Sự minh bạch: Để đạt được sự độc lập trong hoạt động, các AMC trực thuộc
nhà nước luôn phải thể hiện sự minh bạch. Các AMC phải thường xuyên công
bố tình hình hoạt động và kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các bản báo
cáo tháng, báo cáo quý, trong đó đã nêu rõ các quy trình và phuơng pháp xử ly
nợ xấu. Để giảm thiểu tối đa sự tham nhũng có thể xảy ra, một đơn vị kiểm
toán độc lập thường được thành lập với nhiệm vụ báo cáo trực tiếp cho chính
phủ.
Chính phủ cũng nên thành lập các cơ quan chuyên trách theo dõi và đánh giá
hiệu quả hoạt động của các AMC thông qua các tiêu chí như: mức độ phục hồi
của nợ xấu, số lượng và chất lượng các khoản vay được tái cấu trúc.
Tham khảo kinh nghiệm thực tế của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
những quốc gia Đông Á có nhiều điểm gần gũi và tương đồng với Việt Nam
như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia Điều này sẽ giúp chúng ta rút ra nhiều
bài học quý giá về cách thức tổ chức, quản lý và hoạt động củ công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản, về sự cần thiết của việc kiện toàn hệ thống pháp lý theo
hướng trao cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản những quyền lực đặc
biệt, tạo điều kiện thuận lợi nhất để công ty hoàn thành nhiệm vụ.
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3494 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản AMC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI
CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI SẢN
AMC
GVHD: PGS.TS: BÙI KIM YẾN
LỚP: NH Đêm 1 – Khóa 22 – Nhóm 3
DSN: Cao Nữ Nguyệt Anh
Mai Thúy Hằng
Huỳnh Ngọc Hà My
Lê Thị Phương Thảo 0937 768 307
Võ Thị Bích Trâm
Mai Nguyễn Huyền Trang
Đặng Thị Cẩm Uyên
Tháng 10 năm 2013
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI
SẢN ................................................................................................................................ 5
1.1. Khái niệm về công ty AMC ............................................................................ 5
1.2. Đặc điểm của công ty AMC ............................................................................ 5
1.2.1. Mục tiêu hoạt động ......................................................................................... 5
1.2.2. Chức năng của công ty AMC: ........................................................................ 5
1.2.3. Vai trò của công ty AMC ................................................................................ 6
1.2.4. Các mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. ................................... 6
1.2.4.1. Ưu nhược điểm của Công ty do nhà nước góp vốn: ........................................ 6
1.2.4.2. Ưu nhược điểm của Công ty tư nhân góp vốn: ................................................ 7
1.2.5. Cơ chế hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. ..................... 7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ
VÀ KHAI THÁC TÀI SẢN (AMC) HIỆN NAY. ....................................................... 10
2.1. Thực trạng AMC trên thế giới: .................................................................... 10
2.2. Tình hình các công ty quản lý nợ AMC trên thế giới: ................................. 10
2.3. Thực trạng về Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Việt Nam: ............. 15
2.3.1. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM: ............................ 15
2.3.2. Công ty mua bán tài sản quốc gia ở Việt Nam (VAMC): ............................ 20
2.4. Hiệu quả của các công ty quản lý tài sản ..................................................... 22
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO MÔ HÌNH AMC TẠI
VIỆT NAM. ................................................................................................................. 23
3.1. Định hướng: .................................................................................................. 23
3.2. Giải pháp: ...................................................................................................... 24
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 27
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, với các sản phẩm, dịch vụ ngày càng đa dạng và
không ngừng được hoàn thiện, ngân hàng đang giữ một vai trò hết sức quan
trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và
tiềm ẩn rủi ro cao của cac hoạt động nghiệp vụ, ngân hàng là một tổ chức dễ bị
“tổn thương”, chấn động, gây nguy cơ đổ vỡ hàng hoạt cho hệ thống, ảnh
hưởng đến nền kinh tế, thậm chí có thể gây nên những cuộc khủng hoảng trầm
trọng. Một trong những nguyên nhân quan trọng của sự suy yếu của ngân hàng
chính là tình trạng nợ xấu tồn đọng quá cao, lại trong một thời gian dài, mà
không được xử lý, khiến tình hình tài chính của ngân hàng rơi vào khó khăn,
nhiều ngân hàng mất khả năng thanh toán và đi đến chỗ phá sản. Vì vậy, vấn đề
nợ đọng đang được nhiều quốc gia quan tâm, đặc biệt là những nước có tỷ lệ nợ
đọng quá cao so với mức giới hạn an toàn. Trong số các biện pháp xử lý nợ
đọng, thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được coi là cách hiệu
quả nhất, tiết kiệm chi phí nhất, thời gian xử lý lại ngắn nhất
Ở nước ta, trước yêu cầu cơ cấu lại ngân hàng, lành mạnh hoá tình hình tài
chính nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngân hàng, công tác
xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại đang được gấp rút triển khai.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cũng đang là một trong những lựa chọn
của Chính phủ để giải quyết vấn đề này. Để có thể phát huy được tối đa các ưu
điểm của phương thức này, công tác nghiên cứu, xem xét, đánh giá kỹ lưỡng về
mô hình tổ chức cũng như những hoạt động nghiệp vụ của công ty, từ đó xây
dựng, đưa ra một mô hình phù hợp và có thể phát huy hiệu quả hoạt động cao
nhất trong điều kiện nước ta hiện nay là điều vô cùng cấp thiết, cần làm ngay.
Trước yêu cầu đó của thực tế, đề tài mong muốn được đóng góp một phần
nhỏ vào việc nghiên cứu, tìm hiểu về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
nói chung, đưa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện hơn nữa mô hình công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản đang được sử dụng ở các ngân hàng thương
mại. Kết cấu của đề tài được chia thành 3 chương:
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
4
Chương I: Giới thiệu về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Chương II: Thực trạng hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản hiện nay
Chương III: Định hướng và giải pháp cho mô hình AMC tại Việt Nam
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
5
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI
THÁC TÀI SẢN
1.1. Khái niệm về công ty AMC
Loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được sử dụng ở nhiều nước.
Tại mỗi nước, tuỳ theo điều kiện kinh tế và chính sách phát triển từng nước mà
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản lại có những tên gọi, đặc trưng, quyền
và nghĩa vụ riêng. Nhưng chung nhất, có thể coi Công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản là một định chế có mục tiêu đặc biệt, có trách nhiệm và quyền
lực đặc biệt trong việc thực hiện chức năng mua, quản lý các khoản nợ khó
đòi từ hệ thống ngân hàng và xử lý các khoản nợ đó một cách tối ưu.
1.2. Đặc điểm của công ty AMC
1.2.1. Mục tiêu hoạt động
Phục hồi sức mạnh cho hệ thống ngân hàng. Một khi tỷ lệ các khoản nợ quá
hạn khó đòi trên tổng dư nợ cao, thì có nghĩa sự lành mạnh cũng như năng lực
tài chính của ngân hàng đang bị suy giảm, ngân hàng đang đứng trước các nguy
cơ rủi ro lớn. Khi đó, để củng cố lại hệ thống ngân hàng, các công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản sẽ mua, tiếp quản các khoản nợ khó đòi đó và tìm cách
xử lý chúng một cách “thông minh” và hiệu quả nhất.
Hoạt động của công ty này sẽ luôn hướng tới việc làm sao để tối đa hoá được
giá trị của các khoản nợ tồn đọng được giao và giảm thiểu chi phí cho quá trình
cải tổ hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
Hơn nữa, đối tượng mua bán của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là các
khoản nợ khó đòi tồn đọng với ít tài sản đảm bảo có giá trị, thậm chí có giá trị
bằng 0 hoặc tài sản không đủ giấy tờ, không còn đối tượng để thu nợ... nên hầu
như công ty cũng không thể tạo ra lợi nhuận được.
1.2.2. Chức năng của công ty AMC:
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
6
Hai chức năng cơ bản nhất của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là mua
lại nợ tồn đọng khó đòi và tối đa hoá khả năng thu hồi các khoản nợ đó.
1.2.3. Vai trò của công ty AMC
1.2.3.1. Vai trò của công ty AMC với ngân hàng
Việc thành lập công ty quản lý tài sản là một tất yếu khách quan đối với các
nước kinh tế thị trường có tỷ lệ nợ quá hạn trên 5% hoặc gặp các vấn đề
nghiêm trọng về nợ tồn đọng.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đóng một vai trò quan trọng trong việc
cơ cấu lại ngân hàng.
Ngăn chặn khủng hoảng bằng cách cung cấp một cơ chế cho các ngân hàng yếu
kém bán tài sản có vấn đề để lấy tiền hay giấy nhận nợ.
1.2.3.2. Đối với nền kinh tế.
Mua bán nợ thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn và hàng hoá trong nền kinh tế,
giúp ổn định và lành mạnh hoá hệ thống tài chính – ngân hàng, giúp tăng
cường uy tín, vị thế của quốc gia nói chung và các doanh nghiệp trong nước nói
riêng trong cộng đồng tài chính quốc tế, tham gia hội nhập vào thị trường vốn,
công nghệ ngân hàng với các nước trong khu vực và thế giới.
1.2.4. Các mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Tại các quốc gia trên thế giới, có nhiều loại mô hình công ty mua bán nợ:
+ Công ty do nhà nước góp vốn
+ Công ty do tư nhân góp vốn : một số thì hoạt động độc lập, một số khác là
công ty con của các ngân hàng hoặc đơn vị hoạt động trực thuộc ngân hàng.
1.2.4.1. Ưu nhược điểm của Công ty do nhà nước góp vốn:
+ Ưu điểm:
Hoạt động khá hiệu quả khi vấn đề nợ xấu mang tính hệ thống và khung pháp
lý đối với việc xử lý nợ vẫn còn yếu.
Có những lúc trên thị trường, các khoản nợ xấu không có người mua thì công
ty xử lý nợ của Nhà nước có thể giúp rút ngắn được quy trình xử lý nợ.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
7
Tạo ra cơ hội cho Chính phủ áp đặt các điều kiện giúp các ngân hàng tái cấu
trúc lại vấn đề tài chính và cơ cấu hoạt động của mình.
+ Nhược điểm:
Đòi hỏi Chính phủ phải đầu tư với số lượng vốn lớn. Điều này khiến nhiều
quốc gia có khủng hoảng nợ xấu miễn cưỡng thiết lập các tổ chức xử lý nợ tập
trung này.
Nếu các công ty xử lý nợ tập trung hoạt động kém hiệu quả, thì chúng phát sinh
chi phí hoạt động rất lớn cũng như làm tiêu hao tài sản chưa được thanh lý và
chưa được cơ cấu lại qua thời gian.
Thiếu nguồn nhân lực.
1.2.4.2. Ưu nhược điểm của Công ty tư nhân góp vốn:
+ Ưu điểm:
Ít chịu sự chi phối trong quá trình ra quyết định, các công ty xử lý nợ tư nhân
thường linh hoạt trong quản lý hơn.
Cơ cấu nợ cũng dễ dàng hơn nhiều, do các đơn vị này đã có sẵn hồ sơ có liên
quan đến các khoản nợ và các con nợ.
Nếu các công ty xử lý nợ tư nhân này có đủ nguồn nhân lực có kỹ năng và kinh
nghiệm trong việc quản lý các khoản nợ xấu, thì họ có thể làm gia tăng giá trị
của các khoản nợ này. Kết quả là, họ sẽ bán ở mức cao hơn.
+ Nhược điểm:
Nếu môi trường pháp lý có khuynh hướng ủng hộ các con nợ, thì các công ty
xử lý nợ tư nhân có thể phải gặp rắc rối trong các cuộc thương thảo về cơ cấu
nợ. Việc này sẽ làm phát sinh chi phí hoạt động.
Các ngân hàng mẹ có thể sử dụng công ty xử lý nợ trực thuộc mình để che đậy
các vấn đề về nợ xấu bằng cách chuyển hết nợ sang công ty xử lý nợ của mình
ở các mức giá giả tạo cao hơn. Hậu quả là, do giá chuyển đổi cao sẽ ít hoặc
không phản ánh các khoản thua lỗ của ngân hàng.
1.2.5. Cơ chế hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
1.2.5.1. Hoạt động huy động vốn.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
8
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là hình thức công ty được thành lập nên
chủ yếu nhằm mục tiêu xử lý nợ tồn đọng khó đòi chứ không hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận, nên để có thể hoạt động được thì công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản cần có một lượng vốn lớn.
Nhìn chung, nguồn vốn hoạt động ban đầu của công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản thường là do Chính phủ cấp qua Bộ Tài chính hoặc qua việc mua cổ
phần của công ty.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sảnphụ thuộc nhiều vào nguồn vốn từ bên
ngoài thì sự chủ động và hiệu quả trong hoạt động của công ty sẽ bị giảm sút,
nhất là khi đó lại là nguồn vốn do Chính phủ cấp, nơi mà những quyết định
mang nhiều tính chủ quan hơn là tính thị trường, kèm theo sự chậm trễ đáng kể
trong việc thực thi do bộ máy cơ chế cồng kềnh.
1.2.5.2. Hoạt động xử lý nợ của công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản.
+ Mua, tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng
Ngân hàng có thể uỷ thác cho công ty; ngân hàng mua trái phiếu của công ty,
công ty dùng số tiền đó để mua lại nợ tồn đọng của chính ngân hàng; nhưng
phổ biến nhất có lẽ là công ty trực tiếp mua lại các khoản nợ cần xử lý của
ngân hàng.
Giá cả là yếu tố quan trọng cần được xem xét trong việc mua bán các khoản
nợ. Đối với ngân hàng bán, khoản chênh lệch giữa giá bán với giá vốn của
khoản cho vay được quan tâm nhiều vì nó thể hiện mức độ bù đắp tổn thất của
khoản vay kém hiệu quả từ tiền bán. Còn đối với công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản, khoản chênh lệch giữa giá mua với giá trị lại được quan tâm hơn.
Trong hoạt động của mình, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản luôn hướng
tới việc làm sao thu hồi được tối đa giá trị của khoản vay, bù đắp được chi phí
đã bỏ ra. Tuy nhiên, phải khẳng định lại một điều, do đây là những khoản nợ có
vấn đề nên việc thu hồi giá trị, bù đắp chi phí là điều không dễ dàng.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
9
+ Xử lý nợ và tài sản bảo đảm.
Sau khi tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng khó đòi, trong hầu hết các trường hợp,
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không thể ngay lập tức bán chúng đi
được mà phải tiến hành một loạt các nghiệp vụ xử lý tuỳ theo điều kiện và tình
trạng của các món nợ đọng.
Trước tiên, công ty sẽ tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ theo nhiều
tiêu thức khác nhau để đánh giá tình trạng của món nợ, con nợ và tài sản bảo
đảm nếu có.
Đối với những khoản nợ mà công ty nhận thấy còn khả năng thu hồi từ con nợ,
công ty sẽ tiến hành phân tích kỹ càng tình hình tài chính hiện tại của con nợ và
đề ra những biện pháp cơ cấu lại khoản nợ theo hướng hợp lý, phù hợp với tình
hình, tạo điều kiện giúp con nợ vực dậy hoạt động kinh doanh, có khả năng trả
được nợ trong thời gian tới. Các biện pháp cơ cấu lại nợ mà công ty sử dụng có
thể là: miễn, giảm lãi suất hoàn toàn hay chỉ trong một thời gian nhất định; giãn
nợ (kéo dài thời hạn trả nợ); cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư thêm...
Các khoản nợ có thể được bán ra trên thị trường theo mức giá thoả thuận giữa
bên mua và bên bán (công ty quản lý tài sản). Bên mua thường là những đơn vị
có mối quan hệ, hoặc quan tâm đặc biệt tới doanh nghiệp nợ, nhìn thấy ở khoản
nợ này một cơ hội kinh doanh có thể tận dụng được.
Còn một phương thức xử lý khác cũng hay được các công ty quản lý tài sản sử
dụng, đó là chuyển nợ thành cổ phần của doanh nghiệp. Đây là một trong
những cách được các nhà nghiên cứu kinh tế đánh giá cao, vì khi công ty quản
lý nợ và khai thác tài sản có cổ phần trong doanh nghiệp, công ty sẽ có quyền
can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp đó, buộc doanh nghiệp phải thực
hiện những biện pháp cần thiết để khôi phục tình hình tài chính cho doanh
nghiệp. Và như vậy, quá trình cơ cấu lại ngân hàng sẽ được gắn liền với quá
trình cơ cấu lại các doanh nghiệp.
Đối với các tài sản cầm cố, thế chấp, công ty cũng có thể xử lý bằng nhiều cách
khác nhau. Công ty có thể tiến hành sửa chữa, nâng cấp tài sản để tăng tính khả
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
10
mại cũng như giá trị của tài sản khi đem bán ra thị trường. Công ty còn có thể
đưa tài sản vào hoạt động kinh doanh của bản thân công ty, hay đem tài sản
góp vốn, liên doanh...
Tóm lại, để thu hồi giá trị tối đa của khoản nợ, hoạt động xử lý tài sản của
công ty là hết sức linh hoạt và đa dạng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI SẢN (AMC) HIỆN NAY.
2.1. Thực trạng AMC trên thế giới:
Không chỉ các nước trong khu vực châu Á thành lập các công ty quản lý tài sản
mà ngay cả nước phát triển như Mỹ và các nước Mỹ La tinh cũng có các công
ty chuyên về xử lý nợ xấu của ngân hàng. Tuy nhiên, liệu sự có mặt của các
công ty quản lý tài sản có cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng
hay không? Để trả lời câu hỏi trên hãy cùng nghiên cứu kinh nghiệm xử lý nợ
của các nước ASEAN thông qua các mô hình công ty quản lý tài sản.
Qua nhiều cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế thế giới, mỗi nước đều có cách
làm riêng để xử lý các tài sản rủi ro và nợ xấu, nhằm lưu thông dòng vốn trong
nền kinh tế.
2.2. Tình hình các công ty quản lý nợ AMC trên thế giới:
Thái Lan:
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt nguồn từ Thái Lan năm 1997 gây ra
những tác hại nghiêm trọng đến nền kinh tế của một loạt các nước trong khu
vực. Trong số đó Thái Lan là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất: sự mất ổn định
của đồng tiền và của các thị trường tiền tệ trong nước, sự giảm sút các luồng
vốn nước ngoài đổ vào, nợ tồn đọng trong nước, nợ nước ngoài tăng mạnh, tỷ
lệ tăng trưởng âm…
Thêm vào đó, Thái Lan tuyên bố phá giá tiền tệ làm tăng các chi phí dịch vụ nợ
và chất thêm gánh nợ lên vai các công ty và con nợ, làm tăng tình trạng mất
khả năng thanh toán dẫn đến phá sản công ty này. Trên bảng cân đối của các
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
11
ngân hàng và tổ chức tín dụng số lượng các khoản vay không hoạt động liên
tục tăng, vào cuối năm 1998 tăng lên đến 2675 tỷ Baht chiếm 45,02% tổng số
tiền va, và đến tháng 5/1999 tăng lên con số đỉnh điểm là 2729 tỷ Baht tương
đương 47,7% tổng trị giá các khoản vay. Tệ hại hơn là các khoản vay không
hoạt động này lại chủ yếu ở trên bảng cân đối của các tổ chức tín dụng thuộc sở
hữu nhà nước và tập trung vào các ngành kinh tế chủ chốt như ngành công
nghiệp và thương mại dịch vụ, và một số ngành liên quan đến bất động sản.
Trước tình hình này, Chính phủ Thái Lan đã khần trương ban hành một nghị
định khẩn cấp thành lập công ty quản lý tài sản, một cơ quan nhà nước chịu
trách nhiệm thực hiện xử lý các khoản nợ tồn đọng theo thông lệ quốc tế. Đây
cũng là một phần cơ cấu lại khu vực tài chính của Thái Lan.
+ Ủy ban cơ cấu tài chính Thái Lan (FRA): được chính phủ thành lập ngày
22/10/1997 để xử lý 58 định chế tài chính bị đổ vỡ dưới sự giám sát của Bộ Tài
chính. Công ty FRA có quyền nhận được số tiền từ việc bán 1% giá trị tài sản
từ công ty tài chính nó tiếp quản. FRA tiếp nhận tài sản và thực hiện bán buôn
chứ không được quyền bán lẻ các tài sản này mà phải chuyển cho các công ty
quản lý tài sản.
+ Công ty quản lý tài sản Thái Lan: được thành lập ngày 22/10/1997 là một
pháp nhân và hoạt động tuân theo trình tự : Tiếp nhận tài sản, quản lý tài sản và
xử lý tài sản. Công ty chỉ chịu trách nhiệm xử lý các khoản nợ nhỏ dưới 5triệu
Baht và các bất động sản nhỏ.
Trong năm 1999, công ty quản lý tài sản đã mua tổng giá trị tài sản có cơ bản là
197.047 tỷ Baht với giá đấu thầu là 33.853 tỷ Baht được trả bằng cách phát
hành trái phiếu với tổng giá trị 33.958 tỷ Baht. Các trái phiếu được phát hành
có thời hạn 3-5 năm với mức lãi suất từ 7-11% trả 6 tháng 1 lần.
Công ty sẽ không bán lại các khoản đã mua trực tiếp từ Ủy ban cơ cấu tài FRA
mà tiến hành cơ cấu nợ theo phương thức tối đa hóa giá trị và điều kiện của
khoản vay trước khi bán đứt hoặc công ty sẽ chuyển các khoản vay đó thành tài
sản và thông qua các phương tiện khác để tối đa hóa lợi nhuận của nó cũng như
làm tăng tính thanh khoản của các tài sản này.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
12
+ Các công ty quản lý tài sản được thành lập tại các ngân hàng: Chính phủ đã
có những chính sách khuyến khích về thuế và các qui định để tạo điều kiện
thuận lợi thành lập công ty quản lý tài sản, mua các tài sản tồn đọng từ các tổ
chức tín dụng. Ví dụ công ty SAM (Sukhumvit Asset Management Co. Ltd)
được thành lập 4/4/2000 mục tiêu xử lý nợ tồn đọng của Krung Thai Bank
(Ngân hàng thuộc sở hữu của Chính phủ) vì 40% tổng số nợ khó đòi của nước
này phát sinh từ Krung Thai Bank.
+ Công ty TAMC (Thai Asset Management Corp.) : được chính phủ thành lập
để xử lý nợ khó đòi của hệ thống ngân hàng thương mại. Công ty bắt đầu hoạt
động từ tháng 6/2001.
Trung Quốc:
Không như các nước Châu Á khác, khi thành lập công ty quản lý tài sản tình
hình kinh tế Trung Quốc vẫn ổn định : dự trữ ngoại tệ tăng đạt 150 tỷ USD, lãi
suất tiết kiệm trong dân cư được điều chỉnh giảm 7 lần liên tiếp, chưa xuất hiện
sức ép lớn về nợ tồn đọng. Tính đến cuối tháng 9/2001 nợ khó đòi của Ngân
hàng thương mại là khoảng 1800 tỷ Nhân dân tệ, 26,5% trên tổng doanh số cho
vay. Vì vậy mục tiêu chính của việc thành lập công ty quản lý tài sản của Trung
Quốc là nhằm khắc phục rủi ro tài chính tiềm tàng của các ngân hàng thương
mại quốc doanh, tăng cường cải cách doanh nghiệp nhà nước thông qua việc tối
ưu hóa tài sản tồn đọng. Trong năm 1999, Trung Quốc tiến hành thành lập 4
công ty quản lý tài sản thuộc 4 NHTM chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước:
+ Công ty COAMC
+ Công ty Vạn lý trường thành (Great Wall)
+ Công ty CHAMC
+ Công ty CINDA
Các công ty quản lý tài sản đã mua từ 4 NHTM nhà nước gần 1.100 tỷ Nhân
dân tệ các khoản vốn vay không hoạt động, tương đương 60% tổng vốn vay
không hoạt động của cả hệ thống NH Trung Quốc.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
13
Điển hình công ty CINDA được thành lập đầu tiên ngày 20/4/1999 để xử lý nợ
khó đòi của Ngân hàng xây dựng Trung Quốc (CCB). Trong kế hoạch xử lý nợ
Cinda nhần mạnh đến việc chuyển nợ thành vốn cổ phần. Những khoản nợ của
các công ty vay của CCB trước đây không trả được sẽ được chuyển thành cổ
phần của Cinda trong công ty đó. Sau đó, Cinda có quyền can thiệp vào việc
điều hành, buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh để có khả
năng trả được nợ. Như vậy quá trình cải tổ NH gắn liền với cải tổ doanh
nghiệp. Chính vì vậy công ty Cinda ra đời được các nhà kinh tế nước ngoài
đánh giá cao, coi đây là một bước tiến quan trọng trong việc cải tổ ngân hàng
Trung Quốc.
Mỹ:
Cuộc khủng hoảng tài chính Phố Wall năm 2008 bắt nguồn từ bong bóng bất
động sản tan vỡ – tình cảnh khá tương đồng với Việt Nam hiện nay. Để giải
cứu những tổ chức tín dụng sắp “chết”, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết
định bơm 700 tỷ USD.
Lượng tiền này được phân bổ một phần để mua lại nợ xấu ngân hàng thương
mại, một phần dùng để giải quyết thanh khoản tạm thời cho những đơn vị yếu
kém. Phần còn lại – nhưng chiếm tỷ trọng lớn – là để mua cổ phiếu ưu đãi của
các ngân hàng.
Với mục đích thứ ba, Fed lựa chọn mua cổ phiếu ưu đãi thay vì loại phổ thông.
Cổ phiếu ưu đãi được hưởng mức cổ tức cố định, không phụ thuộc vào khả
năng sinh lời nhưng lại không có quyền tham gia vào việc điều hành ngân
hàng.
Fed chỉ muốn đẩy một ít dòng tiền để ngân hàng có vốn đầu tư và thoát khỏi
tình trạng tồi tệ – về mặt bản chất chính là Fed cho vay – nhưng họ chủ trương
nắm quyền kiểm soát các ngân hàng nên việc họ chọn loại cổ phiếu ưu đãi như
phân tích ở trên là rất thích hợp.
Nhật Bản:
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
14
Đầu những năm 2000 hứng chịu hàng nghìn tỷ yên nợ xấu với nguyên nhân
tương tự Mỹ năm 2008 đến từ bong bóng bất động sản. Ban đầu, Nhật Bản
bơm hàng nghìn tỷ yên vào các ngân hàng lớn hoặc lập hàng loạt các quỹ đầu
tư có vốn góp của cả tư nhân để mua lại nợ xấu.
Tuy nhiên, cả hai cách này đều không thu được kết quả. Sau khi thực hiện
nhiều phương sách nhưng vẫn thất bại, Nhật quyết định quốc hữu hóa các ngân
hàng, loại bỏ các cổ đông, cho các nhà băng yếu kém nhiều nợ xấu tự sụp đổ…
và đã thành công.
Malaysia:
Danaharta – với thời gian hoạt động 7 năm (1998-2005), đã đạt được những kết
quả ấn tượng và nổi trội so với các AMC của Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái
Lan. Trong khi giá trị hồi phục của các AMC nằm trong khoảng từ 20-50% thì
các khoản nợ xấu của Danaharta có giá trị hồi phục đến 58%.
Khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 đã làm đồng Ringgit mất đến 50% giá
trị, niềm tin tiêu dùng suy giảm trầm trọng. Nếu như các khoản nợ xấu tại thời
kỳ ngay trước khủng hoảng dao động từ 2-3% thì khi bong bóng vỡ ra, tỷ lệ nợ
xấu tăng lên hai con số, đỉnh điểm vào tháng 8/1998 khi nợ xấu lên đến 11,4%.
Đối mặt với khủng hoảng kinh tế, Chính phủ Malaysia buộc phải lập ra 3 tổ
chức để giảm nợ xấu, lành mạnh hệ thống tài chính và khôi phục lại đà tăng
trưởng: Danaharta để xử lý nợ xấu, CDRC để thỏa thuận với các ngân hàng có
nợ xấu, SPV để bơm vốn cho hệ thống tài chính. Trong đó Danaharta là trung
tâm của kế hoạch.
Với tỷ lệ nợ xấu lên 11,4% vào tháng 8/1998, nhiệm vụ của Danaharta là đưa
tỷ lệ nợ xấu về dưới 10%. Tuy nhiên AMC này đặt ra mục tiêu chỉ mua những
khoản nợ xấu trên 5 triệu Ringit, tức là gần 70% tổng nợ xấu trong hệ thống tài
chính. Điều này tương đương với khoảng từ 2.000 đến 3.000 khoản nợ xấu,
một con số khả thi với năng lực xử lý của Danaharta trong thời gian 5 năm.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
15
Với nợ có đảm bảo, giá mua được Danaharta xác định dựa vào giá trị hợp lý
(FV) của tài sản thế chấp. Danaharta chỉ chấp nhận các tài sản tài chính là cổ
phiếu và bất động sản.
Đối với nợ xấu có tài sản thế chấp là bất động sản, FV được tính là 95% giá trị
thị trường của bất động sản và được xác định bởi tổ chức định giá độc lập và
được cấp phép. Với cổ phiếu niêm yết, giá trị hợp lý phụ thuộc vào khối lượng
nắm giữ.
Khi FV cao hơn hoặc bằng với dư nợ gốc cộng nợ lãi, Danaharta mua theo giá
của nợ gốc cộng nợ lãi. Còn giá trị hợp lý thấp hơn giá trị của tổng nợ gốc và
lãi nhưng cao hơn hoặc bằng giá trị nợ gốc, giá mua là giá trị hợp lý. Nhưng
nếu giá trị hợp lý thấp hơn giá trị nợ gốc, giá mua sẽ là giá trị nợ gốc nhưng
Danaharta chỉ trả trước một khoản bằng với FV.
Một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng giúp cho Danaharta thành công đó là bởi
nó được sự hậu thuẫn đặc biệt từ chính quyền Malaysia. Vào tháng 8/1998,
Luật Danaharta ra đời đem lại bộ khung pháp lý rất đặc biệt cho tổ chức này.
Đạo luật này cho phép Danaharta những đặc quyền mà không một tổ chức tài
chính nào có thể có được trong lịch sử ngành tài chính quốc gia, đó là: Mua lại
tài sản của các tổ chức tài chính; Bổ nhiệm lãnh đạo ở các tổ chức đang nợ; Và,
có quyền tịch biên những tài sản thế chấp.
2.3. Thực trạng về Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Việt Nam:
2.3.1. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM:
Mô hình công ty quản lý nợ và khai thác thác tài sản (AMC) được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thành lập theo quyết định 150/2001/QĐ-TTg ngày
05/10/2001 với mục đích xử lý nợ tồn đọng của các NHTM.
Công tác quản lý nợ và khai thác tài sản luôn được các NHTM dành sự quan
tâm đặc biệt. Mỗi NHTM đều có chính sách, hệ thống và quy trình quản lý rủi
ro. Tuy nhiên với tốc độ tăng trưởng về quy mô cũng như dư nợ tín dụng của
NHTM ngày càng tăng, việc xử lý nợ đòi hỏi phải có bộ máy chuyên nghiệp
hơn, với tính chất hoạt động như một doanh nghiệp nhằm hỗ trợ ngân hàng cả
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
16
về công tác quản lý nợ và khai thác tài sản. Do đó nhu cầu thành lập AMC để
chuyên môn hoá việc quản lý nợ, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các khoản nợ của
NH là một nhu cầu thực tế và thiết yếu.
Bên cạnh đó, việc gia tăng các khoản nợ xấu đang là vấn đề đáng quan ngại của
các NH. Tỷ lệ nợ xấu của nhiều NH tuy chiếm tỷ lệ thấp, nhưng việc đi trước,
đón đầu để tăng cường công tác kiểm soát và quản lý nợ một cách hiệu quả, an
toàn luôn là mục tiêu của các NH.
Theo Luật tổ chức Tín dụng năm 2010, các NHTM không được trực tiếp kinh
doanh bất động sản (BĐS) trong khi BĐS là tài sản bảo đảm phổ biến nhất. Do
đó, NH gặp khó khăn trong việc khai thác lợi nhuận từ tài sản bảo đảm và
không chủ động xử lý được tài sản bảo đảm.
Vì những lý do trên, việc thành lập AMC để tận thu nợ tồn đọng, hạn chế tối đa
tổn thất tài sản, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính là một nhiệm vụ cấp
thiết của NHTM.
Mục đích: AMC được thành lập với các mục đích chính như sau:
Nhằm chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý, xử lý nợ quá hạn của toàn
hệ thống;
Góp phần xử lý nợ xấu nhanh chóng và hiệu quả; Cơ cấu lại nợ tồn
đọng, tiếp nhận quản lý các khoản nợ tồn động của NH bằng các biện pháp:
giãn nợ, miễn giảm lãi suất, đầu tư thêm, chuyển đổi nợ thành vốn góp…
Góp phần cải tiến quản lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng .
Từng bước phát triển hoạt động mua bán nợ; quản lý, kinh doanh tài sản
(cho thuê, mua bán, khai thác);
Lấy thu đủ bù chi; bảo toàn và phát triển vốn;
Quản lý an toàn tài sản NH giao; đóng góp một phần lợi nhuận cho NH.
Thống kê AMC trực thuộc NHTM Việt Nam
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
17
Theo thống kê của PG Bank, tính đến năm 2011 có 27 AMC trực thuộc
NHTM. Các AMC trực thuộc NHTM hoạt động theo mô hình công ty TNHH
một thành viên.
Ngoài ra, có 1 AMC trực thuộc Bộ Tài chính là DATC và có khá nhiều công ty
tư nhân/cổ phần được thành lập nhằm thực hiện một số chức năng của AMC
như: tư vấn thủ tục thu hồi nợ, xử lý nợ, đòi nợ…
Thống kê AMC được thành lập theo thời gian và quy mô vốn điều lệ: AMC
đầu tiên được thành lập vào năm 1995 (Vietcombank AMC). Năm 2009 – 2010
là thời điểm có nhiều AMC được thành lập nhất. Phần lớn các AMC có vốn
điều lệ vào khoảng 50-100 tỷ đồng. Cụ thể:
Nguồn: FI – PG Bank
Điểm mạnh:
AMC là công ty trực thuộc NHTM, trong đó NHTM góp vốn 100%, do
đó, AMC nhận được sự hỗ trợ rất lớn của công ty mẹ về tài chính, nhân sự và
thương hiệu.
Hoạt động quản lý nợ, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các khoản nợ được
chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá.
Điểm yếu:
Mô hình AMC còn khá mới mẻ và chưa thực sự phát triển ở Việt Nam,
do dó, nguồn nhân lực còn thiếu và chưa có nhiều kinh nghiệm.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
18
Hoạt động của AMC mới chỉ ở mức nội bộ.
Cơ hội:
Quy mô và dư nợ tín dụng của NHTM ngày càng tăng, kéo theo nhiều
cơ hội phát triển hoạt động cho AMC.
Hiện nay hoạt động của AMC vẫn chỉ gói gọn trong việc quản lý nợ và
khai thác tài sản của công ty mẹ, do đó, AMC có thêm rất nhiều cơ hội để mở
rộng phạm vi hoạt động sang các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính khác.
Thách thức:
Chưa có văn bản pháp luật quy định cụ thể về cơ chế hoạt động cho
AMC, AMC vẫn chỉ chịu điều chỉnh theo Luật doanh nghiệp.
Chưa có một hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán nợ, hoạt động
của các công ty quản lý nợ còn đơn giản và nội bộ.
Thực trạng hoạt động AMC:
Với mục đích và hướng phát triển cụ thể như thế, nhưng trên thực tế,
hoạt động của AMC vẫn chưa thực sự hiệu quả.
AMC được thành lập để xử lý nợ, giải quyết nợ xấu cho ngân hàng,
nhưng thực tế các phòng Quản lý nợ, Xử lý nợ thuộc NHTM hoàn toàn có thể
làm tốt việc này. Một AMC với cơ cấu hoành tráng, nhưng thực chất cũng chỉ
có 10-15 người, kể cả ban giám đốc. Số lượng này cũng vừa bằng, thậm chí là
ít hơn số lượng nhân sự của phòng xử lý nợ.
AMC được lập ra mà công việc chủ yếu không phải quản lý nợ, xử lý nợ
hay quản lý tài sản mà để hợp thức hoá việc cho vay với lãi suất vượt trần của
NHTM. Khách hàng vay vốn từ NHTM thường phải có tài sản đảm bảo.
NHTM sẽ thu thêm phí như phí thẩm định tài sản, phí quản lý tài sản đảm
bảo,… thông qua AMC, tính phí bằng tỷ lệ phần trăm trên tổng số vốn vay và
thu một lần.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
19
Hợp đồng này ký với Giám đốc AMC, tách ra hẳn với hợp đồng tín
dụng vay vốn của ngân hàng, nhưng thực tế hai hợp đồng đó là một, đó chỉ là
chiêu lách luật của các ngân hàng. Do đó, lãi suất cho vay mà khách hàng phải
chịu thường cao hơn từ 3-5% lãi suất cho vay quy định.
Việc thành lập AMC có thể làm giảm sức cạnh tranh của NHTM (do lãi
suất cho vay thực tế cao hơn nhiều so với mức lãi suất của những NHTM
không có AMC). Trong thời điểm hiện nay khi NHNN đang quyết tâm hạ lãi
suất, rất có thể những NHTM chưa có AMC sẽ xúc tiến thành lập AMC với
mục đích hợp thức hoá mức lãi suất cho vay cao.
Trong năm 2013 hàng loạt ngân hàng đồng loạt kích hoạt lại hoạt động
của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc. Ngoài AMC của
Vietinbank hoạt động khá sôi nổi và đều đặn trong việc xử lý tài sản đảm bảo
cho các khoản nợ xấu có tài sản đảm bảo của ngân hàng, AMC của Agribank
và BIDV, Vietcombank đã hoạt động cầm chừng thời gian qua.
Điều lệ mẫu, các quy định cho AMC hơn 13 năm qua không được cơ
quan quản lý coi sóc, cập nhật dù nhiều nội dung đã không còn phù hợp với
tình hình mới. Đó là lý do quan trọng để nhiều năm qua AMC tại các ngân
hàng ở nước ngoài như cánh tay phải của tổ chức tín dụng thì tại Việt Nam lại
không giúp được gì nhiều cho các ngân hàng. Ở nhiều AMC, một số hoạt động
bị lái đi chệch hướng nhưng cũng không ai quản lý.
Nay, Vietinbank theo kế hoạch chuẩn bị nâng vốn điều lệ cho AMC lên
gấp hơn 16 lần, từ 30 tỉ lên 500 tỉ đồng, BIDV đang bổ sung nhân lực cho bộ
phận AMC năm qua chỉ tồn tại như một phòng ban đại diện.
Agribank đã xin giải thể AMC nay cũng tái lập và đang củng cố lại bộ
máy, tổ chức hoạt động. Các ngân hàng cổ phần cũng tăng vốn, củng cố nhân
sự và nguồn lực với AMC của mình.
Tình hình nợ xấu hiện nay rất khó giảm. VAMC mới ra đời như một
‘quyền trợ giúp đặc biệt’ một thời gian cho các ngân hàng. Song việc các AMC
sẽ buộc phải hoạt động trở lại là bởi các ngân hàng không thể trông chờ duy
nhất vào VAMC với những khoản nợ rất chọn lọc trước mắt được mua bằng
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
20
trái phiếu đặc biệt. Phần rất lớn nợ xấu sẽ giải quyết theo giá thị trường, phần
chưa được VAMC chú trọng ít nhất trong nửa năm tới, thì các tổ chức tín dụng
phải tự giải quyết. Như vậy hiểu ở khía cạnh gián tiếp, VAMC là một động lực
để các ngân hàng ứng xử tích cực hơn với nợ xấu và các AMC của mình.
2.3.2. Công ty mua bán tài sản quốc gia ở Việt Nam (VAMC):
VAMC được thành lập theo Quyết định số 1459/QĐ – NNHNN ngày 27/6 của
Thống đốc NHNN Việt Nam, là công cụ đặc biệt của NHNN nhằm góp phần
đẩy nhanh xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các
TCTD, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý.
VAMC hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Nghị định 53 của Chính phủ
ngày 18/5/2013. VAMC là doanh nghiệp đặc thù do Nhà nước sở hữu 100%
vốn, dưới sự quản lý, thanh tra của NHNN.
VAMC có vốn điều lệ 500 tỷ đồng và theo nguyên tắc lấy thu bù chi, không vì
mục tiêu lợi nhuận, công khai, minh bạch.
Các hoạt động chính của VAMC gồm mua nợ xấu của các TCTD; thu hồi, đòi
nợ và xử lý nợ, bán nợ, bán tài sản đảm bảo; Cơ cấu lại nợ, điều chỉnh điều
kiện trả nợ, chuyển nợ thành góp vốn, góp cổ phần; Đầu tư, sửa chữa, nâng
cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản đã được VAMC thu nợ…
VAMC cũng được đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần; tổ chức đấu giá tài
sản; bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp vay vốn của TCTD.
VAMC có trụ sở chính tại Hà Nội và được thành lập chi nhánh, văn phòng đại
diện tại một số tỉnh, thành phố lớn. NHNN sẽ bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch
và các Hội đồng thành viên (không quá 7 người); Ban Kiểm soát (không quá 3
người); Tổng Giám đốc và một số Phó Tổng Giám đốc của VAMC.
Khách hàng vay có khoản nợ xấu bán cho VAMC và có phương án sản xuất,
kinh doanh khả thi được tổ chức tín dụng xem xét, cấp tín dụng theo thỏa thuận
và quy định của phát luật.
VAMC có thể mua nợ xấu bằng nguồn vốn không phải trái phiếu.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
21
Các khoản nợ xấu phải đáp ứng đủ 5 điều kiện sau mới được VAMC mua:
Khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, bao gồm nợ xấu trong các hoạt động cấp
tín dụng, mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy
thác cấp tín dụng và hoạt động khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
Khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm; Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm phải hợp
pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ; Khách hàng vay còn tồn tại; Số dư của khoản
nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách hàng vay không thấp hơn mức quy định của
NHNN.
Đối với việc mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá thị trường bằng nguồn
vốn không phải trái phiếu đặc biệt đối với các khoản nợ xấu đáp ứng 4 điều
kiện: Đáp ứng 5 điều kiện đối với các khoản nợ xấu nêu trên; Được đánh giá có
khả năng thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ xấu; Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
có khả năng phát mại; Khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ.
Thủ tướng Chính phủ quyết định việc VAMC mua lại các khoản nợ xấu của tổ
chức tín dụng không đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên theo đề nghị của
NHNN.
Mua nợ xấu theo giá trị thị trường.
Công ty mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị thị trường trên cơ sở thỏa
thuận và giá trị khoản nợ xấu được đánh giá lại.
Trong trường hợp này, Công ty đánh giá lại giá trị khoản nợ xấu trên cơ sở khả
năng thu hồi vốn và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; khi cần thiết, VAMC
thuê tổ chức tư vấn định giá khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm.
Việc mua bán nợ xấu được lập thành hợp đồng và tổ chức tín dụng bán nợ phải
thông báo bằng văn bản cho khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo
đảm trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng mua bán nợ để biết
và thực hiện nghĩa vụ với Công ty Quản lý tài sản.
VAMC có quyền yêu cầu bán nợ xấu.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
22
Công ty được thực hiện các hoạt động như: Mua nợ xấu của các tổ chức tín
dụng; thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm; cơ cấu lại khoản nợ,
điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phẩn của khách
hàng vay;...
VAMC có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng bán các khoản nợ xấu; yêu cầu các
bên liên quan cung cấp thông tin, tài liệu về tổ chức vay, về các khoản nợ xấu,
tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu bán cho công ty.
Đồng thời, tham gia quá trình cơ cấu lại khách hàng vay sau khi góp vốn, mua
cổ phần tại khách hàng vay; nhận chính tài sản đảm bảo để thay thế cho việc
thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm theo quy định của pháp luật; thu giữ tài
sản bảo đảm để xử lý, thu hồi nợ...
Xem xét thanh tra với tổ chức tín dụng có nợ xấu trên 3%.
Nghị định cũng quy định, tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở lên hoặc
một tỷ lệ nợ xấu khác do NHNN quy định không bán nợ xấu cho VAMC được
NHNN xem xét tiến hành thanh tra hoặc yêu cầu tổ chức tín dụng thuê công ty
kiểm toán hoặc tổ chức định giá độc lập đánh giá lại chất lượng và giá trị tài
sản, vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ của tổ chức tín dụng đó; chi phí kiểm toán,
định giá do tổ chức tín dụng thanh toán.
Trên cơ sở kết quả thanh tra, định giá và kiểm toán độc lập, tổ chức tín dụng
phải bán nợ xấu cho VAMC để đảm bảo tỷ lệ nợ xấu của tổ chức tín dụng ở
mức an toàn; thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và tuân thủ các tỷ lệ an toàn
theo quy định của NHNN; cơ cấu lại tổ chức tín dụng theo phương án được
NHNN phê duyệt.
2.4. Hiệu quả của các công ty quản lý tài sản
Bằng chứng cho thấy rằng AMCs hoạt động tương đối có hiệu quả. Klingebiel
(2000) sử dụng dữ liệu của các công ty quản lý nợ và chỉ ra rằng AMCs nói
chung xử lý nợ nhanh hơn các đơn vị tái cấu trúc tài sản. Klingebiel cũng cho
rằng, một số các điều kiện như là sự độc lập về chính trị, đủ vốn, khung pháp lý
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
23
hoàn thiện, nguồn nhân lực phát triển thì rất cần thiết và quan trọng đối với tính
hiệu quả của AMCs. Kết quả khảo sát của các công ty quản lý nợ hoạt động
trong các năm qua như sau: Về tỷ lệ xử lý nợ xấu (tỷ lệ tài sản được xử lý theo
giá trị ghi sổ của tài sản mua lại), tỷ lệ này càng cao thì hoạt động của AMCs
càng hiệu quả hơn, bởi lẽ, các tài sản chưa được xử lý thường tốn chi phí cao
hơn, vì thế chi phí hoạt động của AMCs và của chính phủ cũng cao hơn. Tỷ lệ
thu hồi tiền mặt là tỷ số của tiền mặt được thu hồi so với giá trị ghi sổ của tài
sản mua lại hoặc giá trị tài sản được xử lý. Tỷ số này càng cao thì chất lượng
xử lý nợ của các công ty quản lý tài sản càng tốt hơn.
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO MÔ HÌNH
AMC TẠI VIỆT NAM.
3.1. Định hướng:
Sự kiên định của Chính phủ trong việc xác định thực trạng nợ xấu trong hệ
thống tài chính, tái cấu trúc và giải quyết nợ xấu chính là điểm khởi đầu mấu
chốt cho thành công của bất cứ một AMC nào. Để hoạt động của AMC mang
lại được hiệu quả, các AMC luôn cần có được sự độc lập, tự chủ cần thiết,
không bị rằng buộc.
Sự hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ: Để hoạt động của AMC mang lại
ngay được thành công nhất định, Chính phủ cần cung cấp nguồn vốn trực tiếp
cho AMC thông qua ngân sách hoạt động của mình. Trong trường hợp một
AMC tự phải phát hành một khoản nợ, sự bảo lãnh của Chính phủ cho khoản
nợ là thật sự cần thiết để góp phần củng cố cho vị thế tài chính của AMC đó.
Mục tiêu hoạt động rõ ràng: Một AMC thành lập chỉ nên tập trung vào
việc thu hồi và bán nợ xấu, tránh việc sa đà vào gánh nặng tái cấu trúc các
doanh nghiệp đang gặp khó khăn.
Sự hậu thuẫn của hệ thống pháp lý, Giám sát và quản lý chặt chẽ; và có
tính minh bạch
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
24
Các quy định pháp lý được xây dựng theo định hướng đem lại hiệu quả cho các
hoạt động của AMC, đặc biệt là các văn bản huớng dẫn cho luật phá sản và trao
cho AMC các quyền lực đặc biệt trong quá trình thu hồi nợ xấu sẽ góp phần
không nhỏ trong việc hậu thuẫn cho AMC thu hồi được nợ xấu nhanh chóng và
đạt tỷ lệ thu hồi cao.
AMC phải hoạt động dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ bởi hệ thống kiểm soát
nội bộ và được kiểm toán bởi các đơn vị kiểm toán độc lập.
AMC cần thường xuyên cập nhật và công bố thông tin về hoạt động và kết quả
các hoạt động của mình theo các hình thức được chấp nhận rộng rãi bởi các
thành viên tham gia thị trường và cho cả xã hội.
Có định chế phù hợp về mua, bán và thanh lý nợ xấu: Nợ xấu được
chuyển giao sang AMC nên được định giá theo giá thị trường, đặc biệt là trong
trường hợp của các ngân hàng sở hữu bởi tư nhân.
Thêm vào đó, các đề nghị cùng chia sẻ lợi nhuận rủi ro hoặc các chế tài bắt
buộc cũng giúp quá trình chuyển giao nợ xấu diễn ra nhanh chóng và hiệu quả
hơn.
Thị trường vốn hoạt động hiệu quả: Thị trường vốn được cấu trúc rõ
ràng, chặt chẽ bởi nhiều sản phẩm đa dạng sẽ tăng cường hiệu quả của hoạt
động mua bán nợ xấu. Trong khi đó, việc cho phép các tổ chức đầu tư nước
ngoài tham gia vào quá trình mua nợ xấu từ các AMC cũng làm cho quá trình
này diễn ra nhanh hơn, đặc biệt là khi thị trường vốn nội địa chưa thực sự phát
triển.
3.2. Giải pháp:
Với mục đích và hướng phát triển cụ thể như đã trình bày ở các phần trên,
nhưng trên thực tế, hoạt động của AMC vẫn chưa thực sự thành công. Sau đây
là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của AMC ở Việt Nam:
Từng bước xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý. Hạ tầng pháp luật của một
quốc gia là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
25
hay thất bại của một AMC. Nếu không có một hệ thống văn bản pháp lý làm cơ
sở hoạt động thì bản thân AMC cũng sẽ đối diện với những khó khăn mà các
ngân hàng gặp phải khi tiến hành thu hồi nợ xấu.
Sự minh bạch: Để đạt được sự độc lập trong hoạt động, các AMC trực thuộc
nhà nước luôn phải thể hiện sự minh bạch. Các AMC phải thường xuyên công
bố tình hình hoạt động và kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các bản báo
cáo tháng, báo cáo quý, trong đó đã nêu rõ các quy trình và phuơng pháp xử ly
nợ xấu. Để giảm thiểu tối đa sự tham nhũng có thể xảy ra, một đơn vị kiểm
toán độc lập thường được thành lập với nhiệm vụ báo cáo trực tiếp cho chính
phủ.
Chính phủ cũng nên thành lập các cơ quan chuyên trách theo dõi và đánh giá
hiệu quả hoạt động của các AMC thông qua các tiêu chí như: mức độ phục hồi
của nợ xấu, số lượng và chất lượng các khoản vay được tái cấu trúc.
Tham khảo kinh nghiệm thực tế của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
những quốc gia Đông Á có nhiều điểm gần gũi và tương đồng với Việt Nam
như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia… Điều này sẽ giúp chúng ta rút ra nhiều
bài học quý giá về cách thức tổ chức, quản lý và hoạt động củ công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản, về sự cần thiết của việc kiện toàn hệ thống pháp lý theo
hướng trao cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản những quyền lực đặc
biệt, tạo điều kiện thuận lợi nhất để công ty hoàn thành nhiệm vụ.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
26
KẾT LUẬN
Hiện nay, bên cạnh việc tăng cường công tác quản lý nợ và khai thác hiệu quả
tài sản của Ngân hàng thì việc gia tăng các khoản nợ xấu đang là vấn đề quan
ngại của các Ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt
nam hiện nay đang giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu. Có thể nói, trong tình hình nước ta hiện nay, việc thành lập công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) là một đòi hỏi tất yếu. Một AMC được
thành lập với mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng kèm theo cấu trúc chặt chẽ sẽ là tiền
đề cho hy vọng mang lại hiệu quả hoạt động cần thiết trong việc giải quyết vấn
đề nợ xấu. Chính phủ, các bộ ngành và các ngân hàng cần cùng nhau phối hợp
xây dựng và hoàn thiện mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản phục
vụ cho chương trình tái cơ cấu ngân hàng, lành mạnh hoá tình hình tài chính,
tạo sức mạnh mới cho hệ thống ngân hàng trong bước phát triển và hội nhập.
GVHD: PGS.TS. BÙI KIM YẾN Nhóm 3 – Lớp NH Đêm1 –K22
27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình Thị trường tài chính (2012), Chủ biên PGS.TS Bùi Kim Yến.
Tham gia: GS.TS Trần Huy Hoàng, TS. Thân Thị Thu Thủy. TS. Hồ Việt
Tiến, TS. Trần Thị Mộng Tuyết.
2) Mô hình AMC giải quyết nợ xấu tại các nước Đông Á, ThS Phan Huy
Đức-Công ty CP chứng khoán Hồ Chí Minh (tapchitaichinh.vn).
3) Gợi ý mô hình AMC cho Việt Nam, ThS Phan Huy Đức-Công ty CP
chứng khoán Hồ Chí Minh (tapchitaichinh.vn).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tieu_luan_ve_cong_ty_amc_1744.pdf