Lời mở đầu
Sau chiến tranh, Việt Nam trong con mắt nhìn nhận của thế giới vẫn chỉ là một quốc gia nghèo, đông dân, cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề. Trong thời điểm đó, chúng ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn từ kinh tế (mất mát viện trợ tài chính từ khối các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sự yếu kém của nền kinh tế tập trung) cho đến chính trị (bộ máy nhà nước non trẻ). Sau một loạt các chính sách sai lầm đẩy Việt Nam vào các cuộc khủng hoảng trầm trọng thì tới Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, chính phủ đã chấp thuận chính sách Đổi mới theo đó cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Từ đó, nền kinh tế Việt Nam dần khởi sắc. Từ tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đến nay nước ta đã trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng vào loại nhanh nhất trong khu vực và trên thế giới, được đánh giá cao và được cả thế giới công nhận về thành tích xoá đói giảm nghèo và phát triển con người.
Để có được sự thay đổi bộ mặt đất nước như hiện nay, không thể phủ nhận vai trò của hoạt động đầu tư phát triển và công tác quản lý hoạt động đầu tư. Với các chủ trương, cơ chế, chính sách thông thoáng mở cửa thu hút nguồn lực cả trong và ngoài nước , nguồn vốn đầu tư không còn bó hẹp trong ngân sách nhà nước mà đã được mở rộng rất nhiều và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, cũng cần tinh táo nhận định hiện trạng đầu tư hiện nay của Việt Nam: tình trạng tham nhũng không được cải thiện và luôn bị xếp hạng ở mức độ cao của thế giới cộng với các khó khăn về vốn, đào tạo lao động, đất đai, cải cách hành chính, cơ sở hạ tầng gây ra cho hoạt động đầu tư với hàng chục ngàn thủ tục từ 20 năm trước đang tồn tại và không phù hợp với nền kinh tế thị trường nên với con số cam kết đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) cao kỷ lục 61 tỉ USD năm 2008 chưa nói lên được mức độ tin tưởng của các nhà đầu tư quốc tế đối với Việt Nam và Việt Nam đang bị các nước trong khu vực bỏ lại khá xa, theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới thì Việt Nam đã bị tụt hậu về kinh tế tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore. Để tạo được những bước phát triển nhảy vọt trong tăng trưởng kinh tế thì cần thiết phải có sự đánh giá đúng những thành công và thất bại trong sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào công tác quản lý hoạt động đầu tư, từ đó vạch ra phương hướng phát triển kinh tế đất nước trong những năm tới.
Bài viết “Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư” tập trung nghiên cứu những thành tựu và hạn chế khi áp dụng các đặc điểm này vào Việt Nam, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm nhằm tiếp tục quán triệt, nâng cao hiệu quả thực hiện dự án, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển đất nước
57 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2573 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó đã nâng cao hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường kinh tế chính trị cho đầu tư, củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn được cập nhật, đổi mới, phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và xu hướng toàn cầu hoá như (luật đất đai, luật tài nguyên, luật đầu tư, luật đấu thầu…).
Cùng với đó, Nhà nước cũng thực hiện đổi mới trong công tác quy hoạch, thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý của nhà nước. Chất lưọng của công tác quy hoạch đã được chú ý, gắn kết với thực tế, bám sát với nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương.
Kiện toàn và tăng cường năng lực các bộ quản lý dự án đầu tư phát triển. Đa dạng hoá các hình thức và mở rộng các lĩnh vực cho đầu tư nước ngoài là một hướng đi mới mà Bộ kế hoạch và đầu tư đang nghiên cứu để kiến nghị Chính phủ nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Nhiều giải pháp cải thiện môi trường đầu tư đang được triển khai mạnh mẽ. Đối với vốn ODA, những khó khăn sẽ được tập trung tháo gỡ là giải phóng mặt băng, bảo đảm đối ứng trong các dự án, đấu thầu và sử dụng tư vấn, kiện toàn và tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án, cải thiện thủ tục hành chính và haì hoà hoá các thủ tuch đối với các nhà tài trợ. Các giải pháp thu hút vốn FDI được chú trọng đẩy mạnh là khâu quy hoạch, nhất là gắn quy hoạch ngành, sản phẩm với quy hoạch vùng, nâng cao chất lượng và tính khả thi của danh mục ưu tiên gọi vốn FDI. Liên quan đến giải pháp về cơ chế chính sách vĩ mô, Chính phủ yêu cầu các ngành chức năng khi soạn thảo, bổ sung, sữa đổi chính sách, luật phấp phải tính đến tác động của chúng tới FDI, bảo đảm tính nhất quán, thông thoáng hơn và áp sát hơn với cac quy định của tổ chức WTO. Các cơ chế chính sách ưu đãi về thuế, đất sẽ đặc biệt quan tâm đến các nhà đầu tư đã có dự án đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời cũng có nhưng quy chế riêng đói với các công ty xuyên quóc .
Tuy nhiên trong quản lý công tác đầu tư ở cấp vĩ mô cũng còn một số hạn chế. Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam thì chưa cao. Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “Việt Nam, tồn tại một nghịch lý là nước nghèo nhưng không biết tiêu tiền hợp lý, gây lãng phí”. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA. Đầu tư trong nước là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các DN tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn còn hạn chế do tác động chung của cac nguôn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho DN nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra. Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thânViệt Nam lai chưa tạo điều kiện đầy đủ.Hình thức BOT đã được luật hoá nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán để tham gia xây dựng hạ tầng, để đạt được kí kết. Họ phải mất them 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Cuối cùng nước này đã rút dự án ra khỏi Vệt Nam. Chúng ta càn rút ra kinh nghiệm để tránh những sai lầm trong công tác quản lý đầu tư.
1.3. Quản lý vi mô
Cùng với cải thiện đáng kể của công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô thì ở các cấp độ doanh nghiệp công tác quản lý đầu tư ngày càng được chú trọng. Năm 2007 số lượng các công ty tư vấn giám sát tăng khoảng 10% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ các nhà quản lý đã chú trọng rất nhiều đến chất lượng công trình và tiến độ công trình.Công tác lập dự án cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác đầu.Trong nhiều dự án có quy mô lớn và trình độ kỹ thuật phức tạp các công ty còn thuê chuyên gia nước ngoài để tư vấn lâp và thẩm định khả thi của dự án đầu tư. Các công ty cũng sẵn sang bỏ một số chi phí không nhỏ để thuê các tổ tư vân để lập ra các dự án có tính khả thi cao.
Bên cạnh đó có một bộ phận doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt quá trình đầu tư.Trong đó công tác đấu thầu là bất cập nhất. Nghiên cứu cho thấy: trong tổng số 400 hợp đồng thuộc 6 khoản tín dụng đã được phân tích, có sự tham gia của 1000 công ty, 1500 người, 50 ngân hang và hơn 250 giao dịch. Dựa trên kết quả phân tích ban đầu này, 110 hợp đồng đã được chọn lựa để phân tích sâu không phát hiện thấy dấu hiệu bất thường trong công tác quản lý tài chính và giải ngân. Ngoài ra chất lượng của các công trình xây dựng chấp nhận được ở phần lớn trong số 40 công trình đã được kiểm tra. Tuy nhiên phân tích sâu hơn cho thấy có dấu hiệu liên kết giữa các nhà thầu trong hầu hết các cuộc đấu thầu đã thẩm tra. Đặc biệt nghiên cứu còn cho thấy hầu hết giá bỏ thầu đều nằm trong khoảng rất hẹp. Điều đó có thể ký giải được trên cơ sở việc nhiêu nhà thầu thường căn cứ vào các định mức về giá đựơc quy định chính thức vì phần lớn là các DNNN.
Nhiêu chủ đầu tư ở Việt Nam do một bộ phận doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt quá trình đầu tư.Trong đó công tác đấu thầu là bất cập nhất.nên khi đứng trước những biến động của thị trường lạm phát cao, giá nguyên vật liệu, lãi suất tăng cao ( kể từ cuối năm 2007) gần như đứng trước nguy cơ phá sản, nhiều công trình thi công bị bỏ dở dang do chủ đầu tư không huy động được nguồn vốn.Qua đó cồn thể hiện sự non kém trong năng lực quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
2. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý hoạt động đầu tư
2.1. Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư thường rất lớn
2.1.1. Tình hình tạo vốn và huy động vốn
Các kênh tạo vốn từ nhà nước như ngân sách, tín dụng đầu tư phát triển không ngừng gia tăng qua thời gian theo sự gia tăng nói chung của nền kinh tế, lượng vốn này chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư xã hội. 70% còn lại chúng ta dựa vào huy động trong dân cư, doanh nghiệp, thu hút vốn nước ngoài. Tuy nhiên, những kênh huy động vốn như vậy không ổn định và phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế thế giới.
Thống kê hàng năm của bộ tài chính (đơn vị: tỷ dồng)
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
Vốn ngân sách nhà nước
86.400
97.000
98.130
161.000
Vốn tín dụng đầu tư
34.900
40.300
45.000
50.000
Vốn của DNNN
61.600
60.000
65.000
60.000
Vốn tư nhân
133.900
168.300
180.000
220.500
Vốn FDI
65.800
129.300
189.900
180.892
Vốn huy động khác
16.500
17.000
44.600
49.200
Giải ngân nguồn vốn đầu tư trong năm 2009 chia thành hai thái cực rõ rệt: đạt thấp, hoặc là tăng cao so với kế hoạch đặt ra.
Các nguồn vốn giải ngân vượt kế hoạch:
Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước tăng gần 63% so với năm 2008, tăng 42,7% so với kế hoạch năm, và chiếm 22,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tăng 25% so với thực hiện năm 2008, chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng của kinh tế toàn cầu nên một số kênh huy động vốn chưa đạt mục tiêu đề ra:
Nguồn vốn đầu tư trái phiếu Chính phủ đạt 80,4% kế hoạch giao.
Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chỉ bằng 75,9% kế hoạch, giảm 7,7% so với thực hiện năm 2008, chiếm 8,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân đạt 93,8% kế hoạch, tăng 22,5% so với thực hiện năm 2008, chiếm 30,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Vốn FDI đạt khoảng 82% kế hoạch, giảm 22% so với thực hiện năm 2008, chiếm 21% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Về thu hút vốn ODA, năm 2009 tổng vốn ODA ký kết đạt 5,456 tỷ USD, tổng vốn ODA giải ngân đạt khoảng 3 tỷ USD.
2.1.2. Quản lý, sử dụng vốn
Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam hiện nay đến đâu? Điều đáng buồn là phải công nhận một nghịch lí “chúng ta là một nước nghèo nhưng không biết tiêu tiền hợp lí, gây ra lãng phí”. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA.
2.1.2.1. Nguồn vốn trong nước
Hàng năm, ngân sách Nhà nước thất thoát hàng nghìn tỷ đồng, đây là một số vốn đáng kể nếu đưa vào hoạt động đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, tuy nhiên, do năng lực quản lý kém, do tiêu cực, do chi tiêu bừa bãi và bất hợp lý mà một nguồn lực lớn đã bị bỏ phí.
Đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, hầu hết họ là các doanh nghiệp tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế, do tác động chung của các nguồn lực khác: cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn đó hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên ko phủ nhận sự yếu kém của một số doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra.
2.1.2.2. Vốn ODA
Kể từ khi các nhà tài trợ quốc tế tái khởi động chương trình ODA cho Việt Nam tháng 11/1993 đến cuối năm 2008, đã có tới 22 tỷ USD được giải ngân trong tổng số 42,5 tỷ USD vốn ODA cam kết.
Cho đến gần đây, Việt Nam luôn được coi là một trong những quốc gia sử dụng hiệu quả vốn ODA nhất trên thế giới, đưa tỷ lệ đói nghèo giảm từ khoảng 58% năm 1992 xuống khoảng 11% năm 2009.
2.1.2.3. Vốn FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2006
(tính tới ngày 18/12/2006 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Đầu tư thực hiện
Số lượng
Tỷ trọng
(%)
Số vốn
(tỷ USD)
Tỷ trọng
(%)
Số vốn
(tỷ USD)
Tỷ trọng
(%)
I
Công nghiệp
4,602
67.55
38.011
62.85
19.858
68.99
CN dầu khí
31
0.46
1.993
3.30
5.453
18.94
CN nhẹ
1933
28.37
9.702
16.04
3.484
12.11
CN nặng
2007
29.46
18.897
31.25
6.827
23.72
CN thực phẩm
275
4.04
3.252
5.38
1.959
6.80
Xây dựng
356
5.23
4.165
6.89
2.136
7.42
II
Nông, lâm nghiệp
831
12.20
3.884
6.42
1.915
6.65
Nông – lâm nghiệp
718
10.54
3.558
5.88
1.749
6.08
Thuỷ sản
113
1.66
0.326
0.54
0.166
0.58
III
Dịch vụ
1380
20.26
18.578
30.72
7.010
24.36
Dịch vụ
594
8.72
1.157
2.51
0.377
1.31
GTVT – Bưu điện
186
2.73
3.373
5.58
0.721
2.50
Khách sạn – Du lịch
164
2.41
3.289
5.44
2.317
8.05
Tài chính – NH
64
0.94
0.840
1.39
0.730
2.54
Văn hoá - y tế – GD
226
3.32
0.980
1.62
0.382
1.33
XD khu đô thị mới
6
0.09
3.078
5.09
0.051
0.18
XD Văn phòng – Căn hộ
120
1.76
4.433
7.33
1.860
6.46
XD hạ tầng KCX - KCN
20
0.29
1.067
1.76
0.573
1.99
Tổng số
6813
100
60.474
100
28.783
100
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư
Cơ cấu vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 2000 – 2005 chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng cả ngành công nghiệp và dịch vụ. Trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 69% tổng vốn thực hiện, dịch vụ chiếm 24,7% và nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 6,3% tổng vốn thực hiện cả nước.
Về tình hình các dự án giải thể trước thời hạn xét theo ngành kinh tế, tính đến hết năm 2005, ngành công nghiệp và xây dựng có nhiều dự án bị giải thể nhất và tỷ lệ vốn đầu tư bị giải thể cũng cao nhất, chiếm tới 43%. Trong đó, ngành công nghiệp là 570 dự án (chiếm 53% tổng số dự án cấp phép) với tổng số vốn đầu tư 5,4 tỷ USD (chiếm 43% tổng vốn đăng ký). Lĩnh vực dịch vụ có 54 dự án (chiếm tỷ lệ 5% tổng số dự án cấp giấy phép) với 10% tổng số vốn bị giải thể. Về tình hình các dự án buộc phải chuyển đổi hình thức đầu tư phân theo ngành kinh tế, trong các dự án chuyển đổi hình thức đầu tư thì ngành công nghiệp có nhiều dự án nhất với 102 dự án (chiếm 62% tổng số dự án chuyển đổi) và 68% tổng vốn đăng ký. Đứng sau công nghiệp là dịch vụ với 39 dự án chuyển đổi hình thức đầu tư, chiếm 24% số dự án và 24% trong tổng số vốn đầu tư chuyển đổi.
2.1.3. Nguồn nhân lực
So với thế giới thì nước ta có tỷ lệ giữa thầy và thợ cao hơn nhiều lần, tuy nhiên nguồn nhân lực cấp cao lại ở mức khan hiếm. Chúng ta đang trong tình trạng lao động dư về lượng và yếu về chất. Nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của nguồn nhân lực có khả năng cạnh tranh quốc tế về trình độ, thể lực, tính chuyên nghiệp, kỷ luật, khả năng thích ứng với thay đổi… Điểm cho năng lực cạnh tranh tổng hợp về nguồn nhân lực thấp, chưa đạt đến 4 điểm (3,79/10).
Ngoài ra, nguồn lực này còn bị hạn chế bởi tỉ lệ lao động có kỹ năng thấp; mất cân đối về cơ cấu lao động theo trình độ, kỹ năng; lao động chất xám thiếu và yếu về chất lượng; thể lực kém; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động thấp.
2.2. Thời kì đầu tư kéo dài
Thủ tục hành chính đang là rào cản lớn đối với người dân và DN, gây tổn thất và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Công tác cải cách thủ tục hành chính dù được xem trọng trong thời gian qua, song sự cải thiện chỉ có mức độ. Trong những năm qua, nhiều thủ tục đã được bãi bỏ và tiết kiệm được chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên nhiều kết quả còn mang tính hình thức, chủ yếu thiên về việc hoàn thiện pháp luật hoặc cắt giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính chứ chưa mạnh dạn cắt bỏ những thủ tục đem lại lợi ích của bộ, ngành, chưa thực sự cắt giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính.
Hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư và giám sát đầu tư đã khá hoàn thiện, tuy nhiên tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, chậm tiến độ ở hầu hết các dự án vẫn diễn ra. Điển hình đối với các vi phạm trong lĩnh vực đầu tư lại rơi vào các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Theo tổng hợp của Bộ KHĐT từ 97 cơ quan bộ, ngành, số dự án được quyết định đầu tư trong năm 2009 là 8.810 dự án, cao hơn số dự án dự kiến kết thúc đưa vào hoạt động là 6.598 dự án, cho thấy tình hình đầu tư vẫn dàn trải, phân tán, số dự án bố trí đầu tư không tương ứng với số dự án đi vào hoạt động. Có tới 4.182 dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, trong đó phổ biến là các vi phạm về chậm tiến độ (4.076 dự án, chiếm khoảng 12,7% tổng số dự án thực hiện đầu tư); không phù hợp quy hoạch 51 dự án (0,2%); đấu thầu không đúng quy định 29 dự án (0,1%); phê duyệt không kịp thời 108 dự án (0,3%), chất lượng xây dựng thấp 149 dự án (0,5%); có lãng phí 94 dự án (0,3%)....
Điều đáng nói là tình trạng chậm tiến độ của các dự án vẫn chưa được cải thiện đáng kể so với mọi năm, trong đó, rất nhiều dự án đầu tư thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng quan trọng. Chậm tiến độ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí, giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư của các dự án. Đánh giá của các bộ, ngành cũng cho thấy, nguyên nhân của chậm tiến độ các dự án trong năm 2009 chủ yếu vẫn là do công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư khó khăn, tư vấn yếu kém hoặc quá tải; một số đơn vị thi công không đủ năng lực; năng lực tổ chức thực hiện của chủ đầu tư yếu; đơn vị thẩm định, phê duyệt dự án, thiết kế, đấu thầu kéo dài; không đủ vốn; thanh quyết toán chậm; chuẩn bị thủ tục, đấu thầu, xét thầu kéo dài... Kết quả là đã có tới 6.478 dự án đầu tư đang thực hiện phải điều chỉnh, khiến hiệu quả dự án giảm sút rõ rệt.
Báo cáo giám sát của Bộ KHĐT cũng chỉ ra tỉ lệ các dự án nhóm A kết thúc đưa vào hoạt động trong 6 tháng đầu năm 2009 chỉ là 135/742 dự án nhóm A của các bộ, ngành, địa phương đang thực hiện (chiếm 18,19%), thấp hơn cùng kỳ năm trước (năm 2008 tỉ lệ này là 22,3%). Số dự án nhóm A chậm tiến độ có 55 dự án, chiếm 7,41% tổng số dự án thực hiện. Ngoài việc làm hạn chế tăng trưởng kinh tế nói chung, Bộ KHĐT đánh giá, các dự án nhóm A chậm tiến độ so với yêu cầu còn dẫn tới hệ quả không đảm bảo huy động năng lực sản xuất theo đúng kế hoạch, làm tăng chi phí của ban quản lý dự án, lãi vay trong thời gian xây dựng, chi phí thuê chuyên gia nước ngoài trong trường hợp dự án sử dụng vốn ODA, lãng phí là rất lớn và hiệu quả đầu tư thấp. Đến nay, đã có 40 dự án nhóm A xin điều chỉnh lại vốn đầu tư.
2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Tình trạng buông lỏng việc thực hiện công tác giám sát đầu tư tồn tại ở nhiều ngành, địa phương. Nhiều bộ, ngành, địa phương có tỉ lệ các dự án thực hiện giám sát đầu tư thấp hơn 50% tổng số các dự án đang thực hiện trong kỳ hoặc gửi báo cáo giám sát đầu tư còn không có số liệu, không có phân tích, đánh giá cụ thể, kiến nghị, đề xuất. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng công trình và thời gian vận hành kết quả đầu tư sau này.
Bình quân cả nước triển khai trên 6.000 dự án đầu tư xây dựng mỗi năm với quy mô đa dạng, chất lượng ngày càng được chú trọng nâng cao. Nhiều công trình đã được các giải thưởng quốc tế về chất lượng, trong đó điển hình là Hầm Hải Vân đã được Hiệp hội các nhà Tư vấn Hoa Kỳ bình chọn là công trình hầm đạt chất lượng cao nhất thế giới trong năm 2005. Trong 5 năm gần đây, có trên 90% công trình đạt chất lượng từ khá trở lên; sự cố công trình xây dựng chỉ chiếm 0,28 đến 0,56% tổng số công trình được xây dựng mỗi năm.
Bất cập về chất lượng công trình chính là các sự cố, hư hỏng công trình hay những khoảng trống về pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Một số sự cố lớn xảy ra trong thời gian gần đây như: sập hai nhịp neo cầu Cần Thơ, sạt lở Mỏ đá Đ3 Thủy điện Bản Vẽ, vỡ đập chính sau mùa lũ năm 2007 công trình hồ chứa nước Cửa Đạt, nứt bêtông các đót hầm dìm Thủ Thiêm. Cùng đó, một số công trình mới đưa vào sử dụng đã bộc lộ khiếm khuyết về chất lượng, bảo trì các công trình cũng chưa được quan tâm nhiều.
2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng
Báo cáo của Chính phủ chỉ ra những yếu kém cơ bản của quy hoạch hiện nay: chất lượng chưa cao, chưa có tầm nhìn xa, chưa theo kịp với những thay đổi khách quan trên thị trường thế giới; quy hoạch ngành, vùng, lãnh thổ chưa ăn khớp, gắn kết; tính cục bộ, khép kín trong quy hoạch đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo, dư thừa công suất... Cái gốc của tình trạng đầu tư kém hiệu quả gây ra thất thoát, lãng phí chính là tình trạng "nhiều ngành, nhiều địa phương làm quy hoạch theo cảm tính, quy hoạch phong trào, thấy người ta có công trình gì mình cũng muốn có công trình đó". Câu chuyện về nhà máy đường không có mía, về cảng biển không có tàu lại một lần nữa được đề cập đến như minh chứng cho việc làm quy hoạch tùy tiện, không có tầm nhìn, thiếu chiến lược và đặc biệt là tình trạng mạnh địa phương nào địa phương ấy lập quy hoạch, không tính đến yếu tố vùng.
2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao
Trong thực trạng nền kinh tế phát triển mạnh như ở Việt Nam những năm trước, khi mà các biến động thị trường mang tính tích cực, rất nhiều cơ hội, giao dịch kinh tế được thực hiện một cách dễ dàng và có lợi cho các bên… thì phần lớn DN trong nước đều thấy mình thành công, dù ở cấp độ nhiều hay ít, mà không tính đến dài hạn hay ngắn hạn. Các rủi ro khi đó được giảm thiểu một cách khách quan từ thị trường và do đó bị xem nhẹ một cách đáng tiếc. Tuy nhiên, khi nền kinh tế có dấu hiệu chững lại và kém thuận lợi, bắt đầu từ lạm phát cao, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đến việc khan hiếm nguồn lực tài chính cùng áp lực lãi suất cao và gần nhất là tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các DN sẽ phải đương đầu với mặt trái của các biến động - các rủi ro kinh doanh. Một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thành công, khả năng vượt qua tình trạng khó khăn hiện nay, thậm chí khả năng tồn tại của các DN trong nước chính là việc họ có hay không một cơ chế nhận diện, kiểm soát và hạn chế rủi ro. Nếu làm tốt hơn thì nhiều DN có thể biến rủi ro thành cơ hội cho mình.
Hiện trạng công tác quản lý rủi ro của một số loại hình DN trong nước có một số nét chính tóm tắt như sau:
Các DN nhỏ và vừa:
Điểm yếu của các DN này đến từ quy mô nhỏ là chưa bài bản trong công tác quản lý và quản trị DN nói chung. Các DN này thường lệ thuộc vào các cá nhân lãnh đạo, thường là chủ sở hữu, trong việc nhận diện và ứng phó với rủi ro. Vai trò của các cá nhân này rất quan trọng và phụ thuộc nhiều vào bản năng cũng như độ nhạy bén của họ trong hoạt động kinh doanh. Không hiếm DN trong nhóm này có khả năng vượt qua các giai đoạn biến động khó khăn, thậm chí trở thành DN thành công, nhưng về mặt phát triển dài hạn cũng như chiến lược kinh doanh của DN sẽ hàm chứa nguy cơ thất bại cao nếu vấn đề quản lý rủi ro không được thay đổi một cách bài bản, đặc biệt khi "giác quan" của các cá nhân "cùn" đi trong môi trường kinh doanh ngày một phức tạp hoặc khi quy mô hoạt động và các thay đổi của điều kiện thị trường vượt quá khả năng kiểm soát của họ.
Các tập đoàn tư nhân:
Đây là sự phát triển thành công vượt bậc của nhiều DN nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian qua. Với sự thuận lợi về môi trường kinh doanh cũng như quy mô vốn, các tập đoàn này ngày càng phát triển và có tiềm năng trở thành các biểu tượng trong nhiều lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần làm ở các DN này là sự thay đổi cần thiết về cơ cấu quản lý, quản trị DN cũng như quản lý rủi ro một cách tương ứng với quy mô và tầm cỡ của mình. Tương tự như DN nhỏ và vừa, các tập đoàn tư nhân mới nổi dựa vào giác quan "sắc bén" của các cá nhân lãnh đạo, thường là những thành viên trong gia đình. Các chủ sở hữu hoàn toàn có thể xây dựng quanh mình một đội ngũ nhân viên có kỹ năng xuất sắc để có được thay đổi cần thiết trong quản lý. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi vẫn là "niềm tin" và việc chuyển giao trọng trách cho những người ngoài gia đình cũng như các công ty tư vấn. Nếu dùng đúng người, đúng việc thì việc áp dụng các lý thuyết và công cụ quản lý, kể cả kiểm soát rủi ro, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Thực tế cho thấy, chỉ có một số ít tập đoàn tư nhân áp dụng bài bản các bước quản lý rủi ro, phần còn lại vẫn đang trong giai đoạn chuyển đổi tư duy, các quyết định kinh doanh và ứng phó rủi ro vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi ý chí chủ quan của các chủ sở hữu.
Các DN, tổng công ty nhà nước đã chuyển đổi hoặc cổ phần hóa:
Các khái niệm về rủi ro kinh doanh và cơ chế kiểm soát là khá mới mẻ với các DN này, vì trong một thời gian dài họ hoạt động trong cơ chế bao cấp, việc hoàn thành định mức và chỉ tiêu được giao đôi khi mang tính danh nghĩa, chứ không có tính sống còn với DN. Các cơ chế này gần như không tồn tại hoặc chỉ tồn tại dưới dạng hình thức, kể cả sau khi DN được cổ phần hóa hoặc chuyển đổi. Không thể phủ nhận có một số DN với kinh nghiệm quan hệ quốc tế phong phú hoặc các tập đoàn kinh tế có tư duy cởi mở đã chủ động áp dụng các lý thuyết và mô hình quản lý rủi ro theo chuẩn quốc tế, nhưng do có sự hạn chế nhất định về các cơ chế còn tồn tại cũng như năng lực nội bộ, các áp dụng này vẫn chưa được coi là thực sự hoàn thiện. Sự tham gia điều hành một cách trực tiếp của các đối tác chiến lược nước ngoài được mong đợi sẽ góp phần tăng cường năng lực của các DN trong việc hoạch định chiến lược, nâng cao quản trị DN và tăng cường kiểm soát rủi ro.
Các DN có vốn nước ngoài:
Phần lớn DN này có lợi thế trong việc có được các mô hình và cơ chế quản lý, kiểm soát rủi ro có sẵn của các công ty, tập đoàn nước ngoài. Với một số DN đầu tư độc lập thì các nhà đầu tư và nhà quản lý, dựa trên kinh nghiệm từ các thị trường tiên tiến hơn, chủ động hơn trong việc định hướng và phát triển cơ chế và các bước quản lý rủi ro bài bản hơn. Họ cũng có điều kiện để sử dụng các công cụ quản lý rủi ro một cách thuần thục và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, vẫn có những mối quan tâm nhất định liên quan đến việc đảm bảo tuân thủ các quy trình và thủ tục kiểm soát rủi ro đã đề ra. Sự giám sát và cơ chế báo cáo cho tập đoàn ở nước ngoài không phải lúc nào cũng được thực hiện trên quy mô đầy đủ, trong khi các nhà quản lý DN ở trong nước, dưới áp lực đạt các chỉ tiêu ngắn hạn (như tăng trưởng doanh thu, cắt giảm chi phí…) có thể sẽ bỏ qua hoặc thiếu chú trọng vào một vài bước nào đó.
Chương III
Một số giải pháp tăng cường quán triệt đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý hoạt động đầu tư
Định hướng đầu tư Việt Nam
Việt Nam đã gia nhập WTO, ngoài những thuận lợi chúng ta sẽ có được, không thể không kể tới những khó khăn và thách thức phải đối mặt. Là 1 phần của nền kinh tế thế giới, chắc chắn Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng khi nền kinh tế thay đổi. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới 2008 vừa qua, Việt Nam tuy chỉ bị ảnh hưởng phần nhỏ (do chúng ta chưa thật sự liên kết với nền kinh tế thế giới một cách sâu sắc cũng như chính phủ đã có những chính sách phù hợp để ngăn chặn khủng hoảng) nhưng nó đã đặt ra một câu hỏi lớn cho sự phát triển của đất nước khi càng ngày chúng ta càng gắn chặt hơn với nền kinh tế thế giới, khi việc tham gia WTO sẽ hạn chế sự bảo hộ của nhà nước và khi Việt Nam trở thành nền kinh tế thị trường. Muốn tận dụng những cơ hội cũng như hạn chế những khó khăn thách thức, tất yếu đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn khách quan về những gì đã làm được, những gì còn yếu kém. Để có giải pháp đúng đắn và kịp thời, ngay từ bây giờ chúng ta cần có một định hướng phát triển cụ thể và rõ ràng nhất là trong lĩnh vực đầu tư.
Thập kỉ tới là thập kỉ có rất nhiều cơ hội đầu tư cho Việt Nam. Xu hướng trên thế giới bây giờ là các nhà đầu tư luôn tìm kiếm những cơ hội đầu tư ít rủi ro và mang lại lợi nhuận cao. Những năm tới, Việt Nam vẫn là một trong những điểm thu hút đầu tư hấp dẫn nhất thế giới do tình hình chính trị ổn định và xu hướng tiêu dùng trong nước tăng cao. Dự báo xu hướng đầu tư những năm tới, nhiều chuyên gia đã nhận định làn sóng đầu tư sẽ tiếp tục đổ vào Việt Nam với nhiều dự án quy mô trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, để phát triển thì cần đảm bảo vấn đề pháp lý, thủ tục một cách nhanh chóng và đơn giản cũng như chính sách thu hút và phát triển hợp lý.
Các chuyên gia cũng đưa ra dự báo về các thị trường có thể hấp dẫn các nhà đầu tư trong những năm tới. Đó là thị trường bất động sản Việt Nam với nhiều cơ hội phát triển sau những chuyển biến tích cực, khả quan mang đến nhiều hy vọng cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thị trường bất động sản nước ta đã hình thành và phát triển một cách nhanh chóng, dự đoán trong mấy năm tới, thị trường này tiếp tục có những bước phát triển khởi sắc. Thị trường tiêu dùng đang nhận được sự quan tâm của đông đảo nhà đầu tư. Năm 2009 được xem là năm thị trường tiêu dùng Việt Nam có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là thị trường bán lẻ ngày càng thu hút được sự quan tâm đầu tư của các tập đoàn bán lẻ danh tiếng trên thế giới. Việt Nam đang là quốc gia có sức hút mạnh về thị trường bán lẻ, trong tương lai thương mại hiện đại sẽ phát triển ổn định ở đây. Thị trường tiêu dùng những năm tới sẽ phát triển tiềm năng của thị trường nội địa, tiếp tục chuyển biến khởi sắc mang lại nhiều cơ hội cho nhà đầu tư kinh doanh và người tiêu dùng. Thị trường tài chính ngân hàng cũng nhận được sự quan tâm của đông đảo doanh nghiệp trong và ngoài nước. Việt Nam được đánh giá là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư châu Âu với số vốn giải ngân xếp hàng thứ hai sau Nhật Bản.
Nhận thức rõ xu hướng đầu tư hiện nay là bước quan trọng trong việc đưa ra các khuyến nghị giải pháp nhàm tăng cường quán triệt những đặc điểm đầu tư phát triển trong công tác quản lý hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư.
2. Một số giải pháp tăng cường quán triệt đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý hoạt động đầu tư
2.1. Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư thường rất lớn
2.1.1. Tăng cường huy động vốn
Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút mọi nguồn ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế.
Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư, đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề cho việc cân đối vốn ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn.
Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này. Vốn ngân sách nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác,... chủ yếu cần được tập trung qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để giải ngân cho các đối tượng theo được quy định.
Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước.
Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng chi tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,...sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM,... Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội.
Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hóa danh mục tài sản có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điều kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác.
2.1.2. Sử dụng vốn hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng đầu tư
Đổi mới phưong pháp lập dự án, cần có một khuôn khổ chung và hoàn chỉnh cho quá trình lập dự án . Muốn chất lựong đầu tư được nâng cao thì ciông tác dự báo và thu thập thông tin cần được thực hiện nghiêm túc và tích cực , bên cạnh đó thì kết quả dự báo và phân tích thông tin cần được đi kèm với những giải pháp , cơ chế và chính sách cụ thể .
Khi dự án được đưa vào thực hiện thì ban quản lý cần có những biện pháp tích cực để tiến độ công trình được thực hiện đúng thời hạn. Bên cạnh đó, ban quản lý cần tham khảo ý kiến các chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực đầu tư để chất lượng dự án đạt mức cao nhất .
Trong quá trình thực hiện, cần theo dõi chặt chẽ để có được những thay đổi hiệu chỉnh cần thiệt để dự án đi đúng hướng và đạt được hiệu quả cao nhất . Để đạt được điều này, đội ngũ cán bộ công nhân viên thuộc dự án cần được trau dồi tốt để đáp ứng được yêu cầu của dự án .
2.1.3. Nâng cao chất lượng quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư
Quá trình quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư là một giai đoạn rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dự án.
Việc kiểm soát, theo dõi dự án chặt chẽ góp phần cung cấp đầy đủ thông tin về tiến độ thực hiện , khối lượng công việc và khả năng hoàn thành dự án . Nắm được quá trình thực hiện dự án cũng đồng nghĩa với việc sẽ kịp thời đưa ra những hiệu chỉnh cần thiết và hợp lý để dự án đạt được hiệu quả tốt nhất. Bên cạnh đó, quản lý tốt dự án là luôn phải xử lý nghiêm khắc các sai phạm dù là nhỏ nhất để tránh tình trạng đùn đầy trách nhiệm .
Thẩm định và phê duyệt dự án đóng một vai trò quan trọng trong tình hình phát triển của nước ta hiện nay. Vì vậy, cần thẩm định và phê duyệt dự án một cách chi tiết và chính xác để những dự án được phê duyệt phải là những dự án thực sự sẽ đem lại hiệu quả cao. Đặc biệt đối với những dự án có quy mô lớn và tầm ảnh hưởng cao tới đời sống người dân và kinh tế quốc gia thì việc thẩm định và phê duyệt càng cần phải thiết chặt và nghiêm túc.
Cần tổ chức tốt những cơ quan quản lý trực thuộc Chính phủ để những cơ quan này không bị ràng buộc bởi những lợi ích cục bộ của ngành và của địa phương . Mọi kết quả và báo cáo đánh giá phải được công khai và đưa ra cho người dân tham khảo và góp ý.
2.1.4. Đánh giá hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Đối với những doanh nghiệp nhà nước , để hoạt động đầu tư được thực hiện hiệu quả thì cần cơ cấu lại tổ chức và có thể tiến hành giản thể hoặc bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, tránh trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Ngoài ra có thể sát nhập, hợp nhất các doanh nghiệp cùng ngành nghề nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Sau đó là việc kiểm soát nguồn vốn vay tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước từ các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại cần đánh giá tính khả thi của các dự án thuộc doanh nghiệp nhà nước để tránh thất thoát cho ngân hàng đồng thời tránh được tổn thất cho xã hội.
Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn, tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để các cổ đông có thể giám sát việc sử dụng vốn đầu tư theo đúng quyết định ban đầu của dự án . Mọi thông tin liên quan đến doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá phải trung thực, được công bố kịp thời, công khai, minh bạch và tuân thủ đầy đủ các quy định của Nhà nước.
2.1.5. Tăng cường công tác xã hội hóa công tác đầu tư
Xã hội hóa đầu tư là một giải pháp quan trọng nhằm đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới của nước ta hiện nay. Xã hội hóa công tác đầu tư là tạo điều kiện tốt nhất cho cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường đầu tư . Cần phân biệt rõ những dự án nào nên khuyến khích tư nhân tham gia để tạo cạnh tranh và hiệu quả. Chỉ những dự án nào tư nhân không thể tham gia thì mới để các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ.
Bên cạnh đó, cần đối xử công bằng với các doanh nghiệp để việc sử dụng vốn được hiệu quả khi giao dự án cho những doanh nghiệp thực sự có năng lực và tiềm lực.
Ngoài ra cần tăng cường việc hợp tác theo hình thức cùng đầu tư . Nhà nước cần có những hỗ trợ mang tính dài hạn và có cơ chế để nhà đầu tư huy động vốn dài hạn thông qua các kênh như: phát hành trái phiếu công trình; hỗ trợ phần còn thiếu thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ.
2.1.6. Hoàn thiện công tác giải phóng mặt bằng
Đầu tiên cần bảo đảm tính dân chủ, công khai trong quá trình đền bù và giải phóng mặt bằng . Các công việc như phổ biến chủ trương, quy hoạch, họp lấy ý kiến của nhân dân , lập phương án đền bù, hỗ xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư.
Bên cạnh đó cần tăng cường chỉ đạo phối hợp chặt chẽ trong thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng giữa cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể các cấp. Chú trọng công tác tuyên truyền, giải thích để người dân hiểu và chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước về bồi thường giải phóng mặt bằng.
Ngoài ra phải thực hiện đồng bộ giữa quy hoạch, giải phóng mặt bằng với việc bố trí lại tái định cư và bố trí đất sản xuất cho những hộ dân có đủ điều kiện. Bên cạnh việc tính toán bồi thường, hỗ trợ thiệt hại đúng và đủ theo quy định cần quan tâm đến đời sống kinh của các hộ dân bị thu hồi đất. Khi phương án bồi thường giải phóng mặt bằng được ban hành, các cơ quan phải kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương nơi có dự án, công khai đầy đủ những thông tin liên quan đến việc tính toán bồi thường, hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dự án và công bố ngay địa điểm cũng như phương án bố trí tái định cư.
2.1.7. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong công tác phân cấp quản lý đầu tư và hoàn thiện môi trường đầu tư
Phải đẩy mạnh hơn nữa công tác phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng của các địa phương . Từ đó sẽ tạo ra sự chủ động cho các địa phương trong việc thực hiện dự án.
Phân cấp quản lý đầu tư cũng cần phải tính đến việc đồng bộ hóa trong các khâu xây dựng quy hoach, kế hoạch phát triển của địa phương để có sự thống nhất về chủ trường và quy hoạch phát triển cho từng vùng, từng địa phương trong tổng thể chiến lược và quy hoạch chung của cả nước. Tạo cơ chế mở cho tất cả các địa phương trong việc thu hút các nguồn lực cho phát triển nhưng có tính đến năng lực và tài lực của từng địa phương để tránh tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí nguồn vốn đầu tư.
Tiếp tục tăng cường phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước cho địa phương theo Luật Ngân sách Nhà nước. Cần rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh thêm các văn bản dưới luật trong lĩnh vực này.
2.2. Thời kì đầu tư kéo dài
2.2.1. Phân kì đầu tư
Các công trình đầu tư nói chung thường có thời gian kéo dài, nếu không biết cách sử dụng quản lý cho phù hợp có thể dẫn đến khê đọng vốn. Hướng giải quyết tốt nhất cho vấn đề này đó là tiến hành phân kì đầu tư. Một dự án khi còn nằm trên giấy tờ đã cần được xem xét rất kĩ về mặt thời gian (tiến độ công trình) và nguồn lực (vốn, nhân công). Để tránh tình trạng vốn bị tồn đọng quá lâu mà không được quay vòng, các nhà đầu tư nên kết hợp với nhà thầu xây dựng tiến độ công trình cho phù hợp, dồn tiền và sức hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, không nên dàn trải tiền của xây dựng nhiều thứ một lúc sẽ không hiệu quả. Đồng thời cần thiết xây dựng tiến trình dự án theo thời gian (tháng, quý, năm), thời gian nào thực hiện hạng mục công trình nào để xây dựng kế hoạch cho việc huy động vốn và nhân lực. Tiến trình được lập nên đòi hỏi sự nhất trí giữa chủ thầu và nhà thầu, đồng thời cần được giám sát chặt chẽ trong suốt quá trình dự án để đảm bảo mọi việc diễn ra theo đúng tiến độ hoặc nhanh hơn tiến độ (nếu vẫn có thể đảm bảo được chất lượng). Tuy nhiên cũng cần chú ý lịch trình có thể thay đổi tùy theo thực tế, nếu có thay đổi thì cần có sự thống nhất lại giữa các bên liên quan để tránh gây hiểu lầm ảnh hưởng đến công trình.
2.2.2. Nâng cao hiệu quả giám sát cộng đồng
Cơ chế giám sát cộng đồng trong hoạt động đầu tư xây dựng của các bộ ngành, địa phương và các DNNN được Thủ tướng Chính phủ ban hành trong Quyết định số 80/2005/QĐ-TTG ngày 18/04/2005, Quy chế giám sát cộng đồng ra đời, một mặt chính thức công bố về mặt luật pháp là cho cộng đồng có quyền làm, mặt khác là đưa người giám sát vào một hệ thống có tổ chức để thực hiện quyền phản ánh của mình, tiếp cận với hệ thống quản lý Nhà nước về đầu tư. Qua giám sát, cộng đồng có thể phát hiện và báo cho cơ quan có thẩm quyền về những việc làm xâm hại đến lợi ích của mình; những tác động tiêu cực của dự án đến môi trường sinh sống của cộng đồng trong quá trình thực hiện đầu tư, vận hành dự án, từ đó góp phần làm giảm thiểu các hành vi gian lận, sai trái của các cơ quan, đơn vị thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Đây là một chủ trương đúng đắn của nhà nước khi để nhân dân cùng làm, cùng tham gia, nâng cao tính dân chủ, tuy nhiên thực hiện được chủ trương này không phải dễ.
Đầu tiên, muốn nhân dân tham gia thì nhân dân cần phải biết sẽ tham gia vào cái gì. Điều này đòi hỏi tính công khai minh bạch trong cung cấp thông tin cho người dân. Một dự án sắp được tiến hành, người dân cần được biết dự án đó làm về gì, do cơ quan nào đứng ra quản lý, nguồn vốn là bao nhiêu, sử dụng đất đai như thế nào, từ đó người dân mới có được cái nhìn đúng đắn để tham gia giám sát.
Thứ hai, cần thiết phải có 1 cơ quan đứng ra thu thập ý kiến của người dân và bảo đảm ý kiến đó được phản ánh với các cấp có thẩm quyền. Cơ quan này có thể là UBND cấp xã/phường, có thể là UBND cấp tỉnh/thành phố hay cũng có thể là một tổ chức có uy tín đứng ra. Cơ quan này cũng phải bảo đảm sẽ giải quyết sự việc đến nơi đến chốn đồng thời cập nhật thông tin thường xuyên cho người dân để họ nắm được tiến trình giải quyết cũng như thông báo công khai khi có kết quả.
Để khuyến khích tinh thần tham gia giám sát cộng đồng của người dân thì cần có chế độ thưởng phạt công minh. Người dân phán ánh đúng, chính xác thì cần có mức thưởng xứng đáng cũng như doanh nghiệp/chủ đầu tư vi phạm bị phản ánh cũng phải có mức phạt phù hợp để người dân thấy mình đang thực sự tham gia vào công việc chung đồng thời cũng giúp giảm tình trạng thất thoát, lãng phí hay những hiện tượng tiêu cực trong đầu tư.
2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Khi dự án đầu tư hoàn thành cần nhanh chóng hoàn thiện đưa vào hoạt động, quản lý chặt chẽ và tối ưu hóa quá trình vận hành . Vận dụng tối đa công suất sử dụng để nhanh chóng thu hồi vốn và tránh các hao phí.
Xác định nhu cầu thị trường về sản phẩm của dự án trong tương lai, dự báo lượng cung tương ứng trong từng năm và toàn bộ dự án để có những phương pháp quản lý và dự báo ở cả cấp vĩ mô và vi mô. Để đạt được điều này cần nâng cao hiệu quả nghiên cứu các giải pháp khoa học. Các doanh nghiệp Nhà Nước đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động nghiên cứu triển khai này vì hoạt động đòi hỏi vốn đầu tư lớn không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng thực hiện .
Độ trễ trong thời gian đầu tư cần được quan tâm đúng mức. Cần đưa ra những phương thức quản lý nhằm đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò giám sát của cơ quan quản lý hoạt động đầu tư và cần có sự thống nhất với các chỉ số kinh tế, kỹ thuật của dự án .
2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng
Trước khi dự án được thực hiện , cần nghiên cứu thật kĩ các điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội tại nhiều nơi dự án có thể thực hiện rồi chọn ra nơi có điều kiện tốt nhất . Làm tốt giai đoạn này là đóng góp một phần lớn vào hiệu quả của dự án sau này .
Các yếu tố và căn cứ cụ thể để nghiên cứu:
Địa điểm cần gần nơi cung cấp nguyên vật liệu và nơi tiêu thụ sản phẩm
Có hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc đầy đủ
Dịch vụ công công và khả năng tiếp cận dịch vụ dễ dàng
Vấn đề bất động sản, khả năng san lấp và giải phóng mặt bằng
Thị trường lao động lớn và chất lượng
Sự hợp tác của chính quyền địa phương
Dựa vào những chỉ tiêu đánh giá trên, các nhà đầu tư sẽ có được địa điểm xây dựng dự án hợp lý nhất .
2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao
2.5.1. Cải cách thủ tục hành chính
Việt Nam tuy được đánh giá là một trong những điểm thu hút đầu tư hấp dẫn nhất trên thế giới tuy nhiên bất kì nhà đầu tư nào (trong hay ngoài nước) khi tiến hành đầu tư ở Việt Nam đều phải “nhăn nhó” trước các thủ tục hành chính quá phức tạp và tốn thời gian. Một dự án thực hiện trong vòng 3 năm thì có khi mất hơn 1 năm chỉ để đi xin giấy tờ cấp phép. Thực tế cho thấy nếu chúng ta có thể cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt các loại dấu má hay giấy tờ thì môi trường đầu tư ở Việt Nam sẽ còn hấp dẫn hơn nữa, thu hút các nhà đầu tư hơn nữa. Để cải cách có hiệu quả, chúng ta nên xem xét lại một cách hệ thống toàn bộ văn bản pháp luật liên quan, sửa đổi một số điều luật cho phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Mặt khác, cần lắng nghe ý kiến từ các chuyên gia, người dân đặc biệt là các nhà đầu tư để có hướng sửa đổi cho phù hợp nhất.
2.5.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chống tham nhũng
Tham nhũng vốn vẫn là vấn đề nổi cộm trong xã hội ta mấy năm gần đây, giải quyết trong một sớm một chiều là điều không thể. Tuy nhiên, phải có các biện pháp để hạn chế dần dần tiến tới loại bỏ tệ nạn này. Trước hết, nhà nước có thể xây dựng 1 đạo luật về chống tham nhũng với mức thưởng phạt công minh và xứng đáng, đồng thời giám sát quá trình thực hiện để đảm bảo luật được thi hành. Sau đó, phải dần dần thay đổi nhận thức của cán bộ về vấn đề này cũng như kêu gọi toàn dân tham gia chống tham nhũng. Nếu như vậy thì môi trường đầu tư ở Việt Nam sẽ được cải thiện và hấp dẫn hơn rất nhiều.
Kết luận
Việt Nam bước vào thập kỷ 2020 đúng vào lúc kinh tế thế giới - trước hết là những nền kinh tế lớn mà đầu tầu là kinh tế Mỹ - đang tìm cách ra khỏi cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống hiện nay để tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới. Trong khi đó Trung Quốc đang dấn bước vào thập kỷ 2020 với mọi nỗ lực quyết liệt nhất để đi nhanh hơn nữa trên con đường trở thành siêu cường vào giữa thế kỷ này. Chúng ta, trong thập kỉ tới, có thể tận dụng cơ hội cũng như các lợi thế của mình để vươn lên hay không, hay sẽ bị các siêu cường (mà gần nhất là Trung Quốc hay Mỹ) “nuốt chửng”, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào việc chúng ta đánh giá, nhìn nhận đúng vị thế Việt Nam hiện nay cũng như có những chính sách sách lược đúng đắn.
Một trong những yếu tố quyết định nhất đến sự vươn lên của đất nước (như đã đề câp ở trên) chính là đầu tư. Đầu tư đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, có ý nghĩa lớn nhằm duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế đó. Việt Nam, một quốc gia đang trên đà phát triển, với lượng vốn đầu tư thu hút vào trong nước mỗi năm một lớn hơn thì rất cần thiết phải có chủ trương, đường lối đúng đắn trong việc xác định tốc độ tăng trưởng, từ đó có kế hoạch cụ thể cho đầu tư phát triển đất nước: làm sao cân đối được đầu tư phát triển kinh tế với ổn định xã hội, làm sao để tận dụng tối đa nguồn vốn huy động trong và ngoài nước, làm sao để giải ngân hợp lý, làm sao để quản lý có hiệu quả và hạn chế tiêu cực…đó đều là những thách thức lớn trong tình hình hiện nay. Để giải quyết những khó khăn đó đòi hỏi chúng ta không ngừng tiếp thu và quán triệt sâu sắc các đặc điểm của đầu tư phát triển cũng như vận dụng chúng trong công tác quản lý hoạt động đầu tư hiện nay. Quán triệt và vận dụng các quan điểm đó trong công tác quản lý là một việc làm quan trọng vì có làm tốt được nó chúng ta mới có được một nền tảng vững chắc cho sự nghiệp phát triển kinh tế cũng như ổn định xã hội lâu dài.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh Tế Đầu Tư – PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương
Quyết định Dự Toán Vốn Dầu tư – Harold Bierman,JR. Seymour Smidt Nxb Thống Kê 1995
Giáo trình Lập Dự Án Đầu tư - PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt
Thông tin tham khảo từ các trang web:
www.gso.gov.vn
www.binhduong.gov.vn
www.mpi.gov.vn
www.saga.com
www. molisa.gov.vn
Báo:
Thời báo kinh tế Việt Nam
Báo đầu tư
6. Nâng cao hiệu quả đầu tư ở Việt Nam - Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia - Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
7. Báo cáo Tình hình Kinh tế - Xã hội năm 2009 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2010
8. Kế hoạch và định hướng phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006 - 2010 – NXB Tổng cục thống kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư.doc