Đề tài Đa dạng hóa các hình thức tín dụng ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Hoàn toàn không quá lỗi khi nhận định. Nếu không có tín dụng thì chẳng có đường sắt ở châu Âu cũng như các công trình to lớn khác. Thật thế, tín dụng ra đời như một tất yếu lịch sử, nó đánh dấu bước tiến vĩ đại trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Nó giúp cho quá trình sản xuất được thông suốt, giúp tích tụ vốn cho phát triển kinh tế, nhờ đó tạo những biến chuyển đáng kinh ngạc. Sự phát triển không ngừng của các hình thức tín dụng là minh chứng hùng hồn cho sự cần thiết của nó. Ta hãy nhìn lại, trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam. Tín dụng vừa đơn điệu về loại hình, vừa cồng kềnh về tổ chức lại không phát huy được vai trò của nó với nền kinh tế. Mặc dù từ năm 1990, chúng ta đã có những xem xét sửa đổi song nó vẫn chưa đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, việc đa dạng hóa các hình thức tín dụng, việc quan tâm và xem xét thực trạng và cần có những giải pháp phát triển các hình thức tín dụng đó là việc rất cần thiết không chỉ với ngành Tài chính - Ngân hàng mà còn là đối với cả đất nước. Chính sự cần thiết như vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay và với sự hướng dẫn và giúp đỡ của thầy cô, em chọn đề tài: Đa dạng hóa các hình thức Tín dụng ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp. Để có thể giải quyết vấn đề trên, trong khuôn khổ bài viết này em trình bày những vấn đề sau: Chương 1: Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường I. Tín dụng thương mại II. Tín dụng ngân hàng III. Tín dụng nhà nước IV. Tín dụng thuê mua Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển các hình thức tín dụng ở Việt Nam I. Tín dụng thương mại 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển II. Tín dụng ngân hàng 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển III. Tín dụng nhà nước 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển IV. Tín dụng thuê mua 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3325 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đa dạng hóa các hình thức tín dụng ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU -----***----- Hoàn toàn không quá lỗi khi nhận định. Nếu không có tín dụng thì chẳng có đường sắt ở châu Âu cũng như các công trình to lớn khác. Thật thế, tín dụng ra đời như một tất yếu lịch sử, nó đánh dấu bước tiến vĩ đại trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Nó giúp cho quá trình sản xuất được thông suốt, giúp tích tụ vốn cho phát triển kinh tế, nhờ đó tạo những biến chuyển đáng kinh ngạc. Sự phát triển không ngừng của các hình thức tín dụng là minh chứng hùng hồn cho sự cần thiết của nó. Ta hãy nhìn lại, trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam. Tín dụng vừa đơn điệu về loại hình, vừa cồng kềnh về tổ chức lại không phát huy được vai trò của nó với nền kinh tế. Mặc dù từ năm 1990, chúng ta đã có những xem xét sửa đổi song nó vẫn chưa đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, việc đa dạng hóa các hình thức tín dụng, việc quan tâm và xem xét thực trạng và cần có những giải pháp phát triển các hình thức tín dụng đó là việc rất cần thiết không chỉ với ngành Tài chính - Ngân hàng mà còn là đối với cả đất nước. Chính sự cần thiết như vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay và với sự hướng dẫn và giúp đỡ của thầy cô, em chọn đề tài: Đa dạng hóa các hình thức Tín dụng ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp. Để có thể giải quyết vấn đề trên, trong khuôn khổ bài viết này em trình bày những vấn đề sau: Chương 1: Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường I. Tín dụng thương mại II. Tín dụng ngân hàng III. Tín dụng nhà nước IV. Tín dụng thuê mua Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển các hình thức tín dụng ở Việt Nam I. Tín dụng thương mại 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển II. Tín dụng ngân hàng 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển III. Tín dụng nhà nước 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển IV. Tín dụng thuê mua 1.Thực trạng 2.Giải pháp phát triển Mặc dù em đã rất cố gắng song bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp của thầy cô giáo và các bạn. CHƯƠNG I CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI. 1. Khái niệm. Tín dụng thương mại là hình thức sử dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế được thể hiện dưới hình thức các doanh nghiệp mua chịu hàng hoá và dịch vụ lẫn nhau. 2. Nguyên nhân của sự xuất hiện tín dụng thương mại. Là do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, đặc điểm thời vụ trong sản xuất, mua hoặc bán sản phẩm, vì vậy xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán, trong lúc đó một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trog trường hựp này nhà doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hiện được sản phẩm họ có thể bán chịu hàng hoá cho gười mua. Mua bán chịu là hình thức tín dụng vì: Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định. Đến thời hạn đã được thoả thuận người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất. 3. Vai trò của tín dụng thương mại. Trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo kế hoạch tập trung hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều cấm tín dụng thương mại hoạt động. Đến những năm 1980 gắn liền với quá trình cải tổ và đổi mới quản lý kinh tế nhà nước đã bắt đầu cho phép tín dụng thương mại hoạt động. Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mạ một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu, đòng thời giúp các xí nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình. Mặt khác, sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giup cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Một vai trò quan trọng khác của tín dụng thương mại, đó là nó quyết định tính không ăn khớp của quá trình sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Vì trong nền kinh tế người sản xuất có hàng hoá nhưng chưa chắc người kinh doanh đã có tiền và người kinh doanh có tiền chưa chắc người sản xuất có hàng hoá. Tín dụng thương mại đã làm tăng nhanh tóc độ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Tín dụng thương mại còn góp phần tiết kiệm tiền mặt, tiết kiệm lưu thông tiền tệ, đảm bảo mối quan hệ kinh tế trong một nền kinh tế. 4. Đặc điểm của tín dụng thương mại. Vốn tín dụng tồn tại dưới hình thức hiện vật (do đó có độ an toàn khá cao); Toàn bộ vốn tín dụng chưa phải là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi đã rút ra khỏi quá trình sản xuất mà nó vẫn ở trong quá trình sản xuất kinh doanh (vốn sản xuất kinh doanh); Quá trình vận đổng của vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vàc quy mô của quá trình sản xuất kinh doanh. 5. Công cụ của tín dụng thương mại. Cơ sở pháp ly xác định quan hệ nợ nợ là giấy báo nợ. Đây là một loai đặc biệt của khế ước dân sự xác định trao quyền cho người bán và nghĩa vụ thanh toán nợ của người mua khi món nợ đến hạn. Giấy nợ trong tín dụng thương mại gọi là thương phiếu. Thưong phiếu có hai loại đó là kỳ phiếu và hối phiếu. 5.1. Kỳ phiếu thương mại là do người mua chịu phát hành ra để cam kết trả một món nợ tiền nhất định khi đến hạn cho người bán. 5.2. Hối phiếu là do người bán chịu phát hành ra để ra lệnh cho người m ua chịu trả số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Bỏ qua sự khác biệt về người phát hành ra nó, hối phiếu và kỳ phiếu đều giống nhau là thực hiện nghĩa vụ tài chính mà người mua chịu phải chiụ trách nhiệm trước người bán chịu vào thời điểm nhất định với những điều kiện nhất định. 5.3. Đặc điểm của thương phiếu. - Tính trừu tượng: trên thương phiếu không ghi rõ nguồn gốc và mục đích khoản nợ mà chỉ ghi nghĩa vụ tài chính. - Tính bắt buộc: luật pháp sẽ can thiệp vào hành vi mua bán chịu đến thời hạn thanh toán người mua chịu phải chịu trách nhiệm trả tiền một cách vô điều kiện đối với người bán chịu. - Đựơc lưu thông như tiền: nó được dùng làm phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán trong trời hạn hiệu lực của nó. 6. Ưu, nhược điểm của tín dụng thương mại. 6.1. Ưu điểm. - Giúp cho các doanh nghiệp (mua và bán) đảm bảo duy trì được tính liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh. - Quyết định tính không ăn khớp của sản xuất hàng hoá, làm đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá; - Góp phần làm giảm chi phí lưu thông trong nền kinh tế và tham gia điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp; - Tiết kiệm được khối lượng lưư thông tiền mặt. Tín dụng thương mại tồn tại cùng với nền kinh tế thị trường, trở thành một đặc trưng của nền kinh tế thị trường. 6.2. Nhược điểm. Mặc dù tín dụng thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhưng nó không thể thay thế các hình thức tín dụng khác, vì nó có nhữg mặt hạn chế sau: - Hạn chế về quy mô tín dụng và chiều vận động của hàng hoá. Tín dụng thương mại do các nhà doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung cấp giới hạn khả năng của mình. Nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được. Quy mô lớn nhất của tín dụng thương mại = tổng giá trị hàng hoá của người bán chịu Chiều vận động của tín dụng thương mại phụ thuộc vào chiều vận động của hàng hoá. Nó chỉ vận động theo một chiều nhất định. Do đó ảnh hưởng đến nền kinh tế, dẫn đến khhủng hoảng kinh tế mang tính lan tryền, cộng hưởng nếu một khâu nào đó hay một bộ phận nào đó bị phá sản. - Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của một doanh nghiệp có thể phù hợp với nhau, vì vậy khi thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp hau thì tín dụng không thể xảy ra. Tuy nhiên, nhờ phương pháp cấp tín dụng của ngân hàng dưới hình thức chiết khấu đã giải quyết được một phần hạn chế. - Hạn chế phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, vì vậy nhà doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số xí nghiệp nhất định-những xí nghiệp cần hàng hoá đó để sử dụng cho sản xuất kinh doanh hoặc dự trữ để bán. - Tạo ra mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa Vì nếu mua trao tay tức là chỉ mua những thứ cần thiết trong ngắn hạn vì số tiền là có giới hạn. Nhưng nếu có tín dụng thương mại tức là có tích luỹ tạo ra cầu giả tạo làm cho người sản xuất sẽ sản xuất ra nhiều hơn và do đó sẽ tạo ra sự dư thừa hàng hoá. - Loại bỏ khả năng kiểm soát của hệ thống ngân hàng với hoạt động kinh tế quốc dân làm tạo ra mầm mống cho những nguồn thu nhập bất hợp pháp. II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG. 1. Khái niệm. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp, các cá nhân, ngân hàng vừa là người cho vay đồng thời cũng là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tièn gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu đó huy động vốn trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay ngân hàng cung cấp tina dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. 2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng. - Vốn tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ, vốn tín dụng đã được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi. - Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập so với quá trìh sản xuất kinh doanh; - Hoạt động sản xuất kinh doanh mở rộng, phát triển sẽ làm cho nhu cầu về vốn tăng dẫn đến hu cầu về vốn tín dụng cao và điều này tất yếu dẫn đến hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển theo; - Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Hoạt động của tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở để cung cấp tín dụng ngân hàng, điều này thể hiện thông qua việc cấp vốn tín dụng ngân hàng ttrên cơ sở thương phiếu của ngân hàng thươg mại. Trái lại hoạt động của tín dụng ngân hàng đã góp phần khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương mại, đồng thời tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển. 3. Ưu nhược điểm của tín dụng ngân hàng. 3.1. Ưu điểm. - Có thể đáp ứng nhu cầu cả về khối lượng, thời hạn; - Không bị giới hạn bởi quy mô và chiều vận động; - Vai trò kiểm soát của các tổ chức tín dụng, ngân hàng phát huy được vai trò kiểm soát của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, tín dụng ngân hàng trở thành một hình thức chủ đạo trong nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa trước đây; - Tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng rất lớn; - Mở rộng phạm vi hoạt đống sang các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. 3.2. Nhược điểm. - Rủi ro tín dụng: Những kết cục không mong muốn đối với ngân hàng có thể xảy ra bất cứ lúc nào, dẫn đến phá sản, sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng, vì quy mô của tín dụng ngân hàng là rất lớn (lợi ích giảm theo quy mô và do đối tượng là tiền nên có thể sử dụng sai mục đích, sai hướng) . III. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC. 1. Khái niệm. Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa một bên là nhà nước và một bên là các thành phần khác của nền kinh tế và nhà nước là người đi vay. Chủ thể trong quan hệ tín dụng nhà nước (TDNN) bao gồm người đi vay là nhà nước trung ương, nhà nước địa phương. Người cho vaylà dân chúng, các tổ chức kinh tế và ngân hàng nước ngoài. Trong nền kinh tế nhà nước là một chủ thể có ngân sách riêng và kho bạc nhà nước là người đại diện thực hiện các khoản thu và chi ngân sách. Thu và chi ngân sách có thể diễn ra trong ba trường hợp sau: - Thăng bằng ngân sách, là trường hợp các khoản thu ngân sách đúng bằng các khoản chi ngân sách. Trong các khoản thu và chi này không tính các khoản vay nợ và trả nợ. - Thặng dư ngân sách: là trường hợp mà thu lớn hơn các khoản chi ròng. Phần thặng dư có thể có thể sử dụng để trả các khoản nợ đã vay trong các tài khoản trước hoặc gửi vào ngân hàng để dùng cho các mục đích sau này. - Thiếu hụt ngân sách: là các khoản thu nhỏ hơn các khoản chi ròng. Để bù đắp các khoản chi này kho bạc nhà nước phải đi vay phần thiếu hụt đó. Như vậy, mục đích đi vay của tín dụng nhà nước là bù đắp khoản bội chi ngân sách. 2. Phân loại. Tín dụng nhà nước phân ra hai loại: - Tín dụng ngắn hạn: Là khoản vay ngắn hạn của kho bạc nhà nươc để bù đắp các khoản bội chi tạm thời. Ví dụ, đầu năm ngân sách cần khoản chi ngay, nhưng tạm thời chưa có các khoản thu, cần phải đi vay để bù đắp, thời hạn vay thường dưới một năm. Tín dụng ngắn hạn của nhà nước được thực hiện bằng cách phát hành kỳ phiếu kho bạc. - Tín dụng dài hạn: Là các khoản vaydai hạn của kho bạc nhà nước. Thời hạn thường từ năm năm trở lên, viêc đi vay dài hạn được thực hiện bằng việc phát hành công trái 3. Ưu thế của tín dụng Nhà Nước - Đâylà hình thưc tín dụngcó ưu thế tuyệt đối, là con đường tốt nhất không dẫn đến lạm phát và các vấn đề kinh tế xã hội - Góp phần ổn định kinh tế xã hộivà nâng cao phúc lợi xã hội - Đây là hình thưc tín dụng mà nhà nước không bao giờ phải trả nợ, việc thanh toán bằng cách phát hành ra đợt mới để trả nợ cũ - Việc mua công trái đem lại cho người nông dân những khoản thu nhập và cóp thể giầu lên mộtcách nhanh chóng, hơn nữa mua công trái tương tự như gửi tiết kiệm nhưng có thể giầu lên một cách nhanh chóng mà không phải chịu rủi ro 4. Nguyên nhân mà người nông dân Việt nam không thích mua công trái - Việc mua bán trái phiếu chính phủ là quan hệ kinh tế vì vậy mang lại lợi ích kinh tế. Nhưng ở Việt nam lại mang tính chính trị hơn kinh tế nên việc mua công trái như việc hiến tiền cho nhà nước do tốc độ lạm phát lớn. - Chi tiêu của ngân sách nhà nước Việt nam lãng phí, chưa hợp lí - Mua công trái và gửi tiết kiệm không có sự khác biệt, nhưng người nông dân lại có thói quen gủi tiết kiệm hơn. IV. TÍN DỤNG THUÊ MUA 1. Khái niệm Tín dụng là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất kinh doanh được thể hiện dưới hình thức cho thuê tài sản cố định Sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi những khoản đầu tư và phải có năng suất lao động cao, vì vậy phải đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có vốn tích luỹtự có là không đầy đủ để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ. Do đó phải đi thuê tài sản cố định. Nó giúp cho các nhà sản xuất doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ. 2. Đặc điểm Ở Việt Nam tín dụng thuê mua được thể hiện dưới hình thức: công ty cho thuê tài chính, thực chất là công ty tài chính thực hiện việc cho thuê đối với tài sản cô định. Tín dụng thuê mua có hai hình thức. Người cho thuê đã có tài sản cố định cho thuê, Cho thuê theo kiểu vận hành vốn: mọi chi phí về sửa chữa, bảo dưỡng, tài vận hành sản cố định sẽ do người cho thuê chịu. Cho thuê theo kiểu thuê tài chính: người đi thuê tìm kiếm trên thị trường những tài sản cần thuê, sau đó yêu cầu người cho thuê mua tài sản đó. 3. Tác dụng và hạn chế của tín dụng thuê mua. 3.1. Đối với nền kinh tế. - Đây là hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển, đặc biệt là từ nước ngoài đặc biệt là những ngành có công cụ sử dụng rất đắt. - Tiếp thu được thường xuyên tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới. - Giá trị các tài sản thuê không tính vào hạn mức nợ quốc gia, do đó không ảnh hưởng đến việc sử dụng các hạn mức nợ từ các chính phủ, các tổ chức quốc tế. 3.2. Đối với người cho thuê. - Là hình thức đầu tư để thu lợi nhuận, đầu tư có độ an toàn cao. Vì người thuê tài sản có mục đích rõ ràng, có địa chỉ sử dụng rõ ràng và cụ thể. Người cho thuê bao giờ cũng nắm cơ sở pháp lý để chứng minh sở hữu nguồn gốc cho thuê. - Làm đa dạng và phong phú thêm những hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, đặc biệt là hệ thống các ngân hàng thương mại. 3.3. Đối với người đi thuê. Có tác dụng lớn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trường hợp tổ chức kinh tế thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh mà khả năng và điều kiện tiếp cận đến nguồn vốn ngân hàng không thể đảm bảo được. Và khi vay vốn ngân hàng gặp phải khó khăn là phải có tài sản thế chấp, hoặc bị khống chế bởi giới hạn vốn cho vay. Có tác dụng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ và nhu cầu sử dụng tài sản không nhiều. Các doanh nghiệp có thể luôn luôn đổi mới và tiếp cận được với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên hạn chế của tín dụng thuê mua đó là chi phí cho thuê tài sản cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM I. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI. 1. Thực trạng: 1.1. TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ Sự bùng nổ hình thức TDTM quốc tế trong mấy năm gần đây đặt nước ta vào tình trạng hết sức khó khăn vì một mặt, TDTM quốc tế là công cụ thuận lợi cho kinh doanh quốc tế, nó làm tăng đáng kể khối lượng xuất nhập khẩu, khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu cũng như các ngành sản xuất có đầu vào là nguyên liệu ngoại nhập, mặt khác nó cũng gây những hậu quả cho nền kinh tế với hiện trạng. 1.1.1.Quản lý TDTM quốc tế đang bị thả lỏng - Do thiếu hiểu biết, người ta ngộ nhận rằng nguồn vốn thu hút từ việc mở L/c trả chậm là nguồn vốn rẻ tiền và có thể dùng thoải mái tới mức họ quên đi những rủi ro đáng lo ngại và hậu quả xấu cho đất nước và các ngân hàng lao vào nghiệp vụ này một cách phiêu lưu. Nguyên nhân chính ở đây là việc quản lý hình thức tín dụng này hầu như bị thả nổi. Quỹ tiền tệ quốc tế khuyên ta nên hạn chế doanh nghiệp vay nước ngoài cho phù hợp với khả năng trả nợ nhưng con số vẫn không ngừng gia tăng. Người ta cảnh báo rằng, nguy cơ đáng lo ngại là có những công ty TNHH với số vốn trong TNHH chỉ có 3 tỷ đồng nhưng đã mở tổng số L/c trả chậm là 41 triệu USD. Như vậy chỉ cần một sơ suất nhỏ hay giá hàng nhập theo L/c đó giảm 1% là doanh nghiệp lỗ vốn 410.000USD, vượt số vốn tự có. Khối lượng TDTM quốc tế lớn như vậy nhưng chủ yếu để nhập khẩu hàng tiêu dùng, sau đó chính cán cân thanh toán quốc tế sẽ phải gánh chịu việc trả nợ này khi đáo hạn. Về phía quy định, việc bảo lãnh cho mỗi L/c hầu như không có thể lệ hướng dẫn thi hành, ghi chép ngoại bảng không kiểm soát nổi đến chỗ thắt chặt gần như cấm hoàn toàn. Nó thường xuyên bị lợi dụng để làm ăn phi pháp. Lúc đầu nó chỉ là nhập hàng trả chậm nhưng một số công ty móc ngoặc được với các cán bộ ngân hàng biến chất, rút được hàng hóa thế chấp cho L/c trả chậm đem bán phá giá lấy vốn quay vòng. Đến khi việc kinh doanh gặp rủi ro, ngân hàng là người gánh chịu những khoản này. Mặc dù đã có những biện pháp ngăn ngừa như ban hành tỷ lệ ký quỹ là 80% mà thực chất là cấm mở L/c trả chậm nhưng rồi L/c vẫn tăng đáng kể. Nguyên nhân là do các công ty cần nhập nguyên liệu cho sản xuất kiến nghị đồng loạt nên việc mở L/c lại trở về lỏng lẻo như cũ. Chẳng hạn, phân bón là mặt hàng thường xuyên được nhập về để bán phá giá lấy vốn quay vòng lại thuộc loại nguyên liệu cho nông nghiệp nên các ngân hàng vẫn tăng L/c trả chậm. Vì vậy khối lượng L/c trả chậm đầu năm 1996 khoảng 1200 triệu USD; đến tháng 6/1996 đã tăng đến hơn 1400 triệu USD. Trong vụ Epco và Minh Phụng, người ta mới thấy hết tai họa của việc bảo lãnh mở L/c trả chậm không được quản lý: riêng 2 công ty này đã hút được tới 44 triệu USD vốn đem quay vòng từ các L/c trả chậm, trong đó quá hạn chiếm 31,3% hay 13,8 triệu USD. 1.1.2. Thông tin thiếu thốn: Do vậy, có khách hàng mở L/c ở nhiều ngân hàng tới vài chục triệu USC. Trung tâm thông tin tín dụng của ta không thể cung cấp số L/c mà khách hàng mở ở nhiều ngân hàng khác nhau. 1.1.3. NHTM hoạt động kém hiệu quả, nghiệp vụ yếu kém, đội ngũ cán bộ trình độ hạn chế, chưa được thanh lọc, phẩm chất chưa tốt. Từ đó dẫn đến những vi phạm nguyên tắc một cách vô tình hay cố ý, tham ô, hối lộ gây những thiệt hại lớn cho đất nước. Nghiệp vụ ngân hàng chưa cao nên không theo dõi và không có đủ thông tin về doanh nghiệp, không kịp thời can thiệp được khi có sai trái. 1.1.4. Chưa có hiểu biết đầy đủ về TDTM quốc tế Chúng ta tiếp cận và sử dụng TDTM quốc tế như là một công cụ hiệu quả cho xuất nhập khẩu mà chưa hiểu rõ bản chất của nó. Thêm vào đó, chúng ta thiếu một hệ thống pháp luật cụ thể và hiệu quả, dẫn đến những rủi ro cho nền kinh tế. Do ham lợi trước mắt, các ngân hàng và doanh nghiệp làm sai quy tắc. Do thiếu kiến thức, nhiều L/c bị từ chối thanh toán do bộ chứng từ không hợp lệ. 1.1.5. Ngân hàng nhà nước chưa ban hành chế độ mở L/c trả chậm. Việc thiếu vắng một thể lệ có tính pháp quy như vậy đã tạo kẽ hở cho một số ngân hàng đua nhau hạ thấp các điều kiện mở L/c để thu hút khách hàng và sẵn sàng lao vào nuôi những công ty mở L/c tràn lan không có vốn đảm bảo. 1.1.6. Không có sự phối hợp giữa Vụ chức năng và Vụ kế toán của NHTW để quản lý bằng một chế độ hoạch toán kế toán chặt chẽ, đây là lỗ hổng lớn cho một số kẻ xấu tha hồ tiền hành những bút toán không thực. 1.1.7. Khối lượng TDTM quốc tế đã chiếm thị phần lớn của tín dụng trong nước nên nó là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng thừa vốn ở các doanh nghiệp. Tóm lại, cần phải có những giải pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn giữa sự cần thiết của TDTM quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta. 1.2. TDTM trong nước 1.2.1. TDTM chưa được thừa nhận chính thức, hoạt động bất hợp pháp, đầy rẫy rủi ro vì quyền lợi của người kinh doanh chưa được bảo đảm dẫn đến sự phá sản hàng loạt khi một khâu kinh doanh đổ bể. TDTM ở nước ta hiện nay chỉ dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa những người mua - người bán dẫn đến tình trạng quỵt nợ, nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp. Chẳng phải ngẫu nhiên mà một số người cho rằng vụ cháy chợ Rồng ở Thanh Hóa và chợ Đồng Xuân ở Hà Nội là do có kẻ muốn thủ tiêu giấy tờ ghi nợ. Phải nhìn nhận rằng việc bán chịu hàng ở chợ gần như thành luật lệ của giới buôn bán. Thường thường, các cơ sở sản xuất phải giao hàng đợt sau mới lấy được tiền hàng đợt trước. Nơi bán buôn ở các chợ đầu mối cũng phải cũng phải giao hàng trả chậm cho các mối bán lẻ và cả các mối ở địa phương khác. Khối TDTM lên đến hàng ngàn tỷ đồng như vậy lại không có gì bảo đảm gây thiệt thòi lớn cho các chủ nợ. Như ta đã biết, TDTM di chuyển rất nhanh. Ở một số tỉnh khối lượng TDTM lớn đã làm lệch cân đối tín dụng của các ngân hàng địa phương. Ví dụ khi giá cao sự tăng thu hút khách hàng đổ xô vào ứng tiền cho các công ty cao su. Số dư nợ khổng lồ đối với khối ngân hàng địa phương của công ty này đã giảm sút lớn dẫn đến đầu vào các các ngân hàng lớn hơn đầu ra. Theo như thống kê, TDTM chiếm đến 40% tổng số vốn lưu động của các doanh nghiệp. Con số này còn lớn hơn nhiều với những doanh nghiệp ít vốn hơn. Họ thường xuyên sử dụng hình thức này để giải quyết vấn đề tiền vốn kinh doanh hạn hẹp. Những người thường xuyên mua chịu là những người buôn bán ở chợ, bán lẻ... Các mặt hàng cho mua bán chịu cũng thật là đa dạng: quần áo, vải vóc, đồ lưu niệm, thiết bị trường học... nó tùy thuộc vào tiềm năng về vốn của người bán cũng như quy luật chung của thị trường đó. Nhiều khi người bán phải chấp nhận bán chịu như một hình thức khuyến mại, khuyến khích mua hàng của họ. Sau đây là một vài số liệu về mặt hàng vải ở chợ Đổ (Hải Phòng). Theo điều tra sơ bộ, tất cả các hiệu vải ở đây đều sử dụng hình thức TDTM dưới hình thức này hay hình thức khác. Lý do cơ bản là vì nguồn vốn kinh doanh có hạn, người bán buôn phải chấp nhận một thời hạn nào đó để người bán giải phóng hàng, gom tiền trả nợ. Người kinh doanh cho biết, đây là giải pháp hữu hiệu để duy trì hoạt động kinh doanh liên tục, đồng thời họ cũng than phiền là nhiều khi không đòi được tiền, bị quỵt nợ mà không biết kêu ai. Cùng với sự tăng lên của khối lượng TDTM, rủi ro nó mang đến cũng tăng lên đáng kể. Lẽ dĩ nhiên, buôn bán phát triển, lợi nhuận hấp dẫn, người ta quan tâm đến điều đó chứ không phải những giao ước bằng lời. Như vậy TDTM là một mảng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong hoàn cảnh thiếu vốn của ta hiện nay. 1.2.2. Chưa có những quy định cụ thể cho TDTM Trước đây, dù nhà nước có cấm ngặt TDTM thì nó vẫn ngấm ngầm tồn tại. Cho đến nay vẫn chưa có luật lệ cụ thể nào về thương phiếu, nghiệp vụ chiết khấu bị bỏ ngỏ, lại chưa có thị trường cổ phiếu... gây nhiều cản trở cho TDTM phát huy tác dụng. 1.2.3. Rủi ro đầy rẫy trong TDTM ở Việt Nam do chưa được thừa nhận và bảo đảm bởi pháp luật. - Hiện tượng di chuyển mạnh mẽ của loại hình tín dụng này làm lệch cân đối. Tín dụng của ngân hàng địa phương. Nó làm di chuyển nguồn vốn vay ngân hàng vì ngân hàng cho doanh nghiệp vay, doanh nghiệp lại bán chịu cho nơi khác nên vốn ngân hàng cho vay gồm luôn phần TDTM của doanh nghiệp và di chuyển luôn sang nơi mua chịu hàng hóa của doanh nghiệp. Hiện tượng này còn có thể làm lệch cung cầu vốn trong từng khu vực hay từng ngành, ảnh hưởng mạnh mẽ tới lãi suất thị trường. - TDTM gây rủi ro cho TDNH Ngay cả khi cấm TDTM, nó vẫn tồn tại dưới hình thức chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, không trả lãi và không có kỳ phiếu nhận nợ. Điều này dẫn đến tình trạng công nợ dây dưa khó đòi mà trong giai đoạn I năm 1995 đã lên tới 10.000 tỷ đồng lớn hơn tổng số dư nợ vay toàn bộ hệ thống ngân hàng thời kỳ đó. Nhiều khi ngân hàng bị mất trắng do chủ nợ chặn hàng siết nợ hoặc đẩy ngân hàng đến chỗ cho vay không có vật tư bảo đảm. Mặt khác, nhiều khoản vay ngân hàng bị sử dụng sai mục đích vì phải trang trải cho các món nợ TDTM đã vay vì TDTM mang tính bắt buộc, người mua buộc phải trả tiền vô điều kiện khi đến hạn. Nếu không có khả năng thanh toán, để khỏi vỡ nợ, các doanh nghiệp bù đắp TDTM bằng các khoản vay khác. - Hiện tượng quỵt nợ, công nợ dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau là phổ biến vì không có thương phiếu bảo đảm. Do đó trong vụ vỡ nợ Soái Kình Lâm, thiệt hại lên tới 100 tỷ đồng. 1.3. Vai trò của TDTM trong nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu ở Việt Nam 1.3.1. Tăng nguồn vốn kinh doanh Nền kinh tế nước ta còn nghèo, vốn cho kinh doanh hạn chế, đòi hỏi phải có những hình thức tạo vốn. Vấn đề này càng bức thiết hơn với các đơn vị buôn bán nhỏ. Nhờ có TDTM, sản xuất kinh doanh ổn định và mở rộng. Tuy nhiên không nên lạm dụng TDTM vì thời hạn tín dụng thương mại và dễ dẫn đễn vỡ nợ hàng loạt. 1.3.2. Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ TDTM với công cụ là thương phiếu được coi là hình thức lưu thông không dùng tiền mặt. Nó tiết kiệm chi phí lưu thông và giảm bất trắc trong việc chuyển tiền. 1.3.3. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, rút ngắn chu kỳ kinh doanh Nhờ có TDTM, quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, không ngắt quãng. Nhờ đó hiệu quả của sản xuất kinh doanh tăng lên đáng kể. 1.3.4. Khuyến khích sản xuất kinh doanh Trong thực tế, TDTM chiếm hơn 40% vốn lưu động của các doanh nghiệp. Với khối lượng tín dụng đó, các doanh nghiệp có thể mở rộng kinh doanh, có nhiều cơ hội kiếm lời. Mặt khác nó còn khuyến khích sản xuất kinh doanh vì hoạt động đó được bí mật tương đối, không phản ánh trên thương phiếu nên rất được ưa chuộng. Như vậy, TDTM đặt chúng ta trước sự lựa chọn khó khăn. Nên chẳng hợp pháp hóa TDTM ở Việt Nam. 2. Giải pháp: Như đã đề cập, bên cạnh những ưu thế, TDTM còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Từ năm 1932, Liên Xô (cũ) đã xóa bỏ TDTM, coi đó là sự phá vỡ việc phân bổ tín dụng theo kế hoạch. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc cấm hay hợp pháp hóa TDTM đặt ra nhiều tranh cãi. Dù vậy, TDTM là một đặc trung của cơ chế thị trường, chúng ta đã chấp nhận cơ chế thị trường tại sao không coi TDTM là một tất yếu? Hơn nữa TDTM bổ sung rất hoàn hảo cho các hình thức tín dụng khác và chưa hề chịu tác động của các lệnh cấm. Giờ đây, vấn đề là ở chỗ phải làm gì để khắc phụ những khiếm khuyết của nó mà thôi. Trong tình hình hiện nay, với sự bung ra của TDTM, việc hợp pháp hóa hình thức tín dụng này là đòi hỏi cấp thiết để giảm rủi ro cho người kinh doanh, xóa bỏ thị trường ngầm và lại khuyến khích phát triển sản xuất. Để phát huy vai trò của TDTM thật hoàn hảo cần có những biện pháp sau: 2.1. Với TDTM quốc tế - Hạn chế các doanh nghiệp vay nước ngoài. - Quy định cụ thể về thể lệ mở L/c trả chậm, tránh trường hợp công ty bán phá giá hàng nhập lấy vốn kinh doanh mục đích khác. Hiện quy chế bảo lãnh cho khách hàng vay vốn nước ngoài chỉ là 1 quy chế chung chung, không thể là một thể lệ cụ thể để quản lý nghiệp vụ mở thư tín dụng trả chậm. - Giảm tối đa việc mở L/c trả chậm cho việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, hàng xa xỉ. Nước ta còn nghèo, việc nhập khẩu hàng tiêu dùng không làm tăng sức sản xuất trong nước, gây áp lực bên cán cân thanh toán quốc tế. Khối lượng hàng nhập khẩu quá nhiều tấn công hàng sản xuất trong nước, hàng nội địa không có sức cạnh tranh dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp trong nước. - Phải xây dựng được một chế độ kế toán phù hợp. Trong TDTM quốc tế, cần bám sát UCP500 để bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước tránh những sai lầm về chứng từ không đáng có dẫn đến việc không được thanh toán. - Vụ chức năng phải phối hợp với vụ kế toán Ngân hàng để quản lý bằng một chế độ kế toán hợp lý, chặt chẽ, hạch toán thống nhất. - Xây dựng hệ thống thông tin hiện đại qua ngân hàng hoặc các công ty tư vấn, tránh trường hợp một công ty mở quá nhiều L/c trong khi vốn có hạn. - Hỏi cơ quan phụ trách chung của các ngân hàng về các quy định trong luật hối phiếu áp dụng ở mỗi nước, khắc phục tình trạng thiếu thống nhất trong pháp luật của mỗi nước. - Yêu cầu ngân hàng của người mua bảo lãnh để tránh rủi ro khi không biết cặn kẽ về đối tác. - Sử dụng các công cụ kỹ thuật hiệu quả như kỹ thuật tín dụng chứng từ. 2.2 Với TDTM trong nước 2.2.1. Hợp pháp hóa TDTM nên làm dần từng bước cùng với sự hoàn thiện hệ thống luật. Cụ thể: - Sớm ban hành pháp luật về thương phiếu, hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp cùng các thương nhân biết rõ tính chất của từng loại thương phiếu hay nhận diện được thương phiếu, đưa TDTM vào quỹ đạo thanh toán sòng phẳng. - Ban hành pháp lệnh điều chỉnh nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu từ điều 21 đến 24 quyết định 198 quy định chứng từ có giá còn chung, việc hướng dẫn thủ tục nghiệp vụ, hạch toán kế toán, chiết khấu chưa đầy đủ. Để thi hành điều luật 57 luật các tổ chức tín dụng, NHNN nên tách ra xác lập riêng thể lệ chiết khấu, cầm cố thương phiếu. - Chống thất thu thuế. Việc giao dịch trong TDTM không thể hiện rõ trên thương phiếu, dẫn đến nhà nước không thu được thuế: nên tiến hành thu thuế trên giá trị thương phiếu. - Thực hiện kiểm toán nội bộ giúp điều hành thanh tra, giám sát hoạt động hối phiếu của các ngân hàng thành viên. 2.2.2. Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng - Nâng cao nghiệp vụ của ngân hàng nhất là nghiệp vụ chiết khấu, đảm bảo cho TDTM thuận lợi, đồng thời phải có cơ chế để các doanh nghiệp không thể chiếm dụng vốn lẫn nhau. - Sử dụng nhiều loại cho vay để kiểm soát chặt chẽ ảnh hưởng của TDTM. Có nhiều loại cho vay với TDTM như cho vay chiết khấu thương phiếu cho vay theo chứng từ gửi hàng theo tàu, cho vay động sản hóa các khỏan TDTM, cho vay bao thu nợ, cho vay nhà thầu về các khoản phải đòi ngân sách trong thời gian chờ kinh phí, cho vay thương phiếu ghi băng từ... Thực chất, khoản nợ phải đòi người mua là khoản có tính rủi ro cao. Nó nằm trong phạm vi vốn lưu động của doanh nghiệp. Cho vay bằng nhiều loại vào khoản này tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát sâu các khoản TDTM để sàng lọc những gì cho vay được và biết mục đích sử dụng vốn. - Đơn giản hóa thủ tục hành chính. Ở nước ta, thủ tục hành chính rất rườm rà, làm cho chất lượng tín dụng không bảo đảm, hơn nữa nhiều khi chúng chồng chéo lên nhau tạo những kẽ hở đáng lo ngại. Vì vậy, phải tiến hành cải cách hành chính sao cho việc giao dịch với khách hàng chiết khấu đơn giản mà vẫn đảm bảo tính nguyên tắc, an toàn. - Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng. Hiện nay đa số cán bộ ngân hàng không có trình độ và năng lực cần thiết. Mặt khác, chúng ta thiếu trầm trọng những chuyên viên am hiểu về hoạt động ngân hàng. Vì vậy cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ mới, đủ năng lực đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của ngành ngân hàng. - Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ ngân hàng. Đây là đòi hỏi bức thiết vì hàng loạt những vị tham nhũng, vay ngân hàng không có thế chấp hoặc không có khả năng trả nợ đều do cán bộ ngân hàng làm sai nguyên tắc, ăn hối lộ như vụ Minh Phụng, Epco... 2.2.3. Xây dựng thị trường cổ phiếu Việc này làm tăng khả năng lưu thông và hoán chuyển của thương phiếu giảm rủi ro cho người bán chịu. Trong trường hợp người bán cần vốn, họ dễ dàng đem bán quyền sở hữu thương phiếu để lấy tiền trước thời hạn. Thông qua thị trường với sự cạnh tranh, thương phiếu được bán với giá cao nhất có thể nên nó khuyến khích được người kinh doanh. 2.2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và báo cáo lại Nhờ hoạt động này, thông tin về doanh nghiệp tương đối đầy đủ và cập nhật, giúp khách hàng tránh rủi ro, góp phần ổn định kinh tế, xã hội. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG (TDNH) . 1. Thực trạng: Tín dụng ngân hàng là một lĩnh vực khá rộng, bao quát một không gian nhiều chiều (ngang, dọc; trên, dưới; trong, ngoài) của chính sách tiền tệ quốc gia. Hệ quả của hoạt động hệ tín dụng có quan hệ biện chứng với tiến trình vận hành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, và hội nhập thế giới. Xét về tầm quản lý vĩ mô, tín dụng là một phạm trù gắn chặt với xu hướng tạo tiền, sự tạo tiền này sẽ được xoá đi khi hoàn trả tín dụng đến hạn. Tất nhiên, trong một nền kinh tế phát triên mạnh thì thường xảy ra tình trạng còn đọng lại một lượng tiền nhất định trong lưu thông nên không kiểm soát được sẽ sinh ra lạm phát làm ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả, gây phức tạp cho môi trường cạnh tranh. Nói hẹp về lĩnh vực tín dụng, hoạt động của tổ chức tín dụng là kinh doanh theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” tức là xoay quanh vấn đề giữ vững thế cân bằng giữa “ đầu vào ” và “ đầu ra”. Một sự chệch khớp nào đó, từ chủ thể này hay chủ thể khác, bất kể xuất phát từ nguyên nhân nào đều tác động dây truyền đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Các NHTM khi cung ứng tín dụng cho khách hàng đều có thể gặp rủi ro từ hiện tượng người vay mất khả năng thanh toán hoặc ít nhất là do khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng thời hạn như đã cam kết. Xuất phát ỳ nhận thức đó, NHTM trước khi quyết định cho vay cần quan tâm đến năng lực và tiến trình hoạt động kinh doanh của khách hàng trên các mặt: Tài chính (phương pháp sử dụng các nguồn vốn tự có, đảm bảo cân đối các tài sản Nợ - Có và khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trên mọi tình huống); Thị trường (nguồn cung ứng nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, cung - cầu sản phẩm hàng hoá) và cả mặt quản lý kinh doanh. Ở Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, tín dụng vẫn rủi ro nhưng lại được bao che bởi chính sách bao cấp. Đến thời kỳ đổi mới sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa lĩnh vực tín dụng ngày càng bộ lộ nhiều điều không đơn giản. Trong xã hội, có rất nhiều doanh nghiệp thiếu vốn, cần vốn trong khi đó, các ngân hàng thừa vốn, nhưng vì không tìm được dự án đủ điều kiện cho vay, sợ gặp rủi ro nên đã không dám bỏ vốn cho vay. Nếu cứ “mạnh dạn” cho vay, mà không chắc được đảm bảo thu hồi về dúng hạn, hoặc doanh nghiệp đem sử dụngvào mục đích khác, hoặc doanh nghiệp say sưa dồn vốn vay vào kinh doanh một loại sản phẩm mà cung vượt quá cầu, cũng có thể là các cán bộ tín dụng dễ bị cuốn hút bởi đồng tiền đã móc ngoặc với khách hàng, khi đó thì rõ ràng tín dụng đã gặp rủi ro. Như vậy rủi ro TDNH là điều không thể không xảy ra. Và một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi NHTM là tối thiểu hoá rủi ro tín dụng. Để đạt được mục tiêu này, các NHTM sử dụng nhiều phương pháp, quy trình đánh giá rủi ro khác nhau, bao gồm cả hình thức chính thức, và cả không chính thức. Một trong những đòi hỏi của các NHTM là đòi hỏi khách hàng phải có tài sản thế chấp khi đi vay. Người vay cần phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản trước khi vay. Tuy nhiên giải pháp này không bảo đảm sự thành công cho chính sách tín dụng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Nguyên nhân: - Tính phức tạp trong việc dự báo biến động giá cả tài sản thế chấp; - Không thể dự báo chính xác chu kỳ tín dụng; - Tính không ổn định của diễn biến lạm phát; Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vấn đề đảm bảo an toàn cho các nghiệp vụ tín dụng luôn luôn là một trong những vấn đề nổi cộm. Dễ dàng thấy rằng tín dụng trước đây và hiện nay có một điểm chung cơ bản là đều cần có sự bảo đảm. Tuy nhiên, đảm bảo tín dụng trong cơ chế thị trường khác biệt đáng kể so với đảm bảo tín dụng trong cơ chế trước đây. - Trong chế độ kế hoạch hoá tập trung Quan hệ tín dụng mang tính chất hành chính, không có luật để điều chỉnh. Uy tín trong các quan hệ tín dụng chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi phương thức điều hành mệnh lệnh. Có đề cập đến bảo đảm tín dụng nhưng là bảo đảm có sau hành vi tín dụng, là kết quả của hoạt động tín dụng. Đảm bảo không phải là điều kiện tín dụng (mà chỉ là nguyên tắc tín dụng) nên kinh doanh tín dụng bị đẩy vào trạng thái bị động. Đảm bảo đưa ra nhưng không có mục đích và đối tượng rõ ràng. Giá trị bảo đảm phải tương đương (lí tưởng bằng) với lượng tín dụng. Độ tin cậy của các bảo đảm cũng rất thấp, chỉ có vật tư hàng hoá là bảo đảm tín dụng. - Trong cơ chế thị trường. Đảm bảo là tiền đề, là điều kiện bắt buộc của một quan hệ tín dụng, là “ cái chốt an toàn” của lòng tin. Kinh doanh tín dụng có bảo đảm ở trong trạng thái chủ động, đảm tín dụng có đối tượng, mục đích rõ ràng. Giá trị các bảo đảm tín dụng nhìn chung phải lớn hơn lượng tín dụng. Sự “ chắc chắn” an toàn đối với đảm bảo tín dụng được cao hơn. Hình thức đảm bảo đa dạng và phong phú. 2. Giải pháp: Tính tất yếu của sự đổi mới trong hoạt động ngân hàng là khách quan sự so sánh ở trên có thể giúp chúng ta có thêm định hướng rõ ràng trong các quan hệ kinh doanh tiền tệ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Khách hàng là “thượng đế”, nhưng đồng thời cũng phải bình đẳng với ngân hàng. Sự tin cậy trong quan hệ tiền tệ, uy tín trong giao dịch của khách hàng và ngân hàng được thử thách theo thời gian. Do đó, ngân hàng phải luôn luôn xác định được hành động tích cực của mình trong các trường hợp để đạt được sự ổn định, độ tin cậy và tính hiệu quả cao trong quan hệ đối với khách hàng. Đảm bảo tín dụng luôn luôn là một công cụ quan trọng và năng động trong tay ngân hàng để đạt được mục đích đó. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC. 1. Thực trạng: Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 12, các chính phủ đã nhận thấy nhu cầu cần thiết phải tài trợ cho hoạt động chính quyền của mình thông qua việc phát hành những công cụ nợ chủ yếu của nhà nước, ngoài ra còn có tín phiếu kho bạc. Năm 1999, chính phủ Việt Nam phát hành công trái quốc gia huy động được hơn 4000 tỉ đồng. Tuy vậy coi đây là thất một bại do chi phí cho việc mua công trái quá lớn. Còn gần đây thất bại là do đợt phát hành lại huy động vốn trong các doanh nghiệp. Nhà nước, lực lượng vũ trang, đây chính là hình thức dùng tiền nhà nước lại cho nhà nước vay. Hơn nữa muốn cho tín dụng nhà nước hoạt động có hiệu quả thì cần phải có thị trường chứng khoán, mà ở Việt Nam chưa có thị trường chứng khoán hoạt động theo đúng nghĩa của nó. Do đó không tạo ra được sự biến động của thị giá, vì vậy không kích thích được các nhà đầu tư. Tại Việt Nam, mua công trái là sự bắt buộc đối với người dân, họ có thói quen gửi tiết kiệm hơn là mua công trái, mặc dù mua công trái và gửi tiết kiệm là như nhau. Hơn nữa việc phát hành công trái ở Việt Nam thường gắn với một mục đích màu sắc chính trị (mua công trái là yêu nước) mà công chúng không phải ai cũng thích chính trị, những việc làm về chính trị. Và một điểm nữa khiến cho tín dụng nhà nước không được dân chúng chấp nhận nhiều đó là họ còn thấy được những chi tiêu của nhà nước là chưa hiệu quả và chứa đựng những hiện tượng tiêu cực. 2. Giải pháp: Với những thực trạng trên muốn phát triển tín dụng nhà nước là còn nhiều khó khăn, đòi hỏi chính phủ phải đề ra những chủ trương, chính sách hợp lý về kinh tế cũng như về mặt chính trị xã hội. TÍN DỤNG THUÊ MUA. 1. Thực trạng: Tín dụng thuê mua là một nghiệp vụ tài trợ vốn đầu tư vào tài sản. ở Việt Nam nhằm tạo ra kênh tín dụng mới để hỗ trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị công nghệ trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, chính phủ đã có nghị định 64/cp ngày 09/10/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Các công ty này đã hoạt động và tiến hành nhiều giao dịch thuê mua. Tuy vậy nhìn tổng thể có thể thấy, mặc dù nhu cầu thuê máy móc thiết bị của các doanh nghiệp là rất lớn song ngành nghề thuê mua chưa đủ cơ hội để phát triển. Nguyên nhân: Thứ nhất, tín dụng thuê mua là lĩnh vực hoàn toàn mới du nhập vào Việt Nam. Thứ hai, các định chế chủ thể của thị trường tín dụng thuê mua (công ty cho thuê tài chính) để hình thành và phát triển phải có vốn lớn trong khi nhìn chung định chế tài chính và các doanh nghiệp Việt Nam với thực trạng tài sản có rất nhỏ. Điều đó đã làm xuất hiện mô hình công ty thuê ttài chính với nước ngoài. Song để tạo ra loại công ty này, không thể một sớm, một chiều có thể làm được. Thứ ba, do trong giai đoạn thử nghiệm, chúng ta chưa thể tạo lập một cơ chế thật sự khả thi để tín dụng thuê mua phát triển. 2. Giải pháp: Do những nguyên nhân trên mà cần có những giải pháp để phát triển tín dụng thuê mua như sau: 2.1. Về phía đi thuê. Để mở rộng thị phần và phân tán rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng thuê mua cần đa dạng hoá đối tượng đi thuê. 2.2. Đối với công ty cho thuê tài chính, có thể là các thể nhân, doanh nghiệp tư nhân, hoặc các công ty. Tuy nhiên, các công ty cho thuê tài chính phải có sự chi phối về vốn của tổ chức tín dụng tham gia. Đây là yêu cầu có tính bắt buộc để tránh rủi ro cho thị trường tín dụng thuê mua ở Việt Nam mới phát triển bước đầu. 2.3. Trong điều kiện nước ta, những năm trước mắt, các công ty cho thuê tài chính chủ yếu dựa vào nhập khẩu để tạo nguồn tài sản cho thuê. 2.4. Do đồng tiền Việt Nam chưa thể chuyển đổi, tỷ giá với ngoại tệ thường biến động, bởi vậy việc áp dụng đồng tiền trong thanh toán hợp đồng tín dụng thuê mua là cần xem xét sao cho phù hợp. KẾT LUẬN ------***----- Qua việc phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy quan hệ tín dụng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, tình hình phát triển của mỗi loại tín dụngtrong nền kinh tế là khác nhau. Bởi vậy cần có nhiều giải pháp để nâng cao, mở rộng các loại hình tín dụng đó. Chúng ta đều biết tín dụng là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Do đó, tín dụng ra đời là một tất yếu, nhưng không phải vì thế mà chúng ta tất yếu để nó phát triển một cách tự nhiên. Chúng ta cần đưa nó vào những quy luật để phục vụ cho nhu cầu của chính chúng ta. Và chúng ta ngày càng phải hoàn thiện và phát triển các quan hệ tín dụng đó.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐa dạng hóa các hình thức tín dụng ở Việt Nam Thực trạng & Giải pháp.doc
Luận văn liên quan