Đề tài Đánh giá ưu nhược điểm nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàng trung ương trong các năm gần đây và đưa ra giải pháp cho ngân hàng trung ương

Để đảm bảo sự đồng bộ trong điều hành cơ chế lãi suất nhằm mục đích điều tiết tiền tệ một cách có hiệu quả, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2008. Theo đó, lãi suất cấp vốn là 13,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu là 11,0%/năm. Cơ chế này tạo hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu (chênh lệch 2%) có tác dụng góp phần điều tiết lãi suất thị trường liên ngân hàng; trong đó, lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở sẽ dao động trong hành lang này. Khi điều kiện thị trường tiền tệ thay đổi, Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét điều chỉnh theo mức độ phù hợp.

docx32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4629 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá ưu nhược điểm nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàng trung ương trong các năm gần đây và đưa ra giải pháp cho ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA NGÂN HÀNG BÀI THẢO LUẬN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ NHÓM 7 CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN: ĐÁNH GIÁ ƯU NHƯỢC ĐIỂM NGHIỆP VỤ TÁI CẤP VỐN CỦA NHTW TRONG CÁC NĂM GẦN ĐÂY VÀ ĐƯA RA GIẢI PHÁP CHO NHTW HÀ NỘI – 2011 DANH SÁCH NHÓM 7 : H506 ca 1 sáng thứ 5 Họ tên Lớp NGUYỄN NAM SƠN NHD-K11( nhóm trưởng) PHAMJ QUANG THANH NHH-K11 PHẠM QUANG TÚ NHA-K11 NGUYỄN THANH HÙNG NHD-K11 NGUYỄN TOẠI ĐẠI TTQTC-K11 PHAN THÀNH LINH NHD-K11 ĐOÀN THỊ THỦY TTA-K11 NGUYỄN QUỲNH LÊ TTB-K11 BÙI VÂN HỒNG LTDH-5B NGUYỄN THỊ TUYẾT LTDH-5K NGUYỄN THỊ PHƯỢNG LTDH-5K Giới thiệu Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Trong chính sách tiền tê, nghiệp vụ tái cấp vốn là nghiệp vụ quan trọng của NHTW,là một trong những công cụ điều hành CSTT quốc gia. Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách tiền tệ và tìm hiểu sâu hơn về nghiệp cụ tái cấp vốn tại Việt Nam, chúng em quyết định chọn đề tài : “ĐỀ TÀI : ĐÁNH GIÁ ƯU NHƯỢC ĐIỂM NGHIỆP VỤ TÁI CẤP VỐN CỦA NHTW TRONG CÁC NĂM GẦN ĐÂY VÀ ĐƯA RA GIẢI PHÁP CHO NHTW” Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khác nhau để phân tích và có thể đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Chính sách tiền tệ của NHNN VN rất rộng lớn, có thể kiến thức của chúng em chưa đáp ứng được yêu cầu của các thầy (cô) yêu cầu. Chúng em rất mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng em được tốt hơn nữa. Chúng em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG BÀI THẢO LUẬN I, CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.KHÁI NIỆM. 2.MỤC ĐÍCH 3.NGUYÊN TẮC 4.CÁC HÌNH THỨC TÁI CHIẾT KHẤU Ở VIỆT NAM II,ĐÁNH GIÁ ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA NGHIỆP VỤ TÁI CẤP VỐN CỦA NHTW TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 1.NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI 2.NĂM 2008 3.2009-2010 4.ĐẦU NĂM 2011 III,KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁI CẤP VỐN CHO NHTW I, CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1,KHÁI NIỆM Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mai và các tổ chức tín dụng bao gồm các hoạt động: chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá. 2.MỤC ĐÍCH - Nhằm bổ sung vốn khả dụng cho các TCTD trong quá trình hoạt động để duy trì,mở rộng quy mô tín dụng và đáp ứng nhu cầu thanh toán. - Nhằm thự hiện việc điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu CSTT quốc gia trong từng thời kỳ. - Nhằm điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dự trên việc cấp vốn theo thời gian,lĩnh vực và ngành kinh tế. - Thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. 3.NGUYÊN TẮC - Tôn trọng hạn mức tín dụng - Các khoản tín dụng cung ứng luôn gắn với mục tiêu CSTT quốc gia trong từng thời kỳ. - NHTW luôn đóng vai trò chủ động trong quan hệ tín dụng 4.CÁC NGHIỆP VỤ TÁI CẤP VỐN Ở VIỆT NAM 4.1 Tái chiết khấu các chứng từ có giá:  Tái chiết khấu là việc NHTW thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, thuộc sở hữu của các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạn này đã được các ngân hàng chiết khấu trên thị trường thứ cấp. Tái chiết khấu có thể được coi là hình thức tín dụng có đảm bảo, trong đó các TCTD sử dụng các giấy tờ có giá đủ điều kiện cầm cố để bảo đảm cho tiền vay tại NHTW. Với bản chất của loại cho vay dưới hình thức chiết khấu chứng từ có giá, đây là loại cho vay có mức độ rủi ro thấp nên lãi suất tái chiết khấu thường là lãi suất cho vay thấp nhất của NHTW. Vì vậy NHTW thường xác định một hạn mức tái chiết khấu và đưa ra các điều kiện cụ thể đối với các chứng từ có giá được phép tái chiết khấu tại NHTW. Hạn mức tái chiết khấu: là mức dư nợ tối đa mà NHTW chấp nhận trong việc cấp tín dụng cho các NHTM. Hạn mức tái chiết khấu được xác định trên cơ sở dự tính: - mức tăng trưởng cơ số tiền MB. - mức thay đổi của tài sản có ngoại tệ ròng. - những thay đổi của tình trạng Ngân sách Nhà nước ảnh hưởng đến khoản mục tạm ứng cho ngân sách ròng nhằm đảm bảo mức tín dụng cung ứng cho các NHTM nằm trong giới hạn mức tăng trưởng khối tiền cơ sở. Hạn mức tái chiết khấu được tính hàng năm và chia ra từng quý. Việc phân bổ hạn mức tín dụng phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng ngân hàng cũng như tỷ trọng khoản mục dư nợ tín dụng trên tổng tài sản có và được thông báo cho các ngân hàng hàng quý. * Điều kiện các loại giấy tờ có giá được chấp nhận: - Tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước và các loại giấy tờ có giá khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ. - Phát hành bằng đồng Việt Nam và có thể chuyển nhượng được. - Thời hạn còn lại tối đa là 90 ngày trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá. - Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn Ngân hàng nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu trong trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn. * Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu do NHTW xác định căn cứ vào yêu cầu thực hiện CSTT, có tham khảo sự biến động của một số loại lãi suất ngắn hạn cùng kỳ hạn như: lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc phiên gần nhất, lãi suất thị trường liên ngân hàng và nhu cầu tín dụng của hệ thống các TCTD. * Phương thức giao dịch: Trong trường hợp cần thiết và theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, NHTW có thể thực hiện chiết khấu hẳn thời hạn còn lại của chứng từ có giá hoặc chiết khấu có kỳ hạn kèm theo hợp đồng bán lại. Giá giao dịch (St) trong quan hệ tái chiết khấu được xác định dựa trên các yếu tố sau đây: + Mệnh giá của chứng từ có giá (Gt). + Thời hạn còn lại của chứng từ có giá (Tc). + Lãi suất tái chiết khấu được NHTW xác định và công bố (Lsc). + Hoa hồng chiết khấu và thuế (nếu có) cũng được quy định cho từng loại. Số tiền thanh toán khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu được xác định như sau: St = (365 – Số ngày quy ước cho một năm) Khi thực hiện chiết khấu có kỳ hạn giấy tờ có giá ngắn hạn, số tiền NHTW bán lại được xác định như sau: Gbl = St.  Trong đó: Gbl: là giá bán lại. St: là số tiền NHTW thanh toán khi chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn. Ls: là lãi suất trúng thầu phiên gần nhất.  Tm: là thời gian NHTW chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn. 4.2 Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các chứng từ có giá: Khi có nhu cầu vay vốn, các TCTD có thể sử dụng các chứng từ có giá để cầm cố làm đảm bảo cho khoản vay được yêu cầu tại NHTW. Khi tái cấp vốn theo hình thức này, giá trị tiền vay được xác định theo một tỷ lệ phần trăm tính trên giá trị chứng từ có giá làm đảm bảo. Tỷ lệ này thay đổi tùy thuộc vào mức độ rủi ro của chứng từ có giá theo đánh giá của NHTW. * Điều kiện chứng từ có giá được chấp nhận: + Ngân hàng xin vay là người thụ hưởng hay nắm giữ hợp pháp. + Giấy tờ có giá là Tín phiếu Kho bạc Nhà nước hoặc Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. + Được giao dịch, được thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước với tư cách là người thứ ba theo quy định. + Trường hợp giấy tờ có giá được phát hành theo hình thức ghi sổ phải có xác nhận và đảm bảo của tổ chức có trách nhiệm thanh toán đối với giấy tờ có giá về việc sẽ thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước khi ngân hàng xin vay có nợ đến hạn nhưng chưa thanh toán. * Lãi suất cho vay: Lãi suất hình thức cho vay cầm cố thế chấp thường được NHTW quy định cao hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng và biến động căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ. * Quy trình, thủ tục cho vay: Yêu cầu của loại cho vay này là các TCTD phải có uy tín với NHTW, có tình hình tài chính lành mạnh, không có nợ quá hạn quá lớn, khả năng rủi ro thấp; các chứng từ được sử dụng làm đảm bảo cho khoản vay phải đạt các tiêu chuẩn: hợp pháp, hợp lệ, được phép giao dịch đảm bảo; người nhận nợ có khả năng tài chính tốt; thời hạn đáo hạn của chứng từ lớn hơn thời hạn xin vay của TCTD. NHTW thực hiện các nghiệp vụ cho vay khi tổ chức vay có nhu cầu vay và có đề nghị vay sau khi gửi NHTW các giấy tờ sau: + Đơn xin vay với các nội dung cơ bản như tên, địa chỉ của tổ chức vay; số tiền vay; mục đích vay; cam kết về đảm bảo tiền vay, sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác. + Các tài liệu liên quan đến điều kiện vay vốn của tổ chức vay. + Bảng kê chứng từ kèm theo các chứng từ đề nghị cầm cố đẻ vay vốn. Trên cơ sở thủ tục nhận nợ, tổ chức vay vốn chủ động trả nợ cho NHTW. 4.3 Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Đây là hình thức tái cấp vốn của NHNN đối với các NHTM, dựa trên cơ sở các hồ sơ tín dụng mà NHTM đã cho vay đối với khách hàng. Theo nghiệp vụ này, NHTM phải xuất trình cho NHNN hồ sơ tín dụng đã được thẩm định và chấp nhận cho khách hàng vay mà chưa tìm được nguồn vốn cần thiết. Căn cứ vào nhu cầu điều hòa khối cung tiền tệ, chỉ số phát hành tiền bổ sung trong năm do Chính phủ quyết định, cũng như nhu cầu vay vốn của NHTM, NHNN thẩm định hồ sơ để chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp chấp nhận, NHNN cấp một khoản tín dụng cho NHTM với nguồn vốn cho vay là vốn dự trữ phát hành, trên cơ sở đảm bảo các tài sản có của NHTM. II,ĐÁNH GIÁ ƯU NHƯỢC ĐIỂM NGHIỆP VỤ TÁI CẤP VỐN CỦA NHTW TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI - Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ giảm phát ngân hàng nhà nước đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức 1,1% tháng đầu năm xuống 0,5% tháng đồng thời quy chế về nghiệp vụ chất khấu, tái chiết khấu đã được ban hành để phát triển một bước hiệu quả công cụ này trong các chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu tại ngân hàng nhà nước là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu ngân hàng nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do ngân hàng nhà nước quy định ở mỗi thời kỳ. Mức lãi suất chiết khấu được công bố là 0,45% tháng. - Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng nhà nước đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng xuống 0,45% tháng vào ngày 31/3/2000 và ngày 31/7/2000 tiếp tục giảm xuống 0,4% tháng. Đồng thời ngân hàng nhà nước cũng giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4% tháng vào tháng 3/2000 và xuống 0,35% tháng vào tháng 7/2000. Tuy vậy cho đến tháng 9/2000 để hạn chế các tổ chức tín dụng bù đắp thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết khấu từ ngân hàng nhà nước và khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trường mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường này, đồng thời tạo tín hiệu cho các tổ chức tín dụng tăng lãi suất huy động, ngày 2/11/2000 ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu lên 0,45% tháng. Giai đoạn 2001 – 2005 thế giới trải qua một thời kì phát triển đầy biến động và mất cân bằng do những thay đổi lớn như giá dầu tăng nhanh đến mức kỷ lục, kinh tế Mỹ thâm hụt kép, đồng USD mất giá gây ra những xáo trộn lớn trên thị trường ngoại hối toàn cầu,… Trước bối cảnh đó, VN cũng chịu ảnh hưởng nhẹ, do đó, Chính phủ chủ trương thực hiện chính sách nới lỏng tài chính công và chính sách tiền tệ để đóng góp vào việc phục hồi kinh tế và kích thích khu vực tư nhân đầu tư phát triển. NHNN đã liên tục cắt giảm lãi suất trong năm 2001 để kích thích tăng trưởng tín dụng. Nhưng sang năm 2002, thị trường trong nước tăng trưởng mạnh hơn và bắt đầu có những dấu hiệu tăng lạm phát, đòi hỏi Chính phủ phải hết sức thận trọng trong điều hành chính sách tiền tệ để đạt cả hai mục tiêu là tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Lãi suất và tỷ giá được điều hành linh hoạt, phù hợp với thị trường, đã góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các công cụ chính sách tiền tệ như thị trường mở, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ đã được điều hành kết hợp tương đối đồng bộ, linh hoạt để đảm bảo sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đặc biệt trong năm 2003, NHNN lần đầu tiên cho phép một số NHTM thực hiện nghiệp vụ Option – quyền lựa chọn tiền tệ, giúp các doanh nghiệp bảo hiểm rủi ro. Năm 2004 – 2005 là những năm cuối cùng của giai đoạn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của VN nhưng chúng ta lại bắt đầu phải đối mặt với lạm phát tăng lên sau thời kì dài khắc phục khủng hoảng. Thêm vào đó, tình hình thiên tai, dịch bệnh lan tràn càng đẩy chỉ số CPI gia tăng mạnh, kéo theo lạm phát trong nước tăng cao. Điều này buộc Chính phủ nước ta phải kịp thời tìm cách khắc phục với công cụ chính yếu để kiểm soát lạm phát là chính sách tiền tệ. Theo đó, NHNN quyết định tăng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM từ 2% lên 5% với tiền gửi nội tệ và từ 4% lên 8% đối với tiền gửi ngoại tệ cho các khoản tiền gửi ngắn hạn; tăng lãi suất, siết chặt tín dụng và duy trì mức tăng tín dụng năm 2004 là 25%; duy trì tương đối ổn định tỷ giá hối đoái. Các công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, tái chiết khấu cũng được NHNN sử dụng thường xuyên, linh hoạt để thực hiện mục tiêu điều hành CSTT của NHNN. Điều này đưa đến kết quả trong năm 2005 rất đáng khích lệ khi tăng trưởng GDP đạt 8,43%, cao nhất so với 9 năm trước đó và so với các nước khu vực Đông Á, VN cao đứng thứ hai sau Trung Quốc. Mức tăng trưởng cao của năm 2005 đã góp phần quyết định việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP trung bình 7,5%/năm được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005 Các chỉ tiêu GDP và CPI giai đoạn 2001 – 2005 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 GDP(%) 6.84 7.04 7.24 7.69 8.43 CPI(%) 0.8 4.0 3.0 9.5 8.4 Nguồn : Thống kê từ NHNN và Tổng cục Thống kê Năm 2006, VN vẫn tiếp tục phải đối phó với lạm phát ngày càng tăng cao. Do đó, Chính phủ tiếp tục duy trì và thực hiện linh hoạt chính sách tiền tệ thắt chặt đã áp dụng từ cuối 2005 nhằm kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong năm 2006, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất chính thức nhằm tránh phát tín hiệu làm tăng lãi suất thị trường, giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường, tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý. Kết quả là tổng phương tiện thanh toán năm 2006 đã được giữ ở mức tăng 33,59% so với năm 2005, nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng 29,65% của năm 2005; tín dụng tăng chậm lại nhưng chất lượng tín dụng được nâng cao; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng tăng 22,2%; tốc độ tăng GDP đạt 8,17%, tốc độ tăng CPI giảm còn 6,6%. Năm 2007, tình hình kinh tế thế giới lại trải qua những xáo trộn mạnh, đặc biệt trên thị trường tài chính do xuất phát từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ và giá dầu tăng lên mức kỷ lục 100 USD/thùng. Trong khi đó, lạm phát ở nền kinh tế VN đang ngày càng gia tăng. Trước tình hình này, NHNN đã thực hiện điều tiết cung tiền thông qua một số công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định nền kinh tế vĩ mô như: tăng cường hoạt động thị trường mở, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp 1,5 – 2 lần, kiểm soát tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ. Nhưng để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại NHNN nhằm ổn định thị trường; bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân kể từ ngày 1/1/2007. Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện, ban hành Chỉ thị 03/2007/CT – NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện kiểm soát tín dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng, tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng năm 2007 vẫn đạt rất cao, dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006. Cũng trong năm, bên cạnh việc đưa 144.000 tỷ VND ra thị trường để mua 9 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối; NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ +/- 0,25% lên +/-0,5% và +/-0,75% nhằm giảm áp lực lạm phát, tăng tính chủ động cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Kết quả là tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,48%, nhưng lạm phát cũng tăng từ 7,45% lên 8,3%. Các chỉ tiêu GDP và CPI giai đoạn 2006 – 2008 Năm 2006 2007 2008 GDP(%) 8.17 8.48 6.18 CPI(%) 6.60 12.63 22.97 Nguồn : Thống kê từ NHNN và Tổng cục Thống kê - Như vậy công cụ cho vay tái chiết khấu đã dần được áp dụng theo đúng bản chất của nó là tín hiệu cho các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát triển của thị trường ở Việt Nam, trở thành công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ quốc gia… Ưu điểm - Thứ nhất thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như: Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn mà nòng cốt là việc xây dựng và điều hành khung lãi suất thời gian qua đã dần hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường theo hướng lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu điều chỉnh thành lãi suất sàn. Cặp lãi suất tái cấp vốn được giữ khá ổn định và được điều chỉnh tương ứng với sự biến động của lãi suất thị trường trong từng thời kỳ. - Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại trong những năm vừa qua. Thông thường, vào các thời điểm cuối năm và gần Tết Nguyên đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn thanh toán của các ngân hàng thương mại do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt này thường mang tính hệ thống, do vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự cố tiếp theo. Do vậy, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu vào tháng 10/2003 và NHTMCP nông thôn Ninh Bình (nay là NHTMCP Dầu khí toàn cầu) là ví dụ điển hình. Trước những tin đồn thất thiệt, khách hàng của ngân hàng đã ồ ạt đến rút tiền trước hạn, bất ngờ trước phản ứng mang tính dây chuyền của khách hàng, ngân hàng rơi vào tình trạng bị động trong cân đối nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên, với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh toán cho 2 ngân hàng dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.  - Thứ ba, so với trước đây, thời gian xử lý đề nghị xin vay cầm cố đã được rút ngắn chỉ còn 2 ngày (trước đây thường 3 đến 4 ngày). Thứ tư, chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ vay vốn với NHNN ngày càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong quan hệ vay vốn với NHNN. Nhược điểm: - Giai đoạn này, chúng ta còn thiếu tiền đề quan trọng để thực hiện nghiệp vụ này, đó là việc sử dụng thương phiếu chưa phát triển phổ biến trong các giao dịch thương mại; công cụ mà ngân hàng nhà nước thực hiện nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước. Theo lý thuyết, lượng tiền phát hành vào lưu thông qua con đường tái chiết khấu sẽ phù hợp hơn nếu có được dựa trên các thương phiếu (vì lượng tiền đó được bảo đảm bằng sự gia tăng khối lượng hàng hóa của nền kinh tế). - Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán của các ngân hàng thương mại thời gian này là quá dễ dãi theo nguyên lý phát hành tiền. Nó có thể đáp ứng nhu cầu trước mắt của các ngân hàng thương mại nhưng nó cũng dễ phát sinh các tiêu cực trong quá trình thực hiện, chưa kích thích sự năng động của các ngân hàng thương mại. Như vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, gây bất ổn đối với giá trị đồng tiền quốc gia. - Trong điều hành chính sách chiết khấu dường như ta chỉ nặng về điều chỉnh lãi suất chiết khấu mà chưa chú ý đến “cửa sổ chiết khấu” của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại (vì quy mô cung ứng cho vay chiết khấu của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng thương mại cũng phải căn cứ vào thực lực của chính các ngân hàng đó). - Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi con mang nặng tính bao cấp (điều này thể hiện rõ ở việc ưu tiên cho ngân hàng thương mại quốc doanh) do vậy vai trò “người cho vay cuối cùng” đối với mọi tổ chức tín dụng của ngân hàng thương mại chưa thực sự thể hiện rõ nét. 2. NĂM KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 Trong những tháng đầu năm 2008, trước bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm và tình hình kinh tế trong nước diễn biến phức tạp, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu” và đề ra 8 nhóm giải pháp để triển khai thực hiện. Một trong số những giải pháp đó là: Đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. Từ ngày 01/02/2008, Ngân hàng Nhà nước đồng loạt tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Ngày 30/01/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo quyết định số 306/QĐ-NHNN điều chỉnh các lãi suất nói trên, sau hai năm duy trì (từ tháng 12/2005). Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/năm tăng lên 7,5%/năm, tăng 1,0%/năm; lãi suất chiết khấu từ 4,5%/năm tăng lên 6,0%/năm, tăng 1,5%/năm. Từ 19/5/2008, NHNN ban hành Quyết định số 1099/QĐ-NHNN, nâng lãi suất cấp vốn từ 7.5%/năm lên 13,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 6%/năm lên 11,0%/năm Để đảm bảo sự đồng bộ trong điều hành cơ chế lãi suất nhằm mục đích điều tiết tiền tệ một cách có hiệu quả, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2008. Theo đó, lãi suất cấp vốn là 13,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu là 11,0%/năm. Cơ chế này tạo hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu (chênh lệch 2%) có tác dụng góp phần điều tiết lãi suất thị trường liên ngân hàng; trong đó, lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở sẽ dao động trong hành lang này. Khi điều kiện thị trường tiền tệ thay đổi, Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét điều chỉnh theo mức độ phù hợp. Ngày 10/6/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 1316/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu được áp dụng từ ngày 11/6/2008. Theo đó, Lãi suất tái cấp vốn tăng thêm 2% lên 15%/năm; Lãi suất tái chiết khấu từ 11% lên 13%/năm. Ngày 3/11/2008, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 2561/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 11%/năm. Ngày 20/11/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng ký quyết định số 2810/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 11%/năm xuống 10%/năm Ngày 3/12/2008, 1 lần nữa Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 2949 /QĐ-NHNN, giảm lãi suất tái cấp vốn từ 12%/năm xuống 11%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 10%/năm xuống 9%/năm. Chiều 19/12/2008, Thống đốc có Quyết định số 3159/QĐ-NHNN điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo quyết định trên, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 11%/năm xuống 9,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 9,0%/năm xuống 7,5%/năm, quyết định này có hiệu lực từ ngày 22/12/2008 Năm 2008 kết thúc lại với 1 năm đầy biến động. NHNN đã XXXien tục thay đổi các loại lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn 1 cách linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ. Nguồn : tổng cục thống kê Ưu điểm Từ việc thắt chặt đến nới lỏng thận trọng , điều hành linh hoạt công cụ chính sách tiền tệ Năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. năm 2008 nhtw đã thực hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn và biến động nhưng ngành vẫn bảo đảm an toàn hệ thống, vốn tăng, công nghệ hiện đại hơn trước. Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%. Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% (từ 01/02/09) như hiện nay. Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của năm 2007), riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với cùng kỳ 2008. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô. Nhược điểm : Theo tôi thì chính sách thắt chặt tiền tệ năm 2008 là một sự thất bại. Với chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm 2008 có người nhìn nhận đó là một sự thành công trong kìm chế lạm phát. Theo tôi đó là chính sách chưa hợp lý do tính dự báo kém của chính phủ. Từ cuối năm 2007 những dấu hiệu của suy giảm kinh tế đã có bộc lộ rõ: giá dầu thô tăng chóng mặt, giá các nguyên liệu đầu vào nhảy vọt.  Sang năm 2008, do sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào (chủ yếu là các nguyên liệu nhập khẩu) chúng ta đã quá vội và đánh đồng tỷ lệ lạm phát với mức tăng chỉ số giá. Hàng tháng, quý các bản tin trên báo đưa ra số liệu về lạm phát và phân tích nguyên nhân, tuy nhiên điều cơ bản đã bỏ qua đó là “ tăng giá chứ không phải lạm phát”.  Theo tư duy cũ chúng ta quy cho lạm phát là do sự mất giá của nội tệ vì thế chúng ta sẽ chi nhiều nội tệ hơn để mua hàng, vấn đề này hoàn toàn không liên quan gì đến thực trạng kinh tế Việt Nam trong năm 2008. Thực tế do áp lực giá cả thế giới tăng thì dĩ nhiên là giá trong nước sẽ tăng, đồng nội tệ vẫn giữ một tỷ lệ mất giá so với USD như những năm trước, do vậy giá cả hàng hoá tại Việt Nam tăng đột biến trong năm 2008 không phải là do lạm phát.  Chúng ta đã hành xử và can thiệp thô bạo vào thị trường, giữa lúc các doanh nghiệp đang cạnh tranh xuất khẩu thì nhà nước lại đẩy lãi suất cơ bản tăng từ 8,5% dần đến đỉnh điểm 14%. Các doanh nghiệp vừa chịu áp lực tăng giá, vừa chịu vay với mức lãi suất cao ngất làm cho đầu ra của họ vô cùng khó khăn. Hiện nay, các doanh nghiệp này còn tồn một khối lượng hàng sản xuất với giá thành cao, chưa tiêu thụ được thì sao bảo họ phải hạ giá- như ý kiến của một quan chức.  Việc tăng lãi suất cơ bản, cộng với tâm lý bầy đàn đã đẩy thị trường hàng hoá trong nước tăng chóng mặt, nhất là các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.  Ngay lúc giá cả tăng cao, người dân tiêu dùng ít lại, các ngân hàng thương mại đẩy lãi suất lên điều này góp phần làm cho tình hình trở nên nghiêm trọng. Tâm lý giữ VND trong tay sẽ không an toàn, họ đua nhau mua ngoại tệ và vàng đề phòng bị, điều này đã đầy tỷ giá lên, giá vàng trong nước thì cao hơn thế giới trên 1triệu đồng/lượng.  Chúng ta đã làm ngược, chính sách thắt chặt tiền tệ là quá vội. Và hậu quả là hiện nay chúng ta bị giảm phát, chính sự can thiệp không thích hợp này làm cho nền kinh tế chúng ta bị mất đi gấp đôi: một là mất thị trường xuất khẩu cạnh tranh, hai là: mất do suy giảm sức mua trong nước vì thu nhập của người dân ít hơn.  Tóm lại công tác dự báo của chúng ta quá kém, giai đoạn tiền suy giảm kinh tế mà chúng ta dự báo là “lạm phát”, chúng ta đã dùng liều thuốc mạnh để kìm chế cơn lạm phát duy ý chí đó để rồi giờ đây kết quả thể hiện rất rõ. Chúng ta đã thiếu bình tĩnh để nhận dạng nó, thiếu kinh nghiệm để xử lý. Do vậy chúng ta tăng lãi suất cơ bản, giảm đầu tư công và đặc biệt là chính sách “hạn chế xuất khẩu gạo” gây thiệt hại cho hàng triệu nông dân. 3.GIAI ĐOẠN 2009 -2010 Tháng 2/2009 vì nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, lạm phát năm 2008 đã được kiểm soát , Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 173/QĐ-NHNN ra ngày 23/01/2009 , bắt đầu có hiệu lực từ 01/02/2009 giảm lãi suất tái cấp vốn từ 9,5%/năm xuống 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm. Mục đích: Duy trì mức lãi suất vừa phải để kích thích tăng trưởng kinh tế. Ngày 10/4/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu thay thế cho Quyết định số 173/QĐ-NHNN. Theo đó, từ ngày 10/04, các mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được áp dụng: lãi suất tái cấp vốn là 7,0 %/năm. Lãi suất tái chiết khấu là 5,0 %/năm. Mục đích việc giảm lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn là tiếp tục tạo điều kiện cho các ngân hàng vay vốn từ Ngân Hàng Nhà nước rẻ hơn, hỗ trợ khả năng giảm thêm lãi suất cho vay cho doanh nghiệp Ngày 1/10/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2232/QĐ-NHNN Ngân hàng Nhà nước cũng giữ nguyên các loại lãi suất như lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 7,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 5,0%/năm năm 2010 là năm mà lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn là ổn định nhất.trong 10 tháng đầu năm nguyên lãi suất tái chiết khấu là 6%/ năm và lãi suất tái cấp vốn là 8%/năm. Tuy nhiên trước tình hình lạm phát có xu hướng gia tăng trong những tháng cuối năm ngày 05/11/2010, NHNN ra quyết định 2620/QĐNHNN quy định lãi suất tái cấp vốn tăng 1% từ 8%/năm lên 9%/năm, và lãi suất tái chiết khấu từ 6%/năm lên 7%/năm Ưu điểm : Chính sách tiền tệ tương đối ổn định Năm 2008, việc thắt chặt tiền tệ đầu năm và nới lỏng dần cuối năm đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách nhiều chưa từng có trong lịch sử. Đó là 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc; 3 lần nới biên độ tỷ giá, 2 lần tăng mạnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Xét về tần suất điều chỉnh đó, năm 2009 chính sách tiền tệ có sự ổn định hơn. Cụ thể, trong năm Ngân hàng Nhà nước chỉ một lần giảm lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống 7%/năm và duy trì đến hết tháng 11 để rồi tăng trở lại 8% từ 1/12 đến nay. Riêng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu có 3 lần điều chỉnh, 2 lần giảm trong tháng 1 và 4, 1 lần tăng đầu tháng 12. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần điều chỉnh giảm từ tháng 3. Biên độ tỷ giá có 2 lần điều chỉnh, lần nới rộng từ +/-3% lên +/-5% từ 24/3 và thu hẹp lại từ +/-5% xuống +/-3% từ ngày 26/11. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng ghi nhận một lần điều chỉnh trực tiếp, tăng mạnh 5% trong ngày 26/11. Năm 2010, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, NHNN đã thực thi nhiều biện pháp điều hành CSTT nhằm đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, kiềm chế lạm phát, chỉ đạo và giám sát các đơn vị trong toàn Ngành thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đề ra. NHNN đã điều hành lượng tiền cung ứng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, cho nền kinh tế, tác động làm giảm mặt bằng lãi suất thị trường. Hướng dẫn các ngân hàng thương mại cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận bằng VND, điều hành linh hoạt các mức lãi suất, kết hợp với các biện pháp để điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường phù hợp; thực hiện các giải pháp hỗ trợ khu vực nông nghiệp, nông thôn và gói kích thích kinh tế. NHNN cũng điều hành tỷ giá và thực hiện các biện pháp quản lý ngoại hối chống suy giảm dự trữ ngoại hối, kiểm soát nhập siêu và ngăn ngừa nguy cơ rủi ro về thanh khoản ngoại tệ và tỷ giá. Lãi suất và tỷ giá được điều hành ở mức phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN. Nhược điểm : - Lãi suất huy động dồn ép Sau năm 2008 biến động và leo thang chưa từng có trong lịch sử, năm 2009, lãi suất huy động và cho vay VND cùng ổn định, theo sự ổn định của lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, căng thẳng của lãi suất huy động bắt đầu bộc lộ từ giữa năm. Từ tháng 7 đến tháng 11, các ngân hàng thương mại liên tục tăng lãi suất huy động VND, tập trung từ các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn ngắn. Mức lãi suất cao nhất lần lượt tạo các “đỉnh” 9%, 10% và đỉnh điểm lên đến 10,5%/năm. Khái niệm “đường cong lãi suất” bị xóa nhòa khi nhiều thành viên áp thống nhất một mức cao cho hầu hết các kỳ hạn. Ngay sau quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% có hiệu lực từ 1/12, các ngân hàng thương mại đồng loạt đẩy lãi suất huy động lên mức cao, một số thành viên có tới 10,5%/năm (chưa tính các hình thức khuyến mại, cộng thưởng gián tiếp). Với diễn biến này, Ngân hàng Nhà nước phát thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên, các thành viên đồng loạt áp tối đa ở mức 10,49%/năm. Diễn biến lãi suất căng thẳng trong nửa cuối năm 2009 một phần phản ánh khó khăn thanh khoản của hệ thống. Điều này dẫn đến một hệ quả ít thấy là tỷ lệ lãi biên của các ngân hàng giảm rất mạnh; nếu trong năm 2008 chênh lệch lãi suất động và cho vay đạt khoảng 3,7%, thì năm 2009 chỉ xoay quanh 1% (đối với cho vay sản xuất kinh doanh). Biến động lãi suất trong những ngày đầu tháng 12-2010 cho thấy hoạt động kinh doanh của các TCTD chưa ổn định, trách nhiệm đối với vấn đề an toàn hệ thống của một số TCTD chưa cao. Năng lực quản trị thanh khoản ở một số ngân hàng thương mại còn hạn chế. Nhận thức và chấp hành chỉ đạo của Chính phủ và của NHNN ở một số NHTM chưa cao, chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm đầy đủ đối với an toàn hệ thống, nhất là trong thực hiện cam kết đồng thuận của Hiệp hội Ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam tuy đã phát triển nhanh, nhưng vẫn chưa tương xứng với cơ sở hạ tầng sẵn có chủ yếu do thói quen thanh toán không dùng tiền mặt của dân cư còn chưa được cải thiện nhiều…. 4.NĂM 2011 Bước sang năm 2011 – năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2011-2020,Thủ tướng chỉ đạo trọng tâm là nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, trong đó hết sức chú ý các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính. Ngày 17/2, NHNN ra quyết định 271/QĐ-NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn từ 9% lên 11%/năm, giữ nguyên lãi suất tái chiết khấu ở mức 7%/năm. Mục đích tăng lãi suất tái cấp vốn này là bước điều chỉnh thận trọng trong vấn đề kiểm soát lạm phát. NHNN mới chỉ tăng lãi suất tái cấp vốn Ngày 8/3, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Như vậy, tại quyết định này, các mức lãi suất chủ chốt như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng được NHNN điều chỉnh tăng thêm 1% so với quy định cũ. Còn lãi suất tái chiết khấu tăng mạnh 5%/năm, từ mức 7%/năm lên 12%/năm. Ngày 29/4/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo Quyết định này, NHNN quy định các mức lãi suất như sau: Lãi suất tái cấp vốn: 14,0%/năm (tăng 1%); Lãi suất tái chiết khấu: 13,0%/năm (tăng 1%). Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2011 Ngày áp dụng Lãi suất tái cấp vốn (%) Lãi suất tái chiết khấu (%) 01/05/2011 14 13 01/04/2011 13 12 08/03/2011 12 12 17/02/2011 11 7 Ưu điểm : Trước sức ép về bất ổn vĩ mô trầm trọng từ đầu năm tới nay và những hệ lụy nghiêm trọng đến xã hội nếu các yếu tố bất ổn này không được giải quyết, có thể nói Nghị quyết 11 thể hiện quyết tâm phản ứng nhanh của chính phủ. Nó cũng lần đầu tiên cho thấy chính phủ gạt mục tiêu tăng trưởng sang một bên và chỉ tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô trong năm nay. Trên bối cảnh từ nhiều năm nay Việt Nam luôn đặt nặng mục tiêu tăng trưởng, việc loại bỏ hoàn toàn mục tiêu này khỏi bức tranh kinh tế năm 2011 trong Nghị quyết 11 có thể nói là một bước ngoặt lớn về chính sách. -Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng  Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:  a) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.  Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ và giám sát chặt chẽ các tỷ lệ an toàn kinh doanh của các TCTD để kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng ở mức thấp, như kinh nghiệm điều hành trong những năm gần đây Nhược điểm : Việc điều hành chính sách tiền tệ năm 2011,trong đó có nghiệp vụ tái cấp vốn đã được NHTW thực hiện tương đối linh hoạt và chủ động trong 4 tháng đầu năm. Tuy nhiên cùng với chính sách tiền tệ thì hiệu quả của những chính sách do NHTW đề ra cho tới nay la không cao,bằng chưng cho thấy 4 tháng đầu năm 2011 mức lạm phát của Việt Nam la 9,64% trong khi mục tiêu đề ra của cả năm 2011 là 7%. Bên cạnh đó chúng ta thấy việc điều hanh chính sách tiền tệ của năm 2011 dường như có sự lặp lai của năm 2008,trong khi năm 2008 CSTT của Việt Nam là không hiệu quả làm cho lạm phát của nước ta vượt trên 20%. Do CSTT có độ trễ nhất định nên việc điều hành rất khó khăn,NHTW luôn chạy theo phía sau mà chưa có phương pháp dự báo các tình huống xảy ra va chủ động điều hành cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội. III NHỮNG KIẾN NGHỊ GIÚP TĂNG HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ TÁI CẤP VỐN CHO NHTW * Một là, điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ: Trong những năm trước mắt, với điều kiện thị trường tiền tệ ở Việt Nam như hiện nay thì lãi suất tái cấp vốn được lựa chọn là lãi suất trần và chiết khấu là lãi suất sàn trên thị trường. Cùng với khung lãi suất này, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được NHNN sử dụng để định hướng lãi suất thị trường. NHNN sẽ quy định và công bố lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu theo mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Những điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu của NHNN cần phải linh hoạt hơn trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường. * Hai là, mở rộng danh mục các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch tái cấp vốn. Có thể tiến tới chấp nhận trái phiếu công ty của một ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn hoặc giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng phát hành có chất lượng cao, do một tổ chức có uy tín xếp hạng, được chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các ngân hàng thương mại. * Ba là, hoàn thiện quy trình thủ tục tái cấp vốn: + Thống nhất đầu mối phê duyệt đề nghị NHNN tái cấp vốn đối với các ngân hàng tại NHNN về một Vụ chức năng vì hiện nay, Vụ Tín dụng đang xem xét, phê duyệt đề nghị hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, trái phiếu đặc biệt và phân bổ hạn mức chiết khấu và Sở Giao dịch NHNN là đơn vị xem xét đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu của các ngân hàng. Việc xử lý các đề nghị chiết khấu nên tập trung về Vụ Tín dụng để đảm bảo tính thống nhất, tránh phân tán. + Khi điều kiện cơ sở hạ tầng cho phép, NHNN nên tính tới việc thực hiện tái cấp vốn qua mạng thông tin nhằm giảm bớt thời gian luân chuyển chứng từ xét duyệt. * Bốn là, tăng cường áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro đối với giấy tờ có giá sử dụng trong công cụ tái cấp vốn.  Các giải pháp cụ thể đối với từng hình thức TCV Đối với cho vay theo hợp đồng tín dụng Hoàn thiện quy trình, thủ tục cho vay (hoàn thiện thủ tục thẩm định các hợp đồng tín dụng, giảm thiểu rủi rokhi cho vay) Đối với chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG: Đa dạng hóa danh mục các loạigiấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch tái cấp vốn như: thương phiếu, GTCG dài hạn. Kéo dài thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG. Đối với cho vay cầm cố GTCG Phát huy những thế mạnh sẵn có của hình thức này Đưa lãi suất bắt nhịp với cung cầu vốn trên thị trường. Kết luận Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mai và các tổ chức tín dụng bao gồm các hoạt động: chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá. Nghiệp cụ thị trường mở có vai trò quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Tuy nhiên do những nguyên nhân cả về mặt chủ quan lẫn khách quan, nghiệp vụ này chưa phát huy được hết hiệu quả của nó. Trên đây là lý luận về nghiệp vụ tái cấp vốn,phân tích thực trạng ở Việt Nam, qua đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này sao cho phù hợp với tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Cùng với nghiệp vụ thị trường mở,việc nâng cao hiệu quả nghiệp vụ tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia là rất quan trọng,việc nâng cao hiểu biết về kỹ thuật và tầm quan trọng của nó ở Việt Nam là rất cần thiết trong thời điểm này. Do còn nhiều hạn chế trong nhận thức và tìm hiểu thực tiễn, đề tài sẽ không ránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, quan tâm của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo: 1. Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng trung ương – Học viện tài chính. 2. Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng trung ương – Học viện ngân hàng 3. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng – Lê Vinh Danh – NXB chính trị quốc gia 4. Phân tích thị trường tài chính – David Blacke – NXB Tp Hồ Chí Minh. 5. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – David Cox. 6. Tiền tệ ngân hàng và hoạt động tài chính – Frederic S. Mishkin. 7. Tạp chí ngân hàng số 9/2001, 6/2001, 10/2002, 3/2003. 8. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 2, số 3, số 4 năm 2001. 9. Thời báo ngân hang 10. Tạp chí tài chính tiền tệ. Và các trang web như …..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTIEN TE IN.docx
  • docthuc trang nghiep vu tai cap von o Viet Nam.doc
Luận văn liên quan