Ẩm thực là một bộ phận thiết yếu cấu thành bản sắc văn hóa dân tộc, là một trong
những lãnh vực thể hiện đặc tính của một dân tộc. Trên giãi đất Việt Nam thân yêu này,
ngoài những đặc trưng chung nhất về ẩm thực thì vẫn còn có những kiểu khẩu vị riêng của
từng vùng. Sở dĩ như vậy là do có sự khác biệt về điều kiện địa lý, môi trường sinh thái và
nguồn nguyên liệu tại chỗ làm nên thực phẩm. Chính vì thế, kẹo Cuđơ của người Hà Tĩnh
đã góp phần tạo nên nét độc đáo trong văn hóa của người dân nơi đây.
Kẹo Cuđơ từ lâu đã trở thành một món ăn rất đặc trưng của vùng đất Hà Tĩnh. Nó đã đi
vào lòng người không chỉ riêng người dân ở nơi đây, mà còn có thể nói là đối với tất cả
những ai đã từng một lần thưởng thức loại kẹo đặc biệt này.
Cuđơ Hà Tĩnh không đơn thuần chỉ là món ăn mà đó còn là một nét văn hóa rất đặc
trưng và độc đáo của người dân tại vùng đất này. Thú vui bình dị của người Hà Tĩnh là
ngồi ăn Cuđơ và nhâm nhi bát nước chè xanh cùng đôi câu chuyện với bạn bè. Người Hà
Tĩnh xem kẹo Cuđơ như là linh hồn của quê hương, vừa giản dị, chân phương, lại ngọt
ngào tình quê. Nó gợi lại trong tâm hồn những người con xa xứ bao cảm xúc về mảnh đất
“khô cằn sỏi đá” nhưng vô cùng ấm áp và bình dị này
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cu đơ Hà Tĩnh dưới gốc nhìn văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐỀ TÀI: CU ĐƠ HÀ TĨNH DƯỚI GỐC NHÌN VĂN HÓA
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 2
1. Lý do, mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 2
2. Lịch sử nghiên cứu .............................................................................................................. 2
3. Tài liệu nghiên cứu .............................................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................... 3
5. Giới hạn của đề tài .............................................................................................................. 3
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................................. 3
7. Bố cục ................................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................................. 4
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................................... 4
1.1.2. Nguồn gốc .................................................................................................................. 4
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................................. 4
1.2.1. Kẹo Cuđơ – một đặc sản của người dân Hà Tĩnh .................................................. 4
1.2.2. Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ kẹo Cuđơ ................................................... 5
CHƯƠNG 2. KẸO CUĐƠ DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA ....................................................... 9
2.1. Kẹo Cu đơ trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên ............................................ 9
2.1.1. Kẹo Cuđơ tận dụng nguyên liệu tự nhiên .................................................................. 9
2.1.2. Kẹo Cuđơ mang dấu ấn nông nghiệp lúa nước ....................................................... 10
2.2. Kẹo Cuđơ trong văn hóa nhận thức ................................................................................ 10
2.2.1. Tính âm dương............................................................................................................ 10
2.2.2. Tính tổng hợp .............................................................................................................. 11
2.2.3. Tính linh hoạt .............................................................................................................. 11
2.3. Không gian ......................................................................................................................... 12
2.4. Người thưởng thức ............................................................................................................ 13
CHƯƠNG 3. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH ..................................................................................... 14
KẾT LUẬN ...................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................... 17
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC............................................................................................ 18
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do, mục đích nghiên cứu
Con người sống trong mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên.1 Vì thế, con người vừa
phải thích nghi vừa phải cải tạo môi trường tự nhiên bằng cách sản xuất ra các điều kiện
mang tính chất nhân tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Với Việt Nam – là một đất
nước mang đậm dấu ấn nông nghiệp lúa nước, có khí hậu nhiệt đới gió mùa thì mối quan
hệ đó là điều mang tính cụ thể. Nhưng qua đó, sự tác động qua lại giữa con người và tự
nhiên biểu hiện một quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá và hưởng thụ những sản phẩm
văn hóa của mình. Thật vậy, khi bàn về văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên, nhà văn
hóa Trần Ngọc Thêm khẳng định: ăn uống là việc có tầm quan trọng số một của con
người, bởi lẽ đó là điều nhân bản nhất của con người để duy trì sự sống. Nếu triết lý
phương Tây nhắc nhở: “Người ta ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn” thì người
Việt Nam nông nghiệp với tính thiết thực thì công khai nói to ăn uống quan trọng lắm:
“Có thực mới vực được đạo”.2 Tuy nhiên, việc ăn uống của người Việt không dừng lại chỉ
để nuôi thân mà trải qua lịch sử phát triển thì nó trở thành nét văn hóa ẩm thực của dân tộc
Việt. Hay nói khác đi, đó là một lĩnh vực văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên.
Quả vậy, nhìn vào thư viện ẩm thực của người Việt Nam, ta thấy mỗi miền lại có những
đặc điểm ẩm thực riêng làm nên nét đặc sắc của vùng miền. Đến Thái Bình có bánh cáy,
Hải Dương có bánh đậu xanh, Thanh Hóa có bánh gai Tứ Trụ, nem cây đa hay gỏi nhệch
Nga Sơn thì ở Nghệ An lại có rươi Mỹ Dụ (Hưng Trung, Hưng Nguyên), cam Xã Đoài,
nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn và còn nhiều đặc sản khác nữa.
Khi nói đến vùng đất Hà Tĩnh, người ta nghĩ ngay đến đặc sản kẹo Cuđơ. Đây là một sản
phẩm có nguồn gốc từ lâu và đã ăn sâu vào tâm thức mọi người. Tuy nhiên, nhìn vào thực
tế nó vẫn chưa trở nên một ngành nghề chính và còn sản xuất, chế biến mang tính thủ
công, chưa được đầu tư máy móc để phát triển. Hơn nữa, sản phẩm kẹo Cuđơ còn là kết
quả của một quá trình dài tìm tòi, chế biến nên nó có giá trị lịch sử, văn hóa. Chính những
điều đó đặt ra nhiệm vụ cho những người liên quan cần khai thác, tìm hiểu để có thể
quảng bá và phát triển du lịch của vùng đất đầy nắng gió này.
Với lý do và mục đích đó, nhóm chọn đề tài về văn hóa ẩm thực: “Đặc sản kẹo Cuđơ Hà
Tĩnh –dưới góc nhìn văn hóa” như bước đầu nhìn nhận giá trị văn hóa vốn có của nó.
2. Lịch sử nghiên cứu
Viết về kẹo Cuđơ của người dân Hà Tĩnh, đã có một số bài viết trên trang web như:
tác giả Thanh Tâm với bài “Kẹo Cuđơ Hà Tĩnh” trên baohatinh.vn hay Phan Dương với
bài “Ngất ngây với đặc sản Cuđơ Hà Tĩnh” trên duonghun.com; tác giả MIMI với bài
“Những món ăn Hà Tĩnh nhiều người mê” trên ngoisao.net. Nhưng những bài viết trên
các trang đó chỉ dừng lại ở việc giới thiệu và mang tính quảng bá về món ăn đặc thù của
vùng chứ chưa đi sâu khai thác những giá trị văn hóa mà sản phẩm mang lại. Đồng thời,
những bài viết đó chưa đưa ra những đề xuất để sản phẩm trở thành một món ăn thưởng
1 Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TP Hồ Chí Minh, 2001, 341
2 Id., 342
3
thức trong kho tàng ẩm thực Việt Nam. Vì thế, với đề tài “Đặc sản kẹo Cuđơ Hà Tĩnh-
dưới góc nhìn văn hóa” của nhóm tính đến thời điểm hiện tại được coi là mới.
3. Tài liệu nghiên cứu
Tài liệu liên quan đến đề tài: Nhóm sử dụng những bài viết, phóng sự về ẩm thực của
người dân Hà Tĩnh, cách riêng về kẹo Cuđơ. Từ đó, nhóm sử dụng tài liệu về văn hóa:
Tìm về bản sắc của người Việt Nam hay Cơ sở văn hóa Việt Nam của nhà văn hóa Trần
Ngọc Thêm và giáo trình Nhập môn Văn hóa học của Linh mục Hoàng Trọng Hiếu để có
cái nhìn thấu đáo hơn khi nghiên cứu đề tài dưới góc độ văn hóa ẩm thực.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, nhóm sử dụng một số phương pháp:
- Khảo sát để có cái nhìn thực tế về kẹo Cuđơ
- Thống kê, phân tích để có cái nhìn cụ thể về sản phẩm. Từ đó xem xét, nhìn nhận
sản phẩm dưới khía cạnh văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên.
5. Giới hạn của đề tài
Với khả năng của nhóm cũng như sự phong phú của sản phẩm, nhóm nghiên cứu đề tài
chủ yếu tại thành phố Hà Tĩnh, cách riêng tại một số lò kẹo Cuđơ như: Thư Viện, Bà
Hường, Xuân Hiền, Thanh Hạnh, Ông Lung, Việt Hà, Hùng Liễu Từ đó sẽ tìm ra
những điểm chung để có sự hiểu biết khái quát nhất về loại kẹo này.
6. Đóng góp của đề tài
Nhằm có cái nhìn cụ thể và hệ thống về sản phẩm kẹo Cuđơ của người dân Hà Tĩnh-
một đặc sản của văn hóa ẩm thực – tận dụng môi trường tự nhiên. Đồng thời, đề tài cũng
giúp người đọc khám phá được nét thú vị mà sản phẩm mang lại khi thưởng thức nó. Hơn
nữa, đối với người dân Hà Tĩnh thì đó là cơ hội để tạo thương hiệu cho sản phẩm có chỗ
đứng trên thị trường, hầu quảng bá cho mọi miền trong nước và nước ngoài.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài sẽ khai triển ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung: Trình bày một cái nhìn tổng quát về tên gọi, nguồn
gốc của kẹo Cuđơ cũng như tình hình sản xuất, tiêu thụ của loại kẹo này tại Hà Tĩnh.
Chương 2. Kẹo Cuđơ được nhìn nhận dưới góc độ văn hóa nhằm làm rõ vấn đề tận
dụng môi trường tự nhiên của nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam vào việc tạo ra sản
phẩm. Qua đó, nó thể hiện những đặc tính văn hóa mang màu sắc triết lý Phương Đông.
Chương 3. Nhóm đưa ra những nhận định chung về đặc sản kẹo Cuđơ của người dân
Hà Tĩnh trong việc quảng bá sản phẩm, đồng thời có một vài đề xuất để việc sản xuất
được hiệu quả hơn.
4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, giáo sư Nguyễn Lân định nghĩa: “Cuđơ là thứ kẹo
lạc trộn mật ở giữa 2 miếng bánh đa giòn.”3 Như vậy, nó là sự kết hợp, hòa quyện giữa
các nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên. Với khái niệm căn bản đó cộng với việc quan sát
thực tế, ta có thể đưa ra một nhận định chung rằng: Kẹo Cuđơ là một loại kẹo lạc được
nấu từ mật mía, đường, mạch nha, gừng có thêm lạc nhân và được đổ vào hai miếng bánh
tráng ép lại. Loại kẹo này rất dẻo và dính, có thể ăn không hoặc thưởng thức cùng
với nước chè xanh.4
Ban đầu kẹo Cuđơ được làm một cách đơn giản, nấu xong được đổ ra lá chuối, hay
giấy báo, mỗi lần ăn phải dùng tay bóc ra. Sau này mới dùng bánh tráng để thay thế cho lá
chuối và giấy báo. Sáng kiến này tuy đơn giản nhưng rất quan trọng, vừa sạch sẽ, vừa đỡ
mất công bóc giấy mà ăn lại vừa ngon, giòn rất khoái khẩu.
1.1.2. Nguồn gốc
Có nhiều cách giải thích về nguồn gốc khác nhau về loại kẹo Cuđơ, mỗi nguồn gốc lại
có những câu chuyện khác nhau. Nhưng tựu chung lại thì kẹo Cuđơ có nguồn gốc từ xóm
Thịnh Bình, xã Sơn Thịnh (Thịnh Xá cũ), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh do gia đình
ông Chắt Vy (ông Cu Hai) nấu. Ông bà Chắt Vy nay đã mất, ông bà có một người con gái
và hai người con trai. Ông bà Chắt Vy truyền nghề nấu kẹo cho người con gái đầu tên là
Cầm.5 Sau đó, nghề nấu kẹo bắt đầu phổ biến ở Hà Tĩnh.
Về tên gọi, ban đầu nó có tên là kẹo lạc (vì chỉ có mật mía và lạc) nhưng người ta thấy
như vậy là bất công cho người sáng chế nên gọi là kẹo “cu Hai”. Từ năm 1947, khi phong
trào Tây học nở rộ, những ông nghè ở đây mới đổi từ "Hai" thành "Deux" (tiếng Pháp có
nghĩa là hai, số 2) cho "trí thức". Còn "cu" chỉ có người Việt Nam mới dùng, là tên gọi
thân mật dành cho con trai. Các cụ vắt óc suy nghĩ cũng không biết đổi từ “cu” như thế
nào, đành kết hợp cách gọi Việt - Pháp là "cu deux" (cu đơ)
Ngoài ra, xung quanh cái tên gọi dân dã này cũng có nhiều cách giải thích khác, đó là
vào thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, khi những người lính Pháp vô tình ăn trúng kẹo “cu
Hai”, ghiền quá mới cho người truy tìm. Khi biết tên gọi của nó, họ mới đổi từ "Hai"
thành "Deux" cho phổ thông, để người Pháp tiện gọi. Còn "cu" thì chịu, không biết đổi
cách nào đành kết hợp đầu Việt, đuôi Pháp là "cu Deux" (cu đơ).
Nhưng đến nay kẹo Cuđơ Hà Tĩnh đã trở thành đặc sản, một thương hiệu trong kho
tàng ẩm thực của người dân Hà Tĩnh nói riêng và Việt Nam nói chung.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kẹo Cuđơ – một đặc sản của người dân Hà Tĩnh
3 Nguyễn Lân, Từ Điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb. TP HCM, 437
4https://vi.wikipedia.org, truy cập ngày 30/3/2016.
5 truy cập ngày30/3/2016.
5
Như chúng ta biết, Việt Nam là nước nông nghiệp. Vì vậy, ở mỗi vùng, mỗi miền
lại có những món ăn đặc sản với những hương vị đặc trưng khác nhau. Nếu như ở Thái
Bình có bánh cáy, Hải Dương có bánh đậu xanh, Thanh Hóa có bánh gai Tứ Trụ, nem cây
đa hay gỏi nhệch Nga Sơn thì ở Nghệ An lại có cam Xã Đoài, nhút Thanh Chương, tương
Nam Đàn. Và khi nhắc đến Hà Tĩnh một vùng đất đầy nắng và gió Lào thì người ta lại
nghĩ ngay đến kẹo Cuđơ. Bởi vậy có câu:
Chè xanh thêm chút gừng tươi
Cuđơ Hà Tĩnh làm say lòng người
Kẹo Cuđơ là một món ăn vừa dân dã vừa cao sang, được làm từ đậu phộng (lạc),
đường, mật, gừng và bánh đa.6 Nó mang đậm bản chất của người dân Miền Trung. Đây
cũng là đặc sản đặc trưng nhất của người Hà Tĩnh bởi nó chất chứa trong đó hương vị
thiên nhiên và hơi thở cuộc sống.7 Vị ngọt ngào của Cuđơ như sự hiền hòa nhân hậu chịu
thương chịu khó, vị chát của chè như những thăng trầm, những sự khắc nghiệt của thiên
tai mà con người nơi đây phải gánh chịu.
Với sự kết hợp giữa cái giòn tan của lớp vỏ bánh đa vừng bên ngoài, cái ngọt dẻo quẹo
của lớp mật mía bên trong hòa cùng cái béo bùi của lạc rang và thoang thoảng hương
thơm nồng nồng cay cay của gừng tươi, đã tạo nên một hỗn hợp bánh với hương vị đậm
đà. Miếng bánh vừa dai, vừa giòn, vừa ngọt, vừa thơm lại cay nhẹăn rất là “vừa miệng”.
Kẹo Cuđơ có hình tròn như trăng rằm và với dáng vẻ sần sùi, thô nhám, không có bề
ngoài hấp dẫn như các loại bánh kẹo hiện đại khác nhưng mang đậm nét đặc trưng của
vùng đất gió lào. Tuy nhiên, khi ăn miếng kẹo Cuđơ và uống bát nước chè xanh ta cảm
nhận một hương vị ngọt ngào, nồng ấm gói trọn cái hồn và cái tình của người Hà Tĩnh.
Cuđơ là một nét độc đáo, có đủ các vị ngọt bùi đắng cay như cuộc đời của những người
dân nơi đây.
1.2.2. Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ kẹo Cuđơ
Cách làm kẹo
Kẹo Cuđơ trông thì rất đơn giản, nhưng để làm ra được một tấm kẹo ngon lại đòi hỏi
phải có một sự khéo léo và tỉ mỉ từ việc chọn nguyên liệu cho đến việc nấu.
Về nguyên liệu: có hai loại
Nguyên liệu chính: Mật mía, lạc, bánh tráng.
Nguyên liệu phụ: gừng, chanh hoặc mạch nha.
Dụng cụ nấu: chảo hoặc nồi, muôi, đũa
Chọn nguyên liệu chính: Trước tiên, chọn mật là phải mật mía nguyên chất, không
được pha tạp đường, vì nếu có đường thì tấm Cuđơ sẽ không ngon và nhanh hỏng. Mật
mía phải thật trong và vàng óng, phải lấy mật mía ở vùng đồi chứ không được mua ở vùng
sông. Đồ đựng mật phải là chum sành trơn bóng hoặc vại để chất liệu của mật không bị
biến chất. Thứ đến là lạc (đậu phộng), phải là lạc đồi, loại hạt vừa, nhân phải chắc, đều
hạt, vỏ ngoài mỏng và bóng, không bị sâu hay thối. Khi rang phải để nguyên cả củ, rồi sau
6 PHAN DƯƠNG, “Ngất Ngây Với Đặc Sản Cu đơ Hà Tĩnh,” 23/12/2015, Truy cập ngày 2 tháng 4
năm 2015.
7 MIMI, “Những Món Ăn Hà Tĩnh Nhiều Người Mê,” 24/07/2015, ngoisao.net.Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015
6
đó mới bóc thành lạc nhân, như thế lạc mới không bị cháy mà còn thơm và giòn nữa. Cuối
cùng bánh tráng phải nhỏ hơn bánh thường và có vừng đen, các nếp quăn đều, khi nướng
không được để bánh thủng và phải chín đều, phải là loại bánh vừa phải, không dày mà
cũng không mỏng.
Phương pháp nấu
Có đủ mật, đậu phộng, bánh tráng thượng hạng nhưng chưa hẳn đã nấu được kẹo ngon
vì kỹ thuật nấu mới là quan trọng. Theo sự khảo sát thực tế của nhóm từ vài ba cơ sở sản
xuất kẹo thì khi nấu, phải đun mật cho thật sôi, lúc đó ta mới cho lạc vào và khuấy đều
tay, liên tục theo chiều kim đồng hồ, nếu không lạc sẽ bị trầy vỏ hoặc chìm xuống đáy nồi
và bị cháy, kẹo sẽ đắng. Sau cùng ta mới bỏ gừng vào. Để biết được khi nào là được, thì
khi bắt đầu ngửi thấy mùi thơm, người ta dùng chiếc đũa nhúng vào nồi kẹo đang nấu để
cho mật dính vào đầu đũa, sau đó nhỏ giọt mật ở đầu đũa vào bát nước lã, nếu giọt mật rơi
xuống nước mà tròn vo, không bẹp, không tan loãng ra là đạt yêu cầu, khi đó ta múc hỗn
hợp kẹo đổ ra bánh tráng. Đây chính là điểm cốt lõi trong kỹ thuật nấu, bởi nếu sớm quá
kẹo sẽ dẻo, độ kết dính yếu, mật non, lạc chưa chín kỹ. Nếu muộn quá thì mật và lạc sẽ bị
cháy, bánh sẽ đắng. Cuối cùng người ta mới nhỏ vào một ít mạch nha cho có mùi thơm rồi
úp lên một chiếc bánh tráng nữa là hoàn thành.
Nghề nấu kẹo Cuđơ chủ yếu là bằng thủ công với phương châm lấy công làm lãi cho
nên không đòi hỏi vốn liếng nhiều, chỉ cần đầu tư mấy cái chảo hoặc mấy cái nồi, một vái
cái bếp lò, mươi lăm cái muôi, dăm bảy đôi đũa và một ít vốn là có thể hành nghề.
Tuy nhiên, vì nấu bằng thủ công, không có máy móc nên những người làm nghề này
cũng rất vất vả. Một nồi kẹo từ khi bắc lên bếp cho đến khi nhắc xuống phải mất gần một
tiếng. Về mùa đông thì còn đỡ, nhưng về mùa hè, những ngày nắng nóng thì không thể
tưởng tượng nổi, những người nấu kẹo đứng bên lò lửa, nhiệt trong lò tỏa ra, hơi nóng từ
nồi kẹo bốc lên cộng thêm cái nắng nóng của thời tiết do gió lào mang đến. Nếu ai đã từng
đến đây mới có thể cảm nhận được nỗi vất vả của những người làm nghề này.
Để hiểu rõ hơn, sau đây nhóm xin giới thiệu sơ đồ về quy trình làm kẹo Cuđơ:
Mật mía nguyên chất
Đun sôi
Khuấy đều
Múc hỗn hợp kẹo
Để nguội
Rang
Bánh đa
Lạc
7
Tình hình sản xuất chế biến và tiêu thụ
Hiện nay ở Hà Tĩnh có rất nhiều cơ sở và làng nghề sản xuất, chế biến và tiêu thụ kẹo
Cuđơ nhưng chủ yếu là mạnh ai nấy làm. Rất nhiều hộ gia đình đã kinh doanh nghề kẹo
như một nghề chính. Cả tỉnh Hà Tĩnh ước tính có khoảng trên 400 lò kẹo lớn nhỏ, thu hút
một lượng lao động khá lớn.8 Tuy có nhiều những lò nấu kẹo như thế nhưng chỉ có một số
cơ sở là có thương hiệu và nổi tiếng như cơ sở sản xuất kẹo Cuđơ: Thư Viện (của ông bà
Thư Viện), Cầu Phủ, Hương Sơn, Công Thảo, Thu Chiến, Thanh Hạnh... tính sơ lược mỗi
ngày ở Hà Tĩnh sản xuất và tiêu thụ khoảng 20 tấn kẹo được đóng gói.9 Mỗi gói kẹo Cuđơ
có 5 đến 10 miếng và giá mỗi miếng khoảng 12 đến 14 nghìn đồng, tùy kích cỡ. Theo cô
Đặng Thị Thanh - chủ lò kẹo Cuđơ Thư viện cho biết: Thu nhập bình quân cho những
người làm nghề này khoảng từ 4.000.000 đến 4.500.000 VNĐ mỗi tháng. Đây là một việc
làm rất bổ ích vì nó không chỉ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện
đời sống cho bà con nông dân, mà còn bảo lưu và phát triển nghành nghề truyền thống.
Đến nay, kẹo Cuđơ đã được nhiều người biết đến bởi chất lượng và hương vị độc đáo
của nó. Kẹo đã theo chân những người bán buôn, bán lẻ, đi khắp các làng quê trong
huyện, trong tỉnh rồi ra ngoại tỉnh. Từ Hương Sơn, Cuđơ đã đi khắp bốn phương. Nghề
Cuđơ đã ra đến Nghi Xuân, đến Hồng Lĩnh, xuôi Can Lộc, vào Thị xã Hà Tĩnh có một
làng: đó là làng Cuđơ Đại Nài. Đi khắp cả một giãi đất Miền Trung, chỉ có kẹo cu đơ Hà
Tĩnh là ngon hơn cả. Từ bến xe thành phố Hà Tĩnh đi vào Nam hay ra Bắc chỗ nào cũng
có biển quảng cáo đủ các loại, đủ kiểu, đủ mẫu mã với màu mè mát mắt, dễ coi để rao mời
khách hàng dừng chân mua “đặc sản Cuđơ Hà Tĩnh”. Để diễn tả điều đó, bài thơ của Cụ
Đặng Minh Thư (Cu Thư) phần nào cho biết điều đó:
Cu xưa bay đến phố Nài
Bay từ viễn khách bay dài bay xa
Bay từ Cầu Phủ đến Na
Bay từ bến Thủy bay qua Ngang Đèo
Cũng nhờ mấy nhịp Cầu Treo
Cu đi xóa đói giảm nghèo thật nhanh
Cu xưa đậu nóc nhà tranh
Bay sang nhà ngói yên lành ấm no
Ngày xưa Cu mất tự do
Ngày nay Cu đến cho ta làm giàu
8 X. VĂN LÊ, “Cu đơ Hà Tĩnh – Ví Dặm Đò Đưa,” 20/05/2012, vidamdodua.com. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016
9 Id.,
Đóng gói
Kẹo
Cuđơ
8
Bà con làng xóm bảo nhau
Cho Cu lên chật chuyến tàu Bắc Nam
Thả Cu bay khắp xóm làng
Bay từ trong nước, bay ra nước ngoài
Cu đi bắc nhịp cầu dài
Vui cùng năm tháng đêm hoài nhớ Cu.
Trải qua thời gian, kẹo Cuđơ đã trở thành một sản phẩm có thương hiệu và chỗ đứng
trong văn hóa ẩm thực Việt Nam. Nó đã trở thành một sản phẩm văn hóa. Vậy, dưới góc
độ văn hóa, kẹo Cuđơ sẽ được nhìn nhận như thế nào?
9
CHƯƠNG 2. KẸO CUĐƠ DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
2.1. Kẹo Cu đơ trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
2.1.1. Kẹo Cuđơ tận dụng nguyên liệu tự nhiên
Như đã nới trên, kẹo Cuđơ được chế biến từ những nguyên liệu có trong tự nhiên, mỗi
nguyên liệu có những đặc tính riêng làm nên sản phẩm kẹo mang tính tổng hợp cao.
- Lạc: Là nguyên liệu chính của kẹo Cuđơ, với những tên gọi khác là: đậu
phộng, đậu phụng. Lạc là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Là nguồn thức ăn
giàu về dầu lipit và prôtêin, góp phần nâng cao sức khỏe cho con người. Lạc được trồng ở
nhiều vùng miền trên cả nước. Nhưng để làm kẹo Cuđơ, tốt nhất là loại lạc trồng ở Sơn
Trung, Sơn Giang, Sơn Bằng, Sơn Châu (Hương Sơn) hay Nghi Xuân, Thạch Trị, Thạch
Khê, Thạch Hội (Thạch Hà). Khi chọn lạc để làm kẹo, phải chọn loại hạt vừa, không bị
lép, thối, không bị sâu mọt hay trầy vỏ lụa.
- Mật mía: Là loại chất lỏng thu được từ cây mía, có màu vàng óng, vị thanh ngọt.
Mật mía được sản xuất từ nước mía qua quá trình cô đặc. Sản xuất mật mía, còn gọi là kéo
mật hay kéo tre (hoặc kéo che),10 là nghề thủ công truyền thống ở nhiều vùng nông
thôn Việt Nam, chủ yếu là khu vực trung du phía Bắc và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh. Tại miền Bắc, Việt Nam, bên cạnh dùng để làm kẹo Cuđơ, mật mía còn được sử
dụng phổ biến để làm các món ăn mang đậm bản sắc văn hóa. Chẳng hạn, một số nơi
ở Thanh Hóa, vào dịp Tết, mật mía được dùng để làm món chè trong ngày ông Táo về
trời, để chấm bánh chưng, làm bánh gai, chè lam Ở Nghệ – Tĩnh, mật được sử dụng cho
nhiều món ăn, bao gồm cả món mặn như thịt kho, cá kho và món ngọt như bánh mật, bánh
gai, bánh ngào, bánh khảo, cốm mật, chè lam, chè đỗ xanh rang, chè đỗ đen, đỗ đỏ, chè
khoai sọ, khoai mài, chè củ từ, củ vạc, chè hạt sen, chè kê, chè bí đỏ hoặc làm đồ chấm
xôi, bánh chưng, bánh giò, bánh nếp, thậm chí dùng làm đồ uống như món nước chè
xanh pha với mật mía.
Mật để làm kẹo Cuđơ phải trong, có màu vàng óng, được lấy từ mật mía nguyên chất.
Mật phải được bảo quản trong những chiếc hủ bằng sành hoặc sứ để không làm mất đi
hương vị của nó.
- Bánh đa: Nguyên liệu chính thường là bột gạo (nhiều nơi dùng sắn, ngô, đậu xanh
hoặc pha trộn chung) pha lỏng vừa phải với nước. Có cho vào đó một ít bột sắn với một tỷ
lệ hợp lý để bánh có thêm độ dẻo, ít bị bể và dễ tráng mỏng, nếu pha nhiều bột sắn sẽ làm
cho bánh có vị chua. Ngoài ra còn có các phụ gia khác như mè, muối, tiêu, tỏi, dừa, hành,
đườngtùy vùng miền.Bánh đa dùng trong sản xuất kẹo Cuđơ có hình tròn và có vừng đi
kèm. Bánh không quá dày, cũng không quá mỏng, có độ giòn xốp vừa phải.
- Gừng: Là loại cây thường niên, thân thảo. Gừng sống còn gọi là sinh khương có
tác dụng phát tán phong hàn, chống nôn ói. Gừng khô còn gọi là can khương, có thể làm
ấm tỳ vị. Gừng đốt cháy còn gọi là hắc khương. Hắc khương có vị đắng, có thể làm ấm
can thận, giáng hư hỏa. Vỏ gừng được gọi là khương bì có tác dụng lợi tiểu. Gừng được
10 Ngày Tết kéo che làm mật, Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016
10
bổ sung vào kẹo Cu Đơ để tăng lên hương vị của sản phẩm, làm giảm độ ngọt của mật
mía. Và cũng là để đem lại lợi ích cho sức khỏe của người tiêu dùng.
- Mạch nha: Là tên gọi dùng để chỉ loại mật dẻo được sản xuất từ ngũ cốc hay mạch
nha (lúa mạch, đại mạch, hột lúa mạch mì đã có mầm, lúa, nếp). Đây là một
chất đường dẻo được làm bằng gạo nếp và các loại tinh bột, có dùng men trong mầm thóc
để đường hoá. Ở Việt Nam, mạch nha là đặc sản truyền thống của vùng Thi Phổ,
huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.Đường mạch nha có tác dụng làm cho kẹo Cuđơ tăng độ
dai, không bị lại đường, không bị chảy nhão. Đây là loại nguyên liệu cần thiết, rất bổ nhờ
có nhiều sinh tố, hợp tì vị, nhất là những người yếu dạ dày.
Với những nguyên liệu tự nhiên được lấy từ nhiều vùng nông nghiệp khác nhau tạo nên
một sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao cũng như mang âm hưởng văn hóa nông nghiệp
sâu sắc.
2.1.2. Kẹo Cuđơ mang dấu ấn nông nghiệp lúa nước
Việt Nam là một đất nước nằm ở xứ nhiệt đới, là một trong những trung tâm của nghề
trồng trọt, rau quả của Việt Nam mùa nào thức ấy, vô cùng phong phú.11 Ngoài ra lãnh thổ
Việt Nam được chia thành ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa
lý, văn hóa, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng miền. Mỗi
miền có một khẩu vị đặc trưng riêng. Loại kẹo Cuđơ cho thấy một nét đặc trưng của vùng
Bắc Trung Bộ, cách riêng là của người Hà Tĩnh. Nó mang hương vị của thiên nhiên, mang
đậm dấu ấn của nền nông nghiệp lúa nước.
Như đã nói, nguyên liệu để làm nên kẹo Cuđơ gồm: Mật mía, lạc, bánh đa, gừng, mạch
nha, vừngĐây là những sản phẩm của nền nông ghiệp lúa nước. Nông nghiệp lúa nước
là một hình thức sản xuất có truyền thống từ lâu đời của người dân Việt Nam.
Ngày xưa, trong việc làm ăn kinh tế, người Việt Nam lấy nông nghiệp làm chủ đạo.
Chính sự gắn bó với nông nghiệp đã giúp người Việt tổ chức nên đời sống cộng đồng, xã
hội, và phát sinh ra nhiều tín ngưỡng, nhiều phong tục tập quán khác nhau.
Ngày hôm nay, tuy Việt Nam đã bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhưng người dân vẫn còn tiếp tục gắn bó với nông nghiệp, vẫn coi đó là ngành sản xuất
chủ đạo của quê hương mình. Dễ gì để từ bỏ khi mà cây Lúa, cây lạc, cây mía, cây vừng,
củ gừngđã trở thành một nét văn hóa đi vào tâm thức và gắn bó máu thịt của người dân.
Chiếc kẹo Cuđơ tuy nhỏ bé, nhưng với mùi vị đặc trưng, nó chứa đựng cả linh hồn quê
hương trong đó. Một quê hương mang đậm dấu ấn của nền nông nghiệp lúa nước.
2.2. Kẹo Cuđơ trong văn hóa nhận thức
2.2.1. Tính âm dương
Trong tâm thức của người Việt, âm – dương luôn luôn tồn tại trong sự cặp đôi, tương
ứng. Chỉ khi có sự tồn tại đó thì sự vật mới hài hòa, hoàn thiện, trọn vẹn, vững bền và hợp
quy luật trời đất. Vì thế, ý niệm về sự tồn tại có tính cặp đôi của các hiện tượng như: trời-
đất, nóng-lạnh, cay-ngọttrong các sự vật làm nên trạng thái cân bằng động để mọi vật
phát triển và vận động bình thường. Chính điều đó đã bắt rễ sâu trong đời sống văn hóa
vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam. Nó trở thành cơ sở nhận thức để từ
11 Hoàng Trọng Hiếu, Nhập môn Văn hóa học, ĐCV Vinh Thanh, 2016, 151.
11
đó người Việt hình thành các triết lý sống cho mình và truyền lại cho các thế hệ sau.12
Triết lý đó được thể hiện rõ trong cách chế biến, sản xuất kẹo Cuđơ của người dân Hà
Tĩnh. Trong sản phẩm kẹo, tính âm được thể hiện ở sự mềm dẻo của mạch nha, màu đen
của mật mía. Tính dương được thể hiện ở vẻ cứng, nóng của lạc, cay của gừng, hình tròn
của tấm kẹo.
2.2.2. Tính tổng hợp
Tính tổng hợp của tấm kẹo Cuđơ được thể hiện ở trong cách chế biến và cách ăn:13
Trong cách chế biến: Sự tổng hợp nhiều nguyên liệu khác nhau. Tuy nhìn tấm kẹo bình
dị, đơn sơ nhưng để chế biến nên sản phẩm thực thụ thì cẩn thận trong việc chọn nguyên
liệu cũng như tỷ lệ pha trộn và cách nấu. Để có những hương vị riêng cần có những kinh
nghiệm, bí quyết riêng mang tính gia truyền. Kẹo được chế biến tổng hợp giữa mật mía
với mạch nha, kết hợp với lạc rang, gừng, chanh và tấm bánh đa kẹp bên ngoài tạo nên
một món ăn hấp dẫn, đa màu và đa vị.
Trong cách ăn: Có thể ăn kẹo Cuđơ riêng, nhưng tuyệt nhất là thưởng thức kẹo Cuđơ
với nước chè xanh hay là trà, sẽ thấy vị ngọt bùi của kẹo và vị đắng chát của chè hòa tan
vào nhau rất thú vị và tuyệt vời. Ăn kẹo Cuđơ, uống nước chè xanh, hai cái này như hình
với bóng, đan quyện vào nhau tạo nên một nét văn hóa ăn sâu vào máu thịt không thay đổi
của người dân Hà Tĩnh. Kẹo Cuđơ và nước chè xanh là đặc sản dân dã của người Hà Tĩnh.
2.2.3. Tính linh hoạt
Tính linh hoạt trong văn hóa ẩm thực Việt Nam thể hiện ở việc chế biến thức ăn phù
hợp với khí hậu, mùa và theo vùng miền.14 Đối với sản phẩm kẹo Cuđơ, ta nhận thấy tính
linh hoạt được thể hiện ở nhiều khía cạnh:
Linh hoạt trong cách đóng gói, bảo quản
Ban đầu người ta làm kẹo Cuđơ rồi đổ ra lá chuối hay giấy báo, điều này dẫn đến khả
năng bảo quản kém, thời gian không được lâu. Cùng với thời gian và với nhu cầu con
người đã biết cách đóng gói những tấm kẹo Cuđơ bên ngoài bằng những lớp giấy và bao
bóng hầu giữ cho kẹo được mềm dẻo và độ giòn được lâu hơn. Với nhu cầu và thị hiếu
của người tiêu dùng cũng như để thuận tiện cho việc vận chuyển và trao đổi mua bán,
những người sản xuất kẹo đã đóng gói và bảo quản kẹo trong những hộp nhựa, làm cho
việc bảo quản kẹo được tốt hơn, an toàn và vệ sinh hơn, thời gian sử dụng cũng được lâu
hơn.
Linh hoạt trong các thành phần pha chế
Đầu tiên, khi mới hình thành người ta chỉ sử dụng hai nguyên liệu chính là mật mía và
đậu phộng (lạc), những nguyên liệu này thường là do tự tạo ra. Người ta nấu kẹo Cuđơ
bằng mật mía, lạc, nấu xong đổ ra lá chuối hay giấy báo, mỗi lần ăn phải dùng tay bóc ra,
điều này cũng bất tiện. Cùng với thời gian và với nhu cầu thưởng thức, con người đã biết
sử dụng thêm những nguyên liệu khác như gừng, bánh tráng, mạch nha chế biến thành
những miếng kẹo Cuđơ trông bắt mắt và hấp dẫn hơn nhiều. Lạc được chọn phải là lạc
đồi, giòn, đều hạt, vỏ ngoài mỏng và bóng. Mật phải là thứ mật sánh, thơm và đặc như
12 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Tp. HCM, 53-56
13 Huấn Phan “Ăn kẹo Cuđơ cảm nhận cái tình người Hà Tĩnh, Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2016
14 Trần Ngọc Thêm, Sđd., 153
12
mật ong, bánh tráng không quá dày cũng không quá mỏng, phải có vừng và gừng ở đầu vỏ
bánh.15
Linh hoạt trong việc tạo ra sản phẩm kẹo Cuđơ
Điều này được thể hiện qua hình dáng, kích cỡ kẹo Cuđơ. Có loại kiểu hình bán nguyệt,
có loại kiểu hình tròn (mặt trăng, loại này là chủ yếu), cũng tùy vào nhu cầu người tiêu
dùng và thị trường tiêu thụ mà kích cỡ và hình dáng cũng khá phong phú và đa dạng (loại
nhỏ, loại vừa, loại lớn) thuận tiện cho việc chọn lựa và sử dụng.
Có loại kẹo Cuđơ khác được nấu non (mềm) hơn, múc vào bát con (người Hà Tĩnh gọi
là đọi) và dùng thìa để xúc ăn gọi là “kẹo đọi”, loại này chủ yếu bán tại nhà do loại kẹo
này khó đóng gói và không bảo quản được lâu.
Tính linh hoạt trong việc chế biến phù hợp với khẩu vị thưởng thức
Có loại kẹo Cuđơ được làm bởi mật mía, lạc, bánh đa và mạch nha, không gừng. Có
loại được làm bởi mật mía, lạc, mạch nha, bánh đa và gừng.
Tính linh hoạt trong cách thưởng thức thể hiện ở việc phối hợp các thành phần một
cách tương hợp để tạo nên hương vị món ăn vừa hợp khẩu vị và hợp với trạng thái sức
khỏe của cơ thể.
Âm Dương
Mật mía Chè xanh, trà
Lạc, bánh đa Gừng
Có thể ăn kẹo Cuđơ mọi thời điểm trong năm, nhưng theo ý kiến chủ quan của chúng
tôi thì sẽ lý tưởng và tuyệt nhất để thưởng thức kẹo Cuđơ là vào những ngày đông giá rét,
ăn kẹo Cuđơ uống hớp chè xanh nóng hổi thì sẽ hấp dẫn và thú vị biết mấy. Cuđơ Hà Tĩnh
đủ cả bốn mùa, nhất là mùa đông Cuđơ được tiêu thụ nhiều nhất.
2.3. Không gian16
Như đã nói về nguồn gốc và lịch sử kẹo Cuđơ. Nói đến Hương Sơn là nói đến vùng quê
của danh nhân, thi ca, nghệ thuật, với những bài hát hay, ấm áp, tình cảm và đi vào lòng
người, đi cùng năm tháng. Nhưng có một nét văn hóa vẫn tồn tại và còn lưu giữ từ bao đời
cho đến hôm nay: văn hóa về ẩm thực truyền thống. Ngày xưa là gia truyền, nhưng bây
giờ thì phổ biến khắp vùng quê Hà Tĩnh, rộng ra là cả Nghệ Tĩnh, nhưng bản chất của nó
vẫn được các thế hệ gìn giữ và phát huy . Đó là câu chuyện lịch sử của kẹo Cuđơ.
"Làng Cuđơ" trải dài từ bến xe Hà Tĩnh cho tới cầu Phủ. Những chuyến xe khách Bắc -
Nam mỗi lần qua đây đều dừng lại để khách mua quà. Vào buổi sáng, ở làng này nhộn
nhịp bán hàng cho khách vào Nam, ra Bắc. Thế nhưng vào buổi chiều thì khá im ắng. Vì
thế, mỗi buổi chiều tàn, khi những đụn khói bắt đầu len qua những nóc nhà tranh thì ở
phía tây cầu Phủ, người đi đường như bị níu kéo bởi mùi thơm của mật mía, đường, mạch
nha, gừng hòa quyện vào nhau. Mùi dẻo quẹo của mật mía nguyên chất, mùi cay cay của
gừng, mùi ngọt lịm của mạch nha khiến cho mọi người chỉ cần ngửi đã "say".
15 Cuđơ – Thức quà khó quên nơi vùng “đồng chua nước mặn”, Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2016
16 “Làng kẹo Cuđơ Cầu Phủ”, https://keocudohatinh.wordpress.com/, Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2016
13
Người Hà Tĩnh xem kẹo Cuđơ như như linh hồn của quê hương. Những gia đình có con
đi làm ăn xa, cứ mỗi lần có người cùng quê vào thăm, nhất định họ phải gửi theo vài bịch
kẹo. Nếu như lâu lâu không có ai về, họ sẽ gửi qua đường bưu điện.
Ban đầu nhìn thấy miếng Cuđơ sần sùi, chẳng bắt mắt tí nào, ai cũng ngại ăn. Nhưng ai
có "dũng cảm" nếm một lần sẽ không bao giờ quên. Lúc miếng kẹo hòa tan trong miệng,
ta không thể phân biệt được có bao nhiêu thứ cấu thành. Tất cả là một cảm giác ngọt lịm
trên đầu lưỡi, vị cay cay của gừng và chất bùi bùi của hạt lạc đọng lại mãi trong cảm giác.
Kẹo Cuđơ mang đậm dấu ấn của con người Hà Tĩnh, bên ngoài thì sần sùi chất phác, tên
gọi thì dân dã, đơn sơ nghe đến nực cười nhưng bên trong là cả một nội lực tiềm tàng. Có
phải đó là thứ để mà "Ai đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh!".
Bát nước chè xanh, miếng kẹo ngọt ngào pha chút gừng cay, ẩm thực đặc sản đất Hà
Tĩnh để lại dư vị riêng, không lẫn vào đâu được. Tuy nhiên, tại một số tỉnh bắc miền
Trung, xuất hiện một số cơ sở sản xuất kẹo Cuđơ mác Hà Tĩnh, chất lượng kém. Loại kẹo
không chính hiệu này thường được bày bán tại ga tàu, bến xe.
2.4. Người thưởng thức
Kẹo Cuđơ là món ăn dân dã, hợp với khẩu vị của tất cả mọi người, từ trẻ nhỏ đến
những người lớn tuổi, là món ăn phổ thông của hầu hết mọi người, mọi thành phần, mọi
tầng lớp, ai cũng ăn được. Từ những em học sinh tiểu học, từ những cô cậu sinh viên, từ
những người nông dân đến những người giàu có thượng lưu, từ những người lao động
chân tay đến những người lao động trí thức... tất cả đều bình đẳng thưởng thức.
Từ xưa người dân vùng đất Hà Tĩnh, nhất là những bậc cao niên trong làng có một thói
quen rất tao nhã, đêm đêm bên ấm nước chè xanh cùng thưởng thức kẹo Cuđơ, cùng nhau
bàn luận chuyện làng, chuyện nước, thật là ý vị và đượm tình người, tình quê.
Kẹo Cuđơ cũng là một nhịp cầu nối liền những người con xa xứ với mảnh đất nơi chôn
nhau cắt rốn, mảnh đất quê hương nơi họ sinh ra. Kẹo Cuđơ như là niềm tự hào của những
người dân Hà Tĩnh để đi đâu, ở đâu keo Cuđơ như là món quà không thể thiếu, là hình ảnh
gợi nhớ quê nhà. Có một nhận xét không ngoa: người dân Hà Tĩnh xem kẹo Cuđơ như là
linh hồn của quê hương, vừa giản dị, chân phương lại ngọt ngào tình quê. Nó gợi lại trong
tâm hồn những người con xa xứ bao cảm xúc về quê hương.
14
CHƯƠNG 3. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
Kẹo Cuđơ từ xưa đến nay vẫn luôn được nhiều người ưa chuộng, vì nó gắn liền với đời
sống cộng đồng của người Việt. Cuđơ Hà Tĩnh thường có mặt trong các gia đình, trong
các buổi tiệc và hội hè làng xóm bên cạnh ấm nước chè xanh cùng với điếu thuốc lào.
Thoạt đầu kẹo Cuđơ chỉ được biết đến ở vùng Hà Tĩnh, nhưng cho đến ngày nay, việc ăn
Cuđơ, uống nước chè xanh và hút thuốc lào dường như đã trở nên phổ biến ở nhiều nơi.
Vì thế, kẹo Cuđơ ngày càng được biết đến và trở nên nổi tiếng hơn. Kẹo Cuđơ Hà Tĩnh đã
trở thành sản phẩm để tặng biếu với giá trị là đặc sản của vùng miền. Vì vậy, nó đã đóng
góp một phần lớn trong việc tổ chức đời sống văn hóa, tinh thần cũng như đời sống kinh
tế cho người dân trong vùng. Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, qua việc thưởng thức kẹo Cuđơ, chúng ta nhận ra một nét văn hóa ẩm
thực rất phong phú trong đời sống người Việt. Đó là tính sáng tạo và linh hoạt trong việc
sản xuất chế biến. Người dân đã biết tận dụng các sản phẩm nông nghiệp gần gũi với đời
sống để chế biến thành những sản phẩm chất lượng. Khi thưởng thức kẹo Cuđơ người ta
thường kết hợp với việc uống nước chè, với vị chát của chè hòa với vị ngọt của kẹo sẽ làm
cho mùi vị của kẹo hấp dẫn hơn. Qua đó nó cũng mang một triết lý sống của người dân,
đó là trong cuộc sống luôn có sự hòa quyện giữa sự ngọt ngào và cay đắng, sự cay đắng
và ngọt ngào ấy làm nên ý nghĩa của cuộc đời.
Thứ hai, việc thưởng thức kẹo Cuđơ đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần
của người dân. Qua việc thưởng thức, người Việt đã biểu lộ một nét đẹp trong văn hóa
cộng đồng. Tất cả mọi người đều chung chia với nhau một mẩu kẹo, một ấm chè xanh thể
hiện tính đoàn kết, sự sẻ chia trong cuộc sống, và tình thân hữu trong đời sống.
Thứ ba, việc sản xuất, chế biến kẹo Cuđơ còn mang lại ý nghĩa về mặt kinh tế cho
người dân. Thật vậy, việc sản xuất giúp tạo công ăn việc làm cho nhiều người, không
những cho những người trực tiếp sản xuất, nhưng còn là những nhân công gián tiếp,
những người sản xuất nông nghiệp. Bởi chưng, nguyên liệu của kẹo Cuđơ chính là các sản
phẩm nông nghiệp như: vừng, lạc, mật mía, mạch nha, bánh đaQua đó giúp tiêu thụ sản
phẩm của người dân trong vùng, giúp ổn định kinh tế của người dân phần nào.
Thứ bốn, về vấn đề chất lượng sản phẩm, vì nguyện liệu là các sản phẩm sạch của nông
nghiệp, nên vấn đề chất lượng sản phẩm được đảm bảo là an toàn thực phẩm. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng không tránh khỏi các cơ sở sản xuất chạy theo lợi nhuận, đã sử dụng các
chất bảo quảnlàm cho chất lượng của sản phẩm giảm xuống. Đây là vấn đề báo động
của đất nước chúng ta trong thời gian gần đây. Ngoài ra, chất lượng của sản phẩm còn
chịu ảnh hưởng của yếu tố gia truyền, nghĩa là công thức chế biến để có sản phẩm chất
lượng thì rất ít người biết, nếu như vì lợi nhuận mà sản xuất đại trà thì những sản phẩm
không chất lượng nhưng vẫn mang nhãn mác là Cuđơ Hà Tĩnh sẽ làm cho uy tín của sản
15
phẩm ngày càng giảm, thiết nghĩ đây cũng là vấn đề cần được quan tâm và có giải pháp để
bảo vệ uy tín cho sản phẩm.
Cuối cùng là vấn đề bảo vệ môi sinh. Việc sản xuất kẹo thường chỉ là sản xuất với quy
mô gia đình, vì thế rất ít nơi được trang bị các dụng cụ bảo đảm vệ sinh thực phẩm. Cùng
với đó là việc bảo quản nguyên liệu sản xuất và xử lý rác thải chưa được coi trọng ví dụ
như đường, mật, lạc, vừng tất cả những thứ đó lại trở thành thức ăn cho các côn trùng
như kiến, muỗi, ruồi Vì vậy nếu không có phương pháp vệ sinh tốt thì làm cho các côn
trùng này ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn nước và môi trường.
Vì thế, thiết nghĩ cần đưa ra những giải pháp cho việc bảo quản và xử lý môi trường xung
quanh cơ sở chế biến và sản xuất.
Qua đó, thiết nghĩ rằng khi tất cả những yếu tố về chất lượng và bảo quản được bảo
đảm, thì trong tương lai, nghề sản xuất Cuđơ Hà Tĩnh sẽ tiếp tục phát triển và đây cũng là
một hướng đi cho những người dân trong nghề này.
16
KÊT LUẬN
Ẩm thực là một bộ phận thiết yếu cấu thành bản sắc văn hóa dân tộc, là một trong
những lãnh vực thể hiện đặc tính của một dân tộc. Trên giãi đất Việt Nam thân yêu này,
ngoài những đặc trưng chung nhất về ẩm thực thì vẫn còn có những kiểu khẩu vị riêng của
từng vùng. Sở dĩ như vậy là do có sự khác biệt về điều kiện địa lý, môi trường sinh thái và
nguồn nguyên liệu tại chỗ làm nên thực phẩm. Chính vì thế, kẹo Cuđơ của người Hà Tĩnh
đã góp phần tạo nên nét độc đáo trong văn hóa của người dân nơi đây.
Kẹo Cuđơ từ lâu đã trở thành một món ăn rất đặc trưng của vùng đất Hà Tĩnh. Nó đã đi
vào lòng người không chỉ riêng người dân ở nơi đây, mà còn có thể nói là đối với tất cả
những ai đã từng một lần thưởng thức loại kẹo đặc biệt này.
Cuđơ Hà Tĩnh không đơn thuần chỉ là món ăn mà đó còn là một nét văn hóa rất đặc
trưng và độc đáo của người dân tại vùng đất này. Thú vui bình dị của người Hà Tĩnh là
ngồi ăn Cuđơ và nhâm nhi bát nước chè xanh cùng đôi câu chuyện với bạn bè. Người Hà
Tĩnh xem kẹo Cuđơ như là linh hồn của quê hương, vừa giản dị, chân phương, lại ngọt
ngào tình quê. Nó gợi lại trong tâm hồn những người con xa xứ bao cảm xúc về mảnh đất
“khô cằn sỏi đá” nhưng vô cùng ấm áp và bình dị này.
Xã hội ngày càng phát triển, có nhiều loại bánh kẹo đẹp mắt, đắt tiền được sản xuất
theo dây chuyền công nghệ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, nhưng Cuđơ
vẫn có chỗ đứng trong làng bánh kẹo, được nhiều người biết và nhắc tới. Hình ảnh chiếc
kẹo thô ráp, sần sùi mang dáng vẻ mộc mạc, chân quê vậy mà vẫn ánh lên nét kiêu
hãnh. Đơn giản là thế nhưng nó gói trọn cái hồn, cái tình của người Hà Tĩnh.
Kẹo Cuđơ như là gạch nối, tự nó như là một lời giới thiệu đậm nhất về mảnh đất Hà
Tĩnh nằm trên giãi đất miền Trung hình chữ S vừa mộc mạc nhưng thắm tình người như
vị ngọt bùi của kẹo Cuđơ. Ai đó đã có lần ghé thăm Hà Tĩnh mà chưa thử một miếng kẹo
Cuđơ, uống hớp chè xanh thì coi như chưa đến đất Hà Tĩnh, vì đó như là một nét văn hóa
mời khách truyền thống từ bao đời của vùng quê này.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Trọng Hiếu, Nhập môn Văn hóa học, ĐCV Vinh Thanh, 2016.
2. Nguyễn Lân, Từ Điển Từ Và Ngữ Việt Nam, Nxb. TP HCM, 2006.
3. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TP Hồ Chí Minh, 2001.
4. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, 1996.
Các trang web:
5.
6.
7.
8.
9. http:// ngoisao.net/
10. https://keocudohatinh.wordpress.com/
11.
12. https://vi.wikipedia.org/
18
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC
CÔNG VIỆC NGƯỜI THỰC HIỆN
Phần mở đầu Giuse Bùi Đình Hưởng
(biên tập, thực hiện phóng sự)
Chương 1. Những vấn đề chung
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Nguồn gốc
Giuse Hà Văn Tú
1.2. Cơ Sở Thực Tiễn
1.2.1. Kẹo Cuđơ – Một Đặc Sản Của Người Dân Hà Tĩnh
1.2.2. Tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ kẹo Cuđơ
Phêrô Phạm Văn Xuân
(thuyết trình 1)
Chương 2. Kẹo Cuđơ- dưới góc nhìn văn hóa
2.1. Kẹo Cuđơ trong văn hóa ứng xử với môi trường tự
nhiên
2.1.1. Tận dụng nguyên liệu tự nhiên
2.1.2. Mang dấu ấn nông nghiệp lúa nước
Phêrô Nguyễn Thế Việt
(thuyết trình 2)
2.2. Kẹo Cuđơ trong văn hóa nhận thức
2.2.1. Tính âm dương
2.2.2. Tính tổng hợp
GB. Đặng Văn Cường
2.2.3. Tính linh hoạt và 2.4. Chủ thể thưởng thức Giacôbê Nguyễn Ngọc Hạnh
2.3. Không gian Antôn Trần Văn Phụng
(Kỹ thuật)
Chương 3. Một vài nhận định Gioan Phan Văn Chung
Kết luận Phêrô Nguyễn Văn Hoàng
(thuyết trình 3)
19
PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ SẢN PHẨM
Tấm kẹo
Cuđơ được
đưa ra dĩa
20
Chú thích 1: Mật mía được đun sôi
21
Tấm kẹo thành hình
22
Gừng, lạc – hai nguyên liệu của kẹo Cuđơ
23
Khách hàng chờ đợi mua sản phẩm tại Lò kẹo Cuđơ Thư Viện
Song Toàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cu_do_ha_tinh_duoi_goc_nhin_van_hoa_4451.pdf