MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ 1
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty sợi Trà Lý 1
1.1.1. Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý 1
1.1.2.Đặc điểm về cơ chế tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm gần đây. 4
1.2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý và hệ thống sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý 6
1.2.1. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý tại công ty sợi Trà Lý 6
1.2.2 Đặc điểm về hệ thống sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý 10
II. ĐẶC ĐIỂM TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ 14
2.1 Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần sợi Trà Lý 14
2.2 Đặc điểm tổ chức hình thức sổ kế toán 23
III. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ 29
Báo cáo thực tập tại công ty cổ phần sợi Trà Lý
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty sợi Trà Lý
1.1.1. Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý
Công ty cổ phần sợi Trà Lý được thành lập theo quyết định của UBND tỉnh Thái Bình năm 1978, và trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam- bộ công nghiệp.Toàn bộ nguồn vốn xây dựng và mua sắm thiết bị đều do NSNN cấp.
Tháng 5/1980 công ty bắt đầu đi hoạt động với tên gọi “Nhà máy sợi đay thảm Thái Bình”.
Tháng 7/1995 theo quyết định của Bộ công nghiệp công ty chính thức lấy tên là “công ty cổ phần sợi Trà Lý”.
Tháng 7/2005 công ty đã chính thức chuyển đổi hình thức chử sở hữu vốn từ công ty nhà nước trở thành công ty cổ phần với 51% vốn nhà nước. Công ty chính thức đổi tên thành “công ty cổ phần sợi Trà Lý “.
Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm các loại sợi đay, bao đay, sợi cotton, sợi PE,
Từ khi đi vào hoạt động, năm 1890-1990 nước ta và Liên Xô cũ ký kết hiệp định kinh tế về xuất khẩu thảm đay nên nhiệm vụ chính của công ty ở giai đoạn này là kéo đay tơ thành sợi để làm thảm xuất khẩu, ngoài ra còn xuất sợi đay làm nguyên liệu dệt bao phục vụ nhu cầu trong xã hội.
Tháng 5/1990, do tình hình kinh tế chính trị của Liên Xô có sự thay đổi làm hiệp định kinh tế kí kết giữa Việt Nam và Liên Xô về xuất khẩu thảm đay bị cắt bỏ. Sản phẩm làm ra bị ứ đọng với số lượng lớn không
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4436 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý và hệ thống sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Báo cáo thực tập tại công ty cổ phần sợi Trà Lý
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty sợi Trà Lý
1.1.1. Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý
Công ty cổ phần sợi Trà Lý được thành lập theo quyết định của UBND tỉnh Thái Bình năm 1978, và trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam- bộ công nghiệp.Toàn bộ nguồn vốn xây dựng và mua sắm thiết bị đều do NSNN cấp.
Tháng 5/1980 công ty bắt đầu đi hoạt động với tên gọi “Nhà máy sợi đay thảm Thái Bình”.
Tháng 7/1995 theo quyết định của Bộ công nghiệp công ty chính thức lấy tên là “công ty cổ phần sợi Trà Lý”.
Tháng 7/2005 công ty đã chính thức chuyển đổi hình thức chử sở hữu vốn từ công ty nhà nước trở thành công ty cổ phần với 51% vốn nhà nước. Công ty chính thức đổi tên thành “công ty cổ phần sợi Trà Lý “.
Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm các loại sợi đay, bao đay, sợi cotton, sợi PE,…
Từ khi đi vào hoạt động, năm 1890-1990 nước ta và Liên Xô cũ ký kết hiệp định kinh tế về xuất khẩu thảm đay nên nhiệm vụ chính của công ty ở giai đoạn này là kéo đay tơ thành sợi để làm thảm xuất khẩu, ngoài ra còn xuất sợi đay làm nguyên liệu dệt bao phục vụ nhu cầu trong xã hội.
Tháng 5/1990, do tình hình kinh tế chính trị của Liên Xô có sự thay đổi làm hiệp định kinh tế kí kết giữa Việt Nam và Liên Xô về xuất khẩu thảm đay bị cắt bỏ. Sản phẩm làm ra bị ứ đọng với số lượng lớn không tiêu thụ được, tổ chức sản xuất lúc này chỉ mang tính duy trì và bắt buộc. Trước tình hình đó công ty phải tìm ra một hướng đi mới, công ty quyết định chuyển sản xuất thảm đay sang sản xuất sợi đay để dệt bao phục vụ cho xuất khẩu gạo và các mặt hàng nông sản khác và nó trở thành nhiệm vụ chính của công ty từ đó tới nay.
Trong quá trình hoạt động công ty đã có những đóng góp đáng kể cho NSNN, giải quyết được việc làm cho một lượng lớn lao động. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế của nước ta từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước cùng với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường, công ty đã gặp không ít những khó khăn. Nhưng với tinh thần đoàn kết gắn bó, chủ động sang tạo, cần cù lao động của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong đơn vị nói chung và của phòng tài vụ nói riêng đã từng bước khắc phục khó khăn, nắm bắt phát huy được những thuận lợi, ổn định tổ chức sản xuất.
Trong giai đoạn từ năm 1993 – 1996, cùng với việc tổ chức lại sản xuất kinh doanh, công ty đã đầu tư khoảng 1,2 -1,5 tỷ đồng bằng nguồn vốn vay ngân hàng và nguồn vốn đầu tư của khách hàng để mua máy móc thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất: máy dệt, máy kéo sợi,…
Tháng 7/2003 công ty đã hoàn thành dự án đầu tư dây chuyền kéo sợi hai vạn cọc đưa vào sử dụng. Đây là dây chuyền kéo sợi tiên tiến nhất hiện nay với các máy móc thiết bị được nhập từ các nước có trình độ khoa học kĩ thuật phát triển cao như: Đức, Nhật Bản, Thụy Sĩ,…góp phần làm phong phú thêm các mặt hàng của công ty, giải quyết công việc làm cho một số lượng lớn lao động.
Tháng 7/2005 cùng với xu thế phát triển đất nước, công ty sợi Trà Lý đã chính thức chuyển đổi hình thức chủ sở hữu vốn từ công ty nhà nước thành công ty cổ phần với 51% là vốn nhà nước, công ty tiếp tục đổi tên thành: “công ty cổ phần sợi Trà Lý”. Việc chuyển đổi hình thức chủ sở hữu này ban đầu khiến cho tập thể cán bộ công nhân viên lúng túng, công việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn do không còn sự giúp đỡ của nhà nước,sau một thời gian ban giám đốc công ty ngày càng năng động hơn trong việc tìm kiếm phương thức kinh doanh mới, bạn hàng mới, giúp doanh nghiệp chủ động trong sản xuất, đồng thời người lao động có ý thức hơn, nỗ lực hơn trong sản xuất. Điều này khiến cho công ty đạt được những thành tích cao trong những năm vừa qua. Sau khi tiến hành cổ phần hoá, theo phương án mở rộng và nâng cao quy trình công nghệ đã được đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất thông qua, công ty đã tập trung vào đầu tư nhà xưởng, mua sắm thiết bị, máy móc đồng bộ, điều kiện sản xuất hàng loạt đạt chất lượng cao. Tính đến nay mỗi phân xưởng của công ty đều được trang bị trên dưới 100 máy móc các loại.
Vốn điều lệ của công ty là: 13500000000 (mười ba tỷ năm trăm triệu đồng chẵn).
Sản phẩm sản xuất chủ yếu của công ty hiện nay là:
+ Sợi cotton, sợi pha, sợi PE dùng cho dệt kim và dệt thoi
Sợi cotton được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu chính là bông sơ tự nhiên
Sợi PE được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu bông xơ nhân tạo
sợi pha được sản xuất từ nguyên liệu bông xơ nhân tạo và tự nhiên.
+ sợi đay và bao đay các loại: sợi đay được sản xuất từ đay tơ, bao đay được dệt từ sợi đay.
Bên cạnh việc sản xuất các loại sợi và bao đay công ty còn kinh doanh một số hoạt động như: cho thuê văn phòng, cửa hàng, kiốt bán hàng,…
Các sản phẩm của công ty sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho các công ty sản xuất bao bì, các công ty dệt và phục vụ các tổ chức cá nhân có nhu cầu trong xã hội.
Trong những năm gần đây nguồn vốn của công ty không ngừng tăng là do công ty đã tiến hành mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành giảm chi phí,…Công ty luôn làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước, các chế độ với người lao động luôn được đảm bảo, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Điều này khuyến khích người lao động không ngừng phấn đấu nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm cho công ty.
1.1.2.Đặc điểm về cơ chế tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm gần đây.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự cố gắng không ngừng, sự cần cù sáng tạo của tập thể cán bộ công nhân viên đã giúp cho công ty đạt được những thành tích cao trong sản xuất. Doanh số bán hàng ngày càng được nâng cao. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau :
Đơn vị tính: 1000đồng
STT
CHỈ TIÊU
NĂM 2005
NĂM 2006
NĂM 2007
1
tổng giá trị tài sản
108536000
100176000
107530000
2
doanh thu thuần
110530000
145017000
163450000
3
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
445907
602471
702485
4
Lợi nhuận khác
(22769)
54713
76535
Bảng số 01: bảng so sánh kết quả kinh doanh từ năm 2005- 2007
Căn cứ vào số liệu trên chúng ta thấy doanh thu của Công ty năm sau cao hơn năm trước tương ứng với nó là sự tăng lên của lợi nhuận. Những năm vừa qua công ty luôn đảm bảo được việc làm cho 668 người lao động với mức lương ổn định và khá cao là 1250000.
STT
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
Tổng số lao động (người)
647
652
668
2
Thu nhập bình quân (Đ/Ng/Th)
745000
825000
1250000
Trình độ chuyên môn của công nhân viên ngày càng được nâng cao nhất là đội ngũ quản lí, nhiều người lao động còn được công ty cho đi học tập nâng cao tay nghề, tham quan các công ty sản xuất của nước bạn. Điều này cho thấy công ty đã chú trọng tới việc nâng cao tay nghề cho người lao động , nâng cao chất lượng sản phẩm, …
Đối với lao động trực tiếp: công ty thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng tại chỗ để nâng cao trình độ tay nghề và sự hiểu biết của người lao động về ngành hàng. Công ty tiến hành đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao hiệu quả lao động của các lao động hiện có. Người lao động cũng luôn được khuyến khích và tạo điều kiện tham gia các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn.
Đối với lao động tại các phòng chuyên môn nghiệp vụ: công ty luôn tạo điều kiện cho tham gia các lớp đào tạo tập huấn chuyên ngành, các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về các chế độ chính sách của nhà nước…Những cán bộ công nhân viên do công ty cử đi học tập đều được công ty thanh toán chi phí học tập và hưởng lương trong quá trình học.
Hiện nay công ty đang mở rộng quy mô sản xuất và mở rộng thị trường ra các nước trong khu vực. Đó là tín hiệu tốt đối với doanh nghiệp.
1.2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý và hệ thống sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý
1.2.1. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý tại công ty sợi Trà Lý
Đặc điểm về hoạt động kinh doanh của công ty :
Đại hội đồng cổ đông: gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan thẩm quyền cao nhất của công ty. Đại hội đồng cổ đông quyết định những vấn đề được luật pháp và điều lệ công ty quy định. Đặc biệt các cổ đông sẽ thông qua các báo cáo tài chính hàng năm của công ty và kế hoạch tài chính cho những năm tiếp theo.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có trách nhiệm giám sát giám đốc điều hành và những người quản lý khác. Quyền và nghĩa vụ của hội đồng quản trị do luật pháp và điều lệ công ty, các quy chế nội bộ của công ty và nghị quyết đại hội dồng cổ đông quy định.
Ban kiểm soát là cơ quan trực thuộc đại hội đồng cổ đông, do đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong điều hành hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính của công ty. Ban kiểm soát hoạt động độc lập với Hội đồng quản trị và Ban giám đốc.
Bộ máy quản lí của công ty được tổ chức theo mô hình tập trung như sau:
Giám đốc
Phó GĐ phụ trách sản xuất
Phòng tài vụ kế toán
Phó GĐ phụ trách đời sống
Phòng KCS
Phòng kĩ thuật
Phân Xưởng sợi
Phân xưởng dệt
Phòng nghiệp vụ kinh doanh
Văn phòng
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
Sơ đồ số 03: tổ chức bộ máy quản lý tại công ty cổ phần sợi Trà Lý .
Tổng số công nhân viên của công ty là 668 công nhân với mức lương bình quân là 1250000. Bộ máy của công ty được tổ chức chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc, mỗi phòng ban có một chức năng riêng, nhiệm vụ riêng , hàng tháng đều có sự đánh giá và báo cáo lên ban giám đốc
Ban giám đốc của công ty gồm 3 người :
Giám đốc là người đứng đầu của công ty chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh của công ty. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Quản lí và sử dụng có hiệu quả tài sản, vật tư, vốn, phân phối tiền lương lao động, tiền thưởng và các chế độ chính sách với nhà nước, công nhân viên.
Phó giám đốc : tham mưu giúp giám đốc quản lí và điều hành sản xuất kinh doanh. Giám đốc phân công mỗi phó giám đốc phụ trách một lĩnh vực. Phó giám đốc ra chỉ thị cho các phòng ban theo giới hạn về quyền của mình.
Các phòng ban trong công ty :
phòng nghiệp vụ kinh doanh: đây là phòng chủ đạo của công ty trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Ngoài nhiệm vụ chính là là tạo ra các nguồn hàng sản xuất kinh doanh tại công ty, phòng còn có chức năng tư vấn, tham mưu cho ban giám đốc trong việc ra các văn bản lien quan tới sản xuất kinh doanh như điều chỉnh giá bán hàng, phương thức kinh doanh, củng cố và mở rộng thị trường,…
phòng KCS : Chức năng chính của phòng là kiểm tra chất lượng sản phẩm khi hoàn thành.
Phòng kế toán tài vụ: có chức năng giúp giám đốc trong bảo toàn vốn, cho nên bộ phận kế toán trong công ty ghi chép một cách chính xác, kịp thời, liên tục, có hệ thống tình hình hiện có và biến động trong công ty, có kế hoạch định hướng cung cấp thông tin trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giúp giám đốc hướng dẫn các bộ phận trong công ty thực hiện đầy đủ các chế độ ghi chép ban đầu, phục vụ cho việc điều hành hàng ngày mọi hoạt động kinh doanh của đơn vị. Ngoài ra, bộ máy kế toán còn tham gia công tác kiểm kê tài sản., tổ chức bảo quản lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán theo quy định.
Phân xưởng sợi và dệt là hai phân xưởng sản xuất chính. Phân xưởng gồm các bộ phận sau:
Quản đốc: quản lý và điều hành sản xuất ở các phân xưởng theo kế hoạch được giao đảm bảo tiến độ thời gian và chất lượng sản phẩm; quản lý chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sản, máy móc thiết bị trong phân xưởng; tổng hợp và phản ánh kịp thời về năng lực sản xuất và chất lượng hàng hoá, tiến độ sản xuất tới các phòng ban có liên quan.
Tổ trưởng sản xuất: trực tiếp quản lí và điều hành tổ sản xuất theo kế hoạch sản xuất của công ty và quản đốc phân xưởng, quản lý máy móc thiết bị, phát hiện và đề xuất với quản đốc phân xưởng kịp thời xử lý các hư hỏng mất mát tài sản, công cụ, nguyên phụ liệu. Phân công lao động theo dõi và tổng hợp kết quả lao động của từng công nhân trong tổ gửi lên phòng kế toán để làm lương, thưởng, xếp loại lao động hàng tháng, đồng thời thực hiện sự phân công chỉ đạo của lãnh đạo công ty và quản đốc phân xưởng.
Tổ phó sản xuất: giúp việc cho tổ trưởng tổ sản xuất trong việc hướng dẫn kĩ thuât, kiểm tra chất lượng từng công đoạn và toàn bộ sản phẩm trong dây chuyền sản xuất sản phẩm, thay thế tổ trưởng sản xuất khi tổ trưởng vắng mặt.
Công nhân sản xuất: thực hiện sản xuất một hay một số công đoạn sản xuất theo sự phân công lao động của tổ, phân xưởng. Phối hợp với công nhân ở các công đoạn khác hoàn thành nhiệm vụ sản xuất của tổ, phân xưởng, thực hiện các yêu cầu khác của ban lãnh đạo công ty và quản đốc phân xưởng
Ngoài các phòng ban chính và bộ phận sản xuất (phân xưởng sợi và phân xưởng dệt) còn có thêm một bộ phận phụ : bộ phận vận tải, bộ phận cơ điện, bộ phận nhà ăn.
+ Bộ phận vận tải có nhiệm vụ thực hiện tất cả các yêu cầu vận chuyển hàng hoá, nguyên vật liệu trong công ty.
+ Bộ phận nhà ăn : chủ yếu phục vụ bữa ăn cho công nhân viên trong công ty
+ Bộ phận cơ điện: đảm bảo an toàn và giải quyết các sự cố về điện năng phục vụ cho hoạt động sản xuất của công ty
1.2.2 Đặc điểm về hệ thống sản xuất kinh doanh của công ty sợi Trà Lý
Bộ phận sản xuất chính của công ty gồm 2 phân xưởng chủ yếu là phân xưởng sợi và phân xưởng dệt. Công ty tổ chức sản xuất theo các phân xưởng tương ứng với từng giai đoạn chính của quy trình công nghệ, kết quả sản xuất của phân xưởng có thể được bán ra ngoài. Trong đó mỗi phân xưởng có chức năng nhiệm vụ riêng :
Phân xưởng sợi có nhiệm vụ chế biến các loại sợi từ nguyên liệu chính là đay tơ thành sợi đơn, sợi se,… để bán ra ngoài hoặc chuyển vào kho gia công để phục vụ cho phân xưởng dệt.
Phân xưởng dệt có nhiệm vụ dệt ra các loại bao có kích cỡ khác nhau theo yêu cầu kĩ thuật.
Quy trình công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm của công ty sợi Trà Lý Thái Bình là quy trình công nghệ phức tạp kiểu chế biến liên tục, loại hình sản xuất khối lượng lớn, chu kì sản xuất ngắn và xen kẽ nhau.Mỗi phân xưởng có một quy trình công nghệ riêng tương đối phức tạp.
Đối với phân xưởng sợi :
Quy trình công nghệ ở phân xưởng sợi
Kho đay tơ
Nhà chọn đay
Làm mềm
ủ
chải 1
chải 2
chải 3
Ghép 1
Ghép 2
Ghép 3
Sợi con
Máy sợi đơn
Máy sợi se
sợi đơn
sợi se
Thành phẩm
nhập kho gia công BTP
Phân xưởng dệt
Bán
sợi nhập kho TP
Sơ đồ 04: Quy trình công nghệ ở phân xưởng sợi
Từ nguyên liệu chính là đay tơ qua khâu chọn để phân loại thành các phẩm cấp khác nhau theo tiêu chuẩn kĩ thuật. Sau đó đưa qua bước công nghệ làm mềm( máy làm mềm ).Trong quá trình làm mềm phải sử dụng các loại vật liệu phụ như : dầu công nghiệp, nước, xút,…Tiếp đó đay được đưa vào các ngăn để ủ, thời gian ủ tuỳ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài( ví dụ mùa hè ủ 3 ngày, mùa đông ủ 4-5 ngày) sau thời gian ủ đay tơ được đưa lên máy chải, chải 3 lần liên tiếp từ chải 1 đến chải 3 công suất nhỏ dần. Quá trình chải sẽ làm cho các đay tơ mượt mà và song song với nhau. Sau đó đay được đưa sang các máy ghép, cũng ghép 3 lần liên tục cuối cùng kéo thành sợi con. Sợi con được đánh ống qua máy sợi đơn và guồng thành cuộn để vận chuyển vào kho thành phẩm của phân xưởng sợi. Nếu có yêu cầu sợi con được đưa vào máy se để thành sợi se. Trong phân xưởng sợi, sản phẩm làm dở ở khâu này thường là sợi con chưa hoàn thành còn đang nằm trên máy chải, máy ghép hoặc sợi trên các búp (do tình hình sản xuất ổn định nên hầu như không có phẩm dở ở giai đoạn này). Như vậy kết quả sản xuất ở phân xưởng sợi là các loại sợi: sợi đơn, sợi se,… Hai loại sợi này cùng một loại chỉ khác nhau về thông số kỹ thuật. Có thể nhập kho thành phẩm nếu sợi được bán ra ngoài. Còn nếu sợi chuyển qua phân xưởng dệt gia công thì được coi là bán thành phẩm và được tập trung theo dõi ở kho gia công.
Quy trình công nghệ ở phân xưởng dệt:
sợi
suốt
mắc
dệt
khâu
bao
Cán, là, đo, gấp, cắt
Sơ đồ 05: quy trình công nghệ ở phân xưởng dệt
Phân xưởng dệt lấy sợi từ kho gia công, tại đây sợi được đánh qua suốt nhỏ cho vừa con thoi để dệt thành các sợi ngang. Đồng thời cũng từ các sợi đay đánh thành các ống to để lên giàn (mắc) đưa vào máy dệt tạo thành các loại sợi dọc. Sau khi dệt thành mảnh bao, qua các khâu: cán, là, đo, gấp, cắt,…bước cuối cùng là khâu thành bao và đóng kiện. Như vậy kết quả sản xuất ở phân xưởng dệt là các loại bao với kích cỡ khác nhau.
Mối quan hệ giữa phân xưởng sợi và phân xưởng dệt:
Hai phân xưởng này có mối quan hệ mật thiết với nhau: phân xưởng sợi khi sản xuất ra sản phẩm là các loại sợi đơn, sợi se,… có thể nhập kho thành phẩm để bán hoặc chuyển đến phân xưởng dệt, là đầu vào của phân xưởng dệt. Khi chất lượng sản phẩm ở phân xưởng sợi không tốt có thể ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm bao dệt.
II. ĐẶC ĐIỂM TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ
Công tác hạch toán kế toán của đơn vị được áp dụng theo hình thức nhật kí chung. Hiện nay đơn vị đang áp dụng tài khoản kế toán và chế độ kế toán theo quyết định số 15 của Bộ Tài Chính ban hành.
2.1 Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần sợi Trà Lý
Về cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của công ty được khái quát theo sơ đồ sau:
Phòng kế toán của công ty được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc. Đứng đầu là kế toán trưởng được phân công theo dõi và chỉ đạo trực tiếp các nhân viên kế toán trong công ty. Phòng kế toán tài vụ trong công ty có nhiệm vụ cụ thể:
tổ chức mọi công tác kế toán để thực hiện đầy đủ, kịp thời các chứng từ kế toán của đơn vị
giúp giám đốc hướng dẫn các bộ phận trong công ty thực hiện đầy đủ các ghi chép hàng ngày:...phục vụ cho việc điều hành hàng ngày mọi hoạt động kinh doanh của đơn vị
Ngoài ra bộ phận kế toán còn tham gia công tác kiểm kê tài sản, tổ chức bảo quản và lưu trữ các hồ sơ, tài liệu kế toán như: kiểm kê hàng tồn kho, sản phẩm dở dang cuối kì ở các phân xưởng,…
Phòng kế toán gồm 5 nhân viên. Bao gồm một kế toán trưởng và các kế toán phần hành. Mỗi nhân viên trong phòng tài vụ kế toán đều thực hiện những công việc nhiệm vụ riêng. Để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ kế toán, đảm bảo việc chỉ đạo tập trung thống nhất của kế toán trưởng về chuyên môn, phục vụ một cách tốt nhất cho giám đốc chỉ đạo sản xuất kinh doanh, đồng thời căn cứ vào yêu cầu và trình độ hạch toán bộ máy kế toán của công ty được tổ chức như sau
Kế toán trưởng
Kế toán nguyên vật liệu và TSCĐ
Kế toán thành phẩm kiêm thủ quỹ
Kế toán tổng hợp
Kế toán thanh toán
Sơ đồ số 06: tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
Xuất phát từ đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty và để phù hợp với yêu cầu quản lý, trình độ của cán bộ kế toán, bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo hình thức tập trung. Theo hình thức này, phòng kế toán thực hiện toàn bộ công tác kế toán trong công ty. Ở các phân xưởng, các bộ phận trực thuộc không tổ chức bộ phận kế toán riêng mà chỉ bố trí các nhân viên hạch toán làm nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra hạch toán ban đầu, thu nhận chứng từ và ghi chép sổ sách kế toán một cách giản đơn để chuyển về phòng kế toán. Ngoài ra nhân viên kinh tế dưới phân xưởng trong một số trường hợp phải tổng hợp một số chỉ tiêu phục vụ yêu cầu chỉ đạo, điều hành của phòng kế toán. Số lượng nhân viên kinh tế bố trí ở mỗi phân xưởng tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất và khối lượng công việc giao cho nhân viên kinh tế đảm nhận.
kế toán trưởng phụ trách chung toàn bộ công tác kế toán của công ty, chịu trách nhiệm về tập hợp chi phí, tính giá thành và xác định kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, đồng thời chịu trách nhiệm trước giám đốc, co quan thuế và các cơ quan cấp trên về công tác hạch toán của công ty.
kế toán tổng hợp : theo dõi, tổng hợp tất cả các số liệu chứng từ để ghi vào sổ tổng hợp, sổ cái, lập bảng cân đối kế toán, bảng cân đối tài khoản, báo cáo kết quả kinh doanh, các báo cáo tài chính và giúp kế toán trưởng trong việc hạch toán
kế toán nguyên liệu, vật liệu và tài sản cố định: theo dõi tình hình nhập xuất nguyên vật liệu, tính giá nguyên vật liệu nhập kho, xuất kho tăng, giảm của tài sản cố định, tính khấu hao tài sản cố định, theo dõi các tài khoản 214,152,153,…
kế toán thanh toán: có nhiệm vụ theo dõi chi tiết, căn cứ vào các phiếu thu, phiếu chi, theo dõi các tài khoản : 131, 331, 627, 621, 642,…
kế toán thành phẩm kiêm thủ quỹ : theo dõi các tài khoản 155, 154,...
Hàng ngày bộ máy kế toán cập nhật kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, ghi vào sổ chi tiết , bảng kê,…mỗi nhân viên phòng kế toán thực hiện các công việc riêng :
Đối với kế toán nguyên vật liệu và tài sản cố định:
Về nguyên vật liệu: kế toán tổ chức ghi chép và tổng hợp số liệu về tình hình thu mua, vận chuyển, bảo quản, nhập xuất nguyên vật liệu. Tính giá thực tế của hàng tồn kho đã mua và nhập kho doanh nghiệp theo số lượng, chủng loại, giá trị và thời hạn sử dụng.Bên cạnh đó doanh nghiệp còn tiến hành công tác kiểm kê thường xuyên. Cuối tháng kế toán nguyên vật liệu tiến hành công tác kiểm kê, đối chiếu sổ sách nhằm phát hiện những nguyên nhân thiếu hụt hoặc mất mát. Việc hạch toán chi tiết nguyên vật liệu được áp dụng theo phương pháp thẻ song song. Ở kho thủ kho sử dụng thẻ kho phản ánh tình hình nhập xuất tồn của từng nguyên vật liệu. Căn cứ vào các chứng từ nhập xuất để ghi vào. Ở phòng kế toán cũng căn cứ vào các phiếu nhập xuất để lập sổ(thẻ) chi tiết cho từng nguyên vật liệu.Cuối tháng kế toán nguyên vật liệu và thủ kho đối chiếu thẻ kho và sổ chi tiết nguyên vật liệu với nhau đồng thời kế toán lập bảng tổng hợp nhập xuất tồn. Do chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ có ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm nên công ty đã có sự quan tâm đúng lúc đến công tác quản lí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ từ khâu thu mua, dự trữ, bảo quản đến khâu sử dụng nguyên vật liệu. Để tránh sai sót trong công tác quản lí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ., công ty đã xây dựng sổ danh điểm vật tư theo dõi số lượng, quy cách, nhóm vật tư, … Ngoài ra tại các phân xưởng đều bố trí các nhân viên hạch toán để theo dõi tình hình nhập xuất tồn nguyên vật liệu, sử dụng nguyên vật liệu, sự tiêu hao thực tế. Công ty đã đưa ra định mức về số lượng nguyên vật liệu. Định mức nguyên vật liệu là cơ sở để đánh giá hiệu quả sản xuất, quản lí chi phí của đội ngũ cán bộ quản lí. Tuy nhiên trong công tác kế toán nguyên vật liệu vẫn còn một số tồn tại sau : đó là khi mua nguyên liệu vật liệu về nhập kho, công ty đã tổ chức kiểm tra chất lượng, đối chiếu hoá đơn chứng từ với thực tế và hợp đồng đã kí nhưng lại chưa lập biên bản kiểm nghiệm vật tư cụ thể cho mỗi lần kiểm tra. Điều này có thể khiến nguyên vật liệu nhập không đủ chất lượng gây ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, làm giảm chất lượng sản phẩm hoàn thành.
Sơ đồ hạch toán nguyên vật liệu – công cụ dụng cụ:
thẻ kho
sổ (thẻ) chi tiết nguyên vật liệu
bảng kê tổng hợp N-X-T
phiếu nhập kho
Phiếu xuất kho
Trong đó: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
Về tài sản cố định : tài sản cố định là một trong 3 yếu tố cơ bản để tiến hành sản xuất, có giá trị lớn và có thời gian sử dụng lâu dài. Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kì sản xuất, là điều kiện nâng cao năng suất lao động, góp phần hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Chính vì vậy vệc theo dõi và quản lí tài sản cố định phải chạt chẽ nhất là đối với một doanh nghiệp sản xuất nhu công ty đay thì điều đó càng cần thiết. Kế toán tài sản cố định hàng ngày tiến hành theo dõi ghi chép phản ánh giá trị hiện có của tài sản cố định, tình hình tăng giảm, việc bảo quản sửa chữa tài sản cố định. Đồng thời cuối kì kế toán thực hiện việc tính khấu hao và phân bổ, tham gia kiểm kê tài sản cố định. Việc tính và phân bổ khấu hao TSCĐ của công ty thực hiện theo quyết định QĐ206/2003-BTC. Doanh nghiệp tính khấu hao theo phương pháp đường thẳng. Khi doanh nghiệp mua mới một tài sản cố định giao trực tiếp cho các phòng ban, phân xưởng trong công ty, khi giao phải tiến hành lập biên bản giao nhận tài sản cố định và mở thẻ tài sản cố định gồm đầy đủ: tên, mã hiệu, quy cách, nước sản xuất, thời gian sản xuất, công suất thiết kế, nguyên giá tài sản cố định (giá mua, chi phí vận chuyển, chi phí chạy thử,...), tỉ lệ hao mòn,…Trong thời gian sử dụng, kế toán theo dõi và trích khấu hao tài sản cố định. Hàng tháng lập bảng tính và phân bổ khấu hao. Việc đăng kí thời gian sử dụng máy móc thiết bị công ty tự xác định và báo cáo với cơ quan tài chính có thẩm quyền. Kế toán tài sản cố định phải lập bảng đăng kí khấu hao cơ bản với cơ quan chức năng. Do đó việc xác định mức khấu hao tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ còn mang tính chủ quan.Giá thành sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc một phần vào mức trích khấu hao trong kỳ, nếu công ty kéo dài thời gian sử dụng sẽ tạo điều kiện cho việc hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra nhưng thực tế là thời gian thu hồi vốn chậm gây khó khăn cho đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ sản xuất. Thực tế cho thấy các máy móc sử dụng trong công ty là khá cũ, cần phải đổi mới, nâng cấp nhưng gặp phải khó khăn do thiếu vốn.Tuy vậy công ty có thể chuyển đổi hình thức khấu hao sang khấu hao nhanh để có thể nhanh chóng thu hồi vốn phục vụ cho công tác đầu tư nâng cấp, đổi mới tài sản cố định dùng cho sản xuất sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng, số lượng sản phẩm sản xuất ra đồng thời hạ giá thành sản phẩm sản xuất. Khi thấy tài sản cố định không sử dụng được hoặc hỏng mà không sửa chữa được và không có lợi về mặt kinh tế, lạc hậu về kĩ thuật không phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể nhượng bán hoặc thanh lí. Khi thanh lí tài sản cố định, kế toán dừng trích khấu hao tài sản đó và lập biên bản thanh lí tài sản cố định. Trong biên bản thanh lí phải bao gồm các nội dung chính sau: tên, kí hiệu, quy cách TSCĐ, nước sản xuất, năm sản xuất, năm đưa vào sử dụng, nguyên giá, giá trị hao mòn đã trích, giá trị còn lại của TSCĐ.
Kế toán lương và các khoản trích theo lương : lương là khoản thu nhập chủ yếu của công nhân viên. Chi phí lương chiếm một phần lớn trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài việc nhận lương, người lao động trong công ty còn được hưởng các khoản khác như bảo hiểm xã hội, tiền ăn ca, tiền thưởng,…Vì vậy công việc thường xuyên của kế toán lương và các khoản trích theo lương : ghi chép chính xác, đầy đủ và kịp thời về số lượng lao động, thời gian lao động,… Tính ra các khoản tiền lương và các khoản tiền ăn ca, thưởng, các khoản phải trả khác cho người lao động. Theo dõi tình hình thanh toán đối với người lao động. Cuối tháng, kế toán tiền lương phải lập bảng tính và phân bổ lương và các khoản trích theo lương, tập hợp vào sổ tổng hợp 334. Kế toán lương quản lý các tài liệu liên quan về tính quỹ lương và các chứng từ chi lương. Hiện nay công ty đang tiến hành trả lương theo 2 hình thức: trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm:
hình thức trả lương theo sản phẩm : là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào kết quả lao động : số lượng và chất lượng sản phẩm hoàn thành và đơn giá tiền lương cho một sản phẩm ấy và được tính như sau:
tiền lương = số lượng sản phẩm * đơn giá tiền lương một sản phẩm
hình thức trả lương này thường áp dụng cho lao động trực tiếp ở các phân xưởng.
hình thức trả lương theo thời gian : là hình thức trả lương cho người lao động tính theo thời gian lao động làm việc, cấp bậc lương theo quy định của Nhà Nước. Hình thức này được áp dụng trả cho bộ phận cán bộ công nhân viên không trực tiếp tạo ra sản phẩm. Tiền lương của người lao động được tính như sau :
lương cấp bậc = hệ số lương * mức lương tối thiểu
lương tháng = số ngày công * mức lương một ngày
Nhìn chung công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong công ty là tương đối khoa học và hợp lí đảm bảo công bằng cho tất cả cán bộ công nhân viên, đảm bảo hài hoà giữa việc chấp hành chế độ và tình hình thực tế tại công ty đã khuyến khích được người lao động nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Tuy vậy công ty chưa thực hiện việc trích trước tiền lương cho công nhân sản xuất.
Đối với kế toán tiền mặt: phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác số tiền mặt hiện có và tình hình biến động về tiền tại quỹ trong ngày. Bên cạnh đó kế toán vốn bằng tiền còn lập các phiếu thu, phiếu chi khi có đầy đủ các chứng từ kèm theo.
Mở sổ chi tiết theo dõi tình hình quỹ tiền mặt, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan tới tiền mặt.
Đối với tiền mặt có gốc ngoại tệ phải mở sổ theo dõi nguyên tệ. Tại thời điểm lập báo cáo tào chính (quỹ, năm) phải thực hiện xác định lại theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng nhà nước công bố.
Thường xuyên đối chiếu số dư quỹ tiền mặt với thủ quỹ. Cuối tháng cùng với thủ quỹ kiểm kê quỹ tiền mặt với thủ quỹ. Cuối tháng cùng với thủ quỹ kiểm kê quỹ tiền mặt, nếu có sự chênh lệch giữa sổ kế toán và quỹ tiền mặt phải cùng thủ quỹ tìm nguyên nhân, đồng thời báo cáo lãnh đạo để xử lý, ký xác nhận số dư quỹ tiền mặt vào sổ quỹ.
Kiểm tra, đối chiếu giữa sổ chi tiết tiền mặt với cân đối phát sinh tài khoản 111. Quản lý chứng từ tiền mặt và sổ chi tiết tiền mặt.
Kế toán vốn bằng tiền của công ty sợi Trà Lý đặt ra những quy định về định mức tồn quỹ, định mức chi tiêu, …
kế toán phải trả người bán: kế toán mở sổ theo dõi các khoản nợ phải trả cho nhà cung cấp vật tư, hàng hoá, người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng , quản lý các hợp đồng kinh tế với người bán, thanh lý hợp đồng , hoá đơn mua hàng (bản photo) , cuối kì kế toán thực hiện xác nhận công nợ với các đối tượng nợ.
Đối với kế toán tổng hợp công việc thường xuyên là tập hợp các chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để ghi vào sổ tổng hợp và sổ cái. Kế toán mở sổ chi tiết theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh theo từng khoản mục giá thành. Kết chuyển chi phí sản xuất kinh doanh dở dang sang giá vốn hàng bán phù hợp với doanh thu trong kỳ. Tham gia kiểm kê khối lượng dở dang cuối kì kế toán. Rà soát các nội dung chi phí đảm bảo đúng quy định, và đối chiếu số liệu chi tiết với số liệu tổng hợp. Đồng thời tập hợp các chi phí để tính giá thành sản phẩm.Công ty cổ phần sợi Trà Lý tổ chức sản xuất theo các phân xưởng tương ứng với giai đoạn chính của quy trình công nghệ, kết quả sản xuất của từng phân xưởng có thể được bán ra ngoài. Do đó, công ty đã xác định đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng và là bán thành phẩm ở giai đoạn chế biến trước.
Việc xác định đối tượng giá thành như trên đã tính được giá thành bán thành phẩm ở mỗi giai đoạn, thuận tiện cho việc hạch toán bán thành phẩm nhập kho, tăng cường công tác hạch toán kinh tế nội bộ ở các phân xưởng và xác định được kết quả tài chính ở bán thành phẩm bán ra. Do có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên tục, công ty áp dụng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Công ty coi toàn bộ sản phẩm làm dở là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Cuối tháng nhân viên kế toán nguyên vật liệu , phòng kĩ thuật và nhân viên kinh tế trong phân xưởng kết hợp kiểm kê giá trị còn lại tại các giai đoạn công nghệ, lập biên bản kiểm kê sản phẩm dở dang cuối kì có kí xác nhận. Căn cứ vào số lượng làm dở dang cuối kì trên biên bản kiểm kê và giá xuất nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ kế toán giá thành tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kì. Công ty còn sử dụng phương pháp tính giá thành phân bước. Công tác tập hợp chi phí và tính giá thành ở công ty sợi Trà Lý được tiến hành một cách quy củ có hệ thống thể hiện trong việc lập hệ thống báo cáo, các bảng biểu, bảng kê chi tiết từ các phân xưởng đến phòng kế toán của công ty.Việc xử lí chứng từ ban đầu được thực hiện ngay từ các phân xưởng, chi phí sản xuất cũng được theo dõi ngay tại các phân xưởng giúp cho tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm
Kế toán thành phẩm và tiêu thụ : nhiệm vụ chính của kế toán thành phẩm là phải phản ánh chính xác tình hình nhập xuất và tồn kho thành phẩm trong đơn vị theo từng loại sản phẩm, xác định được số thuế giá trị gia tăng phải nộp, chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp. Từ các phiếu nhập kho, xuất kho, kế toán thành phẩm ghi vào sổ chi tiết TK 154, 155,…sau đó ghi vào sổ tổng hợp 154,155, 632,…
Kế toán các nghiệp vụ thanh toán :các khoản phải thu khách hàng là các khoản phải thu do khách hàng trả nợ, căn cứ để ghi các hợp đồng cam kết thanh toán và các khoản ứng trước của khách hàng. Nguyên tắc hạch toán các khoản phải thu của khách hàng dựa trên các hoá đơn bán hàng. Căn cứ vào các chứng từ tiền mặt, tiền gửi ngân hàng để theo dõi khách hàng trả nợ, nếu không cùng một đối tượng thì không hạch toán bù trừ. Kế toán tiến hành lập dự phòng cho những khoản thu khó đòi. Đơn vị đã phản ánh kịp thời chính xác các nghiệp vụ thanh toán thông qua sổ thu của khách hàng và sổ phải trả người bán.Thông qua đó công ty có thể theo dõi được các khoản nợ tới hạn, quá hạn để có các nghiệp vụ xử lý.
2.2 Đặc điểm tổ chức hình thức sổ kế toán
Công tác hạch toán của công ty theo hình thức nhật kí chứng từ:
Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh phản ánh trong chứng từ gốc để được phân loại để ghi vào sổ nhật kí chứng từ, cuối tháng tổng hợp số liệu từ các nhật kí chứng từ để cập nhập vào sổ cái.
Nhật kí chứng từ là sổ kế toán được sử dụng để ghi chép các hoạt động kinh tế tài chính theo số phát sinh bên có của từng tài khoản kế toán có quan hệ đối ứng với bên nợ các tài khoản khác có liên quan.
Bảng phân bổ dùng để phân bổ các chi phí : nguyên vật liệu, nhân công, khấu hao TSCĐ…
Sổ cái tài khoản: là sổ kế toán tổng hợp được xây dựng trên mẫu biểu kiểu bàn cờ theo từng tài khoản tổng hợp được sử dụng cho cả năm để ghi vào cuối tháng các hoạt động kinh tế tài chính đã được hệ thống hoá trên các sổ nhật kí chứng từ theo quan hệ đối ứng ghi Nợ TK đối ứng với ghi có các tài khoản liên quan
Sổ kế toán chi tiết : ghi chép lại các quan hệ kinh tế hàng ngày.
Việc ghi chép theo hình thức nhật ký chứng từ có thuận lợi là giảm được 1/2 khối lượng ghi sổ. Mặt khác các sổ của hình thức này được thiết kế theo nguyên tắc bàn cờ nên có tính chất đối chiếu kiểm tra cao. Nhiều chỉ tiêu quản lí được kết hợp ghi sẵn trên sổ kế toán nhật ký - chứng từ, đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời cho việc quản lí và lập báo cáo. Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của hình thức sổ này là phức tạp về kết cấu, quy mô lớn, đa dạng nên đòi hỏi trình độ kế toán cao, khó cho việc vận dụng máy tính vào xử lý số liệu kế toán.
Trình tự luân chuyển chứng từ và ghi sổ kế toán được khái quát theo sơ đồ sau:
chứng từ kế toán và các bảng phân bổ
sổ chi tiết
Bảng kê
Nhật kí chứng từ
bảng tổng hợp chi tiết
sổ cái
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
đối chiếu kiểm tra
Hàng ngày kế toán căn cứ vào các chứng từ gốc hợp lệ tiến hành phân loại để ghi vào các nhật kí chứng từ bảng kê liên quan đối với những chứng từ phản ánh các khoản chi phí cần phân bổ thì tiến hành phân bổ qua bảng phân bổ, những chứng từ liên quan tới đối tượng cần hạch toán chi tiết thhì đồng thời được ghi vào các sổ chi tiết
cuối tháng căn cứ vào bảng phân bổ để ghi vào các bảng kê và các nhật kí chứng từ có liên quan, căn cứ vào các bảng kê và sổ kế toán chi tiết lập bảng tổng hợp chi tiết. Căn cứ vào NKCT ghi vào sổ cái. Sau khi đôí chiếu số liệu khớp đúng giữa sổ cái và bảng tổng hợp thì cuối cùng căn cứ vào bảng kê, NKCT, sổ cái, bảng tổng hợp chi tiết để lập báo cáo kế toán.
Tài khoản công ty áp dụng thống nhất với hệ thống tài khoản kế toán theo quyết định số 15QĐ/BTC ngày 20/3/2006 của Bộ tài chính, các tài khoản chủ yếu mà công ty sử dụng là:
TK phản ánh tài sản :111, 112, 131, 133, 138, 141, 152, 153, 154, 155, 211, 213, 214, 241, 242,…
TK phản ánh nguồn vốn : 311, 331,333.1, 333.7, 333.8, 334, 335, 338,411, 412, 421, 441,…
Tài khoản tổng hợp : 511,515,531, 621, 622, 627, 632, 635, 641, 642, 711, 811, 821, 911,…
Doanh nghiệp không sử dụng các tài khoản: 611, 631, …
Doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế .
Danh mục chứng từ mà công ty đang áp dụng là:
Về tiền tệ: có các chứng từ: - phiếu thu.
- phiếu chi.
- giấy đề nghị tạm ứng.
- giấy thanh toán tạm ứng.
- giấy đề nghị thanh toán.
- biên bản kiểm kê quỹ,…
Về hàng tồn kho: - phiếu nhập kho.
- phiếu xuất kho.
- biên bản kiểm nghiệm vật tư.
- biên bản kiểm kê vật tư công cụ sản phẩm.
- bảng kê mua hàng.
- bảng phân bổ nguyên vật liệu công cụ dụng cụ,…
Về tài sản cố định: - biên bản giao nhận TSCĐ,
- biên bản thanh lý TSCĐ,
-biên bản kiểm kê TSCĐ,
- bảng đăng kí khấu hao TSCĐ,
- bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ,…
Về lao động tiền lương: có các chứng từ: - bảng chấm công.
- bảng thanh toán lương.
- bảng tính và phân bổ các khoản trích theo lương.
Quy định của công ty về trình tự lập và lưu chuyển chứng từ:
Là một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, nên việc hạch toán tập trung vào phần hành vật tư hàng hoá và tiền mặt. Vì vậy quy định về lập và lưu chuyển chứng từ chủ yếu tập trung vào khâu lập và luân chuyển chứng từ về vật tư hàng hoá và tiền mặt:
Chứng từ tiền mặt:
Đối với chứng từ thu tiền: kế toán tiền mặt kiểm tra chứng từ, lập 2 phiếu thu: 1 liên lưu thủ quỹ, 1 liên giao cho khách hàng, chuyển thủ quỹ thu tiền, kế toán trưởng ký và giám đốc ký.
Đối với chứng từ chi tiền: sau khi giám đốc ký duyệt chi, kế toán trưởng kiểm tra, hướng dẫn hạch toán, kế toán tiền mặt lập phiếu chi trình ký duyệt, chuyển phiếu chi cho thủ quỹ chi tiền
Chứng từ về vật tư, hàng hoá:
Đối với các phiếu nhập kho, phiếu xuất kho nguyên vật liệu, hàng hoá, thành phẩm: việc lập chứng từ này là do phòng nghiệp vụ kinh doanh thực hiện theo yêu cầu của các phân xưởng, của khách hàng, của ban giám đốc,… Các phiếu này được lập thành 3 bản: 1 bản giao cho người yêu cầu lập chứng từ, 1 bản giữ lại phòng nghiệp vụ kinh doanh, 1 bản giao cho phòng kế toán.
Hệ thống báo cáo: Công ty lập báo cáo tài chính theo đúng quy định cuả nhà nước về nội dung, phương pháp và thời gian lập gửi theo Quyết định số 167/2000/QĐ- BTC ngày 25/10/2000 bao gồm:
- Báo cáo tài chính :
Báo cáo kết quả kinh doanh
Bảng cân đối kế toán
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Thuyết minh báo cáo tài chính
Kì báo cáo của công ty theo quý và năm.
- Báo cáo quản trị:
Báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh
Báo cáo chi phí bán hàng và chi phí quản lý
Báo cáo chi tiết thanh toán
Bên cạnh việc lập báo cáo, nhân viên kế toán cần tiến hành phân tích chúng để có những kiến nghị, đề xuất giúp cho ban giám đốc đưa ra được những quyết định, những giải pháp thích hợp cho việc điều hành, quản lý doanh nghiệp trong tuơng lai.
III. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ
Những năm học tại Trường Đại Học Kinh tế Quốc dân, em đã được các thầy cô giáo trang bị đầy đủ các kiến thức về chuyên ngành kế toán tổng hợp. Bên cạnh việc trang bị về kiến thức lí luận, nhà trường và các thầy cô giáo đã tạo điều kiện cho chúng em đi sâu vào thực tế, vận dụng các kiến thức lí luận đã học để áp dụng vào thực tế. Thời gian vừa qua, được sự đồng ý của nhà trường và ban giám đốc công ty sợi Trà Lý đã cho phép em được thực tập tại công ty.
Trong thời gian thực tập, em đã có những hiểu biết chung về công ty: về lịch sử hình thành và phát triển của công ty sợi Trà Lý, về hoạt động kinh doanh của công ty, về bộ máy tổ chức quản lí, bộ máy kế toán tại đơn vị,…và có một số nhận xét chung như sau:
Về tổ chức bộ máy quản lý của công ty : được tổ chức quản lí chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc, mỗi phòng ban, mỗi bộ phận đều được phân công những công việc cụ thể, với những chức năng riêng rẽ không bị chồng chéo. Hàng tháng các bộ phận lập các báo cáo tổng kết gửi cho giám đốc. Ban giám đốc công ty luôn đặt ra các kế hoạch sản xuất, đảm bảo duy trì và thực hiện nghiêm túc. Phân công công việc cụ thể với các phòng ban, phân xưởng tổ đội, luôn theo sát để nắm bắt tình hình sản xuất. Bên cạnh đó còn có những khuyến khích đối với người lao động giúp họ hăng say làm việc nâng cao năng suất lao động, co trách nhiệm với công việc, với sản phẩm mình làm ra.
Về công tác kế toán : phòng kế toán có đầy đủ các bộ phận kế toán, có sự phân công công tác hợp lí phù hợp với công tác hạch toán của công ty. Bộ phận kế toán của công ty có sự sắp xếp bố trí công việc một cách linh hoạt, tuỳ vào năng lực, trình độ của từng cá nhân để giao các công việc cụ thể nhằm khai thác hết trình độ của cán bộ công nhân viên. Mỗi cán bộ công nhân viên của phòng đều có trình độ năng lực vững vàng, luôn chú trọng đến việc học tập bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng được nhu cầu của công tác kế toán trong thời đại mới. Công ty đã vận dụng chế độ kế toán một cách linh hoạt trong hoạt động, thực hiện đúng các quy định về tố chức kế toán trong luật kế toán, có sự bất kiêm nhiệm giữa kế toán tiền mặt và thủ quỹ. Ngoài ra công ty còn áp dụng việc ghi sổ theo hình thức nhật kí chứng từ. Việc ghi chép theo hình thức này khá phức tạp nên đòi hỏi cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn vững vàng, và ko thuận tiện cho việc cơ giới hoá kế toán. Nhưng bên cạnh đó việc ghi chép như vậy giúp giảm nhẹ khối lượng công việc ghi sổ kế toán do việc ghi theo quan hệ đối ứng ngay trên từng sổ, kết hợp với kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết trên cùng trang sổ. Việc kiểm tra đối chiếu thường xuyên ngay trên cùng trang sổ, kịp thời cung cấp các số liệu cho việc tổng hợp tài liệu theo các chỉ tiêu kinh tế lập báo cáo tài chính.
Nhìn chung công tác tổ chức kế toán trong công ty sợi Trà Lý khoa học, hợp lí giúp cho công tác kế toán phát huy hết vai trò của nó trong quá trình quản lí tại công ty.
Trong thời gian thưc tập tại công ty cổ phần sợi Trà Lý cùng với sự giúp đỡ của thầy cô cùng các cô chú trong phòng kế toán đã giúp em hoàn thành bản báo cáo. Do kiến thức còn hạn chế nên bản báo cáo này còn nhiều thiếu sót.
Mong các thầy cô thông cảm, em xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tại Công ty sợi Trà Lý.DOC