Đề tài Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU . 2 I.MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN2 II.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU2 III.PHẠM VI NGHIÊN CỨU . 3 PHẦN NỘI DUNG4 ITỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA4 I.1Lý luận về cổ phần hóa và công ty cổ phần . 4 I.1.1Quan niệm về cổ phần hóa4 I.1.2Quan niệm về công ty cổ phần . 4 I.1.3Mục tiêu và đối tượng của cổ phần hóa5 I.2Sự cần thiết phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam . 6 I.2.1Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nam6 I.2.2Vai trò của cổ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa ở Việt Nam . 7 I.3Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam . 8 I.4Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa tại Việt Nam9 IITHỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM . 9 II.1Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam . 9 II.1.1Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996) . 9 II.1.2Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996-6/1998)10 II.1.3Giai đoạn triển khai từ tháng 7/1998 đến nay . 10 II.2Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện CPH12 II.2.1Thuận lợi12 II.2.2Khó khăn13 II.3Những thành tựu đạt được từ việc CPH . 14 II.4Những hạn chế trong công tác CPH . 15 IIIGIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA . 19 III.1Thách thức trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN hiện nay19 III.2Giải pháp20 III.2.1Giải pháp vĩ mô:20 III.2.2Giải pháp vi mô:21 KẾT LUẬN . 22 LỜI NÓI ĐẦU Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách kinh tế, các chính sách về tự do hóa thương mại – đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang hoàn thiện dần cơ chế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển phù hợp với quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa. Song song với việc cải cách kinh tế, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gia nhập tổ chức WTO, một sân chơi nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức và khó khăn. Thực tiễn đặt ra như vậy, đòi hỏi nền kinh tế của VN trong những năm tiếp theo phải thực sự vững mạnh và phát triển. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước vốn được biết đến là giữ vị trí chủ đạo, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nước ta nhưng lại có cơ chế quản lý thiếu chặt chẽ, trình độ công nghệ sản xuất tụt hậu, thiếu năng động trong kinh doanh, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả từ nhiều năm nay. Chính vì vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba (Khóa IX) đã khẳng định: “Đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” Trước chủ trương đúng đắn và rất cần thiết đối với tiến trình phát triển của đất nước về việc đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chúng tôi đã chọn đề tài “Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới” I.MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN Từ năm 1991 đến nay, nhiều công ty cổ phần VN đã ra đời và được phân bố dọc theo chiều dài đất nước, và theo thời gian chính sự tồn tại và phát triển không ngừng của chúng đã mang lại nhiều thành quả đáng kể như hiệu quả hoạt động của DN được nâng cao, cơ cấu quản lý doanh nghiệp đi dần đến hoàn thiện, doanh thu và lợi nhuận không ngừng nới rộng, đời sống của người lao động ngày càng cải thiện theo mức thu nhập ngày một gia tăng, và doanh thu cho ngân sách nhà nước từ những khoản thuế của DN ngày được chất chồng thêm, cũng có nghĩa là uy tín và tên tuổi của chúng đang dần lan xa, và tại sao chúng trở thành những mục tiêu chính yếu luôn nằm trong tằm ngắm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài . Điều đó đã chứng tỏ rằng: “CPH DNNN ở Việt Nam” trở thành một tất yếu khách quan, một xu hướng phù hợp với thời đại. Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì nhìn chung tiến độ thực thi còn chậm, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải giải quyết. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó, qua đề tài này chúng tôi muốn mang đến cho các bạn cái nhìn tổng quan về thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở VN và cùng nhau thảo luận về các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của các công ty cổ phần hóa DNNN xứng tầm với vị thế vốn có của nó, đóng góp vào nền tăng trưởng kinh tế của nước nhà ngày một phồn vinh sung mãn. II.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU §Phương pháp thống kê: Chỉ tiêu thống kê là sự biểu hiện một cách tổng hợp đặc điểm về mặt lượng trong sự thống kê về mặt chất của tổng thể hiện tượng trong điều kiện về thời gian và địa điểm cụ thể. Phương pháp thống kê được sử dụng chủ yếu là thu thập các số liệu và tổng hợp lại theo trình tự để thuận lợi cho quá trình đánh giá. §Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp được áp dụng rất phổ biến. So sánh là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hóa có cùng một nội dung, có tính chất tương tự để xác đinh xu hướng biến động của các chỉ tiêu. Trên cơ sở đó ta có thể đánh giá một cách khách quan, những mặt phát triển hay chưa phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả, để từ đó đưa ra cách giải quyết, các biện pháp nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. III.PHẠM VI NGHIÊN CỨU Do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi và lĩnh vực nghiên cứu còn cần nhiều cải cách, định hướng cho nên đề tài nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu khái quát về: §Cổ phần hóa và các lí do dẫn đến cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam cũng như các quy định hiện hành của khung pháp lý về cổ phần hóa. §Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và đánh giá những thành tựu, cũng như các hạn chế còn tồn tại trong quá trính cổ phần hóa thời gian qua. §Nhận thức những thách thức cho quá trình cổ phần hóa và đưa ra các giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phàn hóa hiện nay.

doc23 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2504 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao. Đối tượng cổ phần hóa: Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương. Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước). Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con. Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập. Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Sự cần thiết phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nam Vai trò của DNNN Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất, tất yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, thể hiện ở những mặt sau: DNNN có vị trí rất quan trọng, góp phần để khu vực kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy sự phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế, văn hóa, đô thị mới, đào tạo cán bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng cho quá trình phát triển.   DNNN là công cụ vật chất để Nhà nươc điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. DNNN đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn định chính trị- xã hội, định hướng công bằng, văn minh, góp phần cùng khu vực kinh tế khác giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những tồn tại của DNNN Ngoài một số những thành quả đạt được, nhìn chung hiện nay hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước nói chung và hệ thống doanh nghiệp nhà nước nói riêng vẫn chưa cao, chưa thể hiện vai trò đầu tàu của mình trong nền kinh tế. Những tồn tại yếu kém cụ thể là: Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và sự đầu tư của ngân sách. Thứ hai, DNNN có quy mô nhỏ. Do quy mô doanh nghiệp còn rất nhỏ nên khả năng đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ rất hạn chế. Thứ ba, DNNN lạc hậu về công nghệ sản xuất, về trình độ quản lí. Thứ tư, cơ cấu phân bố chưa hợp lí. Còn khá nhiều DNNN hoạt động trong các lĩnh vực mà trong đó chúng khó có thể cạnh tranh được trong những  dịch vụ thông thường. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy DNNN được phân bổ không hợp lí theo địa phương, theo ngành. Có những địa phương, ngành như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, ngành công nghiệp, thương mại DNNN tập trung với số lượng lớn trong lúc đó nhiều địa phuơng lại có rất ít các DNNN. Thứ năm, cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như cơ chế quản lý trong bản thân doanh nghiệp cồng kềnh và thiếu hiệu quả. Quản lý vĩ mô DNNN chưa hiệu quả, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, của việc nâng cao hiệu quả của DNNN. Chế độ chủ quản đối với DNNN, chế độ chức năng đối với DNNN rất nhiều tầng cấp khiến chúng bị ràng buộc bởi quá nhiều yêu cầu và đòi hỏi khác nhau. Trong lúc đó, lợi ích của người lao động trong DNNN chưa trở thành động lực thúc đẩy họ lao động tốt hơn, gắn với doanh nghiệp một cách chặt chẽ hơn. Thứ sáu, như là hệ quả của những điểm yếu trên, DNNN có ít khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong bối cảnh đất nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia nhiều hơn về các khu vực tự do mậu dịch hoặc các hiệp định thương mại song phương, đa phương, tính cạnh tranh thấp của DNNN là một thách thức sống còn đối với nền kinh tế nước ta. Để các DNNN hoạt động có hiệu quả, cơ chế quản lí tốt, khả năng cạnh tranh trên thị trường tốt hơn, người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp thì DNNN cần sắp xếp, đổi mới một trong những giải pháp tốt nhất là cổ phần hóa, đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Vai trò của cổ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa ở Việt Nam Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải quyết được các vấn đề sau: Thứ nhất, thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy CPH sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển. Thứ hai, thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện CPH , người lao động sẽ gắn bó , có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất. Thứ ba, bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới. Thứ tư, thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thứ năm, cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân. Thứ sáu, cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới. Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN, CPH với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên CHXH ở nước ta. Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Chương trình thí điểm cổ phần hoá nhằm cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước được tiến hành ở Trung Quốc vào tháng 12/1986 và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Theo con số thống kê cuối năm 1992, Trung Quốc có khoảng 3.700 xí nghiệp cổ phần hoá trong đó 750 xí nghiệp nguyên là quốc doanh được chuyển đổi. Từ năm 1994, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều biện pháp mới như thành lập Công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và biến các công ty cổ phần hoá thành công ty con của Công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra khỏi doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hoá... Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc đã cổ phần hoá và thành lập mới được khoảng 9.200 Công ty cổ phần với tổng vốn đăng ký khoảng 600 tỷ NDT, trong đó cổ phần nhà nước chiếm 43%. Như vậy sau 10 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã thu được nhiều thắng lợi, tuy cũng có những vấp váp, thất bại, nhưng nhìn chung con đường cải cách của Trung Quốc là đúng đắn và được sự ủng hộ của nhân dân. Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc: Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ phần hoá, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội : Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là để thu hút vốn từ bên ngoài vào, chứ không bán toàn bộ tài sản Nhà nước. Hình thức cổ phần hoá áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, có khả năng phát triển. Áp dụng tỷ lệ bán cổ phần đa dạng. Chẳng hạn như ở Thẩm Quyến, cổ đông tư nhân chiếm tới 12%, ở Thượng Hải chỉ có 8,5% trong đó tư nhân ở nước ngoài chiếm tới 41%. Cổ phần hoá muốn phát triển và mở rộng phải có sự gắn kết với thị trường chứng khoán. Đặc biệt, Trung Quốc đã xoá bỏ sự phân biệt giữ cổ phiếu Nhà nước (cổ phiếu A) và cổ phiếu của các cá nhân, pháp nhân (cổ phiếu B) gọi chung là cổ phiếu đầu tư, tạo một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư. Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng bán để các công dân có thể tham gia chương trình cổ phần hoá, chính phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ thành vốn đầu tư. Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài. Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa tại Việt Nam Để quá trình cổ phần hóa ngày càng phát triển và hoàn thiện, trong nhiều năm qua, Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, Quyết định và các văn bản về cổ phần hóa. Trong đó nổi lên các văn bản sau đây: Quyết định số 202- CT, ngày 8/6/1992 của chủ tịch HĐBT “Về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP ” Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, ngày 27/06/1998 của thủ tướng chính phủ “ Về việc chuyển DNNN thành CTCP ” Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 24/09/2001 của hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “ về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN”. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, ngày 19/06/2002 của chính phủ “Về việc chuyển DNNN thành CTCP. Nghị định 187/2004/NĐ-CP, ngày16/11/2004 của Chính phủ về chuyển  DNNN thành CTCP thay thế cho Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày19/06/2002 với nhiều sửa đổi và bổ sung phù hợp với tình hình của nước ta. Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Thông tư 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 về Hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996) Quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1992, Nhà nước chỉ chọn một số Doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện Cổ phần hoá để thực hiện thí điểm. Suốt bốn năm 1992- 1996, tuy chỉ Cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp nhưng cả 5 đơn vị này đều hoạt động có hiệu quả hơn trước. Đó là các doanh nghiệp: Công ty Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/07/1993 Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND TPHCM- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/10/1993 Xí nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/10/1994 Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBNN tỉnh Long An- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/07/1995 Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ NN & PTNT- ngày thực hiện Cổ phần hoá: 01/07/1995 Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996-6/1998) Sau khi đạt được thành công ban đầu của giai đoạn thí điểm, ngày 07/05/1996 Chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP về chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Trong nghị định chính phủ yêu cầu các bộ, ngành TW và các chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc TW lập danh sách các doanh nghiệp do mình quản lý sẽ được Cổ phần hoá cho đến năm 1997. Đối tượng chính là những Doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn và có phương án kinh doanh hiệu quả. Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ cho phép các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có quyền tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị định số 28/CP. Chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau : Huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp; cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. Tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong doanh nghiệp có cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Kết quả của giai đoạn mở rộng này là có 25 Doanh nghiệp nhà nước đã được Cổ phần hoá. Như vậy từ năm 1992 đến tháng 06/1998 cả nước có 30 Doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành Cổ phần hoá với vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng và gần 6.000 lao động. Giai đoạn triển khai từ tháng 7/1998 đến nay Ngày 27/06/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã tạo cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. Nghị định này quy định rằng đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được chuyển đổi nhưng Nhà nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân không được phép mua quá 5% và pháp nhân không được phép mua quá 10%. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm quyền chi phối, cá nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân được phép mua tới 20% tổng cổ phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước hoàn toàn không còn muốn sở hữu, cá nhân và pháp nhân được phép mua không hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử dụng để đào tạo lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước khác. Sự ra đời của nghị định này đã đẩy mạnh tốc độ Cổ phần hoá. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ tập trung tiến hành Cổ phần hóa ở một số ngành, lĩnh vực then chốt trong xã hội. Do đó, quá trình Cổ phần hóa chưa có được sự phân bố đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Theo số liệu tính đến hết tháng 6/2009 thì cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực được Cổ phần hóa, như sau: Phần lớn các doanh nghiệp được Cổ phần hoá có quy mô nhỏ, các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ chiếm trên 50%, trong khi đó số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm khoảng 12%. Đa số các doanh nghiệp thực hiện Cổ phần hoá theo hình thức bán một phần vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp. Tiến trình Cổ phần hoá được thực hiện chủ yếu 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh nơi tập trung nhiều Doanh nghiệp nhà nước và sau đó lan sang các tỉnh thành phố khác như: Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Đà Nẵng… Cuối năm 2004, Chính phủ ra Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, theo đó cả các công ty thành viên của các tổng công ty nhà nước và ngay cả chính tổng công ty nhà nước nào mà Nhà nước không muốn chi phối đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hóa. Điểm mới quan trọng nữa trong Nghị định này là quy định việc bán cổ phần lần đầu phải được thực hiện bằng hình thức đấu giá tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nếu là công ty có số vốn trên 10 tỷ đồng, tại các trung tâm tài chính nếu là công ty có số vốn trên 1 tỷ đồng, và tại công ty nếu công ty có số vốn không quá 1 tỷ đồng. Bán đấu giá khiến cho giá cổ phiếu phát hành lần đầu của nhiều công ty nhà nước được đẩy vọt lên, đem lại những nguồn thu rất lớn cho Nhà nước. Ngày 26/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần nhằm thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004. Sự ra đời của Nghị định 109/2007/NĐ-CP là một tất yếu khách quan, phù hợp với thực tế và đồng bộ với các quy định mới nhất của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán 2006. Khác với Nghị định 187/2004/NĐ-CP, Nghị định mới đã mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến lược, không chỉ có các nhà đầu tư trong nước, mà bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, Nghị định lần này đã tập trung chủ yếu vào xác định giá trị Doanh nghiệp, điều mà bấy lâu luôn là vấn đề bức xúc trong dư luận về việc xác định giá trị Doanh nghiệp khi Cổ phần hoá quá thấp, gây thiệt hại cho Nhà nước và làm lợi cho một bộ phận cá nhân. Nghị định 109 đã khắc phục vấn đề này bằng những quy định rõ ràng, cụ thể với các quy định về xác định giá trị Doanh nghiệp theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu và  với quy định Doanh nghiệp Cổ phần hoá có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên hoặc giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên hoặc có vị trí địa lý thuận lợi phải thuê các tổ chức có chức năng định giá thuộc danh sách do Bộ Tài chính công bố. Nếu như hiện nay mới chỉ quy định phương thức bán đấu giá thì Nghị định mới đã đưa thêm các hình thức bán cổ phần lần đầu khác như bảo lãnh phát hành, và thoả thuận trực tiếp. Nếu áp dụng phương thức đấu giá công khai, Doanh nghiệp có khối lượng cổ phần bán ra dưới 10 tỷ đồng thì được đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian. Ngược lại, nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng thì nhất thiết phải đấu giá tại các Sở giao dịch chứng khoán. Nghị định cũng yêu cầu những Doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan về chứng khoán phải thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trên các Sở Giao dịch chứng khoán trong quá trình cổ phần hoá. Quy định này được đưa ra nhằm gắn kết quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước với việc phát triển thị trường chứng khoán, tăng số lượng và chất lượng các công ty thực hiện đăng ký niêm yết, giao dịch và đảm bảo yêu cầu nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin theo nguyên tắc thị trường. Nếu năm 1995 cả nước còn 12.400 Doanh nghiệp nhà nước thì đến nay cả nước chỉ còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260.000 tỷ đồng. Trong đó 1,546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh; 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, 295 nông lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương. Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương của 850 doanh nghiệp Cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23.6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76 %, trên 90% doanh nghiệp sau khi Cổ phần hoá hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%. Với những bối cảnh nêu trên, phấn đấu đến cuối năm 2009, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước cụ thể là: Tiếp tục Cổ phần hoá các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương Đẩy mạnh sắp xếp, Cổ phần hoá các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm : Tính đến thời điểm hiện nay một số ngân hàng thương mại nhà nước như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam đã thực hiện Cổ phần hoá và chuyển thành ngân hàng thương mại cổ phần. Như vậy các doanh nghiệp sau khi thực hiện Cổ phần hoá phần lớn hoạt động có hiệu quả, vượt qua những khó khăn trong tình hình kinh tế thị trường nhiều biến động, tăng lợi nhuận và tạo việc làm cho người lao động. Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện CPH Thuận lợi Kinh nghiệm của các nước trên thế giới Bài học kinh nghiệm của các nước đi trước cần phải được xem xét. Cách làm của một số nước xã hội chủ nghĩa trước kia là chia đều tài sản của doanh nghiệp cho mọi công dân. Nhà nước mất trắng tài sản, công bằng cũng không đạt được. Khuyến khích chủ sở hữu với rất nhiều công dân nay trở thành ông chủ là không đủ mạnh, nên họ bán phần của mình lấy tiền, tạo cơ hội cho một số ít người mua với giá thấp, nắm tài sản, tạo ra bất công nghiêm trọng. Trung Quốc trong tiến trình cải cách và mở cửa, nhất là trong cải cách kinh tế, xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đã chú ý thử nghiệm chế độ cổ phần và có những tìm tòi lý luận về vấn đề này, chúng ta có thể học tập. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia trên thế giới có nơi thành công, có nơi chưa thành công, nhưng từ đó ta có thể thấy được nguyên nhân cũng như những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam. Chính phủ có những phản ứng đối với việc cổ phần hóa theo các điều kiện kinh tế, hoàn cảnh lịch sử băằngác chính sách kịp thời và phù hợp Sau nhiều năm tìm tòi và thử nghiệm trong thực tế, Đảng ta đã lựa chọn cổ phần hóa như một phương thức có hiệu quả để đổi mới các doanh nghiệp nhà nước như các Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã chỉ rõ. Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII(6/1992), tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), rồi tới các nghị định số 28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997) và nghị định 44/CP(27/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà nước xác định là việc chuyển các Doanh nghiệp nhà nước thành các Công ty cổ phần nhằm giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Khó khăn Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được hình thành trong quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu. Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh. Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường. Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh. Do đó về đối tượng, quy trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam… khác so với các nước, gặp một vấn đề phát sinh thường sẽ lúng túng, chưa có kinh nghiệm giải quyết, nên phải vừa làm, vừa tìm hiểu, xây dựng, vừa rút kinh nghiệm. Sự yếu kém của khu vực kinh tế nhà nước Đảng và Nhà nước đã xác định xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nhằm chi phối nền kinh tế quốc dân đồng thời giúp đỡ các thành phần khác. Tuy nhiên một thực tế là hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng tồn tại rất nhiều yếu kém. Những yếu kém này có thể thấy được ở các mặt là vốn – công nghệ - trình độ, khả năng quản lý: Thứ nhất, về vốn. Các doanh nghiệp luôn trong trạng thái đói vốn. Tình trạng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh đã xuất hiện. Tình trạng doanh nghiệp không có vốn và không đủ khả năng huy động vốn để đổi mới công nghệ được coi là phổ biến. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn thấp kém, thất thoát vốn của Nhà nước ngày càng trầm trọng. Năm 1998 chỉ tính riêng số nợ khó đòi và lỗ luỹ kế của các Doanh nghiệp nhà nước đã lên đến 5.005 tỷ đồng . Tổng cộng, có tới trên 59,6% Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Thứ hai, về công nghệ. Công nghệ của các Doanh nghiệp nhà nước lạc hậu so với trình độ chung của khu vực và của thế giới (thường từ 2-3 thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu tới 5-6 thế hệ), 76% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50-60 và chủ yếu do Liên Xô cũ và các nước Đông Âu cung cấp. Đó chính là nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường nội địa cũng như quốc tế hết sức thấp kém. Thứ ba, về trình độ, khả năng quản lý. Ở các doanh nghiệp nhà nước xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc” đối với tài sản thuộc sở hữu của nhà nước, tài sản là của chung tức không là của ai cả. Do đó việc khai thác, sử dụng tài sản kém hiệu quả, thậm chí là thất thoát. Đội ngũ nhân viên, lao động trong doanh nghiệp nhà nước nhiều nhưng lại vừa thiếu vừa yếu. Mặt khác, có một số người chần chừ không muốn cổ phần hóa để cố trì hoãn sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước với mục đích đeo bám lấy "bầu sữa" của bao cấp, không dám nghĩ, dám làm, mặc dù hiệu quả hoạt động thấp, kéo dài trong nhiều năm. Ngoài ra, cơ chế quan liêu bao cấp đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người gắn bó lâu với mô hình kinh tế cũ, đối với họ thì càng nhều quốc doanh thì càng xã hội chủ nghĩa. Do đó, họ lo sợ cổ phần hóa sẽ thủ tiêu hoặc làm suy yếu vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Vì sợ nên sẽ chần chừ, thiếu quyết đoán khi tiến hành. Những thành tựu đạt được từ việc CPH Về phía Nhà nước: Nói đến thành công của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là nói đến một thành công “kép” nghĩa là nó làm cho lực lượng sản xuất không chỉ phát triển theo hướng hiện đại mà còn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng định hướng phát triển theo con đường này. Ngoài ra, cổ phần hoá cũng giữ vai trò quan trọng, đặt cơ sở cho thị trường vốn ra đời bằng việc ra mắt Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và các Sở giao dịch chứng khoán, làm cơ sở để nhà nước kiểm soát lạm phát. Trong thời kỳ đầu thực hiện cổ phần hoá, đối tượng Cổ phần hoá chỉ tập trung vào các doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng đến nay, cổ phần hoá đang được mở rộng sang các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, quy mô lớn, có khả năng sinh lời cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, hàng không, dầu khí,… và song hành với nó là những phương thức thực hiện ngày càng công khai và minh bạch, IPO được tiến hành theo hình thức đấu giá rộng rãi ra công chúng. Như vậy, thực tế cổ phần hoá doanh nghiệp vừa qua tiếp tục minh chứng cho tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam, khắc phục được những hạn chế của hình thức sở hữu toàn dân theo kiểu “vô chủ”. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước giúp phát huy mọi nguồn nội lực của đất nước kết hợp với hợp tác quốc tế hiệu quả, mở rộng, phát triển thị trường, xoá bỏ những lĩnh vực độc quyền Doanh nghiệp, chuyển mạnh sang thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ như viễn thông, internet,… trong mối quan hệ giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Về phía doanh nghiệp: Cổ phần hoá giúp huy động vốn cho Doanh nghiệp vì tiền thu về do bán cổ phần vẫn được NN tiếp tục đầu tư vào Doanh nghiệp nhà nước, đồng thời Doanh nghiệp sau Cổ phần hoá hoạt động hiệu quả hơn. Nhiều Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao so với khi Doanh nghiệp chưa Cổ phần hoá: CTCP Dược Hậu Giang (DHG) là một dẫn chứng: Vốn điều lệ tại thời điểm Cổ phần hoá là 80 tỷ đồng (trong đó nhà nước chiếm 51%) nhưng đạt đến 200 tỷ đồng vào tháng 7/2009 (nhà nước chiếm 44,61%); doanh thu năm 2008 đạt 295% và lợi nhuận sau thuế đạt 359 % so với năm liền kề trước khi Cổ phần hoá. Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu cũng tăng lên đáng kể, từ hơn 96,5 tỷ đồng trước khi Cổ phần hoá (năm 2004) đã tăng lên hơn 775,8 tỷ đồng tại thời điểm cuối tháng 6/2009 (Theo báo Cần Thơ). Cổ phần hoá buộc các Doanh nghiệp nhà nước phải tích cực chủ động đổi mới phương thức quản trị kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời giúp Doanh nghiệp lành mạnh hóa được tài chính thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hóa ứ đọng, tồn kho, máy móc thiết bị cũ,... Nhờ vậy, các Doanh nghiệp dần khẳng định được thương hiệu của mình trên thị trường trong và ngoài nước như: CTCP Nhựa Đà Nẵng, CTCP Cao su Đà Nẵng, CTCP Thuỷ sản và thương mại Thuận Phước, CTCP Dệt may 29-3,….. Đối với người lao động: Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người lao động làm chủ Doanh nghiệp, được bảo đảm quyền sở hữu trực tiếp trong Doanh nghiệp cổ phần, có sở hữu thực sự dưới hình thức “tham dự” cổ phiếu đối với sở hữu xã hội về vốn và tư liệu sản xuất. Bên cạnh đó, người lao động trong Doanh nghiệp được tham gia vào quá trình đào tạo và đào tạo lại, đời sống ngày càng được cải thiện, nâng cao. Thu nhập bình quân đến cuối tháng 6/2009 của người lao động tại CTCP Dược Hậu Giang là 9,45 triệu đồng/người/tháng, tăng gần 3 lần so với năm liền kề trước khi Cổ phần hoá (3,26 triệu đồng/người/tháng); hay như trong năm đầu tiên chuyển sang hình thức cổ phần, Công ty Bê tông – thép Ninh Bình nộp ngân sách 2,8 tỷ đồng, thu nhập người lao động tăng 20% so với năm trước và đều đặn tăng ở các năm sau, bên cạnh việc, công ty thực hiện đầy đủ chế độ nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trang bị phòng hộ lao động, ăn ca, bồi dưỡng độc hại, khám sức khoẻ định kỳ cho hơn 500 công nhân; giải quyết chế độ nghỉ dưỡng, tham quan, nghỉ mát cho cán bộ, công nhân,… Những hạn chế trong công tác CPH Về pháp luật, cơ chế chính sách Các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiến hành cổ phần hóa. Đó là: quy trình cổ phần hóa rườm rà, phức tạp, có phần còn cứng nhắc; khó xác định đúng được giá trị của doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần bởi chưa có chế tài cụ thể tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, ngay cả các cơ quan chức năng nhiều khi cũng không thống nhất được các mức giá khác nhau về tài sản của doanh nghiệp. Thêm nữa, nếu như trường hợp giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị của doanh nghiệp thì lại kéo theo những tranh chấp mà các doanh nghiệp phải đương đầu trong quá trình sử dụng. Các doanh nghiệp còn khó định được giá trị của các lợi thế kinh doanh như là một phần giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp: Việc xác định giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp, dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế/giá trị vốn Nhà nước trước khi cổ phần hóa và lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ là chưa hợp lý. Vì lợi nhuận của doanh nghiệp tạo ra không phải chỉ có bộ phận vốn Nhà nước tại doanh nghiệp mà là toàn bộ vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, nên tính như vậy là không chính xác, từ đó dẫn đến việc xác định giá trị doanh nghiệp cũng không chính xác. Còn khá nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn vận hành theo cung cách cũ, chưa cải thiện nâng cao phát triển doanh nghiệp, cũng như không mở rộng được quy mô huy động nguồn vốn xã hội vào đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh để sẵn sàng hội nhập kinh tế thế giới. II.4.2 Công tác chỉ đạo cổ phần hóa Công tác chuẩn bị cổ phần hóa ở một số đơn vị chưa tốt, dẫn tới việc các tổng công ty thực hiện cổ phần hóa trong khi nhiều đơn vị thành viên chưa cổ phần hóa. Việc chỉ đạo cổ phần hóa chưa kiên quyết, mang tính hình thức và chưa tạo sự nhất trí cao trong ban lãnh đạo và người lao động, dẫn tới khiếu kiện ở nhiều nơi. Khiếm khuyết khác là tình trạng nhiều doanh nghiệp chưa chủ động xử lý những tồn tại về tài chính, lao động dôi dư theo chế độ, dẫn đến những rắc rối kéo dài khi tiến hành cổ phần hóa, đặc biệt là công nợ khó đòi. Bên cạnh đó, các cơ quan tư vấn cổ phần hóa trong nước còn thiếu kinh nghiệm và trình độ, đặc biệt việc tư vấn phát hành cổ phần quy mô lớn, tư vấn lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, tư vấn xử lý những vấn đề tài chính… còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, các cơ quan tư vấn nước ngoài hoạt động ở Việt Nam chưa nhiều dẫn đến công tác tư vấn cũng lúng túng, bị kéo dài. II.4.3 Tốc độ cổ phần hóa Tiến độ cổ phần hóa còn chậm thể hiện qua những số liệu về số lượng các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa đều thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Chẳng hạn, dự kiến trong 3 năm từ 2000-2002 sẽ tiến hành cổ phần hóa 1.056 doanh nghiệp nhà nước, nhưng đến tháng 12 năm 2002 mới chỉ cổ phần hóa được 523 doanh nghiệp, bằng 50% số doanh nghiệp dự kiến; trong 6 tháng đầu năm 2004 cũng mới đạt được 20% kế hoạch. Theo phương án đã được Thủ tướng Chính phủ duyệt thì giai đoại 2007-2010 cả nước cần sắp xếp 1.553 doanh nghiệp nhà nước, trong đó 950 doanh nghiệp sẽ cổ phần hóa và mục tiêu mà Chính phủ đặt ra là chỉ giữ lại 700-800 doanh nghiệp nhà nước sau năm 2010. cả năm 2007 chỉ sắp xếp được 271 doanh nghiệp trong số 550 doanh nghiệp theo kế hoạch, trong đó cổ phần hóa được 116 doanh nghiệp. Năm 2008 chỉ sắp xếp được 119 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa chỉ đạt một phần tư kế hoạch với 74/262 doanh nghiệp. Tình hình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước tính đến 31/12/2008 (số doanh nghiệp cổ phần hóa nằm trong số doanh nghiệp sắp xếp lại) Tổng số DN Số DN đã sắp xếp Cả nước 5.414 3.836 Các bộ, ngành 1.354 1.164 Các tổng công ty 91 554 440 Các địa phương 3.506 2.232 Nguồn: Bộ Công Thương Vậy, trong hai năm 2009 và 2010 sẽ phải cổ phần hóa xong trên 750 doanh nghiệp nếu muốn hoàn thành kế hoạch. Điều này gần như bất khả thi. Trong một báo cáo mới trình Chính phủ, Bộ Tài chính cho rằng nguyên nhân chính cản trở tiến trình cổ phần hóa trong năm 2009 là do “tình hình nền kinh tế có nhiều khó khăn, thị trường chứng khoán có nhiều biến động nên hoạt động sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thời gian qua bị ảnh hưởng”. Trong năm 2009, việc thực hiện cổ phần hóa gắn liền với niêm yết trên thị trường chứng khoán gần như bị làm lơ, bỏ lửng (tính đến 6 tháng đầu năm 2009 chỉ có 20 doanh nghiệp được cổ phần hoá.). Việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty còn phân tán, vẫn còn sự can thiệp mệnh lệnh hành chính trong quá trình cổ phần hóa, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền cổ đông của Nhà nước tại các đơn vị này. Theo kế hoạch, trong năm 2010, những tập đoàn, tổng công ty lớn sẽ tiếp tục được tiến hành Cổ phần hoá như: Công ty Thông tin di động VMS (Mobifone), Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. II.4.4. Tư tưởng Còn nhiều vướng mắc về tư tưởng, nhận thức của lãnh đạo, đảng viên và người lao động trong các doanh nghiệp. Những vướng mắc này xuất phát từ nhận thức về việc cổ phần hóa còn hạn chế và trên hết là tâm lý lo ngại lợi ích của mình sẽ không được bảo đảm. Nhiều lãnh đạo các doanh nghiệp không muốn doanh nghiệp chuyển sang hình thức cổ phần bởi vị trí quản lý của họ có thể sẽ bị thay đổi, và ngay cả khi còn nắm giữ vị trí quản lý, cũng khó có thể điều hành công ty theo lối cũ mà phải chịu sự giám sát mới chặt chẽ hơn của hội đồng quản trị và các cổ đông. So với khi chưa cổ phần hóa, người lãnh đạo ở các doanh nghiệp cổ phần hóa còn phải đương đầu và chịu trách nhiệm nhiều hơn, trong khi sự hiểu biết về cách thức điều hành một công ty cổ phần còn hạn chế. Điều đó sẽ làm cho họ lúng túng ngay cả đối với những vấn đề tưởng đơn giản. Người lao động trong các doanh nghiệp cũng có nhiều điều phải lo lắng như sau cổ phần hóa họ sẽ làm gì nếu như trở thành lao động dôi dư. Bản thân doanh nghiệp khó có đủ kinh phí để giải quyết chính sách hay tìm việc làm mới cho người lao động…. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên các cấp , người lao động trong doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Một số khác còn mang nặng tư tưởng bao cấp, lo ngại sau cổ phần hóa mất đặc quyền, đặc lợi . Một số Bộ ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của Đảng, quy định của nhà nước, thiếu chương trình kế hoạch cụ thể, chưa tích cực sâu sát trong chỉ đạo thực hiện đã làm ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp. II.4.5. Bản thân doanh nghiệp Nhiều doanh nghiệp không muốn chuyển sang cổ phần hóa bởi chưa có được môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong thực tế, khi các doanh nghiệp đã được cổ phần hóa thì thường được coi là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không được đối xử ngang hàng như những những doanh nghiệp nhà nước khác. Điều này thể hiện rất rõ qua khả năng tiếp cận các nguồn vốn của những tổ chức tín dụng nhà nước. Nếu như khi còn là doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp này không chỉ nhận được nguồn vốn từ nhiều kênh khác nhau như đầu tư cơ bản, bổ sung vốn lưu động, được xóa nợ, hay bảo lãnh nợ, thì nay không những không còn các nguồn vốn trên, mà lại còn bị rơi vào tình trạng khó được vay vốn bởi tâm lý lo ngại họ là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không có người bảo đảm (Chính phủ, các Bộ hay Uỷ ban nhân dân các cấp) khi không có khả năng trả được nợ. Trong lĩnh vực thuế, cách tính thuế đối với một số tài sản của doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa cũng chứa đựng những bất hợp lý. Chẳng hạn, nếu tài sản được chuyển giao khi còn là doanh nghiệp nhà nước thì không bị tính thuế trước bạ, nhưng sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì phải chịu thuế này… Sự phân biệt đối xử như kiểu “con cùng cha khác mẹ” đã tạo lên tâm lý lo ngại trong lãnh đạo doanh nghiệp khi phải đương đầu với nhiều khó khăn phía trước, nên rất lưỡng lự trước việc lựa chọn phương án cổ phần hóa doanh nghiệp. II.4.6. Chính sách đối với người lao động Vấn đề lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa hiện đang nổi lên hai vướng mắc chủ yếu, đó là: Thứ nhất, một số người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa chưa được hương đầy đủ chế độ ưu đãi theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP. Trên thực tế, việc thực hiện chế độ ưu đãi cho người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã dẫn đến hiện tượng người lao động ở doanh nghiệp này được mua đủ 10 cổ phần ưu đãi cho 1 năm làm việc, còn người lao động ở doanh nghiệp khác lại chỉ được mua số cổ phần ưu đãi cho 1 năm làm việc ít hơn, có thể là 8, là 6 hoặc thậm chí ít hơn nữa. Hiện tượng không công bằng đã nảy sinh. Sơ dĩ có hiện tượng này là vì ở những doanh nghiệp khác nhau thì giá trị phần vốn nhà nước là rất khác nhau, số người lao động cũng rất khác nhau và thâm niên công tác của họ lại càng khác nhau. Với những doanh nghiệp được thành lập đã vài chục năm, số vốn nhỏ, số công nhân đông, thâm niên công tác lâu thì chắc chắn người lao động sẽ không được nhận đủ phần ưu đãi mà nhà nước dành cho họ theo Nghị định này. Thứ hai, xuất hiện tình trạng lao động dôi dư không chỉ sau khi tiến hành cổ phần hóa mà ngay cả khi đang tiến hành cổ phần hóa. Hàng trăm doanh nghiệp đã cổ phần hóa trước đây nhưng không có hiện tượng lao động dôi dư. Hơn thế nữa tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa được hơn 1 năm, số lao động không những không bị cắt giảm mà còn tăng lên đáng kể. Song trong thời gian gần đây đã bắt đầu xuất hiện lao động dôi dư không chỉ sau cổ phần hóa mà ngay cả trong khi doanh nghiệp đang tiến hành cổ phần hóa. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, khi tiến hành cổ phần hóa, toàn ngành sẽ dôi dư 9.000 lao động, trong đó khối xây dựng chiếm 44%, khối cơ khí 25% và khối vận tải, dịch vụ là 31%. Cả nước với kế hoạch cổ phần hóa 1/3 số doanh nghiệp nhà nước hiện có (khoảng 2.000 doanh nghiệp) thì sẽ có khoảng 50 - 60 vạn lao động bị mất việc làm. Hầu hết số lao động này là lao động phổ thông, trong đó khoảng 40% số lao động ơ độ tuổi dưới 40. Đây là vấn đề xã hội nảy sinh khi cổ phần hóa, không thể không giải quyết. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Thách thức trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN hiện nay Định hướng đến năm 2010 phải hoàn tất việc quá trình CPH các DNNN khó thực hiện được: Trong giai đoạn 2007-2010 sẽ có 1.553 doanh nghiệp được sắp xếp, trong đó 950 doanh nghiệp sẽ cổ phần hóa. Nhưng năm 2007 chỉ sắp xếp được 271 doanh nghiệp trong số 550 doanh nghiệp theo kế hoạch, trong đó CPH được 116 doanh nghiệp. Năm 2008 chỉ sắp xếp được 119 doanh nghiệp, trong đó CPH chỉ đạt một phần tư kế hoạch với 74/262 doanh nghiệp. Vậy trong hai năm 2009 và 2010 sẽ phải CPH xong trên 750 doanh nghiệp nếu muốn hoàn thành kế hoạch. Mặc dù thời gian xác định giá trị doanh nghiệp và tiến trình cổ phần hóa kéo dài nhưng chúng ta vẫn chưa có một chế tài với các đơn vị chưa hoàn thành. Quá trình cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn do những nguyên nhân như quy trình, quy định phức tạp, thủ tục hành chính rườm rà, sự can thiệp hành chính của cơ quan quản lý nhà nước vào quá trình ... Thời gian bình quân để thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp mất hơn 1 năm, với các tổng công ty, thời gian này mất gần 2 năm. Sự kéo dài thời gian khiến cho việc định giá doanh nghiệp không còn chính xác. Quá trình cổ phần hóa kéo dài đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn khi phải xử lý những vấn đề phát sinh về tài chính từ khi xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm có đăng ký kinh doanh lần đầu. Giá trị doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm vì tính theo thời điểm khác nhau khiến cho tiến trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp trở nên bế tắc khi các bên không thể thoả thuận chia sẻ lợi ích từ quá trình trên Mặc dù trong năm 2007, BTC đã ban hành nghị định 109/2007/NĐ-BTC và thông tư 146/2007/TT-BCT quy định khá chi tiết về các quy trình và thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Tuy nhiên theo chúng tôi nhận định việc xác định giá trị tài sản vẫn chưa được quy định cụ thể và khó áp dụng, cụ thể như sau: “Giá trị thực tế của tài sản = Nguyên giá tính theo giá thị trường tại thời điểm tổ chức định giá (x) Chất lượng còn lại của tài sản tại thời điểm định giá”. Tuy nhiên những DNNN có máy móc, công nghệ cũ thì việc xác định theo giá thị trường cũng như chất lượng còn lại của các tài sản này là vấn đề hết sức khó khăn và có nhiều tranh cải giữa cơ quan định giá và doanh nghiệp. Mặc khác việc xác định giá đất tính vào giá trị doanh nghiệp cũng khá bất cập khi giá thị trường theo bảng giá của UBNN, thành phố ban hành không bám sát theo giá thị trường đang giao dịch làm thất thoát khá lớn tài sản của nhà nước đặc biệt khi có tiêu cực trong quá trình này thường xuyên sảy ra Giá trị lợi thế kinh doanh, đia lý, thương hiệu được phép tính vào giá trị doanh nghiệp khi tiến hành định giá tuy nhiên vấn đề xác định lợi thế kinh doanh này như thế nào và cơ quan chủ quản nào được phép và tiến hành như thế nào vẫn chưa được quy định cụ thể. Bên cạnh đó việc xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Các khoản nợ tồn đọng, dây dưa khó đòi đã qua nhiều năm, tài sản không cần dùng, vật tư hàng hoá tồn kho lâu ngày, trải qua nhiều đời giám đốc không còn chứng từ, không sổ sách nên không thể xác nhận được. Tỷ trọng vốn nhà nước trong các doanh nghiệp sau cổ phần vẫn còn khá cao, đa số nhân sự quản lý được chuyển từ cơ quan nhà nước quản lý hoặc từ doanh nghiệp cũ, kế thừa tư duy bao cấp từ nhà nước chuyển qua nên tình trạng “bình mới rượu cũ” hậu cổ phần hóa khá phổ biến. Các doanh nghiệp đã tiến hành cổ phần hóa tự nguyện có những lợi thế mà các doanh nghiệp sẽ cổ phần hóa trong tương lai ít có được ví dụ: ít mắc nợ, ít dịch vụ xã hội, ít lao động dư thừa …Các doanh nghiệp càng về sau sẽ càng ít lợi thế này do đó quá trình CPH sẽ khó khăn hơn nhiều và tốn thời gian hơn Khi tiến hành đầu tư vào một doanh nghiệp, điều mà các nhà đầu tư quan tâm là khả năng sinh lợi của doanh nghiệp và xu thế của tăng trưởng lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp đó cũng như sự lành mạnh về tài chính của các doanh nghiệp. Có thể nói thực chất nhà đầu tư không mua tài sản mà muốn sở hữu dòng thu nhập do tài sản đó mang lại cho họ trong tương lai và yêu cầu đảm bảo an toàn vốn khi đầu tư. Trong khi đó các DNNN tại Việt Nam hiện nay đa số quản lý khá lõng lẽo về tài chính và chưa phát huy hết được thế mạnh kinh doanh của mình, do đó gây khó khăn cho quá trình thương lượng cũng như tìm kiếm các đối tác đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam và thách thức cho khả năng thành công trong quá trình IPO lần đầu với giá phản ánh đúng giá trị của doanh nghiệp trong tương lai. Thị trường chứng khoán đã được thành lập gần 10 năm, quy mô từ 2 đơn vị đến nay đã có hơn 300 doanh nghiệp niêm yết, song sự phát triển của thị trường vẫn chưa đi vào ổn định, tâm lý đám đông vẫn đang chiếm lĩnh trên thị trường làm cho thị trường phát triển không bền vững do đó vẫn chưa tạo động lực và là một kênh tạo vốn hữu hiệu cho lần đầu phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp cũng như huy động vốn thông qua thị trường. này Mặc khác tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu đến sự phát triển của thị trường chứng khoán các nước giai đoạn 2008-2009 vừa qua và dư âm của nó trong thời gian đến sẽ không hỗ trợ tốt cho thị trường vốn phát triển. Giải pháp Dựa vào những đánh giá trên chúng tôi xin kiến nghị một số giải pháp sau đây nhằm giúp thúc đẩy và hoàn thiện quá trình cổ phần hóa trong thời gian tới: Giải pháp vĩ mô: Các cơ quan quản lý các doanh nghiệp nhà nước hiện hành nghiên cứu và đánh giá thực trạng các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ, lên kế hoạch về tiến độ cổ phần hóa các doanh này trình bộ tài chính phê duyệt và ra quyết định lộ trình thực hiện. Thành lập một bộ phận chuyên trách, giám sát và điều phối linh hoạt những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Đồng thời với nó là đề ra chế tài xử phạt lien đới đến những đối tượng lien quan nếu không theo đúng lộ trình cam kết. Điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước, thay vì cấp phát chi ngân sách về cho các doanh nghiệp mà điều phối theo cơ chế tự thu tự chi, đề ra chỉ tiêu lợi nhuận cho từng ngành nghề đối với những doanh nghiệp buộc nhà nước nắm quyền chi phối. Khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là khuyến khích luồng vốn từ những nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào một số ngành trọng điểm tạo nền tảng cho sự phát triển của một quốc gia như cơ sở hạ tầng, viễn thông, tài chính ngân hàng, giáo dục, tạo cơ chế cạnh tranh trên thị trường, hạn chế tình trạng độc quyền nhà nước. Quy trình cổ phần hóa có thể cải thiện bằng cách bán cho các đối tác chiến lược trước để trở thành công ty cổ phần và sau đó đấu giá công khai trên thị trường vốn hoặc ngược lại tùy vào tình hình thực tế. Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán và yêu cầu các doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán phải niêm yết theo một lộ trình cam kết thực hiện. Góp phần tạo tính minh bạch về tài chính và quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp sau một thời gian cổ phần hóa. Tăng cường công tác quản lý thị trường chứng khoán, đặc biệt là giám sát cơ chế công bố thông tin trên thị trường nhằm tạo dựng một thị trường vốn cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp hậu cổ phần hóa đầu tư mới và phát triển thị trường nhằm tạo tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Giải pháp vi mô: Xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa: Việc xác định giá trị doanh nghiệp phải khách quan do một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện, tránh ủy quyền cho một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm nhận. Các tổ chức này phải liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật và hình thức xử phạt mạnh nếu kiểm toán nhà nước phát hiện sai sót trong quá trình CPH. Việc xác định giá các tài sản như máy móc thiết bị, giá trị đất theo cơ chế thị trường phải có kèm bảng điều tra thị trường danh mục tài sản đó do một tổ chức điều tra thị trường uy tín. Các khoản nợ tồn đọng: nếu không xử lý được khi cổ phần hóa sẽ được chuyển qua cho công ty quản lý và mua bán nợ nhà nước tiếp quản và xử lý trong những thời gian tiếp theo, không nên giảm giá trị nhà nước hay chuyển nợ qua cho công ty cổ phần mới thành lập. Sau khi cổ phần hóa, nên thay đổi hệ thống quản lý cho phù hợp với mô hình doanh nghiệp mới theo hướng tích tực, tránh giữ nguyên bộ máy quản lý ì ạch. Trao quyền điều hành doanh nghiệp cho ban lãnh đạo, Nhà Nước đứng trên quan điểm của một cổ đông: đặt ra chỉ tiêu và giám sát đánh giá trên hiệu quả điều hành của ban lãnh đạo. Ưu đãi và khuyến khích người lao động tại doanh nghiệp tham gia góp vốn mua cổ phần nhằm gắn bó trách nhiệm của họ với doanh nghiệp. Lập 1 quỹ hỗ trợ cổ phần hóa, quỹ này sẽ hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp cho người lao động vay mua cổ phần. KẾT LUẬN Từ những phân tích trên đã cho ta thấy cái nhìn tổng quát về tiến trình cổ phần hóa của nước ta từ những giai đọan đầu tiên cho đến ngày nay. Qua đó ta có thể thấy chủ trương của Đảng và nhà nước ta về cổ phần hoá là hoàn toàn đúng đắn. Hiệu quả mà cổ phần hóa đem lại là không thể phủ nhận được và hoàn toàn có thể tăng trong tương lai. Bên cạnh đó còn có những hạn chế trong tiến trình cổ phần hóa xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hoàn toàn có thể khắc phục được trong thời gian tới nếu toàn Đảng, toàn dân ta cùng nỗ lực, đồng lòng. Vả chúng ta tin tưởng rằng chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ được thực hiện ngày càng thành công, góp phần vào những thắng lợi chung của sự phát triển kinh tế đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Các văn bản pháp luật nêu trên, Quyết định 1729/QĐ- TTg, ngày 29/12/2006 phê duyệt danh sách các Tập Đoàn, Tổng Công ty Nhà Nước thực hiện CPH giai đoạn 2007-2010 “Nhìn lại tiến trình cổ phần hóa DNNN qua số liệu 2001-2005”- Nguồn Tổng Cục Thống Kê Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian .doc
Luận văn liên quan