốn của công ty đang trở nên vững chắc hơn, các tài sản được tài trợ bằng vốn của chính các chủ sở hữu đang dần tăng lên.
Phần II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG
CỦA CÔNG TY
Công tác quản trị nhân sự
Có thể nói, quản trị nhân sự là một trong những nội dung mà tất cả các doanh nghiệp đều phải quan tâm. Có được một đội ngũ nhân sự tốt luôn là điều mà các doanh nghiệp hướng đến. Nhưng để có được điều này hoàn toàn không hề đơn giản. Nó đòi hỏi các nhà quản trị cấp cao phải có một chiến lược dài hạn, cụ thể và phù hợp về tất cả các vấn đề liên quan đến quản trị nhân sự, từ tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, thưởng phạt… cho đến các vấn đề như bảo hiểm, phúc lợi, sự quan tâm, thăm hỏi... Qua một thời gian thực tập tại công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn, em có một số nhận xét về thực trạng hoạt động quản trị nhân sự tại đây như sau:
Về hoạt động tuyển dụng:
Do yêu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh, trong 3 năm đầu hoạt động, công ty luôn tiến hành tuyển thêm lao động. Đó chủ yếu là các công nhân làm việc tại xưởng sản xuất, công nhân bốc xếp, khuân vác… còn bộ phận lao động gián tiếp thì hiện tại vẫn đáp ứng được tốt các yêu cầu về quản lý, văn phòng, nên chưa cần tuyển thêm. Nhưng việc tuyển dụng của công ty vẫn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do lao động tại đây trình độ còn tương đối thấp, đa số vẫn chưa tốt nghiệp THPT. Các lao động trẻ trên địa bàn tỉnh, huyện tương đối ít do đa số hoặc đang độ tuổi đi học, hoặc đã rời địa phương để lên các thành phố lớn lập nghiệp.
Hơn nữa, cơ cấu lao động theo giới tính của công ty hiện tại còn chưa phù hợp, thể hiện qua bảng tổng hợp sau:
Bảng 5: cơ cấu lao động theo giới tính của công ty cổ phần VLXD Tân Sơn.
Năm
Giới tính
2008
2009
2010
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
Nữ
130
63,7
162
64
179
63,7
Nam
74
36,3
91
36
102
36,3
Tổng số
204
100
253
100
281
100
(Nguồn: Phòng Hành chính-Nhân sự – Công ty cổ phần VLXD Tân Sơn)
Số lao động là nữ trong công ty chiếm tỷ lệ tương đối cao (từ 63-64%), ở cả 3 năm, số lao động này cao gấp khoảng 1,75 lần số lao động nam. Trong khi các công việc ở phân xưởng lại đa số là các công việc khá nặng (bốc xếp, vận chuyển gạch…). Những công việc như vậy nếu dùng lao động là nam thì sẽ hợp lý hơn. Vì vậy, công ty nên có sự thay đổi trong cách thức tuyển dụng, thu hút người lao động để có một cơ cấu khác về giới tính thích hợp hơn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên
Sau khi ký hợp đồng mua thiết bị công nghệ, và sau khi đã tiến hành tuyển dụng, công ty đã tiến hành đào tạo tập trung tại nhà máy, mời các chuyên gia xuống hướng dẫn cán bộ, công nhân thao tác vận hành máy tại các công đoạn của quá trình sản xuất. Đồng thời, công ty cũng cử các công nhân, cán bộ đi tham quan, học tập quy trình công nghệ, kinh nghiệm sản xuất tại các nhà máy Tuynel tương tự. Đến nay, trình độ công nhân đứng máy đã rất vững. Công ty trong quá trình hoạt động cũng có các chính sách đào tạo rất cụ thể. Đó là tổ chức dạy nghề cho công nhân mới vào, từ cách vận hành máy móc, thiết bị, đến việc vận chuyển, bốc dỡ gạch sao cho không làm ảnh hưởng đến chất lượng của gạch thành phẩm, từ đó làm giảm tối đa lượng phế phẩm không cho phép. Đối với các nhân viên thuộc bộ phận lao động gián tiếp, công ty luôn ủng hộ các nhân viên của mình tự giác nâng cao trình độ, kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên được đi học, đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm từ các đơn vị khác.
Chế độ lương, thưởng, phúc lợi
Công ty luôn đánh giá một cách công bằng và khách quan về kết quả thực hiện công việc của người lao động. Với bộ phận công nhân sản xuất, lương được tính theo hình thức khoán theo sản phẩm do sản lượng của công ty sản xuất tương đối ổn định và chủ yếu sản xuất theo các đơn hàng. Mức lương trung bình của một công nhân hiện nay là khoảng 2.400.000 đồng/tháng. Các bộ phận khác, lương tính theo ngày công, bộ phận quản lý còn có thêm lương trách nhiệm. Bên cạnh các khoản lương đó, công ty còn có các khoản thưởng doanh thu, thưởng do tiết kiệm… để động viên, khuyến khích người lao động.
Công ty cũng thường xuyên quan tâm, chăm lo đến đời sống của cán bộ công nhân viên. Tất cả các nhân viên, công nhân đều có BHYT, BHXH. Công ty luôn tạo điều kiện cho các công nhân viên được về quê (với những công nhân ở xa), thăm hỏi mỗi dịp lễ tết. Để giúp cho các công nhân ở xa có điều kiện làm việc tốt nhất, đầu năm 2008, khi tiến hành đầu tư thêm dây chuyền thứ hai, công ty cũng tiến hành xây dựng thêm khu nhà ở cho công nhân với hệ thống điện nước sinh hoạt đầy đủ. Đây là giải pháp mà ban lãnh đạo đưa ra để khắc phục tình trạng thiếu lao động địa phương, phải tuyển dụng lao động từ các tỉnh khác. Việc đó đã đem đến một niềm vui với các công nhân khi họ có thể làm việc một cách thuận lợi hơn, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm của công ty tới tập thể người lao động.
Công tác Marketing, tiêu thụ sản phẩm
Marketing, tiêu thụ sản phẩm là một công việc rất quan trọng trong hoạt động sản xuất và kinh doanh của một doanh nghiệp. Cho dù một doanh nghiệp có sản xuất sản phẩm tốt đến đâu mà không có một chương trình marketing, tiêu thụ hợp lý và không bán được sản phẩm, thì doanh nghiệp sẽ không có tiền để có thể tái sản xuất, đầu tư, thậm chí nếu không tiêu thụ được trong thời gian quá dài, công ty không có lãi, thì hoàn toàn có thể dẫn đến phá sản. Để làm tốt khâu tiêu thụ này, doanh nghiệp phải làm rất nhiều việc. Từ nghiên cứu nhu cầu thị trường, khách hàng, hoạch định một chiến lược tiêu thụ rõ ràng, có kế hoạch sản xuất phù hợp, đảm bảo sản xuất đúng tiến độ v.v…
Tại công ty cổ phần VLXD Tân Sơn, công tác tiêu thụ sản phẩm cũng được thực hiện tương đối tốt. Cụ thể như sau:
Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Trong 2 năm 2008, 2009 và 6 tháng đầu năm 2010, công ty đã có tình hình tiêu thụ sản phẩm tương đối tốt. Cụ thể như sau:
Bảng 6: tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2008
Năm 2009
6 tháng đầu 2010
Sản lượng sản xuất
Viên
30.270.000
66.880.000
34.200.000
Sản lượng tiêu thụ
Viên
29.800.000
66.152.000
33.770.000
SL tiêu thụ/SL sản xuất
%
98,4%
98,9
98,7
Doanh thu
1000 đồng
23.310.153
50.010.912
27.691.400
Lợi nhuận sau thuế
1000 đồng
8.692.168
17.342.409
11.351.310
(Tổng hợp số liệu từ các bảng báo cáo kết quả kinh doanh và các số liệu lấy từ phòng kinh doanh)
Có thể thấy, sản lượng mà công ty sản xuất ra tăng dần qua các năm. Ở năm đầu tiên, do chưa khai thác hết công suất của cả hai dây chuyền, cũng như chưa tìm kiếm được nhiều hợp đồng, nên sản lượng sản xuất ra còn hạn chế. Đến năm 2009, sản lượng sản xuất đã tăng gấp đôi, công ty đã hoạt động hết công suất (công suất theo thiết kế là 60 triệu viên/năm) . Điều này đã nói lên sự phát triển của công ty, mặc dù mới đi vào hoạt động nhưng đã khai thác được hết công suất của dây chuyền máy móc.
Ta có thể thấy sự thay đổi các chỉ tiêu trên ở năm 2009 so với năm 2008 như sau:
Bảng 7: Tỷ lệ của một số chỉ tiêu năm 2009 so với năm 2008
(Đơn vị: %)
Chỉ tiêu
2009/2008
Sản lượng sản xuất
220,9
Sản lượng tiêu thụ
222
Doanh thu
214,5
Lợi nhuận sau thuế
199,5
(Tính toán dựa vào các số liệu của bảng 5)
Tất cả các chỉ tiêu từ sản lượng, doanh thu, cho đến lợi nhuận của năm 2009 đều gấp 2 lần năm 2008 (trên 200%).
Và đến năm 2010, công ty vẫn duy trì được mức hiệu suất hoạt động như năm 2009, bởi mới chỉ tính 6 tháng đầu năm 2010, sản lượng sản xuất đã bằng một nửa năm 2009. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra khó khăn đối với công ty, đó là nếu công ty muốn tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thì công ty sẽ lại phải đầu tư thêm máy móc thiết bị, nhà xưởng bởi hiện tại đã hoạt động hết công suất.
Bên cạnh việc sản lượng sản xuất tăng lên, sản lượng tiêu thụ cũng tăng lên không ngừng. Gần như công ty tiêu thụ được hết sản phẩm sản xuất ra (cả 3 năm đều tiêu thụ được đến 98% sản lượng sản xuất). Đó vừa là sự cố gắng của phòng kinh doanh, vừa là do nhu cầu xây dựng của xã hội luôn có xu hướng tăng lên, làm cho thị trường vật liệu xây dựng cũng trở nên sôi động, nhiều khi không đủ hàng để cung cấp.
Sản lượng tiêu thụ tăng, dẫn đến doanh thu tăng lên cũng là một điều đương nhiên. Doanh thu năm 2009 tăng hơn gấp đôi năm 2008 (2,14 lần). Qua 6 tháng đầu năm 2010, doanh thu đã bằng 54% tổng doanh thu năm 2009. Điều này cho thấy công ty đã bắt đầu đi vào hoạt động tương đối ổn định. Tuy nhiên, doanh thu tăng cũng có một phần do giá cả tăng. Giá gạch 2 lỗ trong 3 năm vừa qua dao động rất nhiều. Cuối năm 2008, đầu năm 2009, có lúc giá gạch lên tới 1.200 đ/viên, điều này làm cho doanh thu cũng như lợi nhuận của công ty được tăng lên. Nhưng trung bình giá gạch vẫn khoảng 780 đ/viên. Đến giữa và cuối năm 2009, giá gạch lại tương đối ổn định. Hiện nay, giá gạch vào khoảng 820 đ/viên.
Trong thời gian 3 năm hoạt động, công ty đã có hợp đồng cung cấp gạch cho các công trình lớn như:
Tại Bắc Ninh: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Ninh; Trường cao đẳng Bắc Hà
Tại Hà Nội: Công ty cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội: Công trình Vân Canh, công trình Trung Văn; Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng HUD1: Khu đô thị Việt Hưng, Khu đô thị Mỹ Đình, Công trình An Dương Vương, công trình 18LTK; Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng HUD3: Khu công nghiệp Việt Hưng, công trình Vân Canh; Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng HUD4: Công trình Vân Canh; Công ty cổ phần đầu tư xây dựng hạ tầng & giao thông (Intracom): Công trình Trung Văn.
Công tác marketing, kế hoạch tiêu thụ
Công tác Marketing và tiêu thụ sản phẩm cũng được công ty quan tâm. Hiện tại, công ty đang có đội ngũ nhân viên bán hàng, tiêu thụ sản phẩm khoảng 15 người. Nhiệm vụ của đội ngũ này là tiếp xúc trực tiếp với các khách hàng, giới thiệu, quảng cáo về sản phẩm tới các khách hàng, các đại lý lớn tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, giúp tìm kiếm các hợp đồng cho công ty.
Công ty có 3 đại lý giới thiệu sản phẩm tại Bắc Ninh và Hà Nội.
1 đại lý ở 245 Từ Sơn-Bắc Ninh
1 đại lý ở 260 Thụy Khuê-Tây Hồ-Hà Nội
Và 1 đại lý ở 495 Lạc Long Quân-Tây Hồ-Hà Nội
Để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình, công ty có xây dựng cho mình chương trình tiêu thụ và bán hàng như sau:
Quảng cáo trên chương trình truyền hình và đài phát thanh tỉnh, huyện. Sử dụng tờ rơi nhằm tiếp cận, giới thiệu, về chất lượng, tính ưu việt, công dụng, mục đích sử dụng của sản phẩm đến với người tiêu dùng.
Có các hình thức khuyến mại đa dạng và phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng như các hình thức chiết khấu, thưởng tiêu thụ, giảm giá…
Có các buổi tiếp xúc với khách hàng, thăm dò nhu cầu thị trường về các chủng loại sản phẩm.
Tham gia vào hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất trên cùng địa bàn hoạt động kinh doanh để có các phương án thống nhất và điều tiết về giá cả các sản phẩm tiêu thụ.
Tham gia vào các hoạt động cộng đồng để góp phần quảng bá hình ảnh như xây nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào bão lụt, tham gia vào các tổ chức khuyến học, tài trợ cho các chương trình, sự kiện của tỉnh Bắc Ninh cũng như các tỉnh lân cận.
Hiện tại, do lượng cung trên thị trường đang nhỏ hơn so với cầu, nên việc tiêu thụ của công ty diễn ra tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, công ty vẫn nên chủ động xây dựng cho mình những chiến lược về tiêu thụ hiệu quả hơn nữa, cụ thể hơn nữa để có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình, giành được nhiều sự quan tâm của khách hàng hơn.
Hoạt động tài chính-kế toán
Tài chính và kế toán luôn là một trong những lĩnh vực giành được nhiều sự quan tâm của các nhà quản trị nhất. Bởi thông qua những hoạt động thống kê, lập các báo cáo tài chính, cũng như dựa vào đó để thực hiện các phân tích về tài chính, thì nhà quản trị sẽ biết được công ty mình hoạt động có hiệu quả hay không, còn gặp khó khăn ở khâu nào, tại sao lại như vậy và từ đó có những giải pháp điều chỉnh các hoạt động của công ty sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
Để đánh giá được về các hoạt động của công ty, ta có thể xem xét bảng sau:
Bảng 8
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2009/2008
Lượng (nghìn đồng)
Tỷ trọng (%)
Lượng (nghìn đồng)
Tỷ trọng (%)
Lượng (nghìn đồng)
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn (1=2+3+4+5)
12.309.891
33,9
15.318.509
36.5
3.008.618
Tiền và các khoản tương đương tiền (2)
410.147
3,3
409.774
2,7
-373
Khoản phải thu (3)
2.990.699
24,3
3.942.421
25,7
951.722
Hàng tồn kho (4)
8.522.031
69,2
10.559.822
68,9
2.037.791
TSLĐ khác (5)
387.014
3,2
406.492
2,7
19.678
TSCĐ và đầu tư dài hạn (6)
23.979.515
66,1
26.697.429
63,5
2.717.914
TỔNG TÀI SẢN (7=1+6)
36.289.406
100
42.015.938
100
5.726.532
Nợ phải trả (8=9+10)
26.067.743
71,8
19.021.162
45,3
-7.046.581
Nợ ngắn hạn (9)
9.067.743
34,8
8.621.162
45,3
-446.581
Nợ dài hạn (10)
17.000.000
65,2
10.400.000
54,7
-6.600.000
Vốn chủ sở hữu (11)
10.221.663
28,2
22.994.776
54,7
12.773.113
TỔNG NGUỒN VỐN (12=8+11)
36.289.406
100
42.015.938
100
5.726.532
(Tổng hợp và tính toán từ các bảng CĐKT-công ty CP VLXD Tân Sơn)
Về tài sản, tỷ trọng TSLĐ và tỷ trọng TSCĐ của công ty trong cả 2 năm đều tương đối ổn định ở mức trên 30% và trên 60%. Xét riêng về TSLĐ, thì phần tài sản này trong năm 2009 có tăng lên so với năm 2008 (tăng hơn 3 tỷ đồng). Sự tăng lên đó chủ yếu là do tăng khoản phải thu và hàng tồn kho, còn tiền và các khoản tương đương tiền lại giảm đi. Đây là một điều không tốt, nó cho thấy công ty đang tăng lượng hàng bán chịu, bị khách hàng chiếm dụng vốn, và tỷ lệ hàng tồn kho lớn như vậy (gần 70% giá trị TSLĐ) cũng đồng nghĩa với việc công ty có tình trạng bị ứ đọng vốn, việc dự trữ và tiêu thụ còn chưa tốt, chưa hợp lý.
Về phần nguồn vốn, tất cả các khoản nợ ngắn hạn, nợ dài hạn của công ty trong năm 2009 đều giảm đi so với năm 2008. Bên cạnh đó, tỷ lệ vốn nợ cũng giảm đi, chỉ còn ở mức trên dưới 50%. Tỷ lệ vốn chủ đã tăng lên đáng kể (từ 28,2% lên 54,7%) cho thấy một cơ cấu vốn vững chắc hơn, không còn bị lệ thuộc quá nhiều vào phần vốn đi vay bên ngoài nữa.
Ngoài những khoản mục trên, ta có thể xem xét thêm một số chỉ tiêu tài chính của công ty qua bảng sau:
Bảng 9: một số chỉ tiêu tài chính của công ty tính trong 2 năm 2008, 2009
Các chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2009
Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán ngắn hạn
1,36
1,78
Khả năng thanh toán nhanh
0.37
0.5
Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
Tổng nợ/tổng tài sản
0,72
0,45
Tổng nợ/vốn CSH
2,55
0,83
Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động
Vòng quay hàng tồn kho
2,7
4,7
Kỳ thu tiền bình quân
46
28
Doanh thu thuần/tổng tài sản
0,64
1,19
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
ROA
0,24
0,41
ROE
0,85
0,75
Hệ số sinh lợi doanh thu
0.37
0.35
(Tính toán từ các số liệu lấy từ các bản cáo tài chính của công ty do phòng kế toán cung cấp)
Với nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty trong 2 năm 2008, 2009 chỉ ở mức 1,36 và 1,78. Thông thường nếu tỷ lệ này ở mức >=2 thì sẽ được coi là tốt vì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đó có lượng tài sản lưu động lớn gấp 2 lần nợ ngắn hạn. Nhưng với con số 1,36 và 1,78 của công ty thì cũng không có gì đáng lo ngại vì nó vẫn nói lên rằng công ty không có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Còn với chỉ số về khả năng thanh toán nhanh, thì tỷ lệ này ở cả 2 năm đều không cao, đều <=0,5. Điều này cho thấy khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty bằng các tài sản có khả năng thanh khoản cao là chưa tốt. Nguyên nhân cũng là do đã có một tỷ lệ lớn của TSLĐ là hàng tồn kho chứ không phải tiền và các khoản phải thu.
Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động, vòng quay hàng tồn kho trong năm 2008 là 2,7 lần và năm 2009 đã tăng lên 4,7 lần. Đây cũng là một sự cố gắng của công ty trong việc đẩy nhanh vòng quay của vốn, đẩy nhanh quá trình tiêu thụ. Kỳ thu tiền cũng được rút ngắn đã cho thấy sự tích cực trong công tác thu hồi lượng vốn đang bị chiếm dụng bởi khách hàng của công ty.
Nhìn chung, các chỉ số của công ty cũng ở mức trung bình, chưa phải là tốt lắm. Tuy nhiên công ty đang có những nỗ lực để cải thiện các chỉ số này, điều đó cũng đồng nghĩa với việc công ty đang cố gắng nâng cao hiệu quả trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong việc huy động và sử dụng đồng vốn của mình.
Phần III
HƯỚNG ĐI CỦA CÔNG TY TRONG TƯƠNG LAI
Về hoạt động quản trị nhân sự
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy hoạt động quản trị nhân sự của công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc tuyển dụng và giữ chân người lao động. Đây là một việc không hề dễ dàng, nhất là trong tình hình như hiện nay khi mà các lao động thường có xu hướng tìm việc tại các thành phố lớn, chứ không muốn làm việc tại chính địa phương của mình. Mặc dù công ty đã có những chính sách cụ thể để thu hút người lao động từ các địa phương khác, nhưng số lượng lao động thu hút được vẫn chưa nhiều, đặc biệt là với những lao động trình độ cao, chuyên môn giỏi. Do đó, công ty nên có thêm những biện pháp khác, ưu đãi nhiều hơn nữa để có thể tuyển dụng được thêm nhiều lao động, đáp ứng nhu cầu sản xuất của công ty.
Bên cạnh đó, các chính sách nhằm giữ chân người lao động cũng quan trọng không kém. Bởi việc tuyển dụng, đào tạo đã là khó khăn, tốn kém, thì khi họ ra đi, mất mát dành cho doanh nghiệp cũng là không hề nhỏ, thậm chí còn là rất lớn. do đó, công ty cũng nên có thêm các chính sách như tăng cường chế độ lương, thưởng, đãi ngộ người lao động, tạo điều kiện cho họ có cơ hội thăng tiến… Đồng thời, công ty cũng nên thay đổi hình thức tính lương cho công nhân, bởi hình thức khoán theo sản phẩm sẽ làm người lao động không muốn phấn đấu, không nỗ lực làm việc để tăng năng suất. Thay vào đó, công ty nên thực hiện chế độ lương lũy tiến theo sản phẩm, để các công nhân có động lực làm việc cao hơn, từ đó họ tự giác nâng cao năng suất, hiệu quả làm việc. Điều này nếu được thực hiện tốt cũng sẽ góp phần vào làm giảm chi phí cho công ty, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận, thậm chí là tăng cả khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Về sản xuất, tiêu thụ
Hiện nay, thị trường gạch 2 lỗ đang trong quá trình tăng trưởng và phát triển, cầu ngày càng tăng do xây dựng hiện nay vẫn đang là lĩnh vực tăng trưởng rất mạnh. Theo dự báo của Bộ Xây Dựng, nhu cầu gạch thời kỳ 2006 – 2010 của cả nước có thể đạt 20 tỷ viên (QTC)/ năm. Trong khi đó, công suất hiện nay mới chỉ khoảng 8 tỷ viên, tức là mới chỉ đạt 40% so với nhu cầu. Như vậy, tiềm năng phát triển của thị trường này là rất cao, cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất là rất nhiều. Việc công ty sản xuất gần như hết công suất và tiêu thụ được gần hết lượng sản xuất ra đã cho thấy rõ điều đó. Tuy nhiên, vấn đề mà công ty có thể sẽ gặp phải khi muốn mở rộng thị trường, là việc đã khai thác hết công suất hiện có. Nếu muốn đáp ứng thêm cho lượng cầu đang dư thừa trên thị trường, công ty có thể xem xét thêm các phương án khai thác nhân lực, tăng năng suất lao động, tham khảo các biện pháp khai thác công suất của các nhà máy có công nghệ tương tự bởi hiện nay, có rất nhiều nhà máy sản xuất gạch Tuynel đã khai thác được gấp đôi công suất dự kiến. Bên cạnh đó, công ty cần có một phương án đầu tư khác dài hạn hơn, hướng tới việc khai thác tiềm năng còn vô cùng lớn của thị trường. Song song với việc thực hiện các chương trình về sản xuất, công ty cũng nên xây dựng cho mình những chính sách tiêu thụ cụ thể hơn nữa, mở rộng thị trường, để không chỉ nhắm đến những thị trường vùng lân cận, mà còn vươn xa đến các thị trường tiềm năng khác nữa. Nếu có thể, công ty nên thực hiện đa dạng hóa sâu rộng hơn nữa để tận dụng được những lợi thế của việc vừa đa dạng hóa, vừa chuyên môn hóa.
Về chiến lược phát triển
Là một công ty mới đi vào hoạt động, còn gặp nhiều khó khăn ở nhiều mặt, nên hiện nay, lãnh đạo công ty vẫn chưa quan tâm đến việc xây dựng cho công ty mình một chiến lược phát triển cụ thể nào. Có thể nói chiến lược phát triển của một doanh nghiệp giống như chiếc la bàn giúp cho con tàu đi đúng hướng cần đến. Nếu không có chiến lược, doanh nghiệp đó sẽ không biết mình nên đi theo con đường nào, bằng cách nào để đến được với mục tiêu mà mình đã nhắm đến. Do vậy, ban lãnh đạo công ty cần nghiêm túc nhìn nhận vấn đề, tầm quan trọng của việc đề ra chiến lược trong hoạt động quản trị kinh doanh để từ đó tự xây dựng cho mình những chiến lược phù hợp nhất với công ty của mình. Đó có thể là một hay nhiều chiến lược, từ ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn, nhưng đó phải là một chiến lược có tính khả thi, cụ thể và gắn liền với mục tiêu phát triển trong tương lai của công ty. Công ty có thể tham khảo những chiến lược phát triển của các công ty khác, hoặc thuê các chuyên gia đến xây dựng chiến lược cho mình. Nếu không có chiến lược phát triển, công ty sẽ khó có thể mở rộng thị trường, khó có thể nâng cao khả năng cạnh tranh, và lại càng khó khăn hơn nữa để có thể trở thành một trong những công ty lớn mạnh, một “người khổng lồ” trong lĩnh vực này.
KẾT LUẬN
Qua một thời gian tìm hiểu những vấn đề thực tại của công ty Cổ phần Vật liệu xây dựng Tân Sơn, và qua những phân tích, đánh giá sơ bộ như ở trên, em nhận thấy công ty có những thành tựu của riêng mình, tuy nhỏ nhưng rất đáng khích lệ. Với thời gian ngắn ngủi chỉ 3 năm hoạt động, công ty cũng có những cố gắng để vượt qua khó khăn trong những bước đi ban đầu để từng bước dần dần tìm chỗ đứng cho mình trên thị trường vật liệu xây dựng đang rất sôi động hiện tại. Cũng vì mới thành lập, nên khó khăn và thiếu sót là điều đương nhiên mà mọi công ty sẽ gặp phải. Để có thể khắc phục những hạn chế đó, ban lãnh đạo cũng như toàn thể nhân viên công ty nói chung, đều phải cùng nhau nỗ lực hết mình để cùng tìm ra những hạn chế đang tồn tại, từ đó đưa ra những biện pháp thật cụ thể và khả thi, giải quyết được tất cả những yếu kém đã tìm ra.
Trong thời gian đầu thực tập tại công ty, em đã học hỏi và hiểu được nhiều hơn về thực tế của hoạt động quản trị kinh doanh. Thời gian này đã giúp em củng cố thêm những kiến thức đã học tại trường, qua sách vở, từ đó em có một cái nhìn chân thực hơn về những hoạt động đa dạng, phong phú của một doanh nghiệp. Song những vấn đề về quản trị kinh doanh là hết sức đa dạng, nên bản báo cáo của em sẽ vẫn có nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để bài viết của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin cám ơn Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Điệp đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để em hoàn thiện được bản báo cáo này. Em cũng xin cám ơn ban lãnh đạo Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn, các anh chị tại các phòng kế toán, phòng tổ chức hành chính của công ty đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập, tìm hiểu về công ty, từ đó hoàn thành được bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình quản trị doanh nghiệp
Giáo trình quản trị tài chính
Dự án đầu tư nhà máy gạch Tuynel công suất 30 triệu viên/năm-xã Tri Phương-huyện Tiên Du-tỉnh Bắc Ninh. Giai đoạn 2
Tạp chí Kinh tế phát triển
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tân Sơn - Đánh giá thực trạng tình hình hoạt động và định hướng phát triển.doc