Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới. Xu hướng này vừa thúc đẩy hợp tác phát triển, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể thiếu các hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ hội nghị Trung ương VI, Đảng và Nhà nước ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế. Bởi vậy trong suốt thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong những năm gần đây, hoạt động ngoại thương luôn đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng tiêu thụ sản phẩm trong nước, thu ngoại tệ về cho đất nước, tạo điều kiện cho việc NK những mặt hàng quan trọng phục vụ nhu cầu đổi mới công nghệ, trang thiết bị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước ta hiện nay là phải mở rộng kinh tế đối ngoại hướng về XNK. Tuy nhiên, thị trường quốc tế ngày càng mở rộng thì khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp XNK của Việt Nam cũng ngày càng lớn. Sự thiếu hụt về vốn, sự hạn chế về trình độ và kinh nghiệm kinh doanh trong thương mại quốc tế chính là những khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị trường toàn cầu hoá. Bên cạnh đó, để đảm bảo lợi ích của mình, thông thường mỗi bên tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế đều yêu cầu đối tác của mình cung cấp sự đảm bảo chắc chắn việc thực hiện hợp đồng hoặc khả năng thanh toán bởi một tổ chức có uy tín. Vì những lý do đó, các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế cần có sự hỗ trợ về tài chính cũng như uy tín thông qua các hình thức tài trợ XNK.
Thực tế cho thấy, các NHTM, với tư cách là một định chế tài chính có ưu thế về vốn và có uy tín lớn trong xã hội, được đánh giá là tổ chức thực hiện hoạt động tài trợ XNK tốt nhất và có hiệu quả nhất hiện nay. Ngược lại, đối với mỗi NHTM, nghiệp vụ tài trợ XNK cũng là một nghiệp vụ quan trọng đem lại một phần doanh thu không nhỏ cho ngân hàng.
Cùng với sự phát triển không ngừng của thương mại quốc tế, hoạt động tài trợ XNK của các NHTM trên thế giới cũng ngày càng đa dạng, phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các hình thức tài trợ chủ yếu vẫn là những hình thức truyền thống và khá giản đơn. Xuất phát từ mong muốn nghiên cứu giải pháp đa dạng hoá các hình thức tài trợ XNK trên cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động tài trợ tại SGD – NHNT Việt Nam, em xin đưa ra đề tài: “Đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
93 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2579 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng mua – bán những mặt hàng có giá trị lớn, có quan hệ cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ thường xuyên, giao nhiều lần trong năm với số lượng đều đặn. Ngân hàng đồng ý mỗi L/C tuần hoàn là tạo thuận lợi cho nhà NK trong khâu thanh toán. Sự ưu đãi này thể hiện ở chỗ giúp nhà NK không bị đọng vốn, đồng thời không tính phí mở L/C nhiều lần.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện phát hành L/C chuyển nhượng đối với những khách hàng có nhu cầu. Mặc dù số lượng không nhiều, không đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng thậm chí ngân hàng còn có thể gặp rủi ro trong thanh toán, tuy nhiên, điều này cũng thể hiện sự đa dạng hóa trong nghiệp vụ để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.
Hoạt động bảo lãnh tại SGD
Hoạt động bảo lãnh của SGD kể từ thời điểm tách khỏi Hội sở chính, chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc áp dụng Quy trình tín dụng mới vào ngày 3/7/2006. Tuy nhiên, với nỗ lực của từng cán bộ trong Phòng bảo lãnh và sự điều hành của Ban giám đốc, hoạt động bảo lãnh vẫn thu được những kết quả khả quan.
Đến cuối năm 2006, số dư bảo lãnh đạt 1.000,27 tỷ VND, cam kết L/C trả chậm đạt 4,75 tỷ VND. Do vậy, tổng số dư bảo lãnh trong nước và nước ngoài đạt 1.093,11 tỷ VND và đạt 79,79% kế hoạch TW giao.
Bảng 2.10. Tình hình bảo lãnh tại SGD – NHNT VN năm 2005-2006
Đơn vị: Triệu VND, 1000USD
Chỉ tiêu
2005
2006
Số dư
31/12
Số dư 31/12
Bquân năm
PS nợ (nhập)
PS có (xuất)
I- BL trong nước
1. BL bằng VND
BL thực hiện hợp đồng
114.457
118.143
117.552
84.015
80.329
BL thanh toán
259.231
244.526
243.303
28.839
43.544
BL dự thầu
23.769
38.785
38.630
78.732
63.716
BL khác
23.769
38.704
38.549
79.821
64.886
2. BL bằng ngoại tệ
BL thực hiện hợp đồng
4.417
4.779
4.750
3.693
3.331
BL thanh toán
4.355
5.653
5.636
20.957
19.659
BL dự thầu
234
476
475
3.242
3.000
BL khác
9.099
9.499
8.834
3.000
2.600
II- BL nước ngoài
1. BL ngắn hạn
28.530
31.095
32.698
40.317
37.752
BL khác
25.223
26.343
27.660
18.644
17.524
L/C trả chậm
3.307
4.752
5.037
21.673
20.228
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của SGD – NHNT 2005-2006)
Kể từ khi áp dụng Quy trình tín dụng mới, lượng khách hàng đến giao dịch bảo lãnh không có nhiều biến động. Việc áp dụng Quy trình này đã có tác động tâm lý đến khách hàng, tuy nhiên do phong cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, chu đáo, Phòng bảo lãnh vẫn giữ được quan hệ tốt với những khách hàng truyền thống, có lượng giao dịch bảo lãnh lớn như Công ty Cáp Vinadaesung, Công ty Seen, Coalimex… Những khách hàng này vẫn thường xuyên giao dịch và góp một phần không nhỏ giúp cho số món giao dịch bảo lãnh tăng vọt trong năm 2005 và 2006.
Bảng 2.11. Số lượng thư bảo lãnh phát hành tại SGD năm 2005-2006
Đơn vị: món
Thời kỳ
2005
2006
% tăng/giảm
01/01 đến 30/11
2.100
2.600
+23%
01/01 đến 31/12
2.250
2.850
+26,67%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của SGD – NHNT 2005-2006)
Số thư phát hành bảo lãnh trong năm 2006 đạt 2.850 thư, tăng 26,67%, doanh số phát hành bảo lãnh đạt 1.100 tỷ VND, giảm 42% và doanh số giải toả quy VND đạt 1.053,07 tỷ VND, giảm 36% so với năm 2005. Điều này cũng phản ánh uy tín và chất lượng bảo lãnh của SGD được khẳng định với khách hàng.
Bảng 2.12. Doanh số phát hành bảo lãnh tại SGD năm 2005-2006
Đơn vị: tỷ VND
Thời kỳ
2005
2006
% tăng/giảm
01/01 đến 30/11
1.838,89
922,12
-49%
01/01 đến 31/12
1.885,40
1.100
-42%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của SGD – NHNT 2005-2006)
Trước năm 2006, SGD đã phát hành những giao dịch bảo lãnh có giá trị lớn, thuộc đối tượng khách hàng này như Tổng công ty Sông Đà (264 tỷ VND), Vinashin (7,5 triệu USD)… và những món bảo lãnh thanh toán trả nợ Nga (hàng chục triệu USD). Sau khi tách khỏi Hội sở chính, đối tượng khách hàng là các Tổng công ty do Hội sở chính quản lý nên doanh số bảo lãnh năm 2006 đã giảm đáng kể do với năm 2005. Tuy nhiên, những khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân vẫn thường xuyên đến giao dịch đều lượng giao dịch tăng đáng kể (+23%) nên đã giảm bớt phần nào mức độ sụt giảm của doanh số phát hành bảo lãnh.
Bảng 2.13. Doanh số phát hành bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng tại ngân hàng đại lý của SGD – NHNT VN
Đơn vị: tỷ VND
Thời kỳ
2005
2006
% tăng/giảm
01/01 đến 30/11
426
480
+12%
01/01 đến 31/12
431
495
+14%
(Số liệu này đã bao gồm trong bảng 2.11)
Doanh số phát hành đối với loại hình bảo lãnh này không chịu tác động nhiều của việc tách SGD và việc áp dụng Quy trình tín dụng mới, và đã tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2005. Đây cũng là một tín hiệu khả quan cho hoạt động bảo lãnh của SGD.
Bảng 2.14. Phí bảo lãnh của SGD năm 2005-2006
Đơn vị: tỷ VND
Thời kỳ
2005
2006
% tăng/giảm
01/01 đến 30/11
11
8,3
-24%
01/01 đến 31/12
12
9,3
-22%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của SGD – NHNT 2005-2006)
Nguyên nhân chính của việc phí bảo lãnh giảm là do doanh số phát hành giảm mạnh so với năm 2005. Một nguyên nhân khác nữa là biểu phí mới áp dụng từ ngày 21/08/2006 có nhiều mức phí giảm so với biểu phí cũ. Tuy nhiên, do số món bảo lãnh tăng mạnh nên cũng bù đắp lại sự sụt giảm phí bảo lãnh này.
Số dư nợ phát sinh do bảo lãnh bằng 0. Mặc dù trong năm 2006, có phát sinh một số trường hợp đòi tiền theo bảo lãnh nhưng không xảy ra trường hợp nào phát sinh nợ hay nợ quá hạn. Hoạt động bảo lãnh của SGD vẫn duy trì được ở mức độ an toàn, chưa để xảy ra rủi ro mất vốn.
Ký hậu vận đơn
Hầu hết L/C do SGD phát hành đều yêu cầu vận đơn làm theo lệnh của ngân hàng phát hành. Do đó, khi hàng hóa về đến nơi, nếu người NK thanh toán đủ tiền thì ngân hàng sẽ ký hậu vận đơn để họ đi nhận hàng. Tại SGD, nghiệp vụ ký hậu vận đơn diễn ra khá phổ biến, chiếm khoảng 80-90% số món L/C phát hành.
2.3. Đánh giá hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
2.3.1. Kết quả đạt được
Từ những phân tích trên có thể thấy hoạt động tài trợ XNK của SGD những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Thứ nhất, trong những năm qua, SGD không những duy trì mà còn đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế, luôn xứng đáng với vai trò là ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực đối ngoại. Thanh toán NK qua SGD hàng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch thanh toán của cả nước. Trong lĩnh vực tài trợ XNK, ngân hàng đã ngày càng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ trên cơ sở khai thác tối đa tiềm lực để đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp và cho nền kinh tế.
Thứ hai, SGD có lực lượng khách hàng chủ yếu là khách hàng lớn, khách hàng truyền thống. Đó là các đại doanh nghiệp thuộc các ngành dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng không, các công ty XNK và các ngân hàng lớn có uy tín ở nước ngoài… Với đội ngũ khách hàng như vậy, SGD đã và đang khẳng định được uy tín của mình trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, SGD đã không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán nói chung và hoạt động tài trợ XNK nói riêng bằng cách tăng cường đầu tư tài chính nhằm thiết lập một cơ sở hạ tầng hiện đại phục vụ cho hoạt động của ngân hàng. Tháng 5/1995, NHNT đã trở thành thành viên chính thức của mạng SWIFT. Hiện nay, mỗi ngày ngân hàng xử lý trên 3000 bức điện qua mạng này với tỷ lệ xử lý tự động lên tới 98%, do đó có thể rút ngắn thời gian và đảm bảo an toàn thông tin trong quá trình luân chuyển chứng từ. Như vậy, công nghệ hiện đại chính là điều kiện tiên quyết để ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán nhanh chóng và hiệu quả, góp phần gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động tài trợ XNK diễn ra thuận lợi hơn.
Thứ tư, do nhu cầu tài trợ tăng lên, đồng thời phải chịu sức ép từ môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay đã khiến SGD luôn tìm tòi và đưa ra nhiều thay đổi hợp lý trong chính sách khách hàng như: giảm phí phát hành L/C, đa dạng hoá các mức ký quỹ đối với từng khách hàng nhằm thu hút các khách hàng mới đến giao dịch. Đối với các khách hàng truyền thống như Vinafoot, Petrolimex, thì ngân hàng thường dành cho các doanh nghiệp này những ưu đãi trong giao dịch như giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí thanh toán… Chính vì thế, khách hàng đến SGD luôn tìm thấy sự an tâm, thoải mái, và một điều quan trọng nữa là quyền lợi của họ luôn được đảm bảo.
Thứ năm, hoạt động tín dụng của SGD trong những năm gần đây thực sự đã có những bước phát triển khởi sắc cả về số lượng và quy mô. Không chỉ mở rộng hoạt động tín dụng SGD còn rất quan tâm đến chất lượng tín dụng đặc biệt là trong lĩnh vực XNK. Doanh số cho vay trong lĩnh vực này không ngừng tăng theo các năm. Nhờ có ưu thế về nguồn vốn và ngoại tệ, SGD luôn đáp ứng được một cách tốt nhất các nhu cầu về các khoản tín dụng ngoại tệ với mức lãi suất hợp lý. Nghiệp vụ bảo lãnh của SGD cũng đang ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tài trợ nói riêng. Ngoài ra, ngân hàng cũng thường xuyên duy trì công tác kiểm tra, kiểm soát sau và tuân thủ các nguyên tắc trong quản lý tín dụng, đồng thời bám sát các đơn vị có quan hệ tín dụng để có những tư vấn và biện pháp kịp thời đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả.
Thứ sáu, SGD có ban lãnh đạo có trình cao, giàu kinh nghiệm và có tâm huyết, đội ngũ cán bộ năng động, có trình độ chuyên môn, am hiểu trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại và tài trợ XNK hơn hẳn các NHTM khác. Hầu hết cán bộ còn rất trẻ, yêu nghề, sẵn sàng tiếp thu và vận dụng kỹ thuật mới vào công việc. Đến với SGD, khách hàng có thể yên tâm về chất lượng phục vụ cũng như hiệu quả làm việc của đội ngũ nhân viên này. Chính vì vậy, hoạt động tài trợ XNK của SGD vẫn luôn thu hút được khách hàng trogn nước cũng như khách hàng quốc tế.
Thứ bảy, thông qua các hoạt động ngoại tệ, uy tín của SGD ngày càng được tăng lên. Các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng tin tưởng vào các giao dịch thanh toán do SGD thực hiện. Hàng loạt những danh hiệu của các tổ chức tiền tệ, các ngân hàng uy tín trên thế giới trao tặng là một bằng chứng thiết thực về sự thành công của SGD cũng như hệ thống NHNT trong thời gian qua. NHNT là ngân hàng Việt Nam đầu tiên được ngân hàng Chase Manhatta cấp giấy chứng nhận chất lượng dịch vụ tốt 5 năm 1996 – 2000 trong lĩnh vực thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Trong 5 năm liên tiếp 2000 – 2004 tạp chí “The Banker”- một tạp chí có uy tín lớn trong ngành tài chính – ngân hàng quốc tế bình chọn NHNT là ngân hàng tốt nhất Việt Nam.
2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân
So với ngân hàng cùng địa bàn, các sản phẩm huy động vốn của NHNT năm 2006 kém đa dạng hơn cả về số lượng và mức độ thu hút khách hàng nên khả năng cạnh tranh về huy động vốn của NHNT bị sút giảm đáng kể. Cơ chế marketing nhằm giữ chân khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới không có nên đã làm giảm đáng kể sức cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn. Biểu phí đã kiến nghị nhiều lần nhưng chưa được sử đổi. Quy định về giao dịch một cửa chưa thực sự phù hợp với loại hình giao dịch tiết kiệm và tài khoản cá nhân nên việc áp dụng quy định này còn gặp nhiều khó khăn…
Trong năm 2006 SGD được chính thức tách ra khỏi TW nên các nghiệp vụ về hạch toán nội bộ như: chi tiêu, tài sản… là các nghiệp vụ mới vì trước đây đều do TW làm nên thời gian qua SGD phải vừa làm, vừa học thêm, sưu tầm và nghiên cứu các chế độ, quy định và văn bản hướng dẫn thực hiện có liên quan.
Về hoạt động thanh toán XK thì doanh số thanh toán XK của SGD có khoảng 60% là của mặt hàng than đá. Đây là một mặt hàng đặc biệt, một tài nguyên thiên nhiên đang trở nên ngày càng khan hiếm và cạn kiệt. Do vậy, nếu SGD không có biện pháp chuyển hướng kịp thời, thu hút thêm các khách hàng là các doanh nghiệp XK các mặt hàng khác thì kim ngạch thanh toán XK của SGD sẽ tụt giảm nghiêm trọng.
Hiện tại SGD chưa có được nhiều khách hàng mới và số lượng giao dịch NK của SGD chủ yếu tập trung ở bộ phận khách hàng có quan hệ lâu năm với NHNT, có hạn mức tín dụng. Do vậy việc duy trì quan hệ đối với bộ phận khách hàng có hạn mức tín dụng không đảm bảo cho SGD tăng trưởng giao dịch về lâu dài. Trong khi đó, những khách hàng chưa có hạn mức tín dụng phải mở L/C ký quỹ 100%, rủi ro cho SGD là thấp nhưng SGD chưa dành cho họ ưu đãi về phí (giảm mở L/C, thanh toán L/C, phí bảo lãnh nhận hàng chưa có vận đơn gốc, miễn phí ký hậu vận đơn…).
SGD chưa có mức ưu đãi thích hợp với nghiệp vụ nhờ thu và L/C trả chậm do vậy SGD cần xem xét áp dụng mức phí trả chậm tối đa cho khách hàng. Các quy định về chuyển tiền do NHNN ban hành nhưng chưa được bổ sung cho các quy định chuyển tiền thanh toán các loại dịch vụ hàng hoá như mua bán hàng hóa qua e-mail, các loại hàng hoá vô hình như phần mềm máy tính, các sản phẩm liên quan tới computering, hợp đồng tư vấn… Điều này khó khăn cho các phòng nghiệp vụ khi phải xử lý những yêu cầu của khách hàng. Ngoài ra có một số vướng mắc nhưng vẫn chưa được NHNT TW hướng dẫn thực hiện như quy định phân loại L/C trả chậm 30 ngày, 60 ngày là L/C at sight, 90 ngày trở đi là L/C trả chậm, hoặc việc chấp nhận những bộ chứng từ nhờ thu được gửi trực tiếp từ người hưởng nước ngoài mà không thông qua ngân hàng xuất trình.
Do hiện nay chưa có quy trình bảo lãnh xuyên suốt từ TW đến các chi nhánh nên hoạt động bảo lãnh của SGD không tránh khỏi những khó khăn.
Sự phối hợp giữa các phòng liên quan chưa thật sự hiệu quả, nhiều chương trình phần mềm phục vụ cho các mặt nghiệp vụ chưa được bộ phận tin học đáp ứng kịp thời nên gây không ít khó khăn cho việc tác nghiệp. Các yêu cầu về cài đặt chương trình, chỉnh sửa để phục vụ việc hạch toán chưa được đáp ứng kịp thời.
Các thoả thuận với khách hàng do các phòng TW kí kết chuyển cho SGD triển khai nhưng có những điều khoản không thực hiện được do vướng về việc hạch toán và không sát thực tế.
Hiện tại NHNT chưa ban hành quy trình kiểm tra nội bộ, việc kiểm tra của SGD chỉ dựa trên việc đối chiếu thực tế nghiệp vụ với các văn bản, chế độ hiện hành.
Yêu cầu của khách hàng đặc biệt ngày càng cao về các dịch vụ ngân hàng do gia tăng cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài và cả các NHTM trong nước trong khi đó sản phẩm hiện tại của SGD cung cấp cho khách hàng cá nhân còn nghèo nàn, chính sách chưa linh hoạt. Chưa có sản phẩm dành riêng cho khách hàng đặc biệt. Điều này đặt ra những thách thức cho SGD trong việc hoàn thiện nghiệp vụ tài trợ XNK để thúc đẩy hoạt động XNK phát triển, phù hợp với nhịp độ tăng trưởng ngày càng nhanh của nền kinh tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Qua phân tích thực trạng hoạt động XNK tại SGD – NHNT Việt Nam, khoá luận rút ra một số kết luận sau:
SGD – NHNT là một ngân hàng có nhiều ưu thế trong hoạt động tài trợ XNK. Trên cơ sở thế mạnh về nguồn vốn, công nghệ, trình độ của đội ngũ nhân viên dày dặn và giàu kinh nghiệm, SGD đã phát triển hoạt động tài trợ với những thành công đáng ghi nhận. Các hình thức tài trợ bước đầu đã được đa dạng hoá và mở rộng, thêm vào đó, uy tín của SGD cũng ngày càng được nâng cao, điều này đã thu hút được khá đông các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tìm đến giao dịch tại SGD ngày một nhiều hơn…
Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu quả đạt được thì hoạt động XNK của SGD nói riêng và của các NHTM nói chung còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhiều hạn chế. Trên cơ sở phân tích những tồn tại mà SGD đang gặp phải hiện nay trong công tác tài trợ, khoá luận đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm đa dạng hoá các hình thức tài trợ XNK và phát triển cũng như mở rộng hoạt động này cho phù hợp với xu thế toàn cầu hiện nay.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NHẰM ĐA DẠNG HOÁ CÁC HÌNH THỨC TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
3.1.1. Định hướng chung
Để có được hoạt động kinh doanh tốt hơn trong năm 2007, SGD sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển theo các định hướng sau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Để đạt được điều này, SGD nói riêng cũng như toàn hệ thống NHNT nói chung phải phấn đấu đưa các chỉ số tài chính quan trọng đạt được mức tiêu chuẩn quốc tế.
+ Tăng trưởng nguồn vốn sẽ đạt mức 25% và chú trọng các giải pháp huy động vốn trung và dài hạn nhằm cải thiện tính thanh khoản trong hoạt động kinh doanh.
+ Kế hoạch dư nợ tín dụng năm 2007 đạt 2.334,66 tỷ VND, tăng 128% so với năm 2006.
+ Thị phần thanh toán XNK chiếm 30% thị phần cả nước.
+ Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế đạt 5%.
- Hoàn thành quá trình tái cơ cấu ngân hàng để có một mô hình tổ chức hiện đại, khoa học, phù hợp với mục tiêu và đảm bảo hiệu quả kinh doanh, kiểm soát được rủi ro, có khả năng cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng, tổng hợp, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và nhu cầu của khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Chú trọng công tác huy động vốn, thu hút tiền gửi từ khách hàng, đặc biệt quan tâm nhiều tới tiền gửi của khách hàng truyền thống làm ăn có hiệu quả. Quán triệt công tác marketing khách hàng tới từng phòng nghiệp vụ, từng cán bộ, mở rộng có lựa chọn việc cho vay với lãi suất ưu đãi đối với các khách hàng thường xuyên thanh toán qua SGD.
- Tích cực thúc đẩy, nâng cao công tác huy động tiền gửi tiết kiệm, ngoại tệ và VND. Đa dạng hoá các sản phẩm huy động, tăng cường và đẩy mạnh các giải pháp nhằm triển khai ứng dụng có hiệu quả các sản phẩm mới, đặc biệt là sản phẩm đi kèm khuyến mãi. Tập trung thu hút tiền gửi có thời hạn dài nhằm ổn định nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh. Rà soát lại hoạt động của các phòng giao dịch, mở rộng có chọn lọc mạng lưới các phòng giao dịch tại các khu vực đông dân cư và giao dịch thuận tiện.
- Tiếp tục ở rộng tín dụng theo định hướng “tăng cường công tác khách hàng, tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng và hướng tới chuẩn mực quốc tế”. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến vấn đề an toàn, hiệu quả trong công tác tín dụng, kết hợp giữ khách hàng truyền thống thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và phát triển khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tập trung cao và quan tâm thích đáng đến việc giải quyết nợ quá hạn, không để nợ quá hạn phát sinh từ các hợp đồng tín dụng mới, kết hợp giải quyết nợ tồn đọng theo đề án giải quyết nợ tồn đọng của NHNT.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống. Đẩy mạnh thể chế hoá, quy trình hoá các nghiệp vụ và các mặt công tác của SGD. Đặc biệt, triển khai nghiêm túc các văn bản liên quan đến quy trình, quy định về nghiệp vụ.
- Mở rộng và phát triển hơn nữa các dịch vụ thanh toán thẻ bằng việc đưa ra những ưu đãi đối với từng đối tượng khách hàng, thực hiện thường xuyên và tốt hơn nữa công tác marketing khách hàng.
- Tăng cường công tác quản trị điều hành của Ban Giám đốc SGD, giữ vững và nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong điều hành hoạt động, phát huy tích cực tính năng động sáng tạo trong công việc, tính độc lập tự chủ tại các phòng nghiệp vụ thuộc SGD.
3.1.2. Định hướng cho hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
Để tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh vốn có của mình, trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại cũng như hoạt động XNK và tài trợ XNK, nhiệm vụ chiến lược của SGD ngân hàng ngoại thương trong năm 2007 và những năm tiếp theo là phải làm tốt 3 mục tiêu mang tính nền tảng sau để đảm bảo cho ngân hàng phát triển bền vững:
Đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế.
Giữ vững vai trò là ngân hàng hàng đầu về thanh toán quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế về thanh toán quốc tế và tài trợ XNK.
Như vậy, SGD không chỉ phải đảm bảo giữ vững và phát triển hoạt động tài trợ XNK mà còn phải mở rộng thị phần cho loại hình dịch vụ này thông qua việc hoạch định các chiến lược phát triển cụ thể sau:
- Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức tài trợ. Trong thời gian tới, SGD sẽ tiếp tục mở rộng mạng lưới chi nhánh ở nước ngoài đến các khu vực mà sở chưa thiết lập được quan hệ nhằm đáp ứng nhu cầu xúc tiến thương mại và đẩy mạnh XK hàng hoá dịch vụ của Việt Nam sang các nước thuộc khu vực này cũng như đáp ứng nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư tài chính quốc tế cũng như hoạt động tài trợ XNK của SGD.
- Tăng cường duy trì và củng cố mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài theo phương châm Hợp tác – Phát triển – Bền vững. Hiện nay, các mối quan hệ này đang được thực hiện dưới nhiều hình thức như:
+ Những hiệp định khung tín dụng (hiệp định khung tài trợ XNK với Dresdener Bank của Đức, Credit Agrcole Indonesuez của Pháp, KBC Bank của Bỉ, Credit Suisse của Thụy Sĩ), hiệp định khung hỗ trợ XNK với hai ngân hàng Tây Ban Nha là Banco Bilbao Vizcaya Argenteria và Banco de Dabadell.
+ Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, triển khai vốn vay ODA mà Chính phủ các nước đối tác (Nhật, Anh, Pháp, Trung Quốc…) dành cho Việt Nam
- Tăng cường nguồn vốn cho hoạt động tài trợ XNK, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng nguồn vốn là 23% năm, đặc biệt quan tâm tới các giải pháp gia tăng tỷ trọng vốn huy động bằng ngoại tệ và vốn huy động trung và dài hạn.
- Đẩy mạnh tín dụng một cách vững chắc có chất lượng trên cơ sở tiếp tục các chương trình đầu tư, chú trọng đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực có khả năng cạnh tranh. Tìm kiếm dự án khả thi để mở rộng tín dụng. Phát huy thế mạnh về nguồn vốn ngoại tệ dồi dào trong việc tiếp cận các dự án lớn có tính khả thi theo hướng đồng tài trợ với các ngân hàng trong và ngoài nước.
- Đa dạng hoá các hình thức tài trợ XNK, phục vụ tất cả khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế ở nhiều lĩnh vực khách nhau, đầu tư cho cả sản xuất kinh doanh trong nước và hoạt động đối ngoại. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ sản phẩm và sản phẩm phải đạt trình độ khu vực, đủ khả năng cạnh tranh. Chủ động giới thiệu, hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm của SGD.
- Tập trung trí tuệ, phương tiện vật chất và nguồn vốn để thực hiện chiến lược khách hàng. Hoàn thiện công tác thanh toán quốc tế theo chuẩn mực quốc tế để thu hút các doanh nghiệp XNK, cung cấp ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nâng cao thị phần hoạt động về ngoại tệ của SGD tại các khu vực công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị, trong đó, cần quan tâm chú ý tới khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
- Nâng cao năng lực chuyên môn hoá trong lĩnh vực nghiệp vụ ngoại tệ, chú trọng kinh doanh ngoại tệ, TTQT, thẩm định dự án tín dụng và bảo lãnh quốc tế, đảm bảo trình độ ngang bằng với các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
- Tiếp tục chú trọng và đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro trong thanh toán, hoàn thiện thêm một bước mô hình quản lý rủi ro theo chuẩn mực quốc tế.
3.2. Giải pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp trực tiếp
a) Tăng cường huy động mọi nguồn vốn phục vụ hoạt động tài trợ XNK
Trong thời gian tới, SGD cần tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn song song với việc điều chỉnh nguồn vốn theo hướng nâng cao nguồn vốn từ dân cư, duy trì và mở rộng nguồn vốn từ tổ chức kinh tế, tranh thủ nguồn vốn đầu tư và nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm, đặc biệt lưu ý các giải pháp huy động các nguồn vốn trung dài hạn, coi đây là khâu then chốt có tính quyết định, phục vụ nhu cầu ngày một tăng của nền kinh tế trong những năm tới.
Để có thể thực hiện thành công những nhiệm vụ quan trọng này, SGD cần thực hiện tốc các biện pháp sau:
- Tiếp tục sử dụng lãi suất như một công cụ tài chính linh hoạt và hiệu quả nhằm thực thi các chủ trương chiến lược kinh doanh đã đề ra. Đối với khách hàng có lượng tiền gửi lớn, thời gian dài, cần có chính sách ưu đãi riêng như được hưởng mức lãi suất cao hơn mức lãi suất quy định hoặc được nhận quà có giá trị khi gửi tiền. Nếu khách hàng rút tiền trước hạn thì vẫn cho khách hàng hưởng mức lãi với kỳ hạn gần nhất kỳ hạn mà khách hàng đã gửi. Vào dịp lễ tết nên gửi thiệp chúc mừng để duy trì quan hệ tốt với khách hàng.
- Để khuyến khích các Phòng giao dịch tích cực huy động vốn tại địa bàn, lãi suất nội bộ cần tiếp tục được điều chỉnh linh hoạt, có chế độ phân biệt lãi suất với các Phòng giao dịch có số dư vốn lớn tại SGD.
b) Đa dạng hoá các hình thức tài trợ
Nghiệp vụ chiết khấu
Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là một nghiệp vụ tài trợ không mới của NHTM cho nhà XK. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM Việt Nam nói chung cũng như SGD – NHNT nói riêng sử dụng nghiệp vụ này còn rất hạn chế. Chính vì vậy, SGD nên triển khai nghiệp vụ này trong chiến lược đa dạng hoá các loại hình tài trợ mở rộng cả hai hình thức chiết khấu là chiết khấu có truy đòi và chiết khấu miễn truy đòi để cạnh tranh với những ngân hàng khách, đặc biệt là các ngân hàng liên doanh, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài.
Chiết khấu miễn truy đòi thường có rủi ro cao hơn do ngân hàng phải chịu hoàn toàn thiệt hại trong trường hợp không đòi được tiền của ngân hàng đối tác, nhưng bù lại mức phí chiết khấu cao hơn rất nhiều và tính hấp dẫn đối với khách hàng cũng cao hơn.
Trong bước đầu thực hiện, để đảm bảo chắc chắn thu được tiền hàng từ ngân hàng nước ngoài, SGD cần đưa ra một số yêu cầu sau:
- Khách hàng được phép chiết khấu miễn truy đòi: là khách hàng truyền thống, có giao dịch thường xuyên với SGD, có uy tín đối với ngân hàng.
- Bộ chứng từ xuất trình phải hoàn hảo, phù hợp với quy định của L/C.
- Ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng được uỷ quyền thanh toán phải là ngân hàng có uy tín, có quan hệ tốt và quan hệ thường xuyên với SGD, thanh toán nhanh, sòng phẳng.
- Mặt hàng XK phải là những mặt hàng chiến lược, được khuyến khích XK và có thị trường kinh doanh là thị trường quen thuộc.
Áp dụng tốt nghiệp vụ chiết khấu sẽ giúp ngân hàng tăng thêm lợi nhuận, thu hút thêm khách hàng, nâng cao uy tín đồng thời khuyến khích các nhà XK Việt Nam lập được bộ chứng từ hoàn hảo, nâng cao được trình độ của các doanh nghiệp.
Nghiệp vụ bảo lãnh
Hiện nay, hầu hết các nhà XNK Việt Nam chưa có uy tín trên thị trường quốc tế nên ít được các nhà XNK ở nước ngoài tin tưởng và để ý tới. Do vậy, việc bảo lãnh cho các doanh nghiệp là nhu cầu không thể thiếu đặc biệt là trong quá trình tìm kiếm khả năng XNK. Với thế mạnh là một ngân hàng lớn trong hệ thống các NHTM quốc doanh hiện nay, SGD cần phát huy vai trò của mình bằng cách mở rộng các nghiệp vụ bảo lãnh góp phần tài trợ về uy tín cho các doanh nghiệp XNK Việt Nam trong kinh doanh. Bên cạnh việc mở rộng các hình thức bảo lãnh, SGD cũng cần phải lưu ý việc thực hiện quy trình bảo lãnh nghiêm ngặt như một khoản cho vay cùng loại: thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng, phân kỳ kế hoạch thu nợ, kiểm tra quản lý vốn, tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng… để tránh những rủi ro cho ngân hàng.
Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán cho khách hàng
Trong hình thức tài trợ XK, hình thức bao thanh toán có ưu điểm nổi bật, và hiện nay cũng chỉ mới được triển khai tại SGD vào thời điểm cuối năm 2006, đầu năm 2007. Bao thanh toán không chỉ là nghiệp vụ tài chính đơn thuần mà còn bao gồm nhiều dịch vụ tài chính bổ sung và các doanh nghiệp có thể sử dụng một số hoặc toàn bộ dịch vụ này tuỳ theo nhu cầu sử dụng.
Trong hoạt động XK, nhà bao thanh toán giúp đỡ các nhà XK trong nước bằng việc đánh giá uy tín vay mượn của nhà NK nước ngoài, bảo trợ tín dụng và các dịch vụ nhờ thu thông qua hệ thống ngân hàng đại lý. Hoạt động bao thanh toán không cần đến thư tín dụng cũng như các hối phiếu ngoại thương, vì vậy nó thích hợp sử dụng cho các hoạt động XK thường xuyên theo định kỳ và theo hợp đồng dài hạn. Do đó, đối tượng mua bán của bao thanh toán là những đơn vị kinh tế vừa và lớn với doanh số hoạt động XK hàng năm lớn. Đây cũng chính là những đối tượng khách hàng mà SGD luôn muốn mở rộng.
Mở rộng các hình thức tài trợ XNK cho khách hàng
Đối với tài trợ NK, SGD mới chỉ cho vay trên cơ sở thanh toán L/C, hợp đồng NK ký kết mà chưa thực hiện các hình thức như hối phiếu nhận nợ hay chấp phiếu ngân hàng. Thêm vào đó, các nghiệp vụ mở L/C đặc biệt hỗ trợ XNK của SGD cũng còn rất mới mẻ. Hiện nay chỉ mới áp dụng hai loại hình L/C đặc biệt là L/C chuyển nhượng và L/C giáp lưng, nhưng bên cạnh những tiện ích mà các L/C này mang lại thì con số thực tế tại SGD về việc mở các loại L/C này còn khá khiêm tốn. Sở dĩ như vậy cũng một phần là do khách hàng chưa có nhu cầu về loại hình này, nhưng nguyên nhân lớn hơn là do SGD chưa đủ uy tín cũng như kinh nghiệm để thực hiện.
Mặt khác, chưa có văn bản nào quy định việc sử dụng các nghiệp vụ này hoặc nếu có thì chưa đủ và chưa hoàn thiện. Trong thời gian tới, khi đã có các văn bản pháp luật cụ thể, nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn, thị trường chứng khoán sôi động hơn thì việc áp dụng các hình thức này vào thực tiễn là hoàn toàn có thể.
c) Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ chủ yếu tại SGD là để phục vụ cho nhu cầu mở L/C, chuyển tiền và nhờ thu của khách hàng. Tuy nhiên, việc mua bán ngoại tệ cũng ảnh hưởng đến hoạt động XNK của nền kinh tế, qua đó ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động tài trợ XNK của SGD thông qua tỷ giá. Do đó, trong thời gian tới, SGD cần tăng cường hoạt động mua bán ngoại tệ để phục vụ tốt cho hoạt động tài trợ XNK của mình. Cụ thể như sau:
- Đẩy mạnh huy động vốn ngoại tệ, khai thác tốt các nguồn vốn tài trợ để có thể đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và nhà XK
- Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh ngoại tệ: mở rộng và quản lý tốt các đại lý thu đổi ngoại tệ, phát triển mạnh hoạt động thanh toán thẻ, séc du lịch, khai thác dịch vụ chi trả kiều hối bằng cách giảm phí dịch vụ để thu hút nguồn ngoại tệ chuyển về, miễn phí đối với khách hàng nhận tiền bằng đồng nội tệ. Đồng thời, quản lý tốt việc sử dụng ngoại tệ đảm bảo khả năng tái tạo ngoại tệ cho hoạt động thanh toán XNK.
- Thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế: đây là nguồn lực để SGD đảm bản cân đối ngoại tệ, đặc biệt trong giai đoạn căng thẳng về ngoại tệ như trong thời gian qua.
- Đẩy mạnh nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn (Forward): nhằm tăng thêm nguồn ngoại tệ cung cấp cho hoạt động thanh toán của ngân hàng.
3.2.2. Nhóm giải pháp hỗ trợ
a) Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngân hàng
Việc làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ có tác dụng tích cực giúp nâng cao uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng, thu hút khách hàng. Do vậy, SGD cần phải thực hiện tốt công tác đào tạo nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ TTQT cho cán bộ ngân hàng có liên quan đến hoạt động tài trợ XNK. Chính vì vậy, việc cần chú trọng hiện nay là:
- Cử cán bộ đi học tại các ngân hàng có kinh nghiệm ở nước ngoài về nghiệp vụ TTQT để nâng cao, học tập kinh nghiệm, từ đó hình thành một đội ngũ giảng viên kiêm nghiệm của SGD đào tạo lại cho các cán bộ khác trong SGD.
- Hàng năm, tổ chức các hội nghị chuyên đề và tập huấn nghiệp vụ TTQT để cập nhật nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm.
- Bên cạnh việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ TTQT thì cũng phải bồi dưỡng cả phẩm chất đạo đức. Đội ngũ cán bộ TTQT phải là những người nhiệt tình, năng nổ, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, có thái độ và phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự.
b) Phòng chống rủi ro và đảm bảo an toàn trong công tác TTQT
Như chúng ta đã biết, hoạt động TTQT là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro và rủi ro có thể xảy ra cho cả phía khách hàng lẫn ngân hàng. Để phòng chống các yếu tố rủi ro, nhằm củng cố và tăng cường uy tín, an toàn cho ngân hàng và khách hàng của mình, SGD cần áp dụng một số biện pháp sau:
- Tăng cường khả năng quản lý và kiểm soát việc chấp hành nghiêm chỉnh quy trình nghiệp vụ đã ban hành của NHNT đối với các chi nhánh.
- Thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình kinh tế, chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Thông qua hệ thống đại lý để điều tra, khai thác các thông tin về tình hình tài chính, về khả năng giao hàng và tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài trong hợp đồng kinh tế.
- Tư vấn cho khách hàng khi ký kết hợp đồng lựa chọn phương pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và khách hàng (áp dụng công cụ phái sinh như Forward, Swap, Option…).
- Chú ý đến các nghiệp vụ L/C đặc biệt là L/C xác nhận, chuyển nhượng… có nhiều đặc điểm riêng biệt, tính chất khác nhau. Vì vậy, khi thực hành các thanh toán viên phải đặc biệt tuân thủ quy trình và thông lệ quốc tế. Quản lý chặt các món bảo lãnh và L/C trả chậm: Tiếp tục chấn chỉnh việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và mở L/C trả chậm.
- Tổ chức kết hợp chặt chẽ các phòng nghiệp vụ với nhau như: Phòng tín dụng, phòng thanh toán nhập, phòng thanh toán xuất, phòng bảo lãnh… để giám sát tiến độ của L/C cũng như tính toán, rà soát, lập phương án để tiến hành các bước tiếp theo trong quá trình TTQT như tiến độ giao hàng, tình trạng của chứng từ, các tin có liên quan từ ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng chuyển nhượng…
c) Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học và nhằm thúc đẩy hiện đại hoá ngân hàng
Để chủ động hội nhập, SGD cần phải tiếp tục nâng cấp hệ thống tin học. Đây là tiền đề quan trọng để tiếp tục triển khai một loạt các ứng dụng công nghệ tiên tiến như ngân hàng điện tử, mở rộng hệ thống rút tiền tự động (ATM), tăng cường hệ thống thông tin quản lý, ứng dụng các chuẩn mực của hệ thống kế toán quốc tế (IAS), tiếp tục phát triển và mở rộng dịch vụ Internet banking, tạo tiền đề cho việc cung cấp các dịch vụ thanh toán qua mạng Internet.
d) Tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh để từ đó giảm lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay là một công cụ cạnh tranh mạnh của các NHTM. Giảm được lãi suất cho vay có nghĩa là tăng khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Lãi cho vay của ngân hàng được xác định dựa trên các chi phí phải trả hợp lý phát sinh trong kỳ. Do vậy, để tiết kiệm được chi phí hoạt động, SGD cần:
- Nâng cao uy tín của ngân hàng để có thể giảm được chi phí trả lãi huy động từ tiền gửi khách hàng do đa số người dân lựa chọn gửi tiền vào một ngân hàng có uy tín cao, như các NHTM Nhà nước với lãi suất thấp hơn, chứ không tin tưởng gửi tiền cho một ngân hàng trả lãi cao nhưng lại có uy tín thấp. Bên cạnh đó, SGD cũng cần tạo cho khách hàng nhiều lợi ích khác ngoài khoản lãi được hưởng, để từ đó giảm được chi phí đầu vào và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Tinh giảm bộ máy để có thể giảm đáng kể chi phí dành cho nhân viên, đồng thời phải sắp xếp bố trí hợp lý và đào tạo nâng cao kiến thức nghiệp vụ chuyên môn nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng công tác của mỗi cán bộ.
- SGD nên sớm tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, vì giúp cho tiết kiệm đáng kể chi phí văn phòng, đồng thời cũng giúp giảm thiểu những chi phí khác như chi phí tiếp thị, quảng cáo, chi phí giao dịch…
e) Tăng cường áp dụng các biện pháp Marketing vào hoạt động ngân hàng, xây dựng chiến lược khách hàng từ tổng thể đến chi tiết
Việc triển khai marketing sẽ giúp SGD tìm được những thời cơ, nghiên cứu nội lực để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, từ đó mới có thể chủ động đưa ra những biện pháp thu hút khách hàng, các dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng… nhằm hoạt động có hiệu quả hơn. Như vậy, để hoàn thiện và đa dạng hoá hoạt động tài trợ XNK của ngân hàng, SGD cần phải đưa ra các chiến lược như:
- Triển khai công tác tiếp thị khách hàng: đề ra chính sách khách hàng phù hợp, có sự ưu đãi với khách hàng truyền thống như thiết lập một biểu phí dịch vụ ưu đãi nhằm thu hút khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh, xác định mức ký qũy hợp lý.
- Quảng cáo và hội nghị khách hàng: đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo, đồng thời thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, hội nghị chuyên đề nhằm giúp khách hàng có những hiểu biết cơ bản về TTQT. Thông qua đó, ngân hàng có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, trao đổi thông tin với nhau, tạo cơ hội cho cả khách hàng và ngân hàng hểu về những khó khăn vướng mắc mà cả hai bên gặp phải để cùng có giải pháp tháo gỡ và hoàn thiện.
- Tư vấn tiếp thị và hợp tác kinh doanh với khách hàng: thông qua tư vấn của ngân hàng sẽ giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và tiếp cận được với sản phẩm mới, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Đối với Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan
Trong tiến trình hội nhập quốc tế như hiện nay, hoạt động ngoại thương giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động này, về phía Nhà nước có một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, đảm bảo môi trường kinh tế ổn định bằng việc hoạch định chính sách dài hạn về định hướng phát triển kinh tế, tăng cường hiệu lực pháp lý của các chính sách thuế, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, chính sách hỗ trợ giá đối với hàng nông sản, chính sách hỗ trợ đối với mặt hàng XK cần khuyến khích… để đảm bảo tác dụng tích cực của các chính sách này.
Thứ hai, hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật, ổn định tương đối chính sách quản lý vĩ mô, nghiên cứu sửa đổi những chính sách cũ còn nhiều bất cập và hạn chế, ban hành những chính sách mới chặt chẽ theo hướng tạo hành lang pháp lý an toàn cũng như ban hành đầy đủ các nghị định hướng dẫn thi hành luật ngân hàng… điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và ngân hàng trong hoạt động tài trợ XNK.
Thứ ba, với chính sách mở cửa của nền kinh tế hiện nay, Nhà nước cần đưa ra nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM nói chung cũng như hoạt động tài trợ XNK.
Về chính sách đầu tư, Nhà nước dành nguồn vốn thích đáng đầu tư vào những ngành XK mũi nhọn theo định hướng phát triển của cả nước, chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ, tạo ra những sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao, giảm chi phí.
Về chính sách thuế, cần phải tiếp tục mở rộng những ưu đãi về thuế gián thu nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá thành của hàng XNK, tăng sức cạnh tranh về giá, đồng thời hỗ trợ và thúc đẩy xúc tiến thương mại.
Về chính sách tín dụng hỗ trợ XNK, kiên quyết phá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong tín dụng ưu đãi XNK, chỉ phân biệt dựa trên mục tiêu ngành hàng và thị trường XK của Nhà nước trong thời kỳ tương đối dài nhằm tránh đối xử bất công.
Thứ tư, tiếp tục cải cách và tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện tốt chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài, xây dựng các đề án lớn, có tính đột phá trong công tác xúc tiến thương mại để giữ vững mức tăng trưởng ổn định.
Thứ năm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác và cập nhật những thông tin liên quan đến hoạt động XNK thông qua việc thiết lập cấc văn phòng ở các nước chuyên làm nhiệm vụ thu thập và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, phát triển thị trường chứng khoán qua đó để thực sự thấy được tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như khuyếch trương được uy tín của mình.
Thứ sáu, cần có chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia các hội chợ triển lãm, quảng cáo trong và ngoài nước, khảo sát tìm hiểu thị trường nước ngoài, nâng cao vai trò của các đại diện thương mại, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đại diện tại thị trường quốc tế.
Thứ bảy, bên cạnh nguồn vốn huy động từ nền kinh tế thì ngân hàng cũng cần có sự hỗ trợ từ chính phủ trong việc tạo lập nguồn vốn bằng những khoản tín dụng ưu đãi để có thể mở rộng nghiệp vụ tài trợ cho các doanh nghiệp XNK, đặc biệt là những doanh nghiệp XK các mặt hàng tiềm năng ở nước ta.
3.3.2. Đối với ngân hàng Nhà nước
Để tăng hiệu quả tài trợ XNK tại NHTM, ngoài nỗ lựu từ chính bản thân ngân hàng và các chính sách hỗ trợ của nhà nước thì NHNN cần phải có những đổi mới tích cực tạo thuận lợi hơn cho các NHTM. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN cần phải có những điều chỉnh sau:
- Hoàn thiện chế độ quy định về kinh doanh, song song với việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế tình trạng lộn xộn trong quản lý vốn vay của các ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN đứng ra làm đầu mối để các ngân hàng cùng phối hợp chặt chẽ trong quá trình cho vay, kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp.
- Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá nhằm hạn chế rủi ro cho bản thân ngân hàng và cho các doanh nghiệp XNK thông qua việc hỗ trợ các NHTM tổ chức thực hiện tốt công tác phân tích, dự báo tỷ giá dựa trên những tín hiệu của thị trường như cung cầu ngoại tệ, áp lực tăng giảm giá đối với đồng Việt Nam, tăng cường kiểm tra, kiểm soát trực tiếp việc thực thi chính sách tỷ giá của các NHTM nhằm nâng cao tính ổn định trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
- Cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động tài trợ XNK, luật hoá các yêu cầu quản lý đảm bảo tính thống nhất giữa thể chế quản lý và chế tài, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho mảng hoạt động tài trợ của ngân hàng. Xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện luật phải đầy đủ, chi tiết, dễ hiểu, nội dung mang tính thuyết phục cao, nhằm đáp ứng yêu cầu kịp thời.
- Tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của NHNN về chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái. NHNN cần đưa ra những chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt, phù hợp với tình hình kinh tế trong từng thời kỳ, tránh gây ảnh hưởng đến tâm lý của người gửi tiền, ảnh hưởng đến việc huy động vốn dài hạn, tác động xấu tới hoạt động tín dụng của NHTM.
3.3.3. Đối với Ngân hàng Ngoại Thương
Để có thể giữ vững vị thế dẫn đầu trong TTQT cũng như trong tài trợ XNK, tăng sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới thì SGD – NHNT cũng cần quan tâm đến một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, củng cố quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài, nghiên cứu bổ sung và mở rộng quan hệ đại lý ở khu vực Châu Phi, Trung Đông, Châu Mỹ La tinh, để có thể kịp thời đáp ứng chủ trương mở rộng thị trường XK, thúc đẩy hoạt động thương mại của Nhà nước.
Thứ hai, nới lỏng các quy định về hoạt động tín dụng như mở rộng hình thức chiết khấu, nới lỏng các hình thức về cho vay XK, cho vay thanh toán hàng NK… để có thể có thể mở rộng hơn nữa doanh số tín dụng và thúc đẩy hoạt động XNK của các doanh nghiệp.
Thứ ba, hoàn thiện chương trình thanh toán quốc tế, Xem xét lại quy trình xây dựng, thiết kế và đưa vào ứng dụng các sản phẩm mới cho TTQT, trong đó, phân định rõ trách nhiệm của các phòng/ban liên quan như Quan hệ khách hàng, Quan hệ ngân hàng đại lý, quản lý các đề án công nghệ, trung tâm tin học, Tổng hợp thanh toán… cũng như Hội sở chính và chi nhánh nhằm đảm bảo xây dựng sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách hàng cả về mặt nghiệp vụ và thời gian.
Thứ tư, đa dạng hoá các nghiệp vụ tài trợ XNK thông qua một số nghiệp vụ mới như tài trợ bằng các L/C đặc biệt (L/C dự phòng, L/C điều khoản đỏ..), nghiệp vụ bao thanh toán (forfaiting, factoring)… nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách đa dạng và phù hợp với xu thế quốc tế.
Thứ năm, do tài trợ XNK hiện nay ở SGD vẫn là một gói nghiệp vụ bao gồm nhiều nghiệp vụ riêng lẻ được quản lý ở các phòng khác nhau, dẫn tới sự chồng chéo trong công tác quản lý số liệu, gây khó khăn trong việc phân chia trách nhiệm khi có rủi ro cũng như gây mất thời gian và chi phí cho khách hàng khi có nhu cầu tài trợ. Chính vì vậy, SGD nên thành lập một phòng chuyên trách về tài trợ XNK, tập hợp các cán bộ ở nghiệp vụ tín dụng, thanh toán xuất, thanh toán nhập, bảo lãnh, thẩm định… để thực hiện hỗ trợ, giúp đỡ và tư vấn cho các doanh nghiệp XNK trong suốt quá trình thực hiện thương vụ.
3.3.4. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Một thương vụ chỉ có thể thành công khi có sự hợp tác của các bên tham gia, trong đó sự đóng góp của các doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Vì vậy, bản thân doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ chuyên sâu về hoạt động kinh doanh XNK, am hiểu thị trường, luật lệ, tập quán, thương mại quốc tế. Đội ngũ cán bộ này phải được đào tạo, nâng cao trình độ về kinh doanh XNK, cũng như được cập nhật tin tức thường xuyên về thị trường tài chính, thị trường hàng hoá… để không thể bị bắt lỗi khi tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế.
Thứ hai, bản thân doanh nghiệp XNK phải tạo dựng các mối quan hệ với bạn hàng để có được những đối tác tin tưởng trong kinh doanh. Đây là điều hết sức cần thiết để nhằm hạn chế những rủi ro thường gặp trong thương mại quốc tế cho doanh nghiệp cũng như cho ngân hàng thanh toán.
Thứ ba, doanh nghiệp khi đến giao dịch với ngân hàng cần có sự hợp tác chặt chẽ với cán bộ ngân hàng thể hiện ở việc cung cấp các hồ sơ, giấy tờ đầy đủ, trung thực, chính xác, đúng thời hạn… nhằm giúp cho thương vụ có thể hoàn thành tốt đẹp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Từ thực trạng hoạt động tài trợ XNK và định hướng hoạt động kinh doanh của SGD – NHNT Việt Nam, khoá luận đã đề xuất một số giải pháp đóng góp nhằm giúp cho hoạt động tài trợ XNK của SGD sẽ ngày một hiệu quả, ngày một đa dạng và phong phú, giúp ngân hàng nâng cao được uy tín cũng như vị thế trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Đồng thời, khoá luận cũng có một số kiến nghị đối với chính phủ, các bộ ngành liên quan, với NHNN, NHNT nói chung và đối với các doanh nghiệp XNK nói riêng để hoạt động tài trợ ngày càng hoàn thiện hơn, đa dạng hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM cũng như cho SGD đa dạng hoá và mở rộng hoạt động tài trợ XNK cho các doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, hoạt động kinh tế đối ngoại cũng đạt được những bước tiến đáng kể và khẳng định được vị trí của mình trong quá trình hội nhập. Để đạt được những kết quả to lớn đó không thể không kể tới sự đóng góp của các NHTM với vai trò là cầu nối huy động vốn phục vụ sự phát triển kinh tế theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
Mặt khác, trong thời đại nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay, nếu hoạt động XNK được coi là then chốt để đưa nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng và phát triển thì hoạt động tài trợ XNK của các NHTM cũng chính là một trong những đòn bẩy hữu hiệu giúp cho hoạt động XNK được thông suốt và có hiệu quả. Đối với nước ta, hoạt động XNK là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp có nền kinh tế phát triển trong thời gian tới. Chính vì thế, hoạt động tài trợ XNK đã trở thành một lĩnh vực kinh doanh quan trọng của các NHTM Việt Nam.
So với các NHMT tại Việt Nam hiện nay, SGD – NHNT đã và đang được coi là ngân hàng nổi trội trong hoạt động tài trợ XNK. Tuy nhiên, SGD vẫn chưa phát huy được tối đa tiềm năng hiện có của mình trước nhu cầu ngày càng lớn của các doanh nghiệp. Do đó, sau khi nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng và phân tích những kết quả đạt được cùng với những tồn tại trong tài trợ XNK của ngân hàng, khoá luận đã đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm đa dạng hoá hoạt động tài trợ tại SGD – NHNT. Để có thể thực hiện những giải pháp có hiệu quả đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ từ Chính phủ, các Bộ ngành liên quan, NHNN, và các doanh nghiệp XNK để SGD – NHNT có thể phát huy được thế mạnh của mình, phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước cũng như xu thế quốc tế hiện nay.
DANH MỤC Kí HIỆU VIẾT TẮT
TÊN ĐẦY ĐỦ
TÊN VIẾT TẮT
Ngân hàng Nhà nước
NHNN
Ngân hàng Thương mại
NHTM
Tổ chức tín dụng
TCTD
Ngân hàng Ngoại thương
NHNT
Xuất khẩu
XK
Nhập khẩu
NK
Xuất nhập khẩu
XNK
Thanh toán quốc tế
TTQT
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
CNH-HĐH
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4
1.1. Khái quát chung về tài trợ xuất nhập khẩu 4
1.1.1. Khái niệm tài trợ xuất nhập khẩu 4
1.1.2. Vai trò của tài trợ xuất nhập khẩu 5
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế 5
1.1.2.2. Đối với ngân hàng 6
1.1.2.3. Đối với các doanh nghiệp 8
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
9
1.2. Các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM 11
1.2.1. Tài trợ nhập khẩu 11
1.2.1.1. Tài trợ phát hành L/C 11
1.2.1.2. Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập 13
1.2.1.3. Bảo lãnh cho hoạt động nhập khẩu 14
1.2.2. Tài trợ xuất khẩu 16
1.2.2.1. Tài trợ trước khi giao hàng 16
1.2.2.2. Tài trợ sau khi giao hàng 21
1.2.2.3. Các hình thức tài trợ xuất khẩu khác 23
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tài trợ Xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại 23
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan 24
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan 24
1.4. Kinh nghiệm hoạt động tài trợ Xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại một số nước trên thế giới 29
1.4.1. Hoa Kỳ 29
1.4.2. Hàn Quốc 31
1.4.3. Hoạt động tài trợ XNK tại một số nước khác 32
Kết luận chương 1 36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 37
2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 37
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 37
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 38
2.1.2.1. Tình hình huy động vốn 38
2.1.2.2. Tình hình sử dụng vốn 41
2.1.2.3. Các mặt hoạt động kinh doanh khác 43
2.2. Thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 46
2.2.1. Cơ sở pháp lý và quy chế 46
2.2.2. Hoạt động tài trợ xuất khẩu 47
2.2.2.1. Cho vay sản xuất hàng xuất khẩu 47
2.2.2.2. Nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất 49
2.2.3. Hoạt động tài trợ Nhập khẩu 50
2.2.3.1. Phát hành L/C 50
2.2.3.2. Nghiệp cho vay thanh toán hàng nhập khẩu 53
2.2.4. Các hoạt động tài trợ khác 56
2.3. Đánh giá hoạt động tài trợ Xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 60
2.3.1. Kết quả đạt được 60
2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân 62
Kết luận chương 2 65
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM ĐA DẠNG HOÁ CÁC HÌNH THỨC TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 66
3.1. Định hướng phát triển hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 66
3.1.1. Định hướng chung 66
3.1.2. Định hướng cho hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu 68
3.2. Giải pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 70
3.2.1. Nhóm giải pháp trực tiếp 70
3.2.2. Nhóm giải pháp hỗ trợ 74
3.3. Kiến nghị 77
3.3.1. Đối với Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan 77
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước 79
3.3.3. Đối với Ngân hàng Ngoại Thương 80
3.3.4. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu 81
Kết luận chương 3 83
KẾT LUẬN. 84
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Hồng Hải
Sinh viên thực hiện : Đinh Thanh Xuân
Lớp : TTQTB - K6
Khoa : Ngân hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.doc