Đề tài Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Cần có định hướng và các giải pháp chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu như thế nào trong thời gian tới để bảo đảm tăng trưởng bền vững

Hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó cho phép tận dụng tối đa nguồn lực trong nước và tham gia tích cực vào quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế. Đồng thời qua hoạt động này chúng ta có thể tiếp cận được côn nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, góp phần đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, quá trình hội nhập giữa nước ta và các nước khu vực trên thế giới. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đã được Nhà nước ta nhìn nh ận một cách đúng đắn. Trong hơn 10 năm đổi mới, hoạt động xuất nhập khẩu không ngừng phát triển đem lại những kết quả đáng khích lệ. Đứng trước những khó khăn, thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, các nhà hoạch định chính sách cần thẳng thắn đánh giá thực trạng của hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay. Từ đó đưa ra những định hướng rõ ràng, phù hợp nhất để phát huy được hết tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu tới sự phát triển của kinh tế - xã hội.

pdf26 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4430 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Cần có định hướng và các giải pháp chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu như thế nào trong thời gian tới để bảo đảm tăng trưởng bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản đã giảm từ 29,5% xuống 22,5%. Năm 2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (gồm dầu thô, dệt may, giầy dép, thủy sản), với tổng giá trị 8,4 tỷ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17 mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thủy sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt thép và sản phẩm thép, dệt may, giầy dép, đá quý và kim loại quý, máy vi tính và linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải), với tổng giá trị khoảng 45 tỷ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam đã thực hiện được thành công một số khâu đột phá chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Trong 5 năm đầu (2001 – 2005), các ngành sản phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn và công nghệ trung bình đã được coi trọng phát triển như: Thủ công mĩ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hóa phẩm tiêu dùng, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí, điện. Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng thủ công mĩ nghệ (mây, tre, cói, thảm, gốm sứ, đá và kim loại quý) đã tăng trưởng bình quân 23% / năm, kim ngạch tăng từ 377 triệu USD trong năm 2000 lên 3.177 triệu USD trong năm 2009 và khoảng gần 4,0 tỷ USD trong năm 2010 xuất khẩu gỗ tăng trưởng bình quân 26% / năm; xuất khẩu sản phẩm nhựa tăng bình quân 25%/ năm, kim ngạch tăng từ 122 triệu USD trong năm 2000 lên xấp xỉ 1 tỷ USD trong năm 2009 và vượt 1,1 tỷ USD vào năm 2010. 1.3 Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo nhóm mặt hàng Cơ cấu xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, gắn chuyển dịch cơ cấu mặt hàng với cơ cấu thị trường xuất khẩu, xây dựng được nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và gặt hái được thành công ở một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu. Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 5 Cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm thủy sản có giá trị gia tăng thấp, tăng dần tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Năm 2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1tỷ USD (gồm dầu thô, dệt may, giầy dép, thuỷ sản), với tổng giá trị 8,4 tỷ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17 mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt thép và sản phẩm thép, dệt may, giầy dép, đá quý và kim loại quý, máy vi tính và linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải), với tổng giá trị khoảng 45 tỷ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu. Biểu đồ 02: Cơ cấu hàng xuất khẩu của VN phân theo nhóm hàng giai đoạn 2001 – 2010 (Nguồn: Tổng cục thống kê) 1.4 Phương thức xuất khẩu Hiện nay, ở Việt Nam có các phương thức xuất khẩu sau: - Xuất khẩu tại chỗ - Xuất khẩu gia công - Xuất khẩu ủy thác - Xuất khẩu tự doanh - Xuất khẩu qua đại lý ở nước ngoài - Tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu - Chuyển khẩu - Xuất khẩu mậu biên (xuất khẩu qua biên giới) - Tổ chức phân phối tại nước nhập khẩu - Thương mại điện tử Tuy nhiên, trong bài viết này chỉ đi sâu nghiên cứu 3 phương thức xuất khẩu chính của Việt Nam là xuất khẩu gia công, xuất khẩu mậu biên và thương mại điện tử. a. Xuất khẩu gia công Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 6 Gia công hàng xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu trong đó người đặt gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước, người nhận gia công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đạt gia công để nhận tiền công. Đây là hình thức rất thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư hạn chế, chưa am hiểu về luật lệ và thị trường thế giới, chưa có thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp nổi tiếng qua gia công xuất khẩu vẫn có thể thâm nhập ở mức độ nhất định vào thị truồng thế giới. Mặt khác, qua gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể tích lũy kinh nghiệm tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu, tích lũy vốn, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thu ngoại tệ. Tuy nhiên, hiệu quả của phương thức xuất khẩu này thấp, ngoại tệ thu được chủ yếu là tiền gia công, mà đơn giá gia công ngày một giảm trong điều kiện cạnh tranh lớn giữa những đơn vị nhận gia công; tính phục thuộc vào đối tác nước ngoài cao; các doanh nghiệp trong nước khó có thể xây dựng được chiến lược phát triển ổn điịnh và lâu dài. b. Xuất khẩu mậu biên Xuất khẩu mậu biên là hình thức xuất khẩu tự doanh đặc biệt, do doanh nghiệp tự tổ chức đưa hàng hóa của mình đến các khu kinh tế cửa khẩu biên giới của quốc gia xuất khẩu hàng hóa. Việt Nam là quốc gia có đường biên giới giáp với 3 quốc gia: Trung Quốc, Lào, Campuchia. Việc thúc đẩy phát triển kinh tế và đưa hàng hóa sang Trung Quốc, Lào, Campuchia là hết sức cần thiết vì nó đem lại cho kinh tế Việt Nam nguồn doanh thu lớn, tăng sức mạnh kinh tế khu vực, mở rộng giao thương với các nước láng giềng. Tổng kim ngạch xuất khẩu mậu biên của Việt Nam qua các nước có chung đường biên giới thường chiếm khoảng 10-13% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới. Xuất khẩu mậu biên qua từng nước trên hàng năm đều tăng mạnh.  Đối với Trung Quốc: Các mặt hàng nông sản chế biến như long nhãn, vải khô, hồi, quế, rau quả, đồ gỗ … là những mặt hàng được xuất khẩu qua đường mậu biên. Trong giai đoạn 2001-2010, hoạt động xuất khẩu mậu biên sang Trung Quốc của Việt Nam tăng trưởng bình quân 18,93%, chiếm khoảng 9-10% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới.  Đối với Lào và Campuchia: Kim ngạch xuất khẩu mậu biên qua 2 nước này có xu hướng tăng qua các năm nhưng tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ do các thị trường này vẫn chưa phát triển, chỉ tiêu thụ các hàng hóa chất lượng vừa phải và giá cả thấp. Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 7 Bảng 01: Kim ngạch xuất khẩu mậu biên của Việt Nam sang 3 nước có đường biên giới chung (Đơn vị: triệu USD) Năm Tổng giá trị xuất khẩu Xuất khẩu mậu biên sang 3 nước Xuất khẩu sang Trung Quốc Xuất khẩu sang Lào Xuất khẩu sang Campuchia Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % 2001 15.029 1.628 10,83 1.417 9,43 64 0,43 146 0,97 2002 16.706 1.761 10,54 1.518 9,09 65 0,39 178 1,07 2003 20.149 2.202 10,93 1.883 9,35 52 0,26 267 1,33 2004 26.485 3.352 12,65 2.899 10,95 68 0,26 384 1,45 2005 32.447 3.853 11,87 3.228 9,95 69 0,21 556 1,71 2006 39.826 4.118 10,34 3.243 8,14 95 0,24 781 1,96 2007 48.561 4.797 9,88 3.646 7,51 110 0,23 1.041 2,14 2008 62.685 6.542 10,44 4.850 7,74 160 0,26 1.532 2,44 2009 57.096 6.742 11,81 5.403 9,46 172 0,30 1.167 2,04 2010 72.237 9.507 13,16 7.743 10,72 200 0,28 1.564 2,16 (Nguồn: Tổng cục thống kê) c. Thương mại điện tử Thương mại điện tử là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương pahsp điện tử như trao đổi dữ liệu điện từ, chuyển tiền điển từ và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng. Trước đây, các doanh nghiệp xuất khẩu phải trải qua nhiều chặng đường, với các cuộc gặp gỡ đối tác trền miên gây mất nhiều công sức, thời gian lẫn tiền bạc. Nhưng ngày nay thương mại điện tử đã và đang trờ thành một xu thế tất yếu để các doanh nghiệp xuất khẩu có thể cạnh tranh và tồn tại được trên thị trường. Thương mại điện tử là công cụ rất tốt hỗ trợ doanh nghiệp trong việc marketing sản phẩm ra thị trường quốc tế và chủ động tìm kiếm khách hàng, giao dịch qua mạng. Với Internet doanh nghiệp có thể chung động tìm kiếm khách hàng trên khắp thế giới. Thông qua website của mình, doanh nghiệp có thể trưng bày, chuyển tải thông tin, hình ảnh sản phẩm cho mọi đối tượng quan tâm, ở mọi lúc mọi nơi. 1.5 Cơ cấu thị trường xuất khẩu Công tác phát triển thị trường xuất khẩu đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vừa mở ra những thị trường mới, vừa thâm nhập và khai thác tốt hơn những thị trường đang có, chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu liên tục được mở rộng và đa đạng hóa, bước đột phá lớn nhất là đã xuất khẩu thành công vào thị trường Hoa Kỳ và duy trì được thị phần trên thị trường lớn nhất thế giới này. Tỷ trọng của thị trường Hoa Kỳ có xu hướng tăng nhanh, từ 5,1% trong năm 2000 lên 18,3% trong năm 2005 và duy trì ở mức 19-20% trong gian đoạn 2006- 2010 (chiến lược là 15- 20%). Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 8 Thị trường EU cũng đang là thị trường đuộc Việt Nam đẩy mạnh phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trên cơ sở các mối quan hệ truyền thống và những thiết chế luật pháp đã được hai bên cam kết và tuần thủ. Tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường EU cũng đang cso xu hướng giảm do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, từ 20% trong năm 2001 xuống còn 15,8% trong năm 2010. Tỷ trọng của thị trường Nhật Bản trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam cũng có xu hướng giảm dần từ 17,8% trong năm 2000 xuống 13,4% trong năm 2005 và khoảng 10% trong năm 2010 (chiến lược là 17 – 18%) do hoạt động xuất khẩu của nước ta sang thị trường này đạt hiệu quả thấp, hàng hóa xuất khẩu chưa đáp ứng tốt tiêu chuẩn chất lượng, nghèo nàn về chủng loại, doanh nghiệp còn thiếu thông tin và kinh nghiệm kinh doanh với thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường ASEAN và Trung Quốc có xu hướng ổn định trong giai đoạn 2001-2010 do các mặt hàng xuất khẩu sang các nuốc này chủ yếu là các hàng hóa thô chưa qua sơ chế. Biểu đồ 03: Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 (Nguồn: Tổng cục thống kê) 2. Nhập khẩu: 2.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2001-2005, nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa là 18,7%/năm ; giai đoạn 2006-2010 giảm xuống còn 18,42%. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2001 là 16,2 tỷ USD, đến năm 2010 là 84,8 tỷ USD. Do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng cao, trong đó có nhu cầu nguyên, nhiên, vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu nên tổng kim ngạch nhập khẩu 10 năm từ 2001 đến 2010 của cả nước đạt 473,1 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 18,4%. Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 9 Biểu đồ 04: Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Mức tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 chậm lại có phần đáng kể nhờ công tác điều hành xuất nhập khẩu đã có sự phối hợp khá chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là trong công tác quản lý nhập khẩu đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, phân bón. Đến thời kỳ 2006 – 2010 kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh, đặc biệt trong 2 năm đầu khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt bình quân 68,5 tỷ USD/năm trong thời kỳ này, bằng 2,6 lần thời kỳ 5 năm trước. Cụ thể: Riêng năm 2009, kim ngạch nhập khẩu giảm 13,34% so với 2008, đây là năm thứ hai, sau năm 1998, kim ngạch nhập khẩu giảm so với năm trước đó, nhưng mức độ giảm mạnh hơn. Điều này phản ánh những khó khăn của sản xuất trong nước do suy giảm kinh tế. Năm 2007 Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng kỷ lục 39,82%. Năm 2008, hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam đã vượt qua nhiều biến động về thị trường, giá cả, khó khăn của những rào cản thương mại, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong năm này, kim ngạch nhập khẩu đạt 80,713 tỷ USD, tăng 28.6% so với năm 2007. Năm 2009, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có một năm “hụt hơi” và kém rất xa so với kim ngạch đạt được năm 2008. Kinh tế thế giới trì trệ, các hàng rào kỹ thuật có xu hướng gia tăng đã khiến cho tình hình nhập khẩu trong nước suy giảm, chỉ đạt khoảng 69,95 tỷ USD và giảm 13,34% so với kim ngạch nhập khẩu năm 2008. Năm cuối cùng trong giai đoạn 5 năm 2006-2010, mặc dù xuất nhập khẩu của Việt Nam phải đối mặt với những thử thách lớn từ các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới như khủng hoảng nợ công tại châu Âu, xu hướng bảo hộ thương mại tăng song với sự nỗ lực của toàn xã hội, sự chỉ đạo điều hành hiệu quả của Chính phủ, hoạt động xuất nhập khẩu đã đạt được những kết quả khả quan. Kim ngạch nhập khẩu năm 2010 đạt 84,8 tỷ USD, tăng 21,29% so với năm 2009 Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 10 2.2 Mặt hàng nhập khẩu Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010 gồm: ô tô nguyên chiếc; máy móc, thiết bị thông tin liên lạc; linh kiện điện tử, máy tính nguyên chiếc và linh kiện; nguyên, phụ liệu giày dép; phụ liệu may; vải các loại; tân dược; xăng dầu các loại; phân bón; sắt thép; nhôm; hóa chất; chất dẻo. Trong đó các mặt hàng: ô tô nguyên chiếc; máy móc, thiết bị thông tin liên lạc; linh kiện điện tử, máy tính nguyên chiếc và linh kiện; giấy các loại; vải các loại; sữa và sản phẩm từ sữa; tân dược; nhôm; hóa chất; chất dẻo có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. - Ô tô: Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, liên tiếp các năm 2007, 2008, 2009 lượng nhập khẩu tăng vọt, đặt biệt năm 2009 số lượng xe nhập khẩu đạt đỉnh - 80,410 chiếc. - Xăng dầu các loại: Khối lượng nhập khẩu liên tục ở mức cao trong suốt 10 năm, trong đó năm 2007 đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất 18%, tương đương 1,970.40 nghìn tấn. - Phân bón: Trong khi tại các nước phát triển, việc sử dụng phân bón có chiều hướng đi xuống thì tại các nước đang phát triển lại chiều hướng tăng mạnh, trong đó có Việt Nam. Lượng nhập khẩu phân bón tăng mạnh nhất vào năm 2009 ở mức 49%, tương đương 1,478.50 nghìn tấn. - Sắt thép: Việt Nam hiện chỉ mới tập trung sản xuất các sản phẩm thép dài (thép xây dựng), còn thép dẹt và những sản phẩm thép cao cấp khác phần lớn vẫn phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước. Bên canh đó, ngành thép Việt Nam hiện mới chỉ chủ động sản xuất khoảng 50% lượng phôi phục vụ cho cán thép xây dựng, còn lại vẫn phải phụ thuộc vào thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Trung Quốc. Do đó lượng sắt thép nhập khẩu luôn ở mức cao. Lượng sắt thép nhập khẩu tăng mạnh vào năm 2007 (tăng 43% so với năm 2006) và đạt mức kỷ lục vào năm 2009 với 9,704 nghìn tấn. - Sữa và sản phẩm từ sữa: Ở Việt Nam, nhu cầu tiêu dùng sữa những năm gần đây tăng nhanh, khoảng 20%/năm; sản lượng sữa tiêu dùng (quỹ sữa tươi) khoảng 1,4 tỷ lít, bình quân hơn 15 lít/người/năm. Mặc dù mức tiêu thụ sữa thấp hơn nhiều so với các nước, nhưng nguyên liệu trong nước cũng mới chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu sản xuất, còn lại phải nhập khẩu. Kim ngạch nhập khẩu sữa liên tục tăng. Năm 2007 đánh dấu mức tăng trưởng ấn tượng 53% tương đương 159.5 triệu USD, năm 2009, 2010 giá trị nhập khẩu đã vượt 1 tỷ USD. 2.3 Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu theo nhóm mặt hàng Hàng hoá nhập khẩu của nước ta trong những năm vừa qua chủ yếu là thiết bị, máy móc và nguyên nhiên vật liệu thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo, hoá chất, nguyên liệu và phụ liệu may, da giày. Tính chung, hàng hoá là tư liệu sản xuất nhập khẩu trong 10 năm đạt 426,6 tỷ USD, chiếm 90,2% tổng kim ngạch nhập khẩu 10 năm. Cơ cấu nhập khẩu với tỷ trọng nguyên, nhiên liệu chiếm trên dưới 60% phản ánh sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào nguồn nguyên liệu và bán thành phẩm từ nước ngoài, thể hiện rõ nét đặc điểm của một nền Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 11 kinh tế chuyên gia công sản phẩm. Ngoài ra, kể từ năm 2005 Việt Nam bắt đầu nhập khẩu vàng phi tiền tệ, tuy nhiên tỷ trọng nhập khẩu vẫn ở mức thấp (chiếm dưới 5% tổng kim ngạch nhập khẩu). 92.1 92.1 92.2 93.3 89.6 88 90.5 88.8 90.2 89 7.9 7.9 7.8 6.7 8.2 7.8 7.4 7.8 9.3 9.9 2.2 4.2 2.1 3.4 0.5 1.1 82% 84% 86% 88% 90% 92% 94% 96% 98% 100% Biểu đồ 05: Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu theo nhóm ngành giai đoạn 2001 – 2010 (Nguồn: Tổng cục thống kê) 2.4 Phương thức nhập khẩu Hiện nay, trong hoạt động ngoại thương có bốn hình thức nhập khẩu cơ bản, đó là: Nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu uỷ thác, mua bán đối lưu, nhập khẩu tái xuất. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy nước ta áp dụng hai hình thức nhập khẩu chủ yếu là nhập khẩu trực tiếpvà nhập khẩu uỷ thác. Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp). Đây là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp. Khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. Do phải đứng ra tiến hành các khâu nên doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được. Vì vậy, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền. Nhập khẩu uỷ thác. Trong giao dịch quốc tế, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia một cách trực tiếp do các yếu tố về nguồn nhân lực, trong khi đó họ lại muốn được giao dịch. Từ nhu cầu ấy làm hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.Theo phương thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 12 nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Cách phân chia các hình thức nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán bằng tiền và mua thanh toán bằng hàng (còn gọi là mua bán đối lưu) thì có hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng là một hình thức còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiêp Việt Nam, tìm hiểu kỹ phương thức này có thể cho phép các doanh nghiệp có được một phương thức nhập khẩu có hiệu quả. Nhập khẩu hàng đổi hàng. Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa. Phương thức này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên tham gia hợp đồng, mặt khác có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu. Hàng hoá xuất và nhập cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu. Nhập khẩu tái xuất. Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá song không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, phương thức nhập khẩu này được thực hiện thông qua 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất. Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. cho bên xuất khẩu. 2.5 Cơ cấu thị trường nhập khẩu Xét về cơ cấu thị trường nhập khẩu của trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã chuyển hướng nhập khẩu từ nhiều thị trường khác sang nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc. Những năm gần đây, tỷ trọng nhập khẩu từ các nước bạn hàng chính như Nhật Bản, Singapore, Đài Loan đều giảm mạnh, trong khi đó nhập khẩu từ Trung Quốc lại tăng đáng kể. Năm 2010 nhập khẩu từ Trung Quốc tăng lên tới hơn 23% trên tổng giá trị nhập khẩu, tăng lên đáng kể so với mức dưới 10 % năm của năm 2000. Bảng 02: 10 thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 Thị trường Trị giá nhập khẩu (tỷ USD) Trung Quốc 89,9 Nhật Bản 50,9 Đài Loan 48,8 Singapore 47,6 Hàn Quốc 47,0 Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 13 Thái Lan 29,1 Malaysia 16,8 Hoa Kỳ 16,2 Indonesia 10,1 Đức 9,8 Tổng 366,2 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu từ 10 thị trường lớn trong giai đoạn này là 366,2 tỷ USD, chiếm 77,4% tổng kim ngạch nhập khẩu trong 10 năm của Việt Nam. Nhập khẩu từ các thị trường nhập siêu của Việt Nam như Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc chủ yếu vẫn là các nhóm hàng nguyên vật liệu, xăng dầu, sắt thép các loại, máy tính và điện tử, các loại máy móc thiết bị phụ tùng khác… Cơ cấu nhập khẩu theo mặt hàng đối với nhóm thị trường nhập siêu trong vài năm gần đây hầu như không thay đổi. Biểu đồ 06: Nhập khẩu của Việt Nam từ các nước và các khu vực giai đoạn 2000 – 2010 (Nguồn: Tổng cục thống kê) II. Đánh giá xuất nhập khẩu 1. Tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế Việt Nam Trong 10 năm qua, xuất khẩu đã đóng góp tỷ trọng lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế bên cạnh các yếu tố khác là tiêu dùng, đầu tư và nhập khẩu. Theo điểm phần trăm, năm 2002, GDP tăng 7,08% thì xuất khẩu đóng góp 5,89 điểm phần trăm, tương ứng năm 2003 là 7,34 và 11,66; năm 2004: 7,79 và 16,80; năm 2005: 8,44 và 15,13; năm 2006: 8,23 và 17,78; năm 2007: 8,48 và 19,8 và năm 2008 là 6,18 và 3,57. Theo tỷ lệ phần trăm, năm 2002, xuất khẩu đóng góp 83,25%; năm 2003: 158,78%; năm 2004: 215,71%; năm 2005: 179,25%; năm 2006: 206,04%; năm 2007 là 233,53% và năm 2008 là 57,57%. Tăng trưởng xuất khẩu cao và tương đối ổn định trong nhiều năm đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô như hạn chế nhập siêu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. Chính sách khuyến khích xuất khẩu trong giai đoạn vừa qua cũng đã góp phần vào công tác Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 14 bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển hệ sinh thái. Khả năng đáp ứng các quy định về môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm của nhiều nhóm hàng được nâng cao1. Các phương pháp sản xuất thân thiện môi trường ngày càng được áp dụng rộng rãi, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản. Phát triển xuất khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm2, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với khu vực nông thôn. Phát triển xuất khẩu cũng đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ lao động, hạn chế gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế, công nghệ nước ta còn thấp, chính sách nhập khẩu trong thời gian qua đã tạo thuận lợi để Việt Nam tiếp cận công nghệ tiên tiến, giải quyết sự thiếu hụt về nguyên, nhiên liệu, máy móc thiết bị. Nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện trình độ công nghệ của nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Người tiêu dùng được tiếp cận hàng hóa và dịch vụ rẻ hơn và tốt hơn… 2. Tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế Việt Nam Bên cạnh những tác động mang chiều hướng tích cực, hoạt động xuất nhập khẩu còn mang lai những tác động theo chiều hướng tiêu cực tới phát triển kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển tuy tăng trưởng và ổn định qua nhiều năm nhưng lại chưa bền vững. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính sách phát triển xuất khẩu trong thời gian qua quá chú trọng đến chỉ tiêu về số lượng, chưa thật sự quan tâm đến chất lượng và hiệu quả xuất khẩu. Chúng ta chưa khai thác một cách hiệu quả lợi thế cạnh tranh xuất khẩu dựa vào công nghệ, trình độ lao động, quản lý… để tạo ra các nhóm hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao3, có khả năng tham gia vào khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó, mở rộng xuất khẩu đang có nguy cơ làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường. Tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hiện nay chủ yếu dựa vào việc khuyến khích khai thác các nguồn lợi tự nhiên và sử dụng ngày càng nhiều các yếu tố đầu vào làm gia tăng áp lực gây ô nhiễm4. Nhiều vấn đề xã hội nảy sinh từ hoạt động xuất, nhập khẩu mà chúng ta chưa có cơ chế, chính sách để giải quyết hiệu quả. Chia sẻ lợi ích từ xuất khẩu chưa thật bình đẳng, đặc biệt là lợi ích thu được từ các nhóm hàng xuất khẩu có nguồn gốc thiên nhiên. Gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong quá trình tự do hóa thương mại. Cơ hội về thu nhập và việc làm dựa vào xuất 1 Năm 2009, có 295 doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam được EU cấp chứng nhận về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. 2 Năm 2008, có 3,6 triệu lao động tham gia xuất khẩu trong ngành dệt may, ngành da giày là 660.000 người, điện tử 230.000 người và thủ công mỹ nghệ là 1,88 triệu người. 3 Tính đến hết năm 2009, tỷ trọng hàng xuất khẩu công nghệ cao của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, tỷ lệ này của Trung Quốc là 35%, Thái Lan là 40%, Malaysia là 60%. Điều đáng nói là tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao của Việt Nam ít thay đổi trong 10 năm gần đây. 4 Chỉ trong hơn hai thập kỷ qua, diện tích rừng ngập mặn Việt Nam giảm đi hơn một nửa, trung bình mỗi năm mất đi gần 20.000 ha, hơn 80% độ che phủ đã bị ảnh hưởng. Các đầm nuôi tôm là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng phá huỷ này. Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 15 khẩu chưa thật sự bền vững đối với nhóm xã hội dễ bị tổn thương là người có thu nhập thấp, khu vực nông nghiệp. Xung đột chủ thợ có xu hướng gia tăng. Tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng mạnh trong thời gian kể từ năm 2006, song đặc biệt tăng nhanh trong 2 năm 2007 và 2008. Trong năm 2008, cả nước có 720 cuộc đình công, gấp 4,7 lần so với năm 2005 và gấp hơn 10 lần so với năm 2000. Các vụ đình công xảy ra chủ yếu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và có xu hướng ngày một tăng. Tuy nhiên, đến năm 2009 thì số vụ đình công giảm hẳn, chỉ còn 216 vụ. Nhập khẩu chưa bền vững do vẫn chú trọng nhập khẩu công nghệ trung gian, khuyến khích nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ, chưa có biện pháp dài hạn để kiềm chế nhập siêu, nhập khẩu cạnh tranh chưa được khuyến khích đúng mức… Nhập khẩu chưa được quản lý tốt đã góp phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm và suy thoái môi trường. Tình trạng nhập khẩu hàng hóa không đảm bảo các quy định an toàn và môi trường còn khá phổ biến, nhất là nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc. Tình trạng nhập khẩu thiết bị lạc hậu, thực phẩm kém chất lượng, hóa chất độc hại từ Trung Quốc và qua các cửa khẩu tiếp giáp với Lào và Căm Pu Chia chưa được ngăn chặn. Quản lý nhập khẩu chưa tốt làm nảy sinh hiện tượng gian lận thương mại, một số nhóm người thu lợi bất chính từ hoạt động nhập khẩu, làm trầm trọng thêm sự bất ổn định kinh tế và xã hội. Nguyên nhân của tình trạng nói trên là do, trong quá trình xây dựng và hoạch định chính sách xuất, nhập khẩu thời kỳ 2001-2010, chúng ta chưa thật sự quan tâm đúng mức đến chất lượng tăng trưởng, thiên về chỉ tiêu số lượng, coi nhẹ những ảnh hưởng tiêu cực của xuất khẩu đối với xã hội và môi trường, duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chưa chú trọng đúng mức để tạo tiền đề cho việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu. Một số chỉ tiêu trong chiến lược xuất, nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 không thực hiện được. Chẳng hạn như, chỉ tiêu về cân bằng xuất nhập khẩu vào năm 2010, chỉ tiêu nhập khẩu 40% công nghệ nguồn, chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng chế biến, công nghệ, lao động chất lượng cao... Hạn chế về năng lực thực thi các quy định về môi trường, đặc biệt là tại các khu công nghiệp, các vùng nuôi trồng thủy sản, khu vực khai thác và chế biến khoáng sản là nguyên nhân gây nên suy thoái môi trường. Chúng ta chưa có chính sách chia sẻ lợi ích hợp lý trong hoạt động xuất khẩu và hạn chế rủi ro của hoạt động xuất khẩu. Điều này thấy rất rõ trong việc các đầu nậu thu gom nông sản ép giá đối với nông dân, các thương lái vật tư sản xuất nông nghiệp nâng giá để trục lợi, các công ty môi giới lao động (đặc biệt là lao động nước ngoài), tư vấn chuyên môn định phí quá cao… Hoạt động xuất khẩu dễ bị tổn thương trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là các nhóm xuất khẩu dựa vào lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động rẻ như nông sản, thủy sản, dệt may, da giày, đồ gỗ… Chính sách của nhà nước để hạn chế rủi ro chưa được thực hiện một cách liên tục và kịp thời. Biến động giá cả của một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, cà phê trong năm 2008 cho thấy Chính phủ còn bị động trong việc điều hành xuất khẩu. Lợi ích từ Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 16 xuất khẩu không được chia sẻ một cách hợp lý tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội, giảm lòng tin của người dân vào các chính sách của nhà nước. III. Một số kiến nghị chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu trong thời gian tới để đảm bảo tăng trưởng bền vững: 1. Về xuất khẩu: 1.1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu: Định hướng phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011. Trong đó, đã xác định rõ quan điểm định hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu với nội dung sau: - Phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa chú trọng nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu. - Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm thân thiện với môi trường trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu. - Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản (là nhóm hàng có lợi thế về tài nguyên nhưng bị giới hạn nguồn cung): Có lộ trình giảm dần xuất khẩu khoáng sản thô; đầu tư công nghệ để tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng các cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị xuất khẩu. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 11,2% năm 2010 xuống còn 4,4% vào năm 2020. - Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản (là nhóm hàng có lợi thế và năng lực cạnh tranh dài hạn nhưng giá trị gia tăng còn thấp): Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu có ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 21,2% năm 2010 xuống còn 13,5% vào năm 2020. - Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo (là nhóm hàng có tiềm năng phát triển và thị trường thế giới có nhu cầu): Phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ giá trị trong nước, giảm phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 40,1% năm 2010 tăng lên 62,9% vào năm 2020. - Nhóm hàng mới (nằm trong nhóm hàng hóa khác): Rà soát các mặt hàng mới có kim ngạch hiện nay còn thấp nhưng có tiềm năng tăng trưởng cao trong thời gian tới để có các chính sách khuyến khích phát triển, tạo sự đột phá trong xuất khẩu. Định hướng tỷ trọng trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 12% năm 2010 tăng lên 19,2% vào năm 2020. Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 17 - Tập trung phát triển thị trường cho các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn, có giá trị gia tăng cao hoặc các nhóm sản phẩm có tỷ trọng kim ngạch lớn. Trước hết là khai thác cơ hội mở cửa thị trường từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu và các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN… Khai thác các thị trường tiềm năng như Nga, Đông Âu, châu Phi và châu Mỹ La tinh… 1.2. Giải pháp thực hiện  Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch lộ trình từ phát triển xuất khẩu theo chiều rộng là chính sang phát triển xuất khẩu theo chiều sâu một cách hợp lý. Phát triển xuất khẩu là con đường để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu cần phải nhanh chóng thay đổi mô hình tăng trưởng. Do tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên và lao động rẻ. Lợi thế nói trên hiện tại và một vài năm tới vẫn đang phát huy tác dụng nhưng trong dài hạn nguồn lực tự nhiên ngày càng cạn kiệt, nguồn nhân lực rẻ cũng giảm dần so sự chênh lệch tiền lương trong nước và thế giới về hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao càng lớn. Bên cạnh đó, tác động tiêu cực đến môi trường được xem như một hạn chế cản trở tăng trưởng xuất khẩu. Do đó, dựa vào mô hình tăng trưởng theo chiều rộng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh sẵn có, xuất khẩu Việt Nam khó có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu cũng là áp lực cho nền kinh tế Việt Nam. Mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào việc khai thác lợi thế cạnh tranh nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh cải cách thể chế, sử dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại. Chuyển từ phát triển xuất khẩu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu là nhân tố quyết định chất lượng tăng trưởng xuất khẩu; duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, phù hợp với xu hướng biến đổi của thị trường, do đó, hạn chế được rủi ro khi thị trường thế giới biến động bất lợi. Thực hiện định hướng phát triển xuất khẩu theo chiều sâu cũng là giải pháp để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khắc phục nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình, nâng cao vị thế quốc gia, đảm bảo phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.  Phát triển xuất khẩu trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, hạn chế ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của hàng hóa xuất khẩu Định hướng phát triển bền vững về môi trường ở nước ta là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 18 quả ô nhiễm môi trường, khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường. Quan điểm phát triển xuất khẩu và bảo vệ môi trường được khái quát ở nhiều khía cạnh. Tăng trưởng xuất khẩu phải trên cơ sở khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Lợi thế về điều kiện tự nhiên đã tạo thuận lợi cho Việt Nam về xuất khẩu một số sản phẩm như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, dầu thô, thủy sản. Tuy nhiên, cần bảo tồn và phát triển tài nguyên thiên nhiên, khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả để tích lũy lâu dài. Tăng trưởng xuất khẩu phải đi đôi với việc hạn chế ô nhiễm môi trường. Việc khai thác tài nguyên và sử dụng ngày càng nhiều năng lượng và nguyên liệu đầu vào nếu không có những biện pháp kiểm soát ô nhiễm, môi trường sinh thái nước ta sẽ ô nhiễm nghiêm trọng. Xuất khẩu tập trung vào tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến. Ô nhiễm môi trường còn làm giảm khả năng xuất khẩu và ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu. Phát triển xuất khẩu trong giai đoạn tới phải chú trọng nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của hàng hóa xuất khẩu, áp dụng các quy trình và phương pháp sản xuất thân thiện với môi trường ,bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Các tiêu chuẩn môi trường đối với sản phẩm, quy trình chế biến phải được đảm bảo. Phát triển xuất khẩu bền vững ở nước ta trong giai đoạn tới phải dựa trên cơ sở khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu bền.. Khai thác hợp lý và có chính sách quản lý môi trường linh hoạt sẽ khuyến khích người hưởng lợi có ý thức chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển chúng để khai thác bền vững trong tương lai.  Thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu để nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu Để thực hiện sự chuyển dịch phát triển xuất khẩu theo chiều rộng sang phát triển xuất khẩu theo chiều sâu, cần quan tâm đến thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, tăng năng suất các yếu tố sản xuất trong lĩnh vực xuất khẩu. Giải pháp thực hiện thông qua định hướng: tập trung nâng cao tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, sản phẩm thân thiện với môi trường trong cơ cấu hàng xuất khẩu; đồng thời chuyển dịch cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu các nhóm hàng theo nguồn gốc sản phẩm là: giảm tỷ trọng của nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản từ 11.2% năm 2010 xuống 4.4% năm 2020, giảm tỷ trọng của nhóm hàng nông lâm thủy sản từ 21.2% năm 2010 xuống còn 13.5% năm 2020, tăng nhanh tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến và chế tạo từ 40.1% năm 2010 lên 62.9% năm 2020, tăng nhanh tỷ trọng các nhóm hàng mới từ 12% năm 2010 lên 19.2% năm 2020. Đối với nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản là nhóm hàng lợi thế về tài nguyên nhưng là nhóm tài nguyên có hạn; trong khi đó, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản phẩm thô, điều này gây bất lợi cho nền kinh tế trong dài hạn. Vì vậy, cần đầu tư công nghệ để tăng xuất khẩu các Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 19 sản phẩm chế biến, tận dụng cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng sản lượng xuất khẩu. Đối với nhóm hàng nông lâm thủy sản là nhóm hàng có lợi thế về thị trường và năng lực cạnh tranh nhưng giá trị gia tăng còn thấp, nên cần tập trung tăng năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng, hướng vào chế biến các sản phẩm theo chiều sâu, ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến. Đối với nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cần tập trung phát triển các sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, nâng cao tỷ trọng giá trị trong nước, giá trị gia tăng và giảm sự phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu; góp phần đẩy nhanh tỷ trọng các sản phẩm thuộc nhóm công nghệ cao từ khoảng 8% năm 2010 lên trên 20% năm 2020 và trên 35% năm 2030. 2. Về nhập khẩu 2.1 Định hướng chuyển dịch: Trên cơ sở quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thời kỳ 2011-2020, chính sách quản lý nhập khẩu trong giai đoạn 2011-2020 cần tập trung vào việc xử lý những vấn đề:“Đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ tiên tiến, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được, hạn chế nhập khẩu hàng hóa nguy hại đối với môi trường và sức khỏe, cân đối xuất, nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thương mại”. Cụ thể như sau: - Chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa, đồng thời phát triển sản xuất nguyên, nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước và phát triển công nghiệp hỗ trợ, kiểm soát chặt việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu trong dài hạn. - Đáp ứng yêu cầu nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị và công nghệ cao phù hợp với nguồn lực, trình độ sản xuất trong nước và tiết kiệm năng lượng, vật tư; định hướng nhập khẩu ổn định cho các ngành sản xuất sử dụng các nguyên, nhiên, vật liệu mà khai thác, sản xuất trong nước kém hiệu quả hoặc có tác động xấu đến môi trường. - Đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, cải thiện thâm hụt thương mại với các thị trường Việt Nam nhập siêu. 2.2 Kiến nghị giải pháp:  Nâng cao hiệu quả đầu tư và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, có chính sách khuyến khích hơn nữa việc đầu tư sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu trong nước và mặt hàng có lơi thế cạnh tranh, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được, hạn chế nhập khẩu hàng hóa nguy hại đối với môi trường và sức khỏe Trong bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát gia tăng, cán cân thanh toán thâm hụt, hạn chế nhập khẩu hợp lý có vai trò quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Để giảm nhập siêu, biện pháp dài hạn là phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 20 xuất khẩu, trên cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam, quản lý nhập khẩu đối với các doanh nghiệp nhà nước và đẩy mạnh tự do hóa thương mại. Nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh cho hàng hóa trong nước được xem là giải pháp tổng thế của nhiều giải pháp bởi muốn nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa, cần giải quyết nhiều vấn đề về giá cả, chất lượng, hậu mãi. Đặc biệt, các doanh nghiệp trong nước càn chủ động tìm hiểu nhu cầu, thói quen tiêu dùng của khách hàng trong và ngoài nước, cũng như luật lệ và các rào cản kỹ thuật mà đối phương có thể đưa ra để từ đó có được các giải pháp kịp thời cho hàng hóa của mình. Ban hành các quy chuẩn kỹ thuật hàng hóa phù hợp với các cam kết quốc tế để kiểm soát nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng, ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe người dân.  Đẩy mạnh nhập khẩu các công nghệ tiến tiên, các ứng dụng khoa học, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo chiều sâu Ưu tiên nhập khẩu công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn, nhập khẩu bằng sáng chế phát minh để ứng dụng, tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm và phối hợp nghiên cứu triển khai. Xây dựng trung tâm công nghệ cao thu hút đầu tư nước ngoài của các công ty đa quốc gia để từng bước rút ngắn khoảng cách về công nghệ với các nước trong khu vực. Phát triển thị trường khoa học, công nghệ nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận và tăng tính thanh khoản các nguồn vốn đầu tư cho R&D, đổi mới sản phẩm, đổi mới công nghệ. Thực hiện cơ chế khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học, công nghệ. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại trong nước nhằm tạo cơ hội kết nối giữa các doanh nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên phụ liệu với các doanh nghiệp sử dụng các loại máy móc, thiết bị và hàng hóa này; có cơ chế bổ sung việc sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong đấu thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.  Cân đối xuất, nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thương mại Cơ cấu nhập khẩu các yếu tố đầu vào và hàng tiêu dùng trong nước đã cho thấy sự phát triển của thị trường nội địa chưa thực sự được quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng nhập siêu liên tục tăng cao. Trong thời gian qua, nước ta đã quá chú trọng vào xuất khẩu và phụ thuộc quá nhiều vào các nước nhập khẩu dẫn đến hệ quả là Việt Nam chịu tác động từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Do vậy, để đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững, Chính phủ và các doanh nghiệp cần đảm bảo sự cân đối giữa việc khai thác thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. Đàm phán, thỏa thuận về trao đổi thương mại cấp Chính phủ nhằm cải thiện cán cân thương mại với các đối tác thương mại một cách hợp lý, phù hợp với nhu cầu, trình độ sản xuất trong nước và các cam kết quốc tế. 3. Hoàn thiện, tuân thủ thể chế xuất nhập khẩu Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 21 Thể chế xuất nhập khẩu cần được tiếp tục hoàn thiện để thích ứng với tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay. Cần tiếp tục hoàn thiện biểu thuế quan và cắt giảm giảm thuế theo đúng lộ trình thực hiện cam kết hội nhập (WTO, các FTA đã ký và đang đàm phán như TPP, VEFTA…); đồng thời cấu lại các mức thuế suất trong biểu thuế xuất khẩu theo hướng tính đủ các tổn thất môi trường vào thuế xuất khẩu (nhất là các mặt hàng khoáng sản, nông lâm thủy sản…) Sửa đổi khung thể chế quản lý nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp FDI, nâng cao hiệu quả đầu tư, ưu tiên các ngành chế biến nông sản, công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics. Bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế, chính sách kích thích nâng cao năng suất lao động các ngành sản xuất có kim ngạch xuất khẩu lớn, kích thích phát triển công nghiệp hỗ trợ, khuyến khích phát triển trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào thay thế cho các nguyên phụ liệu hiện đang phải nhập khẩu. Hoàn chính quy hoạch phát triển các ngành nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh, sản xuất nông lâm ngư nghiệp theo hướng tăng cường tích tụ, lien kết về lực lượng và tư liệu sản xuất với công nghệ mới, giống mới. Điều chỉnh cơ chế, chính sách tín dụng phục vụ xuất khẩu, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tránh rủi ro cho các doanh nghiệp. Đẩy nhanh tiến trình xây dựng tiêu chuẩn quốc tế cho các mặt hàng xuất khẩu, bảo vệ uy tín và thương hiệu cho hàng Việt Nam. Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu xử lý môi trường trong sản xuất phù hợp với cam kết quốc tế. Chủ động có đối sách phù hợp với chính sách bảo hộ mậu dịch dưới mọi hình thức đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tái cấu trúc các doanh nghiệp theo hướng liên kết, hợp nhất để hình thành các doanh nghiệp xuất khẩu quy mô, có sức cạnh tranh và có thương hiệu. Để kiểm soát nhập siêu nói chung và nhập siêu từ Trung Quốc nói riêng, cần tiến hành các rào cản thuế quan và phi thuế quan hoặc các quy định nhằm hạn chế xuất khẩu các mặt hàng không thiết yếu. Tuy nhiên, việc tăng thuế phải tuân thủ theo lộ trình giảm thuế đã cam kết với WTO. Cụ thế, rà soát lại toàn bộ các loại thuế của hàng hóa nhập khẩu và có thể áo dụng mức thuế cao nhất mà lộ trình cam kết cho phép; nghiên cứu áp dụng các rào cản phi thuế quan như rào cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, các biện pháp đối kháng theo quy định WTO. Ngoài ra, có thể hạn chế nhập siêu thông qua các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam, chủ trương người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa. Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 22 KẾT LUẬN Hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó cho phép tận dụng tối đa nguồn lực trong nước và tham gia tích cực vào quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế. Đồng thời qua hoạt động này chúng ta có thể tiếp cận được côn nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, góp phần đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, quá trình hội nhập giữa nước ta và các nước khu vực trên thế giới. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đã được Nhà nước ta nhìn nhận một cách đúng đắn. Trong hơn 10 năm đổi mới, hoạt động xuất nhập khẩu không ngừng phát triển đem lại những kết quả đáng khích lệ. Đứng trước những khó khăn, thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, các nhà hoạch định chính sách cần thẳng thắn đánh giá thực trạng của hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay. Từ đó đưa ra những định hướng rõ ràng, phù hợp nhất để phát huy được hết tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Vì giới hạn về mặt thời gian, mọi đánh giá, phân tích trong bài viết chỉ dừng lại ở mức độ khái quát. Các đề xuất chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu nhằm tới mục tiếu phát triển bền vững chủ yếu dựa trên lý thuyết, chưa có đủ kiến thức thực tế để tăng tính thuyết phục. Do đó bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được đánh giá, góp ý của Giảng viên để hoàn thiện bài viết này hơn. Đánh giá hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Nhóm 6 – Cao học 21D 23 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê 2. Bộ Công Thương (2010), Báo cáo tình hình hoạt động của ngành công thương năm 2010. 3. Bộ Thương mại (2002), Chiến lược xuất nhập khẩu Việt Nam thời kỳ 2001-2010, www.moit.gov.vn. 4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21), được ban hành kèm theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ, 5. PGS.TS. Trần Công Sách, “Thực trạng và giải pháp tái cơ cấu mô hình phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 183, tháng 9 năm 2012. 6. Th.s Nguyễn Quốc Nghi, “Tăng trưởng kinh tế bền vững ở Việt Nam từ giải pháp kiềm chế nhập siêu”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 170, tháng 8/2011. 7. PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc, “Thương mại Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 154, tháng 4/2010. 8. Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_6_ktpt_ban_nop_19_06_2013_329.pdf
Luận văn liên quan