Đề tài Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam

Chủ đề: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM Lời mở đầu Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là xu hướng tất yếu của các nước trên thế giới. Đó không chỉ là đặc quyền của các nước có nền kinh tế phát triển mà ngay cả đối với các nước có nền kinh tế đang và kém phát triển thì dòng đầu tư ra cũng đã phát triển một cách mạnh mẽ. Sự tham gia của các nước đang phát triển làm phong phú, đa dang thêm môi trường hoạt động đầu tư quốc tế. Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung đó, trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển, không chỉ đầu tư sang các nước đang và kém phát triển như Lào, Campuchia, Malaysia, Mozambique mà còn đầu tư sang các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Pháp Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp doanh nghiệp khai thác được những lợi thế cạnh tranh cũng như có thể vượt qua các rào cản thương mại của nước nhận đầu tư để có thể mở rộng thị trường sản xuất, tạo điều kiện thu được nhiều hiệu quả hơn từ hoạt động sản xuất kinh doạnh Trong phạm vi đề tài môn học này, em xin tìm hiểu tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua, cũng như chỉ ra những giải pháp để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mang lại tối đa lợi ích cho doanh nghiệp cũng như cho Việt Nam. Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI (ĐTTTRNN) 1. Khái niệm đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN) Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế. Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) : “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của chủ đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam là việc các doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn ra nước ngoài để trực tiếp đầu tư quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh với mong muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hoặc dịch vụ và thu được lợi nhuận cao hơn so với trong nước. 2. Sự cần thiết của hoạt động ĐTTTRNN 2.1 Tính tất yếu của ĐTTTRNN của các nước đang phát trển - Như chúng ta đã biết đầu tư ra nước ngoài cần có rất nhiều điều kiện, từ phía bản thân doanh nghiệp như vấn đề tài chính có đủ mạnh để đầu tư ra không, công nghệ, thiết bị, trình độ chuyên môn, quản lý, tay nghề của người lao động có đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh tại một thị trường mới không, cũng như giá thành, chất lượng sản phẩm có đáp ứng được thị hiếu của khách hàng hay không, có đủ sức cạnh tranh với những sản phẩm tuơng tự và những sản hẩm có tính chất thay thế hay không Rồi cơ chế chính sách của Nhà nước có khuyến khích, hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài hay không nước nhận đầu tư có tạo điều kiện cho hoật động đầu tư của doanh nghiệp hay không? Các quốc gia đang phát triển xuất phát điểm thấp, tuy nhiên trong những năm gần đây tình hình đã có nhiều sự chuyển biến đáng kể, kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, những điều kiện cho việc triển khai hoạt động đầu tư trực tiếp tại nước ngoài đã có, và do đó đầu tư ra nước ngoài là xu hướng tất yếu mà các nước đang phát triển đang hướng tới. - Sự phát triển của các quốc gia không đồng đều. Mỗi quốc gia có lợi thế riêng, điểm mạnh riêng mang tính đặc trưng kể cả các quốc gia phát triển hay các quốc gia đang phát triển khác. Mặc dầu không có được những lợi thế về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật như các nước phát triển, tuy nhiên các nước đang phát triển vẫn có những lợi thế riêng, điểm mạnh riêng, mang tính đặc trưng cần được khai thác. Bên cạnh đó, gần đây các quốc gia đang phát triển đã có những điều kiện cần thiết để học hỏi các quốc gia phát triển trong lĩnh vực đầu tư, từ đó thực hiện đầu tư sang các nước kém phát triển hơn, đồng thời cũng có đủ điều kiện để khai thác thế mạnh của mình ở các quốc gia khác, thậm chí là cả ở quốc phát triển hàng đầu thế giới. Trên nền tảng những thế mạnh sẵn có của mình, có thể nói thế mạnh cơ bản mà các quốc gia phát triển có là vốn đầu tư lớn, cũng như trình độ KHCN hiện đại, phát triển ở mức cao, còn điểm mạnh mà các quốc gia đang phát triển có thể phát huy ở các quốc gia phát triển là môi trường kinh doanh của các nước này rộng lớn, khiến cho nhiều lĩnh vực đầu tư còn bị bỏ ngỏ, hoặc chi phí để thực hiện một số lĩnh vực đầu tư đối với họ còn tương đối cao so với các quốc gia đang phát triển khi các quốc gia này trực tiếp thực hiện chúng. 2.2 Lợi ích từ ĐTTTRNN của các nước đang phát triển - Giúp các DN san sẻ rủi ro trong đầu tư và kinh doanh. Khi thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội mới để sản xuất kinh doanh, đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó nhà đầu tư có thể san sẻ rủi ro cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. - Giúp các DN vượt qua hàng rào bảo hộ thương mại của các nước nhận đầu tư do đó tiếp cận với thị trường 1 cách ngắn nhất và mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, hoặc dịch vụ. Như chúng ta đã biết, các chính sách xuất - nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Thông thường để bảo vệ thị trường sản xuất trong nước, nhà nước sẽ hạn chế nhập khẩu để hang trong nước giảm phải cạnh tranh với hàng nước ngoài. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập hiện nay thì hàng rào bảo hộ thương mại sẽ dần dần được dỡ bỏ, sẽ có sự bình đẳng cạnh tranh giữa hàng ngoại nhập và hàng trong nước. Nhưng các nước ngày càng sử dụng nhiều biện pháp tinh vi hơn để đối phó với sự xâm nhập của hàng ngoại nhập bằng các biện pháp như: đặt ra tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng ngoại nhập như kích thước sản phẩm , khối lượng sản phẩm phải đạt bao nhiêu, sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường hay không, ngoài ra còn đặt ra các điều luật quy định có lợi cho hàng hoá trong nước như thuế chống bán phá giá . Do đó con đường xuất khẩu hàng hoá của các nước khác sẽ ngày càng khó khăn. Trong điều kiện đó thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là gải pháp tối ưu được các nhà đầu tư lựa chọn, không chỉ vượt qua được hàng rào bảo hộ của nước đó, tiếp cận thị trường một cách trực tiếp, mà còn được hưởng những điều kiện ưu đãi trong sản xuất kinh doanh của nước nhận đầu tư giành cho các nhà đầu tư. Nên sẽ có nhiều cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, làm tăng thị phần, và tăng doanh thu, do đó có được lợi nhuận cao hơn. 3. Các hình thức ĐTTTRNN của các DN ở các nước đang phát triển

doc28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5987 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển và cả trong thị trường các nước phát triển. Hình thức đầu tư cũng rất phong phú có thể bao gồm cả hình thức đầu tư xây dựng mới, đầu tư mở rộng, nâng cấp các doanh nghiệp có sẵn ở nước ngoài. Có thể dưới hình thức mua lại các doanh nghiệp, có thể dưới hình thức sát nhập các TNCs khác hay các doanh nghiệp lớn ở nước ngoài, hoặc đầu tư dưới hình thức cho thuê tài chính các tài sản, thiết bị công nghệ, hoặc mở chi nhánh hay mở văn phòng đại diện ở nước ngoài… Do mạng lưới rất rộng lớn, mục tiêu đầu tư của các TNCs này có thể chú trọng vào khai thác thế mạnh của các quốc gia nhận đầu tư về nguồn nguyên vật liệu, về lao động rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn, hay vị trí địa lý và ảnh hưởng của các quốc gia đó với nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. 4.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ này với đặc tính là có vốn đầu tư nhỏ, khả năng thích ứng cao với biến động của môi trường, có thể tiến hành thử nghiệm và áp dụng một cách nhanh chóng các tiến bộ của KHCN mới, và đặc biệt là có thể sản xuất những mặt hàng độc đáo, những sản phẩm truyền thống, đáp ứng những đơn đặt hàng mang tính chất nhóm nhỏ nên loại hình doanh nghiệp này cũng có những thế mạnh đầu tư ra nước ngoài, thậm chí vào thị trường các nước đã phát triển. Loại hình doanh nghiệp này mang nhiều những ưu điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đó là tìm được mặt hàng độc đáo, những lĩnh vực mà nhà đầu tư các nước và các TNCs không chú ý tới bởi số lượng tiêu thụ không lớn, khó sản xuất hàng loạt, hay những lĩnh vực đòi hỏi những bí quyết kinh doanh và công nghệ đặc biệt. Trong điều kiện xu thế tiêu dùng và đặt hàng đơn lẻ sản phẩm và ý thức tiêu dùng gắn với môi trường và bảo vệ môi trường ở các nước công nghiệp phát triển ngày càng tăng cao thì vị thế và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đầu tư ra nước ngoài cũng được mở rộng, không chỉ ở các nước đang phát triển và chậm phát triển mà còn thực hiện ở các nước đã phát triển. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ là những doanh nghiệp sản xuất các bán thành phẩm, linh kiện, phụ kiện cung cấp cho các TNCs mà còn là những đơn vị kinh doanh những mặt hàng độc lập, độc đáo, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của thị trường tiêu dùng thế giới và có khả năng mang lại lợi nhuận trong đầu tư lớn hơn nhiều so với hiệu quả đầu tư của các TNCs lớn. 5. Những điều kiện cần thiết để các DN tiến hành hoạt động ĐTTTRNN 5.1. Về phía doanh nghiệp Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư đều mong muốn thu được một kết quả kinh doanh tốt nhất, cũng như vậy khi tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì nhà đầu tư cần phải xét xem hoạt động đầu tư của mình có thể mang lại hiệu quả hay không, có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện môi trường kinh doanh mới hay không, có thể khai thác được những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp một cách có lợi nhất nhằm thu được lợi nhuận cao nhất hay không. Như vậy, nhà đầu tư sẽ xem xét xem doanh nghiệp có đáp ứng đủ những yêu cầu cần thiết sau hay không: - Trước hết các doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh: Như chúng ta đã biết, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thực chất là 1 quá trình di chuyển vốn từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các nguồn lực tài chính và nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, xây dựng thêm nhà máy mới, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.. Vốn là một yếu tố không thể thiếu đối với bất kì một hoạt động đầu tư nào. Do đó muốn cạnh tranh trên thị trường thì các doanh nghiệp phải đủ mạnh, nghĩa là phải có một nguồn vốn dồi dào, có đủ năng lực thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi nhuận. - Các doanh nghiệp cần có KHCN có thể cạnh tranh trên thị trường nước nhận đầu tư hoặc có bí quyết riêng trong sản xuất sản phẩm. Cạnh tranh là 1 tất yếu trên thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện chủ yếu ở hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh ở hiện tại cũng như trong tương lai, các sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra có khả năng cạnh tranh cao, được người tiêu dùng chấp nhận và bảo đảm được thị trường tiêu thụ, doanh nghiệp được tổ chức hợp lý, năng động, áp dụng công nghệ tiên tiến, có đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu. Để có thể thắng được đối thủ cạnh trạnh thì việc áp dụng nhiều phương pháp quản lý mới nhằm rút gọn bộ máy, tái cấu trúc quá trình kinh doanh, giảm chi phí,.. nâng cao hiệu quả hoạt động là cần thiết để xoá bỏ những bất lợi. Tuy nhiên những cải thiện đó chỉ giúp cho các doanh nghiệp tồn tại trong cạnh tranh mà chưa đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn có thể đánh bại được đối thủ trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh cho mình và luôn thay đổi để tạo ra thị trường chứ không chỉ tìm cách nâng cao thị phần, vượt qua những bất lợi. Bấtkỳ một doanh nghiệp nào cũng đều có khả năng cạnh tranh, chỉ khác nhau là ở mức độ mạnh hay yếu. Theo quy luật tất yếu của thị trường thì doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh mạnh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng không những ở thị trường trong nước mà cả ở ngoài nước. Năng lực cạnh tranh mạnh mẽ bảo đảm cho doanh nghiệp có thể tồn tại và chiến thắng ở nơi mà doanh nghiệp tiến hành đầu tư sản xuất. Như vậy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chính là điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp tiến hành đầu tư ở bất cứ đâu. Đối với các doanh nghiệp đến từ các nước đang phát triển, với xuất phát điểm thấp, thiếu vốn, thiếu trình độ tổ chức quản lý, công nghệ chưa cao,… thì cần có một chiến lược cạnh tranh hợp lý, tạo ra nội lực từ trong chính doanh nghiệp, như vậy mới có thể tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trình độ KHCN không cao nên khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài một cách trực tiếp thì việc sản xuất các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm sử dụng bí quyết riêng trong sản xuất là một giải pháp phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Như vậy do đặc điểm riêng có đó mà sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh cao và dễ được chấp nhận trên thị trường bởi vì đó là những sản phẩm mang đậm nét truyền thống của dân tộc, lạ và độc đáo. - Doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực đủ năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh. Trong bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư cũng đều mong muốn có một kết quả kinh doanh tốt nhất. Và để có thể hoạt động đầu tư có hiệu quả thì nhân tố con người luôn đựoc đánh giá rất quan trọng. Điều đó được thể hiện ở các yếu tố như trình độ chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý, …Trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay thì hoạt động đầu tư nước ngoài cũng từng bước đi vào chiều sâu trong cơ chế thị trường luôn nhiều biến động. Vì vậy cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình độ năng lực sâu sát để phân tích tình hình, lựa chọn đối tác đầu tư đúng như mục tiêu đề ra. Đặc bịêt điều quan trọng nhất trong đội ngũ lao động của doanh nghiệp là những nhà quản lý và điều hành phải có trình độ hiểu biết, trước hết là ở lĩnh vực mà mình đang kinh doanh, biết khai thác triệt để mọi nguồn lực trong doanh nghiệp và tận dụng mọi cơ hội đầu tư…Bên cạnh đó đội ngũ công nhân viên làm việc cho doanh nghiệp cũng phải có trình độ kỹ thuật cao, tác phong làm việc công nghiệp… các thành viên trong doanh nghiệp phải biết đoàn kết đưa doanh nghiệp trở thành một lực lượng vững mạnh trên thị trường. Mặt khác do sự khác biệt về ngôn ngữ, khác biệt về văn hoá, tập quán, luật pháp mà các doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài phải nhận thức được sâu sắc về nhiều mặt, tính độc lập cao. Và kỹ năng xử lý các tình huống, nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực. Trước khi đầu tư ra nước ngoài các doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ trình độ của công nhân viên rồi mới tiến hành hoạt động đưa họ ra nước ngoài, làm sao để họ có thể thích ứng được với môi trường làm việc mới. Có như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh mới có thể thành công, đem lại hiệu quả. 5.2. Về phía nhà nước - Tăng cường hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhà nước bằng các biện pháp như ban hành các quy chế khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ra nước ngoài. - Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới về mọi mặt để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài một cách thuận lợi hơn bằng việc ký kết các hiệp ước, các thoả thuận , cam kết về hợp tác kinh tế giữa các nước. Như Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ .. Chương II. THỰC TRẠNG ĐTTTRNN CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 1. Những cơ hội và thách thức đối với DN VN trong hoạt động ĐTTTRNN 1.1. Sự kiện: - Việc gia nhập WTO Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành chính thức thứ 150 của tổ chức WTO qua 11 năm và hơn 200 cuộc đàm phán. Dù lâu nhất, nhiều nhất trong các đàm phán giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế, nhưng chúng ta vẫn kiên trì cho mục đích gia nhập tổ chức thương mại này. Bởi đây thực sự là sân chơi lớn mang tính toàn cầu. Sau khi gia nhập, Việt Nam sẽ tăng vị thế của mình trên trường quốc tế; có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu; đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp xu thế chung, thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước... Việt Nam đang phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ được bình đẳng tham gia thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và hàng hóa, dịch vụ sẽ không bị phân biệt đối xử, sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được hưởng những ưu đãi dành cho thành viên WTO. Như vậy cơ hội đầu tư ra nước ngoài sẽ được mở rộng cửa đối với các doanh nghiệp Việt Nam. - Kí kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, đã bình thường hóa quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Hiệp định đã mở ra thị trường Hoa Kỳ khổng lồ cho các nhà xuất khẩu Việt Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Các cam kết toàn diện trong hiệp định sẽ không những thức đẩy thươg mại 2 chiều giữa 2 nước mà còn tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ và các nước khác. 1.2. Những cơ hội: Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lựa chọn địa chỉ đầu tư thích hợp, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong bối cảnh xu hướng tự do hoá đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay các quốc gia trên thế giới hầu hết đều thực thi những biện pháp khuyến khích nhằm kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài. Điều kiện đó đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng việc đầu tư vào những nơi có khả năng mang lại tỷ suất lợi nhuận cao. Điểm đến của đầu tư không bị bó hẹp trong khuôn khổ địa lý một quốc gia mà được mở rộng ra các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới . Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ. Hoạt động thương mại là một trong những bước cơ bản đầu tiên trong lộ trình xâm nhập thị trường nước ngoài, nhưng để thực sự tồn tại lâu dài tại thị trường các nước trên thế giới, doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập các chi nhánh ở nước ngoài thông qua các hình thức như doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn. Đây chính là kinh nghiệm thành công và lớn mạnh của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các sản phẩm của Việt Nam bước đầu nhận được sự đánh giá khá cao của người tiêu dùng nước ngoài. Nhưng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, cùng với việc các quốc gia đặc biệt là các nước phát triển thường sủ dụng những biện pháp thương mại rất tinh vi để hạn chế khả nâng xâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước họ, thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trở thành hoạt động kinh tế hữu ích giúp cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo thế vững chắc và bổ sung cho sự phát triển của các chi nhánh và công ty mẹ ở trong nước. - Doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện khai thác các nguồn lực sản xuất của nước ngoài để từ đó phát huy được lợi thế so sánh của nước mình. Thực tế cho thấy rằng, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực sản xuất nhất định và tổng nguồn lực là hữu hạn. Đây chính là một nguyên nhân cơ bản khiến cho doanh nghiệp của quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư ở quốc gia khác nhằm khai thác nguồn lực của nước đó để phát triển. Đồng thời cùng với quá trình khai thác là việc phát huy thế mạnh của mỗi doanh nghiệp. Những lợi thế sẽ không đem lại lơị nhuận một khi chúng không được triển khai trong thực tiễn. - Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các thị trường quốc tế về vốn, máy móc thiết bị, KHCN, từ đó có điều kiện tiếp thu công nghệ mới, hiện đại hơn, có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao hiểu biết về luật pháp và ý thức chấp hành luật pháp, nâng cao khả năng cạnh tranh công bằng trên trường quốc tế và cả ở trong nước. 1.3. Những thách thức. Trở thành thành viên của tổ chức WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có rất nhiều cơ hội mới để phát triển sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh đó cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Muốn có thị trường toàn cầu thì Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường nội địa cho các nước. Đây là thách thức trước tiên, bởi cả nước đang có số lượng rất đông, hơn 230.000 doanh nghiệp, nhưng phần lớn là vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh kém. Khi mở cửa hội nhập, vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực con người sẽ diễn ra khốc liệt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam khá năng động và chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi. Vượt qua được thách thức của sự cạnh tranh, Việt Nam sẽ tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Những doanh nghiệp nào trước đây dựa dẫm vào sự hỗ trợ, ưu đãi của chính sách thì nay buộc phải vươn lên, tự đứng bằng hai chân của mình... Các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam sẽ dùng lương, dùng các chính sách ưu đãi để thu hút lao động, nhất là lao động có năng lực về làm việc cho mình. Thách thức này đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải có chiến lược đào tạo, có cơ chế phù hợp nhằm “chiêu hiền đãi sĩ”, để giữ lao động. Đồng thời, phải có những đổi mới trong cách quản lý. Xu thế hiện nay, Nhà nước tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách và kiểm tra việc thực hiện luật, chính sách đó; chuyển quyền quản lý trực tiếp cho các hiệp hội ngành hàng, tạo điều kiện bảo vệ được ngành hàng và hợp tác liên kết cùng phát triển. Thực tế đã cho thấy, khi chúng ta chuyển quản lý trực tiếp việc xuất khẩu gạo cho hiệp hội thực hiện đã tạo điều kiện để mọi thành phần đều có thể xuất khẩu gạo, thông qua sự quản lý của hiệp hội. Xu thế này tạo nên sự hợp tác, liên kết rất quan trọng - liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và cùng phát triển.  Nếu biết và quyết tâm vượt qua tất cả những thách thức thì chúng ta sẽ phát triển. Nhiều người cho rằng, thách thức cũng là cơ hội mới, cuộc sống không có thử thách thì không còn là cuộc sống. Gia nhập WTO đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Có tận dụng được cơ hội, có vượt qua đựơc thách thức, biến thách thức thành cơ hội hay không hoàn toàn do sự đổi mới trong nhận thức cũng như hành động của các cấp, các ngành, do sự năng động của từng doanh nghiệp. Nhà nước mở cửa, có chính sách thu hút đầu tư, nhưng các địa phương và các doanh nghiệp không tha thiết thu hút đầu tư, thì chúng ta cũng không thể đạt mục tiêu đề ra. Bản thân việc gia nhập WTO không làm Việt Nam giàu lên hay nghèo đi mà chỉ là tạo cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội thì sẽ phát triển, vượt qua đựơc thách thức thì sẽ tạo thêm cơ hội mới. Bởi vậy, đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành, các địa phương, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam, tạo sức mạnh nội lực lớn hơn để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. , Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam còn gặp phải nhiều thách thức lớn khi thực hiên hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tiềm lực tài chính của đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu Tiềm lực tài chính yếu là nguyên nhân chính làm lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, nên sức cạnh tranh của các dự án này thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp bản địa, cũng như doanh nghiệp đến từ các quốc gia khác. Tiềm lực tài chính yếu làm cho các doanh nghiệp chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh dài hạn. Đa phần các dự án triển khai ở nước ngoài hiện nay còn mang tính chất thăm dò, thời gian thực hiện dự án ngắn. Nhiều dự án đã được bên nước ngoài cấp giấy phép nhưng không được triển khai do phía Việt Nam chưa tìm được nguồn vốn thực hiện. Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài . Việt Nam bắt đầu chính thức cho phép các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài kể từ năm 1999, nhưng hoạt động này mới được quan tâm đến trong vòng 4, 5 năm trở lại đây và trên thực tế có rất ít các biện pháp của nhà nước khuyến khích cho hoạt động này. Trong khi đó một số nước trong khu vực như Singapore, Thailand, Malaysia lại khuyến khích các doanh nghiệp nước mình đầu tư ra nước ngoài từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Vì vậy doanh nghiệp các quốc gia đó đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm kinh doanh quốc tế và hiện đang là chủ đầu tư lớn của khu vực. Việc thiếu kinh nghiệm trong triển khai dự án ở nước ngoài khiến cho các nhà đầu tư Việt Nam lúng túng và gặp nhiều khó khăn. - Năng lực cạnh tranh tổng hợp cả các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp khiến khả năng đầu tư ra nước ngoài chưa cao. Ngoài tiềm lực tài chính yếu, doanh nghiệp Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế như mức độ áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất chưa cao, hệ thống đại lý phân phối sản phẩm mỏng, chưa tạo dựng được thương hiệu có danh tiếng… nhũng tồn tại này.khiến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam xét về tổng thể được các tổ chức quốc tế đánh giá không cao. Năng lực cạnh tranh yếu kém của doanh nghiệp là nguyên nhân chính khiến năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế Việt Nam thấp. Theo công bố của diễn đàn kinh tế thế giới, năng lực cạnh tranhh của cả nền kinh tế Việt Nam đứng ở thứ hạng thấp và thiếu ổn định, năm 2000 là thứ 53/59, năm 2001 là 62/75, năm 2002 là 65/80. Năng lực cạnh tranh thấp khiến cho hiệu quả kinh doanh cuả doanh nghiệp Việt Nam cả trong và ngoài nước chưa cao. 2. Cơ chế chính sách khuyến khích ĐTTTRNN của Việt Nam Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, thì các quốc gia đều phải quan tâm đến hoạt động đầu tư. Tuy nhiên với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì vấn đề quan tâm là làm sao có thể thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất và ít quan tâm hỗ trợ đến vốn đầu tư ra. Trong khi đó thực tiễn chứng tỏ rằng hoạt động đầu tư ra nước ngoài càng tăng thì thị trường sản xuất kinh doanh càng được mở rộng, cơ hội kinh doanh càng tăng và làm động lực cho nền kinh tế trong nước phát triển. Do đó ở Việt Nam, tư duy về hoạt động đầu tư ra nước ngoài ngày càng thay đổi theo hướng ngày càng hợp lý hơn, đánh giá đúng mức hơn tầm quan trọng của hoạt động đầu tư ra nước ngoài, điều đó được thể hiện qua đường lối chính sách và các biện pháp hỗ trợ từ phía nhà nước. Trước hết là ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Bao gồm các chính sách như: chính sách tài chính- tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối… các chính sách này liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Nếu các nhà đầu tư nhận thấy rằng đầu tư trong nước mang lại nhiều hiệu quả hơn so với đầu tư ra nước ngoài thì các nhà đầu tư sẽ không thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nữa, mà thay vào đó sẽ tập trung đầu tư trong nước, khả năng xuất khẩu, khả năng nhập khẩu cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Sự thay đổi các chính sách tài chính - tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng hoặc ngược lại sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp. Khi chuyển chính sách thắt chặt tiền tệ - nới lỏng tài chính sang chính sách nới lỏng tiền tệ - thắt chặt tài chính sẽ làm cho mức lãi suất thực tế giảm, do đó làm cho đầu tư trong nước trở nên khó khăn hơn và do đó sẽ khuyến khích đầu tư ra nước ngoài. Mặt khác sự thay đổi chính sách tài chính - tiền tệ có ảnh hưởng đến lạm phát, qua đó tác động làm giảm đầu tư ra nước ngoài. Khi lạm phát cao, đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ, như vậy cùng 1 đồng tiền ở trong nước sẽ mua được ít dịch vụ hơn ở nước ngoài và do đó đầu tư ra nước ngoài sẽ hạn chế và ngược lại. 3. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua 3.1. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1989 – 2007 ®Çu tƯ ra nƯíc ngoµi theo n¨m (tÝnh tíi ngµy 31/12/2007 - chØ tÝnh c¸c dù ¸n cßn hiÖu lùc) (USD) STT N¨m Sè dù ¸n TV§T §T thùc hiÖn 1 1989 1 563.380 - 2 1990 1 - - 3 1991 3 4.000.000 2.000.000 4 1992 3 5.282.051 1.300.000 5 1993 5 690.831 - 6 1994 3 1.306.811 - 7 1998 2 1.850.000 1.500.000 8 1999 10 12.337.793 138.752 9 2000 15 7.165.370 1.231.142 10 2001 13 7.696.452 2.622.000 11 2002 15 191.459.576 37.618.572 12 2003 24 62.390.970 8.743.252 13 2004 17 12.463.114 4.761.752 14 2005 37 437.905.179 4.853.946 15 2006 36 349.106.156 - 16 2007 80 911.819.885 110.000 Tæng sè 265 2.006.037.568 64.879.416 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Tính đến hết năm 2007, qua 16 năm thực hiện ĐTRNN, Việt Nam có 265 dự án ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 2,006 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 800 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn ĐTRNN. Quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án. Qua từng giai đoạn, quy mô vốn đầu tư đã tăng dần, điều này cho thấy tác động tích cực của khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam; cũng như sự trưởng thành về mọi mặt của doanh nghiệp nhà nước tham gia vào hoạt động ĐTRNN. Trong giai đoạn 1989-1998, trước khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP nói trên, có 18 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký trên 13,6 triệu USD; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 0,76 triệu USD/dự án. Trong thời kỳ 1999-2005 sau khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, có 131 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký đạt 731,4 triệu USD, gấp 7 lần về số dự án và gấp 53 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với thời kỳ 1989-1998; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 5,58 triệu USD/dự án, cao hơn giai đoạn 1989-1998. Từ năm 2006 tới hết năm 2007 (thi hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP) có 116 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký đạt trên 1,26 tỷ USD; tuy chỉ bằng 88% về số dự án, nhưng tăng 72,4% về tổng vốn đầu tư đăng ký so với giai đoạn 1999-2005; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 10,8 triệu USD/dự án, cao hơn thời kỳ 1999-2005. 3.2. Đầu tư ra nước ngoài phân theo ngành kinh tế (*) TỔNG HỢP ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI THEO NGÀNH Các dự án còn hiệu lực lũy kế đến 28/2/2010 TT Ngành Số dự án Vốn đầu tư của dự án ở nước ngoài (USD) Vốn đầu tư của nhà đầu tư VN (USD) Vốn điều lệ của nhà đầu tư VN (USD) 1 Khai khoáng 88 16.912.881.482 4.309.845.565 3.725.845.565 2 Nông, lâm nghiệp, thủy sản 7 2.112.875.678 1.870.369.133 1.677.722.938 3 Nghệ thuật và giải trí 59 1.266.458.757 1.183.169.314 1.183.169.314 4 SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa 3 1.034.550.000 1.034.550.000 1.034.550.000 5 Thông tin và truyền thông 28 741.322.116 507.456.061 507.456.061 6 CN chế biến, chế tạo 110 558.973.400 437.950.246 437.950.246 7 Tài chính,n.hàng,bảo hiểm 17 225.128.000 216.451.000 216.451.000 8 KD bất động sản 28 394.974.634 159.042.634 159.042.634 9 Bán buôn, bán lẻ; sửa chữa 98 205.201.842 150.786.875 150.286.875 10 HĐ chuyên môn, KHCN 59 42.748.556 36.611.656 36.611.656 11 Y tế và trợ giúp XH 3 31.579.615 31.579.615 31.579.615 12 Dvụ lưu trú và ăn uống 19 81.045.206 31.466.873 31.466.873 13 Xây dựng 23 49.243.422 29.694.567 29.694.567 14 Vận tải kho bãi 12 19.185.771 17.148.211 17.148.211 15 Hành chính và dvụ hỗ trợ 9 37.890.000 9.680.000 9.680.000 16 Cấp nước; xử lý chất thải 2 8.900.000 7.920.000 7.920.000 17 Dịch vụ khác 7 4.447.500 3.052.500 3.052.500 18 Giáo dục và đào tạo 3 8.315.700 2.085.000 2.085.000 Tổng số 575 23.735.721.679 10.038.859.250 9.261.713.055 (Theo Cục đầu tư nước ngoài) Như vậy, lĩnh vực các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhiều nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo với 110 dự án, tiếp đến là các hoạt động liên quan đến bán buôn, bán lẻ, sửa chữa với 98 dự án, khai khoáng với 88 dự án. Ngành công nghiệp khai thác mỏ với 88 dự án cũng đã chiếm tới 4.309.845.565 USD số vốn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam, chiếm tỷ trọng khá lớn 42,93% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Ngành phân phối điện, khí đốt và nước, với 3 dự án đã chiếm tới 1.034.550.000 USD số vốn đầu tư đăng kí, chiếm 1 tỷ trọng khá lớn 10,31% trong tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Còn vốn đầu tư đăng kí của các dự án thuộc ngành công nghiệp chế biến chỉ đạt 437.950.246 triệu USD, chỉ chiếm 1 tỷ trọng khá khiêm tốn 4,36% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài. Nguyên nhân là do tính chất của từng ngành nghề, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và ngành công nghiệp khai thác mỏ là những ngành công nghiệp nặng, cần nhiều máy móc công nghệ cao, hiện đại, với sự đầu tư nhiều vốn. Còn công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động là chủ yếu, nên không cần phải đầu tư nhiều vốn vào lĩnh vực ngành nghề này.. Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, thuỷ sản với 7 dự án, chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng số 575 dự án. Tuy nhiên quy mô vốn đăng ký đầu tư vào các dự án nông-lâm nghiệp và thủy sản khá lớn, chiếm 1.870.369.133 USD, chiếm tỷ trọng là 18,63% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Nghệ thuật và giải trí cũng là ngành thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Với số dự án là 59, tổng số vốn đầu tư đạt 1.183.169.314 USD, chiếm 11,79% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Như vậy qua số liệu về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tính đến thời điểm 28/02/2010 trên đã cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. 3.3. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài phân theo đối tác đầu tư chủ yếu TỔNG HỢP ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI THEO ĐỊA BÀN TT Quốc gia/vùng lãnh thổ Số dự án Vốn đầu tư của dự án ở nước ngoài (USD) Vốn đầu tư của nhà đầu tư VN (USD) Vốn điều lệ của nhà đầu tư VN (USD) 1 Lào 195 3.949.395.766 3.313.110.760 3.120.464.565 2 Campuchia 87 1.938.274.420 1.864.332.156 1.864.332.156 3 Venezuela 2 12.434.400.000 1.825.120.000 1.241.120.000 4 Liên bang Nga 16 1.594.947.407 776.873.090 776.873.090 5 Malaysia 6 811.522.740 411.823.844 411.823.844 6 Mozambique 1 493.790.000 345.653.000 345.653.000 7 Hoa Kỳ 73 308.323.570 251.391.570 250.891.570 8 Angiêri 1 562.400.000 224.960.000 224.960.000 9 Cuba 2 125.460.000 125.460.000 125.460.000 10 Madagascar 1 117.360.000 117.360.000 117.360.000 11 Irắc 1 100.000.000 100.000.000 100.000.000 12 Australia 11 108.181.200 97.600.500 97.600.500 13 Peru 2 87.910.000 87.910.000 87.910.000 14 Iran 1 82.070.000 82.070.000 82.070.000 15 Singapore 35 458.185.796 60.321.655 60.321.655 (Nguồn: Cục ĐTNN- Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Trong số những nước và vùng lãnh thổ nhận vốn đầu tư thì Lào là thị trường thu hút được nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhất với 195 dự án, tiếp đến là Campuchia với 87 dự án, Hoa Kỳ 73 dự án, Singapore 35 dự án, Liên Bang Nga 16 dự án. Tuy nhiên nếu tính về tổng vốn đầu tư thì Lào cũng lại đứng đầu với 3.313.110.760 USD, sau đó là Campuchia với 1.864.332.156 USD, Venezuela 1.825.120.000 USD, Liên bang Nga 776.873.090 USD. Bên cạnh đó số vốn đầu tư vào Lào chiếm tới 33% tổng số vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài cho thấy Lào là một điểm đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư Việt Nam. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi vì đây là 2 quốc gia có đường biên giới chung và truyền thống hữu nghị lâu đời, Việt Nam và Lào không chỉ có sự gần gũi về kinh tế mà cả về chính trị, hơn nữa thị trường Lào lại là một thị trường tương đối thân thuộc đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Những yếu tố đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường Lào thông qua con đường đầu tư trực tiếp để xuất khẩu tại chỗ hoặc xuất khẩu sang nước thứ 3. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam sang Lào cũng tập trung vào 3 lĩnh vực chủ yếu là: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong đó khoảng 1 nửa số dự án là thuộc lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các lĩnh vực như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm và sản xuất thuốc chữa bệnh…Ngoài ra còn có các dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải, bưu điện, giáo dục.. Lào hứa hẹn là một thị trường lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ ở hiện tai mà cả trong tương lai. Campuchia cũng là một thị trường tương tự, số vốn đầu tư vào Campuchia chiếm 18,18% tổng số vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Tiếp đến là Liên bang Nga, nước đứng thứ 4 về số vốn đầu tư. Nga là một đất nước rộng lớn, sớm có mối quan hệ kinh tế hữu nghị với Việt Nam từ lâu đời nên trong những năm qua dòng vốn đầu tư trực tiếp vận động không chỉ từ Nga vào Việt Nam mà còn theo chiều ngược lại. Đối với doanh nghiệp Việt Nam, đầu tư ra nước ngoài là một hướng đi mới, tuy có không ít rủi ro nhưng sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, củng cố thúc đẩy hoạt động kinh doanh và nâng cao vị thế của doanh nghiệp tại nước sở tại, nhất là với những thị trường mà việc thanh toán còn gặp nhiều khó khăn như thị trường Nga. Hơn nữa khi đầu tư vào Nga các doanh nghiệp Việt Nam còn có thêm lợi thế là cộng đồng người Việt tập trung sinh sống, học tập làm việc tại Nga khá đông. Hiện nay cơ chế thành lập công ty ở Nga khá dễ dàng và đã có hàng trăm công ty của người Việt Nam được thành lập và làm ăn theo qui định của luật pháp Nga. Việc đầu tư vào thị truờng Lào và Nga cho thấy một hướng đi đúng đắn của các doanh nghiệp Việt Nam. * Những kết quả đạt được - Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã giúp cho Việt Nam sử dụng, quản lý tốt hơn các nguồn lực trong nước. Khi các nguồn lực trong nước còn hạn chế thì việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực là một tất yếu đối với chính phủ và các doanh nghiệp trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy khi các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài thì với mục tiêu là khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực của nýớc ngoài thì nhờ đó mà các nguồn lực trong nước được quản lý một cách có hiệu quả hơn. Góp phần tăng thu ngân sách Khi thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để sử dụng vốn 1 cách có hiệu quả hơn, có nhiều cơ hội phát triển hơn, sẽ có điều kiện để khai thác tốt nhất các nguồn lực của nước ngoài , do vậy sẽ làm tăng doanh thu, đồng thời với việc giảm chi phí, do đó mà lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên, và đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng lên. Giúp các DN mở rộng thị trường tiêu thụ. Khi mở rộng việc đầu tư ra nước ngoài thì thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được mở rộng hơn nhiều, đồng thời cũng mở ra những cơ hội kinh doanh mới, và giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai. - Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp Việt Nam tránh được hàng rào bảo hộ thương mại của các nước nhận đầu tư. Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay thì các hàng rào bảo hộ thương mại dần được dỡ bỏ. Do đó các quốc gia thường xây dựng nên những rào cản thương mại ngày càng phức tạp hơn, như rào cản kỹ thuật, rào cản về môi trường. Do đó việc xuất khẩu hàng hoá vào các quốc gia ngày càng khó khăn hơn. Và để có thể vượt qua được hàng rào bảo hộ đó là thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ góp phần đáng kể trong việc giảm những chi phí vận chuyển, và nhiều những chi phí cho khác.. Thay đổi cơ cấu SXKD của doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất, các trang thiết bị của doanh nghiệp bị hao mòn cả vô hình lẫn hữu hình, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang giúp các máy móc thiết bị đó hạn chế sự hao mòn. Khi trang thiết bị của doanh nghiệp Việt Nam ở trong nước đã trở nên lỗi thời, và đã giảm được sức cạnh trạnh so với các doanh nghiệp trong nước thì việc chuyển giao các công nghệ đó ra nước ngoài sẽ giúp cho các doanh nghiệp đó nâng cao được sức cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước sở tại. Như vậy đầu tư ra nước ngoài giúp cho doanh nghiệp thay đổi công nghệ, đồng thời kéo dài được chu kỳ sống của công nghệ. Ngoài ra việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp cho các doanh nghiệp kéo dài được đời sống của sản phẩm. Khi 1 sản phẩm đã trở nên bão hoà trong nước, và chịu sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm mới có tính thay thế, thì giải pháp đầu tư ra nước ngoài trở nên tối ưu, và sẽ kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm. - Giúp mở rộng giao lưu KT-XH, học hỏi đựợc những kinh nghiệm của các nước phát triển Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với cơ chế về quản lý tài chính, quản lý nhân sự, quản lý thiết bị khoa học đồng thời có công nghệ sản xuất hiện đại, do đó khi đầu tư vào những nước này thì Việt Nam sẽ có cơ hội để học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận với khoa học tiên tiến trên thế giới, từ đó có thể áp dụng vào sản xuất và làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không chỉ có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển mà còn có tác động tích cực về mặt xã hội. Đó là làm cho dân trí phát triển, có điều kiện tiếp thu và vận dụng những tinh hoa văn hoá của nhân loại, nền văn minh thế giới, giúp bạn bè thế giới hiểu thêm về con người Việt Nam với nhiều những phẩm chất tốt đẹp như: cần cù, chịu khó... , mặt khác còn giúp Việt Nam mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế xã hội với bạn bè thế giới, cùng với bạn bè thế giới xây dựng 1 xã hội văn minh, hiện đại , hoà bình. * Những hạn chế gặp phải : - Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa thu được kết quả kinh doanh cao. Hầu hết các dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đều là những dự án mới được thực hiện, chưa bước vào giai đoạn sản xuất kinh doanh nên kết quả kinh doanh hầu như chưa có, hoặc nếu có cũng đang còn ở trong giai đoạn đầu nên gặp rất nhiều khó khăn về thị trường và công suất khai thác dự án chưa cao nên đang còn trong tình trạng thua lỗ. - Tỷ lệ VĐT thực hiện trên tổng số vốn đăng ký rất thấp. Tính đến hết tháng 8 năm 2005 tỷ lệ này vẫn chưa đạt được 10% trong khi đó các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam đạt tỷ lệ 55%. - Số lượng dự án và quy mô đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài còn ít. Điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghệp Việt Nam trước sức ép của các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực tài chính mạnh trên thị trường thế giới - Lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, mới chỉ tập trung vào một số ngành công nghiệp, xây dựng, thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất hàng gia dụng, nông nghiệp và một số loại hình dịch vụ. - Đối tác mà Việt Nam thực hiện đầu tư còn chưa rộng rãi, mới chỉ tập trung ở một số nước như Singapo, Lào, Campuchia, Nga, Venezuela, Hoa Kỳ… Hoạt động đầu tư sang các nước phát triển khác còn hết sức khiêm tốn so với việc các nước đó đầu tư trực tiếp sang Việt Nam. - Hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là 100% vốn Việt Nam ở nước ngoài. Các dự án liên doanh chiếm một tỷ lệ khiêm tốn hơn. Hình thức BC của các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài chiếm tỷ trọng cao hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trong nước. - Công tác thẩm định, cấp giấy phép đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn chậm, chưa rõ ràng. * Nguyên nhân: - Đây là một lĩnh vực còn rất mới với các doanh nghiệp Việt Nam, nên tư duy nhận thức về hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn chưa được hình thành một cách đầy đủ, chính xác. Trước đây Việt Nam chỉ là nước nhận đầu tư trực tiếp của các nước khác cho đến những năm gần đây mới xuất hiện xu hướng đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài. Thông thường lĩnh vực nào còn mới thì còn ít người quan tâm và nhiều người lo sợ bởi vì chúng tiềm ẩn những rủi ro mà họ không thể lường tới. Đồng thời yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng rất nhiều đến nhận thức của các doanh nghiệp, cái gì quá mới mẻ đều khiến người ta nghi ngại, lo sợ và rụt rè khi tiếp cận, từ đó dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực này, nếu có thì chỉ chỉ ở mức độ dè chừng, bởi vì ai cũng lo sợ những rủi ro tiềm ẩn trong lĩnh vực còn quá mới mẻ này đối với họ. Hơn nữa do tư duy nhận thức của một bộ phận cán bộ có trách nhiệm và các nhà đầu tư là cho rằng Việt Nam là một nước đang thiếu vốn nên cần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài do đó mà không có khả năng và không cần thiết để thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh đó lĩnh vực này còn quá mới mẻ, trên thực tế nếu chỉ xuất hiện cũng rất ít cho nên chưa được các bộ ngành quan tâm xem xét điều chỉnh và tạo điều kiện. Do đó nên các doanh nghiệp càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận lĩnh vực mới mẻ này. - Chưa có sự hỗ trợ có hiệu quả từ phía nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, các cơ chế chính sách còn thiếu, nhiều bất cập. Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhìn chung thực trạng cơ chế chính sách của chúng ta còn nhiều điều bất cập, chưa đồng bộ, điều đó ảnh hưởng rất lớn tới hoát động đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn nhiều hạn chế, các cấp các ngành chưa có những chủ trương, biện pháp có hiệu quả nhằm khắc phục những khó khăn, không thay thế, sửa đổi, bổ sung kịp thời làm chậm trễ tiến độ thực hiện các hoạt động đầu tư. Mặt khác chưa đề ra được những biện pháp có tính khả thi, kịp thời, có tác động mạnh mẽ nhằm khai thác một cách có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực dồi dào, việc đổi mới cơ chế, chính sách còn chậm chạp, chưa đầy đủ, chưa thay đổi kịp thời, chưa đi sâu, bám sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài do đó không phát huy được tính hiệu quả.như: nghị định số 22 của chính phủ về đầu tư ra nước ngoài vẫn còn một số vấn đề chưa được quy định như quy trình cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài, quản lý ngoại hối, tuyển dụng lao động…hoặc mở văn phòng dự án tại nước thứ 3 để điều hành dự án hay mở chi nhánh sản xuất và thành lập doanh nghiệp ở nước ngoài chưa được quy định. - Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế trên tất cá các mặt: tài chính, quản lý, sản xuất kinh doanh.. Việt Nam là một nước có xuất phát điểm thấp, có nền kinh tế nghèo nàn, kém phát triển, công nghệ lạc hậu.. do đó quá trình tích tụ vốn cho nền kinh tế hầu như không có. Trong khi đó vốn là nhân tố đầu tiên và có tính quyết định nhất đến bất kì một hoạt động đầu tư phát triển nào, do đó khi đầu tư ra nước ngoài, chúng ta rất thiếu vốn để có thể tiến hành hoạt động đầu tư, nên để huy động vốn cho đầu tư thì doanh nghiệp thường áp dụng một số biện pháp như phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty hoặc là huy động vốn ở những tổ chức tín dụng. - Nền kinh tế VN còn phát triển ở trình độ thấp. Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, lại đang tiến hành quá trình CNH-HĐH đất nước, các ngành, các thành phần kinh tế đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nên sẽ không tránh khỏi những khuyết điểm. Việt Nam đi lên từ một nước có xuất phát điểm thấp, mức sống tính theo bình quân đầu người thấp, mức độ tích luỹ nội bộ nền kinh tế thấp, trong sản xuất thì vốn it, công nghệ lạc hậu, nguồn lao động tuy đông nhưng trình độ tay nghề, kỹ thuật chưa cao, trình độ quản lý điều hành còn kém, do đó năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất còn chưa cao, trong khi đó vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn thiếu nên việc hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Do đó khi đầu tư ra nước ngoài thì Việt Nam đứng trước rất nhiều khó khăn và hiệu quả sản xuất thấp là điều khó có thể tránh khỏi. Chương III. Xu hướng và giải pháp thúc đẩy DN VN ĐTTTRNN 1. Xu hướng Như chúng ta đã biết, hoạt động đầu tư ngày càng phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây và trở thành xu hướng tất yếu của các nước. Tham gia vào hoạt động đầu tư quốc tế không chỉ là các nước phát triển có tiềm lực tài chính mạnh mà có cả các nước đang phát triển với những lợi thế riêng có của mình. Việt Nam đang tiến sâu, tiến rộng vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới, đối với hoạt động đầu tư quốc tế , hiện nay nước ta vận chủ yếu đứng trên giác độ là nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước, cũng như sự hỗ trợ ngày càng có hiệu quả hơn từ phía Nhà nước, Việt Nam đã đưa vốn, tài sản ra nước ngoài để đầu tư thực hiện sản xuất kinh doanh. Là một nước mới tham gia vào hoạt động đầu tư quốc tế, bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thu được nhiều kết quả cao, tuy nhiên vẫn có một số doanh nghiệp đã làm ăn có hiệu quả và được đánh giá là thành công trong hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Vì vậy, trong những năm tới, hứa hẹn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao và mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm. Đó là một xu thế tất yếu trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay, không chỉ riêng Việt Nam mà cả những nước trên thế giới. 2. Giải pháp Thay đổi tư duy về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài Nhà nước cần phải coi hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một hoat động kinh tế đối ngoại quan trọng không kém gì hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài , vì cả lý thuyết và thực tiễn đều chứng minh rằng 1 nước có dòng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài càng mạnh thì càng có nhiều khả năng và cơ hội để mở rộng thị trường và tăng thêm các cơ hội kinh doanh, tạo ra lực hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam có những mặt hàng và làng nghề truyền thống hoàn toàn có thể đáp ứng được những khoảng trống hoặc những thị trường ngách ở khắp nơi trên thế giới. Trước bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực và những tác động tích cực của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mang lại trong thời gian qua thiết nghĩ cần nhanh chóng thay đổi từ khống chế và cho phép sang khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. - Cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách theo hướng tăng cường khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài . Chính phủ cần nhanh chóng ban hành nghị định và các thông tư mới hướng dẫn luật đầu tư mới. Nghị định 22/1999 của chính phủ đã bộc lộ nhiều hạn chế và không tương thích với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta hiện nay vì thế các vấn đề trong nghị định mới nên sửa đổi theo hướng: + Đơn giản hoá thủ tục đăng ký và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư ra nước ngoài, tiến tới xoá bỏ hình thức cấp giấy phép chuyển sang đăng ký đầu tư. + Rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam xuống còn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ ( hiện tại là 30 ngày ). + Xây dựng danh mục dự án đặc biệt khuyến khích và khuyến khích đầu tư ra nước ngoài với các hình thức ưu đãi phù hợp đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, ngoại hối. + Mở rộng các lĩnh vực được phép đầu tư ra nước ngoài để các doanh nghiệp rộng quyền lưạ chọn. Cho phép đầu tư vào các lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, y tế, giáo dục…nếu doanh nghiệp có luận chứng kinh tế kỹ thuật tốt và bảo đảm khả năng sinh lời của dự án . Chính phủ cần yêu cầu các bộ, ngành có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp ở nước ngoài nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, điều chỉnh hoạt động kinh tế mới này, đồng thời quy định rõ chế độ và nội dung báo cáo đối với các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. - Tăng cường các hoạt động hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. + Về mặt tổ chức, thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhận việc quản lý hoạt động đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài. Bộ phận này có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất những văn bản, quy định pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đồng thời cũng là đầu mối giải quyết những vướng mắc mà các doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước ngoài. Thành lập hiệp hội đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam giải quyết các vướng mắc. Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam nhằm tài trợ tài chính cho các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và bảo đảm lợi ích và bảo vệ các doanh nghiệp trước những rủi ro về chính trị hoặc các rủi ro khác mà các công ty bảo hiểm thông thường không thể cung cấp dịch vụ đó được. + Về mặt cơ chế chính sách cần tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư trên tầm vĩ mô trước hết là ở các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có nguyện vọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, như tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa Chính phủ với các doanh nghiệp có dự án đầu tư trực tiếp ở nước ngoài, với Chính phủ tại nước sở tại để giải quyết các bất cập trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, hoặc là cung cấp các thông tin cần thiết như quan hệ cung cầu hàng hoá, triển vọng phát triển của thị trường nước ngoài, môi trường đầu tư của nước sở tại, thông tin về đối tác đầu tư và các cơ hội đầu tư mới. Tổ chức các hội chợ triển lãm quảng cáo, tham quan thị trường, làm trung gian cho các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác tiềm năng. Phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bảo lãnh tín dụng, dịch vụ hỗ trợ tư pháp và hướng dẫn các thủ tục đăng ký đầu tư ở từng thị trường nước ngoài. Chính phủ giao cho các đại sứ quán, lãnh sự quán và phòng thương vụ Việt Nam ở nước ngoài hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam đang tiến hành đầu tư trưc tiếp ở nước ngoài. Xem đó là một nhiệm vụ bắt buộc đối với các cơ quan này. - Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo đó, Việt Nam cần đàm phán, ký kết các hiệp định đầu tư đa biên nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các doanh nghiệp và tạo cơ chế pháp lý ổn định để giải quyết các tranh chấp có thể nảy sinh khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Trước hết, Việt Nam cần tham gia đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến đầu tư nước ngoài như công ước Washington năm 1965, các công ước của WTO…ngoài ra Việt Nam còn cần quan tâm đến hiệp định đầu tư khu vực bởi mục đích của hiệp định là thúc đẩy dòng lưu chuyển vốn giữa các nước tham gia ký kết và tăng cường thu hút vốn quốc tế từ các nước thứ 3 vào khu vực. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường đàm phán ký kết các hiệp định đầu tư song phương. Vì các hiệp định đầu tư song phương có tốc độ phát triển nhanh và ngày càng chi phối mạnh mẽ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các hiệp định đầu tư song phương sẽ tạo cơ chế bảo vệ cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang các nước đã ký kết và nâng cao khả năng tạo lợi nhuận của các doanh nghiệp khi triển khai dự án ở nước ngoài Việt Nam cần tích cực tham gia đàm phán ký kết các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần và nâng cao hiệu quả triển khai của các hiệp định đã ký để hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của việc thu thuế trùng, đồng thời khuyến khích dòng luân chuyển vốn quốc tế. Hầu hết các nước hiện nay đều ký kết hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với các hình thức đa biên hoặc song phương. Với Việt Nam, sau hơn 10 năm kiên trì và tích cực đàm phán, đã ký được 43 hiệp định với hầu hết các đối tác đầu tư lớn và quan trọng trên thế giới, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Kết luận Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, đầu tư quốc tế trở thành một hoạt động thường xuyên mang lại nhiều hiệu quả cho các doanh nghiệp đầu tư cũng như cho nước tiếp nhận đầu tư . không chỉ còn là đặc quyền của những nước có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực tài chính mạnh, có khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại, trình độ quản lý cao, mà đã có sự tham gia của các nước đang phát triển với tư cách là nước đầu tư. Và Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung đó khi các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang xúc tiến các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam vừa qua, những doanh nghiệp đã đi đầu, đón đầu thử thách ít nhiều đã gặt hái được thành công. Bên cạnh đó cũng phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thử thách do hạn chế về vốn, hạn chế về kinh nghiệm sản xuất kinh doanh ở nước ngoài, hạn chế về những hiểu biết về quy chế chính sách của nhà nươc sở tại, ngoài ra cung phải kể đến những tồn tại, những khó khăn do cơ chế, chính sách của nhà nước ta vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập, thiếu sót và nhất là chưa có được sự hỗ trợ có hiệu quả từ phía nhà nước dành cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tuy nhiên trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay thì ngày càng nhiều những cơ hội thuận lợi, những sự hỗ trợ có hiệu quả hơn từ phía nhà nước khi đã nhận thức được vai trờ của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp, do đó hứa hẹn sự mở rộng đầu tư ra nước ngoài sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp việt nam.doc
Luận văn liên quan