MỤC LUC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VIÊN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI – BỘ CÔNG THƯƠNG 8
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Viện nghiên cứu Thương mại 8
1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Viện nghiên cứu Thương mại 10
1.2.1. Chức năng. 10
1.2.2. Nhiệm vụ. 10
1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức và mối quan hệ giữa các đơn vị của Viện Nghiên cứu Thương mại 11
1.3.1. Ban Nghiên cứu Chiến lược phát triển thương mại 13
1.3.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Ban. 13
1.3.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ban. 13
1.3.2. Ban Nghiên cứu Chính sách và Cơ chế quản lý thương mại 13
1.3.2.1. Chức năng. 13
1.3.2.2. Nhiệm vụ. 13
1.3.2.3. Cơ cấu tổ chức. 14
1.3.3. Ban Nghiên cứu Thị trường. 14
1.3.3.1. Chức năng và nhiệm vụ của Ban. 14
1.3.3.2. Cơ cấu tổ chức của Ban. 14
1.3.4. Ban Nghiên cứu Thương mại môi trường. 15
1.3.4.1. Chức năng và nhiệm vụ. 15
1.3.4.2. Cơ cấu tổ chức. 15
1.3.5. Phòng Quản lý Khoa học và Đào tạo. 15
1.3.5.1. Chức năng, nhiệm vụ. 15
1.3.5.2. Tổ chức bộ máy của phòng. 16
1.3.6. Phòng Hợp tác quốc tế. 16
1.3.6.1. Chức năng và nhiệm vụ của phòng. 16
1.3.6.2. Cơ cấu tổ chức. 16
1.3.7. Phòng Thông tin tư liệu. 17
1.3.7.1. Chức năng. 17
1.3.7.2. Phòng có các nhiệm vụ sau. 17
1.3.7.3. Cơ cấu tổ chức. 18
1.3.8. Phòng Nghiên cứu và Phát triển dự án. 18
1.3.8.1. Chức năng và nhiệm vụ của Phòng. 18
1.3.9. Văn phòng. 19
1.3.10. Phòng Tài chính kế toán. 20
1.3.10.1. Chức năng. 20
1.3.10.2. Nhiệm vụ. 20
1.3.10.3. Quyền hạn. 20
1.3.11. Phân Viện Nghiên cứu Thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh. 21
1.3.12. Trung tâm Tư vấn và Đào tạo kinh tế thương mại 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU 22
2.1. Khái quát chung về thị trường giày dép EU 22
2.1.1. Một số đặc điểm chung về thị trường giày dép EU 22
2.1.1.1. Thị trường có quy mô lớn. 22
2.1.1.2. Đặc điểm về người tiêu dùng. 23
2.1.1.3. Đặc điểm thị trường phân theo giá cả và chất lượng giầy dép. 24
2.1.1.4. Đặc điểm hoạt động phân phối giầy dép trên thị trường EU 27
2.1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ tại thị trường EU 29
2.1.2.1. Tình hình sản xuất giày dép tại EU 29
2.1.2.2. Tình hình tiêu thụ giày dép của thị trường EU 31
2.1.3. Những quy định pháp lý của EU đối với việc nhập khẩu giầy dép. 33
2.1.3.1. Quy định về thuế quan. 33
2.1.3.2. Các quy định phi thuế. 34
2.1.2.3. Những yêu cầu và quy định riêng trong ngành. 39
2.2. Thực trạng xuất khẩu giày dép vào thị trường EU 40
2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu. 40
2.2.2. Kim ngạch xuất khẩu theo từng nước trong khối 43
2.2.3. Kim ngạch xuất khẩu theo cơ cấu mặt hàng. 45
2.2.4. Thị phần xuất khẩu giầy dép tại EU 46
2.2.5. Giá xuất khẩu giầy dép sang thị trường EU 48
2.3. Đánh giá chung về thực trạng xuất khẩu giày dép sang thị trường EU 50
2.3.1. Những kết quả đạt được. 50
2.3.2. Những tồn tại hạn chế. 50
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế. 52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GIẦY DÉP VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU 54
3.1. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU 54
3.1.1. Cơ hội 54
3.1.2. Thách thức. 56
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU. 58
3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước. 58
3.2.1.1. Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu. 58
3.2.1.2. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép. 59
3.2.1.3. Tăng cường cung ứng nguyên liệu. 60
3.2.1.4. Hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện tối đa cho xuất khẩu. 62
3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp. 63
3.2.2.1. Đa dạng mẫu mã sản phẩm xuất khẩu. 63
3.2.2.2. Tăng cường xây dựng thương hiệu cho giày dép Việt Nam 63
3.2.2.3. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. 65
3.2.2.4. Xây dựng quy trình sản xuất và chính sách sản phẩm xuất khẩu theo hướng liên kết. 67
3.2.2.5. Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào EU 68
79 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2987 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bán phá giá với mặt hàng giầy mũ da trong 2 năm, nhưng sau đó khi đến gần hết thời hạn thì lại thay đôi tăng lên thêm 15 tháng nữa; Thứ hai là dễ vấp phải lời kháng nghị từ phía người tiêu dùng EU tăng lên và những áp lực “ổn định hóa” trong việc thâm nhập thị trường này do công nghệ chế biến lạc hậu, nguồn nguyên liệu không đảm bảo và các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin thị trường và giá cả, cũng như thông tin về thị hiếu và mặt hàng được ưa chuộng tại các thời điểm trong năm.
Thương hiệu và uy tín sản phẩm còn yếu kém: giày dép của Việt Nam không được đánh giá cao, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu trực tiếp sang đó thì chỉ thuộc loại hàng cấp thấp, chỉ có một số ít thuộc loại trung bình. Khâu marketing, quản bá sản phảm còn rất yêu. Năm 2007 tại hội Chợ Fashion First-một trong hội chơ lớn và quan trọng nhất đối với ngành giây - có 50 nước tham dự nhưng không có Việt Nam.
Việt Nam dù được đánh giá là một trong 5 nhà sản xuất giày dép lớn nhất thế giới với công suất 715 triệu đôi/năm, nhưng liên kết thượng nguồn trong ngành liên quan đến cung ứng nguyên liệu thô như da, chất dẻo và cao su, nguyên liệu chế biến, đặc biệt là thuộc da và cao su lưu hoá còn rất yếu, các doanh nghiệp sản xuất phụ thuộc gần như hoàn toàn vào các form mẫu nhập khẩu, chỉ có một vài nhà cung ứng form giày trong nước, Các nhà sản xuất Việt Nam thường làm gia công cho các hãng lớn trên thế giới, vì vậy các sản phẩm thường có giá trị thấp và lợi nhuận không cao.
Ngoài ra, ngành sản xuất giầy dép tại Việt Nam với hơn 500 doanh nghiệp (gồm 235 doanh nghiệp liên doanh và có vốn đầu tư nước ngoài, còn lại là doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước), thì chỉ có doanh nghiệp liên doanh và có vốn đầu tư nước ngoài là có trình độ công nghệ ở mức trung bình cao, có khả năng thực hiện tất cả các công đoạn sản xuất, số doanh nghiệp còn lại gia công hàng cho đối tác nước ngoài mới chỉ trang bị hệ thống công nghệ, thiết bị ở mức bán tự động và cơ khí, mức độ sử dụng lao động phổ thông còn cao, do đó năng suất lao động chưa được cải thiện.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
Về phương thức sản xuất: Đặc điểm nổi bật của ngành công nghệp giày dép Việt Nam là phương thức sản xuất chủ yếu vẫn là gia công cho đối tác nước ngoài, sản xuất phục vụ xuất khẩu trực tiếp còn tương đối hạn chế. Theo thống kê của hiệp hội da giầy Việt Nam thì có khoảng 80% các doanh nghiệp Việt Nam là gia công, nhà thầu phụ cho các hãng lớn. Do đó nên tuy kim ngạch xuất khẩu giày dép sang EU lớn song hiệu quả kinh tế thu về thì rất thấp (gia công chỉ chiếm khoảng 25-30% tổng doanh thu xuất khẩu). Từ mẫu mã cho đến giá bán hoàn toàn do phía đối tác quyết định do vậy doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không có khả năng quyết định giá bán trên thị trường, không tham gia vào quá trình thương mại, không quyết định đầu vào và đầu ra cho sản phẩm. Đây chính là điểm rất yếu của ngành giầy dép Việt Nam vì đa phần phụ thuộc vào hệ thống phần phối nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc bị chi phối về sản xuất.
Hình thức xuất khẩu đơn giản: chủ yếu là dưới hình thức xuất khẩu qua trung gian. Giày dép của Việt Nam vẫn chưa tạo được thương hiệu cũng như uy tín có thể cung cấp những đơn đặt hàng lớn và ổn định nên khó có thể dành được nhiều đơn đặt hàng dẫn đến việc các doanh nghiệp phải chuyển hướng xuất khẩu qua một nước thứ ba đã có uy tín trên thị trường như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông. Phương thức này cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ như khi các đối tác trung gian này gặp khó khăn thì sẽ gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Nguồn nguyên liệu và máy móc: Hiện nay chúng ta vẫn không thể tự chủ được nguồn nguyên liệu trong nước, chủ yếu phải nhập khẩu từ các nước khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc…Đối với nguyên liệu để sản xuất giầy như chất liệu da, dả da và các nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khẩu, nút nhãn hiệu... thì đến 70-80% phải nhập khẩu. Theo thống kê của Bộ Công Thương, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập khẩu khoảng 6 triệu feet vuông da thuộc. Nhà máy thuộc da chưa đáp ứng được 10% nhu cầu và hiện tại chỉ hoạt động 25% công suất do thiếu nguyên liệu. Hàng năm, Việt Nam mới có thể cung cấp 5000 tấn da bò và 100 tấn da trâu nhưng nguồn nguyên liệu nội địa không được tận dụng và giá trị xuất khẩu thấp. Mỗi năm Việt Nam phải chi từ 170- 230 triệu USD để nhập da giả và từ 80-100 triệu USD để nhập da từ Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc.
Đội ngũ nhà thiết kế: theo nhận xét của hiệp hội da giầy Việt Nam, đội ngũ thiết kế tạo mẫu giầy hiện nay ở ta còn rất thiếu và yếu. Phần lớn đội ngũ thiết kế trong các công ty là từ công nhân, sau thời gian làm tại các dây chuyền sản xuất, được lựa chọn bồi dưỡng tại chỗ để làm ở bộ phận thiết kế và phát triển sản phẩm. Những nhân viên này không được đào tạo bài bản, một số chỉ được tiếp thu trực tiếp từ các chuyên gia, hay được đi học những khóa ngắn hạn. Nên hiện nay ngành giầy thiếu vắng hẳn một lực lượng là kỹ sư phác họa, mỹ thuật công nghiệp.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GIẦY DÉP VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
3.1. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU
3.1.1. Cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực.
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2009, toàn ngành đã thu hút 610.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh với mức chi phí nhân công thấp.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
Chế độ chính trị xã hội ổn định đã và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để thu hút một lượng lớn các doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư phát triển sản xuất giày dép tại nước ta. Không những thế còn rất phù hợp với xu hướng chuyển dịch hoạt động sản xuất giày dép của EU - các doanh nghiệp sản xuất của EU đang có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các thị trường ngoài khối, nơi có chi phí sản xuất thấp, tình hình xã hội ổn định. Đây sẽ là một cơ hội tốt cho ngành giày dép Việt Nam nếu như tận dụng được cơ hội thu hút được các doanh nghiệp này thì sẽ góp phần không nhỏ vào việc chuyển đổi công nghệ sản xuất, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất và quản lý, dần nâng cao được chất lượng và uy tín trên thị trường thế giới về hàng giày dép của nước ta.
Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2009, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
1. Kim ngạch xuất khẩu:
4.066,8 tỷ USD
2. Năng lực sản xuất:
· Giầy dép các loại:
750,00 triệu đôi
· Da thành phẩm:
130,00 triệu sqft
3. Lực lượng lao động:
610.000 người
4. Dự kiến Kim ngạch xuất khẩu năm 2010:
6,200 tỷ USD
Nguồn: Hiệp hội da giầy Việt Nam.
Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm trên loại sản phẩm chính là giày dép các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng được mở rộng và ổn định, nhất là sau sự kiện mở rộng của thị trường EU từ EU 15 lên EU gồm 27 nước thành viên, tạo ra một thị trường rộng lớn với sức tiêu thụ cao và ngày càng có xu hướng chi tiêu cho việc mua sắm giày dép tăng lên. Ngoài ra thì theo dự báo về tình hình nhập khẩu trong các năm tới của hiệp hội da giày thì các nước nhập khẩu giầy dép lớn tại EU như Anh, Đức, Hà Lan, Bỉ… sẽ đều có kim ngạch nhập khẩu giầy dép từ Việt Nam tăng với tốc độ khá cao. Trong năm 2010 với phương án thấp thì nhu cầu nhập khẩu từ các nước này cũng tăng từ 5-12,22%, còn với phương án cao thì tốc độ tăng trung bình là từ 22-32,55%. Dù là có thể đạt kết quả với phương án thấp hay cao thì có thể thấy năm 2010 sẽ là một năm Việt Nam có nhiều cơ hội xuất khẩu giầy dép vào EU. Giai đoạn từ năm 2010-2015, sẽ là giai đoạn ngành giầy dép Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu giầy dép sang thị trường EU, tốc độ nhập khẩu giầy dép của thị trường này và đặc biệt là các nước có mức tiêu thụ giầy dép lớn nhất tại đây sẽ đều có nhu cầu nhập khẩu giầy dép từ Việt Nam gia tăng, mức tăng trưởng trung bình đạt khoảng 10%.
Bảng 6: Dự báo triển vọng xuất khẩu giày dép của Việt Nam đến 2015
Đơn vị: Triệu USD/ %
2010
Tăng bq năm (%)
2015
Tăng bq năm (%)
Phương án thấp
Phương án cao
Phương án thấp
Phương án cao
Phương án thấp
Phương án cao
Phương án thấp
Phương án cao
1. Anh
653,68
946,2
8,04
26,56
986,4
1.414,4
10,18
9,90
2. Đức
433,26
695,7
7,01
31,44
713,0
1.150,0
12,92
13,06
3. Hà
Lan
350,30
506,5
8,49
27,15
551,6
790,5
11,50
11,21
4. Bỉ
320,91
464,0
5,02
22,13
500,9
715,4
11,22
10,83
5. Italia
273,04
394,9
8,63
27,36
412,8
589,7
10,24
9,87
6. Pháp
236,06
341,3
5,83
23,30
359,3
524,1
10,44
10,71
7. TBN
174,91
252,9
12,22
32,55
298,0
465,3
14,08
16,79
Nguồn: Hiệp hội da giầy Việt Nam
3.1.2. Thách thức
Bên cạnh những thuận lợi có được thì ngành sản xuất, xuất khẩu giầy dép của Việt Nam hiện vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc – nước có kim ngạch xuất khẩu giầy dép lớn nhất thế giới. Gần đây Trung Quốc là có thêm lợi thế với việc gia WTO. Mặt hàng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã đẹp và đa dạng hơn, trong khi đó thì thường giá giầy dép của Trung Quốc thường lại thấp hơn của Việt Nam.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như Brazil, Indonesia... Từ ngày 6 tháng 10 năm 2006 cho đến nay, EU vẫn áp thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10% và từ ngày 1/1/2009 giầy dép Việt Nam không còn được hưởng GSP.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo Hiệp hội da giày Việt Nam, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU.
3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước.
3.2.1.1. Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu.
Bấy lâu nay chúng ta nhập khẩu máy móc thiết bị chủ yếu của Châu Á, giá rẻ nhưng không lâu bền. Máy móc thiết bị tốt sẽ sản xuất ra hàng hóa chất lượng cao, cạnh tranh được trên thị trường. Thêm vào đó thì khi xuất khẩu giày dép vào EU thì phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường nay, thì với thiết bị hiện có khó có thể đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn này do đó tốt nhất là nên hướng vào việc nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU, với chất lượng cao lại có thể đảm bảo được các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe của thị trường EU.
Nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU có thể thực hiện bằng hai biện pháp sau: (1) Đầu tư của Chính phủ; (2) Thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng giày dép tại Việt Nam. Công nghệ nguồn của EU tiên tiến, hiện đại, chất lượng cao, song giá lại quá cao so với khả năng thanh toán của các doanh nghiệp Việt Nam. Vì thế để có thể nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU chỉ có hai biện pháp sau:
Đầu tư của chính phủ: là biện pháp ưu việt để nhập khẩu được công nghệ hiện đại một cách nhanh nhất và đúng theo yêu cầu đặt ra của của ngành. Nhưng đây không phải là biện pháp tối ưu của chúng ta hiện nay vì Việt Nam là nước nghèo nên kinh phí dành cho đầu tư của chính phảu còn hạn chế. Đó chính là mặt hạn chế của biện pháp này.
Thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất giày dép tại Việt Nam: đây là biện pháp tối ưu để Việt Nam nhập khẩu được công nghệ nguồn từ EU và sử dụng công nghệ này đạt hiệu quả cao nhất trong điều kiện chúng ta thiếu vốn và trình độ hiểu biết còn hạn chế. Nếu đi vay tiền để nhập khẩu công nghệ thì chưa chắc các kỹ sư Việt Nam đã vận hành đạt hiểu quả như mong muốn, hơn nữa vay tiền thì phải có nguồn để trả. Còn ở đây vốn của phía EU góp sẽ trả bằng sản phẩm thu được từ quá trình sản xuất.
Để thực hiện được biện pháp này, thì Nhà nước cần phải có những ưu đãi dành riêng cho cách nhà đầu tư EU ngoài những ưu đãi về quyền lợi mà họ sẽ được hưởng theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam như các nhà đầu tư thuộc khu vực khác. Những ưu đãi này có thể là những ưu đãi về thuế nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU, thuế suất lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận. Các đối tác EU chỉ được hưởng những ưu đãi này nếu góp vốn bằng công nghệ hiện đại được chế tạo tại Liên minh. Quyền lợi và trách nhiệm của các nhà đầu tư EU phải được quy định cụ thể và chi tiết trong các văn bản.
Nếu thực hiện tốt giài pháp này, chúng ta sẽ nhanh chóng cải thiện được chất lượng giày dép và còn có thể tạo được nhiều công ăn việc làm và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam.
3.2.1.2. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép
Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giày dép của Việt Nam sang EU đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao, vì thế để đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn thông qua hệ thống ngân hàng. Để triển khai hoạt động hỗ trợ này, Nhà nước nên thực hiện các biện pháp sau:
- Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết được khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thâm nhập được thị trường EU.
- Đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế. Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các quy định chế tài chính. Đơn giản hóa thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
- Xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp lớn với sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức quốc tế.
- Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng pháp triển nhưng không có đủ tài sản để thế chấp vay vốn. Quỹ này được thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài chính của Nhà nươc, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả được vay vốn theo phương thức tự vay, tự trả.
- Thông qua ngân hàng linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu và hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mà bị thiếu vốn. Nếu lãi suất chiết khấu hạ thì giá hàng hóa xuất khẩu cũng hạ, do đó khả năng cạnh tranh của giày dép xuất khẩu của Việt Nam tăng lên và chúng ta có thể mở rộng được xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu giày dép sang EU tăng nhanh qua các năm, nhưng trị giá xuất khẩu theo con đường trực tiếp còn rất thấp. Ngoài nguyên nhân là do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường và kênh phân phối quá phức tạp, thì còn do các doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư, cải tiến và mở rộng sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra nguồn hàng có khối lượng lớn, ổn định thỏa mãn nhu cầu của thị trường nay. Do vậy, thực hiện tốt “chính sách tín dụng” sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư cho sản xuất để nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm và cải tiến mẫu mã.
3.2.1.3. Tăng cường cung ứng nguyên liệu.
Đối với ngành giày dép hiện nay thì vấn đề cấp thiếp phải kể đến là nguồn nguyên liệu, khi mà nguồn nguyên liệu trong nước không thể cung cấp đủ được, mới chỉ cung cấp với số lượng hạn chế, chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài, khiến cho hoạt động của ngành sản xuất giày dép bấp bênh, không bền vững luôn phải phụ thuộc quá nhiều vào yêu tố bên ngoài dẫn đến giá cả hàng hóa, cũng như khối lượng hàng không ổn định, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Nên Nhà nước cần phải có các biện pháp thích hợp để có thể thúc đẩy phát triển ngành phụ liệu song song với ngành giày dép và phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về môi trường, chất lượng… của thị trường EU ngày từ ban đầu:
- Khuyến khích mọi thành phần tham gia đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành da - giầy. Ưu tiên phát triển các cơ sở thuộc da có công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, sắp xếp và hiện đại hoá các cở sở thuộc da hiện có để nâng cao sản lượng và chất lượng da thuộc, khai thác tối đa nguồn nguyên liệu da trong nước.
- Kết hợp công nghiệp chế biến da với việc khuyến khích phát triển chăn nuôi công nghiệp, giết mổ tập trung để nâng cao chất lượng, sản lượng da nguyên liệu. Phối hợp với các ngành dệt, nhựa, cơ khí để phát triển nguyên phụ liệu đáp ứng yêu cầu của ngành.
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất các sản phẩm giầy dép, đồ da để phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Xây dựng các khu công nghiệp tập trung có đủ điều kiện về hạ tầng và xử lý môi trường để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư.
- Quy hoạch theo vùng lãnh thổ. Bố trí sản xuất và đầu tư của ngành da - giầy trên toàn quốc được xác định thành 3 vùng. Tạo ra sự phát triển cân đối theo vùng và lãnh thổ nhằm tận dụng hết lợi thế về nhân công, nguồn nguyên liệu của từng vùng, đáp ứng chiến lược phát triển kinh tế của từng vùng theo từng giai đoạn.
- Song song với việc xây dựng các nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu, cần xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu để tăng khả năng cung ưng về nguyên liệu cho các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của ngành công nghiệp sản xuất, xuất khẩu giày dép.
- Để có thể tăng cường khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường cho nguồn nguyên phụ liêu – một khâu còn rất yếu đối với các doanh nghiệp Việt Nam – thì Nhà nước có thể khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp chuyên sản xuất tại EU, vừa có thể đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường của EU đặt ra, lại có thể tăng cường khả năng cung ứng nguyên liệu trong nước và giúp phần thúc đầy ngành công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu phát triển. Để có thể thu hút được các doanh nghiệp nước ngoài thì Nhà nước cần phải có kế hoạch quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành, ưu tiên các dự án đầu tư sản xuất.
- Tuy nhiên thì để có thể phát triển ngành công nghiệp phụ trợ này cần nhiều thời gian chứ không thể một sớm một chiều là có thể hoàn thành do đó Nhà nước cần phải có biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên phụ liệu dễ dàng hơn như có thể giảm thuế nhập khẩu hiện nay là 3% xuống 0% để khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu, và dó đó cũng có thể giảm giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh của giày dép Việt Nam.
3.2.1.4. Hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện tối đa cho xuất khẩu.
Rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ, trước hết là luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế. Về luật thương mại: Cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO. Cần quy định chặt chẽ và cụ thể hơn về mọi hoạt động thương mại và liên quan đến thương mại cho phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường và xu hướng hội nhập để khuyến sản xuất và xuất khẩu; Về luật đầu tư nước ngoài: Cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại, dịch vụ. Cần mở cửa hơn, tầm nhìn lâu dài hơn thì mới thu hút được đầu tư; Về luật khuyến khích đầu tư trong nước: Cần quy định rõ hơn về ngành nghề khuyến khích đầu tư để khắc phụ tình trạng không rõ ràng giữa “thay thế nhập khẩu” và “định hướng nhập khẩu”.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xóa bỏ các thủ tục phiền hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất khẩu có định hướng nhất quán để không gây ra khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh. Giảm dần, tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách.
Ngoài ra khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu thì phải phù hợp với luật pháp quốc tế. Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức WTO thì khi thực muốn thực hiện trợ cấp xuất khẩu cần tránh hình thức trợ cấp trực tiếp, thay vào đó có thể thực hiện thông qua các hình thức gián tiếp khác như miễn giảm thuế đối với xuất khẩu, dùng ngân sách nàh nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo về sản phẩm giầy dép của Việt Nam với bạn hàng quốc tế, tạo điều kiện cho xuất khẩu giầy dép ra nước ngoài.
3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp.
3.2.2.1. Đa dạng mẫu mã sản phẩm xuất khẩu.
Mẫu mã kiểu dáng giầy dép hiện nay là khâu còn rất kém đối với ngành sản xuất giầy dép Việt Nam hiện nay. Với kiểu dáng đơn giản, mầu sắc không phong phú thì để có thể cạnh tranh với giầy dép của Trung Quốc là một điều không dễ dàng. Trước sức cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nước xuất khẩu giầy dép giá rẻ nếu các doanh nghiệp Việt Nam không thể cải tiến mẫu mã thì sẽ ngày càng khó để xuất khẩu trực tiếp sang thị trường EU, thị phần sẽ dần giảm xuống và chỉ còn tồn tại được những doanh nghiệp chuyên làm gia công cho nước ngoài với kiểu dáng đã có sẵn.
Để có thể tạo ra được nhiều kiểu dáng và mẫu mà cho giầy dép thì yếu tố quyết định đó là đội ngũ thiết kế trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng hiện nay Việt Nam có quá ít những đội ngũ nhà thiết kế giầy dép lành nghề, hoặc nếu có thì họ cũng chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp, bài bản. Như vậy vấn đề trước mắt hiện nay là làm thế nào để trong thời gian ngắn có thể xây dựng cho các doanh nghiệp có những đội ngũ cán bộ thiết kế giầy dép giỏi. Với đội ngũ nhà thiết kế hiện có tại các doanh nghiệp có thể tiếp tục đào tạo lại, cử một số nhà thiết kế đi học tập tại nước ngoài, hoặc có thể thuê chuyên gia nước ngoài về để giảng dạy trực tiếp.
Hiện tại ở nước ta có rất ít buổi lễ thời trang dành riêng cho giầy dép, có ít nhà thiết kế có tên tuổi trong ngành, đây là một thiếu sót rất lớn cho việc phát triển ngành để đưa sản phẩm đến gần với người tiêu dung hơn, cũng như quảng bá cho các mẫu mã sản phẩm giầy dép của các công ty. Do đó hàng năm nên tổ chức các buổi diễn thời trang chuyên hoặc không chuyên về giầy dép để thu hút các nhà thiết kế chuyên và không chuyên, từ đó có thể sớm phát hiện các tài năng mới làm phong phú cho hội diến thời trang. Bên cạnh đó thì việc tổ chức các buổi diến thời trang như vậy cũng có thể thu hút được sự chú ý của dư luận cũng như nhiều khách hàng tiềm năng trong tương lại.
3.2.2.2. Tăng cường xây dựng thương hiệu cho giày dép Việt Nam
Các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh xây dựng thương hiệu. Các sản phẩm giầy dép nhập khẩu vào EU phải có nhãn mác đầy đủ ghi rõ tên thương hiệu. Vấn đề là thương hiệu của loại giầy dép đó có nổi tiếng hay không. Tuy cùng loại hàng giống hệt nhau được sản xuất tại Việt Nam song nếu sản phẩm nào được gắn nhãn hiệu nổi tiếng thì sẽ được bán với giá cao hơn rất nhiều tai thị trường EU. Điều đó có nghĩa là giầy dép dù có chất lượng tốt nhưng không có thương hiệu, không được biết đến rộng rãi tại EU thì sẽ được bán với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại mà đã có tên tuổi. Điều đó cho thầy tầm quan trọng của việc xây dựng được thương hiệu cho từng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép. Nhưng cho tới nay thì giầy dép được sản xuất tai Việt Nam lại hầu hết là gia công cho nước ngoài phần còn lại thì đều chưa xây dựng được thương hiệu nổi tiếng trong nước chứ chưa nói đến nước ngoài. Do đó việc cấp thiết lúc này là các doanh nghiệp cần nhanh chóng đẩy mạnh việc xây dựng chiến lược để phát triển thương hiệu của mình.
Tuy nhiên do các công ty xuất khẩu giầy dép của Việt Nam chủ yếu có quy mô còn nhỏ bé năng lực sản xuất chưa cao dó để có thể tự xây dựng được thương hiệu lớn trên thế giới là rất khó khăn, do đó bước đầu các doanh nghiệp nên tập trung vào khuếch trương thương hiệu chung là giày dép Việt Nam, sau dó mới xây dụng đến thương hiệu riêng cho doanh nghiệp của mình. Với việc liên kết của hơn 500 doanh nghiệp trong lĩnh vực giầy dép thì đây quả thực sẽ là một đối thủ mạnh hơn nhiều khi xây dựng thương hiệu riêng lẻ trên thị trường EU. Trước khi tính đến xây dựng thương hiệu riêng để hội nhập toàn câu thì ngành da giầy Việt Nam cần phải phấn đấu để có được một vài công ty lớn, trở thành nhà thầu phụ cho các nhãn hiệu lớn trên thế giới như Nike, Adidas, Reebook…Nhà thầu phụ ở đây chính là người thực hiện, biến các ý tưởng của nhãn hiệu toàn cầu thành sản phẩm có chất lượng, mầu sắc, đường nét cụ thể. Các công ty nhỏ còn lại sẽ trở thành đơn vị gia công cho công ty lớn.
Ngoài biện pháp tự xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của công ty mình thì các doanh nghiệp Việt Nam còn có thể thực hiện biện pháp nhượng quyền kinh doanh. Đây là hình thức rất phổ biến trên thế giới nhưng lại chưa quen thuộc đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giầy dép của Việt Nam hiện nay. Hình thức nhượng quyền kinh doanh có hai loại điểm hình là nhượng quyền phân phối sản phẩm và nhượng quyền sử dụng công thức kinh doanh.
- Hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm là: Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép Việt Nam có thể mua giấy phép sử dụng thương hiệu của một hay nhiều hãng sản xuất giầy dép khác đã có thương hiệu nổi tiếng như của hãng Nike, Adidas…sau đó có thể tự điều hành hoạt động kinh doanh một cách độc lập trong một khoảng thời gian nhất định mà ít bị ràng buộc bởi những quy định từ các doanh nghiệp nhượng quyền. Điều này giúp cho các doanh nghiệp có thể khai thác được thương hiệu đã nổi tiếng này, không mất nhiều công để xây dựng thương hiệu cho riêng mình.
- Hình thức nhượng quyền sử dụng công thức kinh doanh là hình thức: Các doanh nghiệp ngoài việc có thể sử dụng thương hiệu có sẵn mà còn được chuyển giao thêm các kỹ thuật kinh doanh và cách thức điều hành quản lý. Đây là hình thức kinh doanh rất thích hợp với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. Các doanh nghiệp sẽ phải thực hiện những quy định, quy trình nghiêm ngặt trong kinh doanh theo tiêu chí đặt ra. Trong hình thức này mối liên hệ giữa bên cho thuê thương hiệu và bên sử dụng thương hiệu rất chặt chẽ để đảm bảo uy tín và giá trị thương hiệu luôn được giữ vững, không kể ai hay doanh nghiệp nào đang sử dụng thương hiệu đó để kinh doanh. Với hình thức này, ngoài việc các doanh nghiệp có thể khai thác được lợi thế của thương hiệu nổi tiếng, lại có thể tiếp thu đươc được kinh nghiệm quản lý, cách thức điều hành sản xuất kình doanh.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam phải xác định việc xây dựng thương hiệu là cả một quá trình lâu dài, và rất khó khăn. Một khi chưa có khả năng thiết kế mẫu mã riêng của mình và chưa tiếp cận được với hệ thống bán lẻ tại thị trường này thì chưa thể nói đến xây dựng thương hiệu. Do đó thay vì đổ tiền vào xây dựng thương hiệu một cách vội vàng gây lãng phí, thì các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép Việt Nam nên tập trung tất cả nguồn lực để nâng cao năng lực sản xuất, xây dựng uy tín về chất lượng sản phẩm và khả năng cung ứng hàng một cách ổn định và khả năng hậu mãi sau bán hàng thật tốt. Thương hiệu sản phẩm phán ảnh uy tín và chất lượng của sản phẩm.
3.2.2.3. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại.
Ngoài việc chú trọng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của giày dép Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu của ta phải nâng cao năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trưởng EU:
- Chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua việc tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức tại Việt Nam hoặc EU, qua tham tán thương mại tại các nước thành viên EU và qua văn phòng EU tại Việt Nam.
- Tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU trực tiếp hoặc thông qua phòng thương mại EU tại Việt Nam, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cục xúc tiến Thương mại-Bộ Thương mại, tham tán thương mại các nước thành viên EU, tham tán thương mại Việt Nam tại các nước EU, trung tâm thông tin thương mại – Bộ Thương mại và qua tài liệu để biết được chính sách kinh tế và thương mại của EU, quy chế nhập khẩu của EU, nhu cầu thị hiếu về hàng hóa và những mặt hang giày dép xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này.
Các doanh nghiệp cần có một địa điểm tại Trung tâm Xúc tiến Thương mại Việt Nam tại EU để làm nơi giao dịch tìm kiếm bạn hàng, trưng bày và giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU. Việc đầu tư này rất cần thiết để giúp cho các doanh nghiệp có được thông tin chính xác về thị trường và bạn hàng. Do đó có thể sản xuất và xuất khẩu sang EU những mặt hàng giày dép đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị hiếu của thị trường EU tại các thời điểm trong năm.
Ngoài ra thì việc tham gia hội trợ triểm lãm chuyên ngành là một trong những hoạt động xúc tiến xuất khẩu phổ biến và rất hiệu quả. Các doanh nghiệp phải lựa chọn hội trợ triển lãm thích hợp để tham gia. Một trong những triển lãm quan trọng nhất trong nghành giầy dép hiện nay là hội trợ giầy GDS vào tháng 3 và tháng 9 tổ chức hàng năm tại Dusseldorf, CHLB Đức. Khi doanh nghiệp đã sãn sàng tham gia xuất khẩu trực tiếp thì nên tham gia hội trợ này. Ngoài ra để tìm nguồn nguyên liệu thì nên tham gia các hội trợ triển lãm ở các nước trong vùng như: Quảng Châu-Trung Quốc, APLF-Hồng Kông. Còn nếu muốn tìm nguồn cung cấp máy móc thiết bị ngành giầy thì nên tham gia hội trợ triển lãm Simac-Italia hoặc Taipei-Đài Loan.
Ngoài việc tích cực tham gia các hội trợ triển lãm nước ngoài, còn cần tiếp tục duy trì và phát triển tổ chức hội trợ triển lãm quốc tế tại Việt Nam để thu hút khách hàng nước ngoài tham gia. Và trước khi tham gia hội trợ các doanh nghiệp cần lựa chọn đúng sản phẩm, chất lượng tốt, mẫu mã phong phú, catalogue giới thiệu, danh thiếp và điều quan trọng là cử đúng cán bộ marketing tham gia. Trong khi triển lãm nên tận dụng khai thác triệt để các mối quan hệ để nắm bắt thông tin về sản phẩm, thị trường, giá cả và xu hướng mẫu mốt trong năm. Sau khi triển lãm cần tiếp tục cùng cố các mối quan hệ đã được thiết lập trong hội trợ.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nghiên cứu ứng dụng các nghiệm vụ marketing để phát hiện những mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ ở thị trường EU. Tăng cường đầu tư vốn và công nghệ hiện đại vào những hoạt động khuếch trương cần thiết như có chiến lược quảng cáo, marketing thích hợp để nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp tại EU. Tổ chức tốt các hoạt động trước và sau khi bán hàng (cung cấp dịch vụ sau bán hàng để duy trì, củng cố uy tín của giày dép Việt Nam đối với người tiêu dùng EU).
3.2.2.4. Xây dựng quy trình sản xuất và chính sách sản phẩm xuất khẩu theo hướng liên kết.
Để tăng cường khả năng xuất khẩu giầy dép vào thị trường EU các doanh nghiệp cần tăng cường xây dựng chính sách sản phẩm xuất khẩu theo hướng liên kết, liên kết ngang và liên kết dọc. Việc tăng cường khả năng liên kết ngang, liên kết dọc nhằm kiểm soát sản phẩm từ khâu đầu tiên đến khâu cuối của quá trình sản xuất kinh doanh đồng thời tăng cường khả năng công khai xuất xứ hàng hóa, đảm bảo yêu cầu về môi trường và nâng cao quy mô xuất khẩu.
Chính sách liên kết ngang tức là liên kết cách doanh nghiệp sản xuất cùng một loại sản phẩm sẽ góp phân gia tăng khả năng cung cấp đơn hàng xuất khẩu theo khối lượng lớn. Trên cơ sở đó, hàng giầy dép Việt Nam có khả năng thâm nhập vào các kênh phân phối theo tập đoanh lớn EU. Đây là biện pháp có thể áp dụng rất thích hợp cho các doanh nghiệp có quy mô sản xuất còn nhỏ.
Song song với việc thực hiện liên kết ngang giữa các doanh nghiệp, việc tiến hành hoạt động liên kết dọc trong toàn quy trình sản xuất sẽ đem lại cho các doanh nghiệp và ngành có nhiều lợi thế hơn. Đây là biện pháp liên kết từ các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu đến doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Đây là biện pháp giúp cho các doanh nghiệp có thể chủ động nguồn hàng cũng như kiểm soát được chất lượng nguyên vật liệu đầu vào và tăng khả năng đáp ứng được các tiêu chuẩn về môi trường và vệ sinh an toàn của xuất khẩu. Theo Hệ thống kểm soát môi trường và tiêu chuẩn môi trường, EU tăng cường khả năng kiểm soát môi trường, đảm bảo từ khâu nguyên liệu, bảo quản, sản xuất cho đến tiêu thụ. Nếu các doanh nghiệp có thể thực hiện tốt quy trình sản xuất theo hướng liên kết này thì có thể đảm bảo cho ngành phát triển bền vững lại có thể thực hiện tốt các tiêu chuẩn môi trường cũng như quy định xuất xứ hàng hóa của EU.
3.2.2.5. Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào EU
Có nhiều phương thức thâm nhập thị trường EU như xuất khẩu qua trung gian, gia công xuất khảu, xuất khẩu trực tiếp, liên doanh, đầu tư trực tiếp…
Xuất khẩu qua trung gian là con đường phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện trong thời gian qua, chủ yếu là qua trung gian châu Á. Hình thức này chỉ phù hợp trong thời kỳ đầu khai phá thị trường.
Ngoài việc xuất khẩu qua trụng gian thì phần lớn doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều sản xuất giầy dép gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài, đây có thể nói là hình thức đem lại ít hiệu quả nhất trong các hình thức xuất khẩu. Hình thức gia công thường chỉ chiếm 25 – 30% giá trị lợi nhuận, phía Việt Nam chủ yếu chỉ đóng vai trò là người làm thuê, không tạo thêm nhiều giá trị gia tăng. Điều này sẽ rất nguy hiểm cho các doanh nghiệp nhất là khi các lợi thế về giá nhân công rẻ mất đi hay không được hưởng một số ưu đãi từ chính phủ, hay sự chuyển hướng kinh doanh từ phía thuê gia công, cho nên đây chỉ có thể là hình thức trong giai đoạn đầu khi các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép của Việt Nam chưa tạo dựng được thương hiệu cho riêng mình, tiềm lực kinh tế còn yếu. Để có thể phát triển bền vững các doanh nghiệp cần phải tính tìm hình thức xuất khẩu khác theo hướng bền vững hơn.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức thích hợp sau thời kỳ khai phá. Nhưng hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép của Việt Nam quy mô còn nhỏ, khi xuất khẩu trực tiếp dễ rơi vào thế bị động đối do khó nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường (những thay đổi về chính sách thương mại, quy chế xuất khẩu, quy định đối với hàng hóa nhập khẩu của EU…). Mặt khác, nhãn hiệu giầy dép của Việt Nam không có danh tiếng nên khó thâm nhập sâu và mở rộng thị phần. Do đó để tăng kim ngạch xuất khẩu trực tiếp vào EU thì các doanh nghiệp da giầy nên liê kết lại với nhau để đáp ứng những đơn đặt hang lớn của EU, cũng như hỗ trợ nhâu nâng cao chất lượng, mẫu mã, giảm giá thành. Khi xuất khẩu trực tiếp giầy dép sang EU, doanh nghiệp Việt Nam nên chọn cho minh một phân khúc thị trường thích hợp tránh đối đầu với hàng sản xuất hàng loạt của Trung Quốc, vì nếu phải cạnh tranh về giá với Trung Quốc thì Việt Nam khó có thể đối đầu được. Nên chọn phân khúc hàng có chất lượng cao nhưng độc đáo, có thể là các sản phẩm giầy dép có trình độ công nghệ cao hoặc có các chi tiết phúc tạp nhờ làm thủ công rất thích hợp với kỹ thuật của người lao động Việt Nam.
Ngoài ra thì hinh thức liên doanh cũng là một hình thức tốt rất thích hợp với tình hình sản xuất hiện nay của Việt Nam. Đây là hình thức giúp cho doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng thêm nguồn vốn, tăng thêm kỹ thuật công nghệ sản xuất, và nếu liên doanh với các công ty đã có thương hiệu về giày dép thì lại có thể khai thác thêm được cả thương hiệu sản phẩm đã có, từ đó giúp ra tăng khả năng sản xuất, cũng như học hỏi được kỹ năng quản lý nước ngoài. Bên cạnh đó như đã phân tích ở phân trên thì hệ thống phân phối của EU là hệ thống phân phối tập đoàn nên rất khó để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập, nhưng với sự liên doanh với các công ty của EU sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thâm nhập trực tiếp vào hệ thống phân phối này. Đây có thể coi là hình thức phù hợp nhất cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
Từ khi nước ta bình thường hóa quan hệ ngoại giao với EU đến nay, EU đã và đang trở thành một trong những đối tác quan trọng nhất và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nhiều mặt hàng Việt Nam, trong đó có giầy dép. Là một thị trường lớn có tính ổn định thống nhất cao, EU là một thị trường có vị trí quan trọng trong hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. Hiện EU là thị trường nhập khẩu giầy dép lớn nhất của nước ta, chiếm tỷ trọng trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành, Việt Nam còn là nước cung cấp giầy dép đứng thứ 2 tại thị trường này. Trong nhiều năm liên tiếp cả kim ngạch lẫn giá trị xuất khẩu giầy dép vào EU đều có tốc độ tăng trưởng cao, với chất lượng giầy dép ngày được nâng lên. Việt Nam với đội ngũ lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, được đánh giá là có khả năng làm các loại giầy cao cấp đòi hỏi sự tỷ mỉ, cầu kỳ khéo léo của người lao động do đó hiện nay ngày càng có nhiều các hãng giầy nổi tiếng hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam để liên doanh hoặc đặt hàng gia công. Tuy nhiên, bên cạnh một số kết quả đạt được nêu trên thì ngành sản xuất xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Tuy đây là một trong những ngành công nghiệp khá phát triển tại nước ta song các doanh nghiệp lại chủ yếu là làm gia công cho nước ngoài, rất ít doanh nghiệp có thể xuất khẩu trực tiếp sang EU. Hiện nay ngành sản xuất giầy dép của nước ta vẫn chưa xây dựng được thương hiệu lớn nào có thể tạo uy tín lớn trên thế giới với chỉ một số mẫu mã giầy dép, nghèo nàn về chủng loại là tình hình chung của các doanh nghiệp hiện nay, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu vẫn là các sản phẩm giá rẻ. Ngoài ra hiện tại ngành vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Đây chính là những điểm khiến cho ngành vẫn chưa thể phát triển tương xứng với tiềm năng của ngành sản xuất giầy dép của nước ta. Do đó để đẩy mạnh xuất khẩu giầy dép sang thị trường EU cần sự nỗ lực nhiều hơn nữa từ phía chính phủ cũng như các doanh nghiệp. Nhà nước có vai trò khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hoạt động hiểu quả hơn thông qua các chính sách khuyến khích, các biện pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nhập khẩu trang thiết bị hiện đại, hỗ trợ về vốn cũng như có các biện pháp thích hợp để tăng cường cung ứng nguồn nguyên liệu, giảm dần sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu…. Ngoài ra thì từ phía các doanh nghiệp cũng cần thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng giầy dép, đa dạng mẫu mã sản phẩm xuất khẩu, và dần dần xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của doanh nghiệp, ngoài ra để có thể đẩy mạnh xuất khẩu giầy dép vào EU thì cần lựa chọn được phương thức xuất khẩu phù hợp với bản thân doanh nghiệp cũng như phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại.
PHỤ LỤC
Thị trường nhập khẩu giầy mũ da tổng hợp của Việt Nam
Thị trường
Năm2006
Năm2007
Năm2008
Năm2009
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Anh
111,532,235
6.17
148,906,687
7.07
175,374,958
7.41
133,837,330
7.87
Đức
95,554,634
5.49
87,442,048
6.39
91,963,488
6.27
1,471,415,808
6.19
Pháp
25,672,868
5.48
40,126,693
6.29
35,589,205
6.74
569,427,280
7.12
Bỉ
30,789,537
5.62
37,347,708
6.05
43,790,895
6.53
700,654,320
7.35
Italia
16,163,301
5.18
20,529,008
7.52
41,672,014
9.17
666,752,224
8.57
Hà lan
19,405,848
7.1
18,943,989
7.77
55,639,926
8.46
890,238,816
8.78
Tây Ban Nha
10,351,072
5.85
15,382,728
6.4
25,760,325
7.5
412,165,200
7.3
Thụy Điển
5,912,377
6.27
13,006,638
7.49
18,617,315
8.28
297,877,040
8.64
Áo
3,710,644
4.81
5,405,295
6.03
7,527,349
7.7
120,437,584
8.99
Hy Lạp
1,252,067
6.41
3,114,767
6.02
4,621,895
8.57
73,950,320
8.45
Đan Mạch
4,423,890
6.99
2,965,043
6.39
2,231,736
6.47
35,707,776
6.95
Nguồn: Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại
Thị trường nhập khẩu giầy thể thao mũ da tổng hợp của Việt Nam
Thị trường
Năm2006
Năm2007
Năm2008
Năm2009
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Anh
45,336,763
6.88
70,045,299
7.51
104,412,564
8.83
92,969,932
9.32
Đức
37,506,288
6.86
35,342,175
6.36
36,120,179
6.9
23,465,158
7.18
Pháp
29,278,751
7.8
31,357,542
7.96
35,900,590
8.46
26,443,282
8.86
Bỉ
25,267,950
6.65
26,660,214
6.62
32,509,932
7.75
22,517,932
9.19
Italia
25,807,764
7.6
23,570,231
8.93
28,397,523
8.88
26,219,958
9.13
Hà lan
22,976,777
9.04
21,568,301
9.28
56,997,316
11.09
51,570,688
11.28
Tây Ban Nha
12,256,666
7.54
12,199,060
5.66
54,442,403
10.54
25,791,962
10.94
Thụy Điển
4,694,801
8.14
6,509,342
8.99
5,077,272
7.92
5,270,012
8.61
Áo
5,886,952
6.7
5,508,421
8.1
7,567,199
9.22
9,439,154
10.85
Đan Mạch
2,403,516
6.33
2,910,418
8.59
2,040,892
8.68
1,970,788
9.57
Hy Lạp
3,400,802
7.09
1,819,089
7.69
4,386,759
8.27
2,985,990
8.59
Nguồn: Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại
Xuất khẩu giầy tennis, giầy bóng rổ sang một số thị trường EU
Thị trường
Năm2006
Năm2007
Năm2008
Năm2009
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Bỉ
48,721,799
13.64
69,915,782
14.01
39,770,693
12.5
17,699,148
12.55
Hà lan
51,895,259
14.78
45,096,980
14.08
36,292,818
11.78
15,827,832
8.72
Anh
26,913,643
8.73
40,246,662
7.77
23,533,976
6.72
14,468,382
6.91
Italia
26,644,819
8.76
33,393,952
9.76
21,299,101
7.71
15,209,288
7.02
Đức
24,994,633
6.66
21,505,554
7.85
10,833,194
7.04
6,101,868
6.11
Pháp
16,972,665
11.06
10,623,191
9.08
16,065,534
6.63
11,891,804
6.78
Tây Ban Nha
10,896,071
7.29
10,093,031
7.59
7,694,946
6.04
6,501,044
6.89
Áo
6,920,414
9.83
9,487,888
13
5,068,936
10.16
3,678,006
14.77
Ba lan
736,229
6.32
2,340,694
7.76
2,000,178
6.78
846,352
8.09
Thụy Điển
1,946,188
7.22
2,260,692
7.93
1,843,650
8.5
1,250,616
7.98
Đan Mạch
3,544,008
8.14
2,112,583
7.16
2,627,199
7.22
3,439,260
7.8
Hay Lạp
1,805,022
9.96
1,472,898
7.71
1,979,017
7.69
1,013,080
7.73
Nguồn: Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại
Thị trường
Năm2006
Năm2007
Năm2008
Năm2009
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Trị gián (USD)
Giá ($/đôi)
Anh
48,640,668
6.5
46,889,604
6.45
33,177,992
4.89
32,186,860
5.17
Hà lan
51,608,115
9.49
40,868,466
9.49
19,330,735
7.91
64,053,396
9.3
Pháp
30,718,435
6.88
32,085,405
7.36
19,574,791
5.69
13,423,926
4.56
Đức
23,092,421
6.15
27,209,800
6.56
21,484,235
5.54
32,264,364
5.27
Bỉ
11,012,940
8.01
19,599,730
11
10,339,775
8.8
13,033,072
7.59
Italia
18,431,846
7.95
19,145,158
7.72
15,016,758
6.98
16,744,864
6.45
Tây Ban Nha
15,441,276
6.55
13,941,928
5.95
16,518,422
5.15
19,532,452
5.35
Thụy Điển
51,818,616
5.6
6,854,242
5.74
3,669,310
4.99
4,450,442
6.05
Hy Lạp
3,689,453
7.21
4,508,881
8.25
1,868,152
7.13
720,890
7.4
Áo
3,537,629
8.5
2,814,184
7.82
1,289,349
6.16
1,376,670
9.11
Đan Mạch
3,932,758
5.77
2,748,211
6.37
2,359,266
5.8
1,850,968
6.76
Xuất khẩu giầy mũ nguyên liệu dệt sang một số thị trường EU
Nguồn: Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
Bộ Công Thương TTTT Công nghiệp và Thương mại (2008), Quy định hải quan EU những điều cần lưu ý đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, NXB Lao động.
PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân (2004), Thâm nhập thị trường EU_những điều càn biết, NXB Thống kê.
Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam-Trung tâm thông tin thương mại châu Âu tại Việt Nam (2002), Kinh doanh với thị trường EU.
Trần Chí Thành (2002), Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, NXB Lao động xã hội.
T.S Nguyễn Thanh Bình (2005), Thị trường EU các quy định pháp lý liên quan đến chính sách sản phẩm trong marketing xuất khẩu, NXB Lao động xã hội
Một số trang webside
www.business.gov.vn/
www.europa.eu/
www.eurunion.org
www.lefaso.org.vn/
www.sla.org.vn/
www.vietbao.com/
www.vietrade.gov.vn/
www.vinasme.com.vn
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẤN
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường eu.doc