Mục tiêu ưu tiên của Việt Nam năm 2012 là kiềm chế lạm phát dưới 10%, các năm sau
th ấp hơn, đến năm 2015 lạm phát khoảng 5 đến 7%. Trong bối cảnh với các áp lực lạm phát
còn khá đậm như kể trên (dù chỉ số CPI tháng 1 -2012 chỉ tăng 1% so với tháng 12-2011 và khả
năng CPI tháng 2-2012 sẽ tăng khoảng dưới 1,5% so với tháng 1-2012 là tín hiệu tốt vì th ấp
hơn nhiều cùng kỳ năm trước), thì rõ ràng đây là mục tiêu cần thiết, nhưng không dễ đạt được,
nếu thiếu các nỗ lực và sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía và nhiều loại công cụ, giải pháp, mà
nổi bật là:
Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt theo tín
hiệu thị trường; kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để bảo đảm tăng
tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ tín dụng hằng năm không vượt quá mức đề ra trong
Nghị quyết 11. Giữ mặt bằng lãi suất hợp lý. Ðiều hành tỷ giá chủ động, phù hợp, không để
biến động lớn. Giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại; bảo đảm
vốn cho sản xuất; kiểm soát chặt cho vay bất động sản và kinh doanh chứng khoán; kiểm soát
nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng.
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3285 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Diễn biến lạm phát từ năm 2008 đến nay và nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môn: TIỀN TỆ NGÂN HÀNG
Đề tài :10
DIỄN BIẾN LẠM PHÁT
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY VÀ
NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT TẠI
VIỆT NAM.
GVHD: ThS NGUYỄN THỊ HAI HẰNG
Họ và Tên: VŨ THỊ THU TRANG
MSSV: K094040620
TPHCM, ngày 29/11/2012
2
Mục lục
Giới thiệu chung ....................................................................................................... 3
I. Lý thuyết về lạm phát ......................................................................................... 4
I.1. Định nghĩa về lạm phát .................................................................................... 4
I.2. Nguyên nhân của lạm phát. .............................................................................. 4
I.2.1. Lạm phát do cầu kéo. ................................................................................. 4
I.2.2. Lạm phát do cầu thay đổi. .......................................................................... 4
I.2.3. Lạm phát do chi phí đẩy. ........................................................................... 5
I.2.4. Lạm phát do cơ cấu.................................................................................... 5
I.2.5. Lạm phát do xuất khẩu............................................................................... 5
I.2.6. Lạm phát do nhập khẩu. ............................................................................. 5
I.2.7. Lạm phát đẻ ra lạm phát. ........................................................................... 6
I.3. Vấn đề rút ra .................................................................................................... 6
I.4. Ảnh hưởng của lạm phát. ................................................................................. 6
I.4.1. Đối với vấn đề thất nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế. ....................... 6
I.4.2. Đối với sự phân phối thu nhập và của cải. .................................................. 7
I.4.3. Đối với sản lượng và công ăn việc làm ...................................................... 7
II. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay. ......................................... 8
II.1. Diễn biến lạm phát 2007-2008. ........................................................................ 8
II.2. Diễn biến lạm phát năm 2009. ......................................................................... 9
II.3. Diễn biến lạm phát năm 2010. ....................................................................... 10
II.4. Diễn biến lạm phát năm 2011. ....................................................................... 10
II.5. Diễn biến lạm phát năm 2012. ....................................................................... 11
III. Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam. ................................................................. 13
IV. Các giải pháp kiềm chế lạm phát Việt Nam. ...................................................... 15
3
Giới thiệu chung
Hiện nay,nước ta đang đối mặt với một chỉ số lạm phát cực kỳ cao. Điều này có tác
động tiêu cực đến toàn xã hội, đặc biệt đối với nền kinh tế trong xu thế hội nhập của Việt Nam.
Tình hình thế giới đang diễn ra trong bối cảnh vô cùng phức tạp. Giá xăng dầu liên tục bất ổn
trong nhiều năm qua do những diễn biến quá phức tạp từ tình hình chính trị ở các quốc gia sản
xuất dầu hỏa.giá xăng dầu tăng cao. Từ đó,kéo theo giá cả các mặt hàng khác như máy móc
,lương thực – thực phẩm cũng leo thang. Nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế non trẻ trong
giai đoạn mở cửa hội nhập cùng nền kinh tế thế giới.Với đăc thù là nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú cùng với lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ,dân số đông nên sức
tiêu dùng mạnh. Vì thế, đầu tư trực tiếp ở nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng cao. Không
dừng lại ở đó, Việt Nam lại gánh chịu những hậu quả nặng nề từ thiên tai và bệnh dịch. Thêm
vào đó là sự không hợp lý của một số chính sách liên quan đến tài chính của Chính phủ. Do đó,
lạm phát cao là điều không tránh khỏi.
Vì vậy, kiểm soát lạm phát hiện nay là một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu của
Chính phủ Việt Nam. Khống chế được lạm phát cao sẽ giúp ổn định Kinh Tế Xã hội và tạo nền
tảng cho tăng trưởng bền vững. Để khống chế được lạm phát ta cần biết rõ nguyên nhân chính
của nó thông qua việc xem xét tác động của những yếu tố chính gây nên lạm phát.
Do đó, bài tiểu luận này của em nghiên cứu về đề tài diễn biến lạm phát ở Việt Nam từ
năm 2008 đến nay và nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam.
4
I. Lý thuyết về lạm phát
I.1. Định nghĩa về lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng giá cả của các loại hàng hóa nói chung. Nói cách khác,
lạm phát là sự giảm sức mua của đồng tiền đối với tất cả các loại hàng hóa. Vì vậy, lạm
phát sẽ làm gia tăng chi phí sinh hoạt.
Lạm phát thường được đo lường bởi chỉ số tiêu dùng – CPI.CPI tính chi phí của
một lô hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường. Xây dựng một chỉ số giá cả bằng cách
cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng kinh tế của nó. Tầm quan trọng kinh tế của
một mặt hàng được tính bằng phần của tổng số chi tiêu cho tiêu dùng dành cho mặt
hàng đó trong thời gian nhất định.
Chỉ số giá tiêu dùng được tính như sau:
CPI =
Trong đó: : là giá hàng hóa i năm gốc.
: là sản lượng hàng hóa I năm gốc.
: là giá hàng hóa i năm t.
Tỷ lệ lạm phát hàng năm được tính theo công thức:
Tỷ lệ lạm phát=
I.2. Nguyên nhân của lạm phát.
I.2.1. Lạm phát do cầu kéo.
Kinh tế học Keynes cho rằng tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì
sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải
trong khi đường AS giữ nguyên khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.Trong khi đó,chủ
nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao
hơn,dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Loại lạm phát này xuất phát
từ sự thay đổi hành vi tổng cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế.Các nguyên nhân có thể là
do chính phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi ngân sách mở rộng, hoặc tăng
chi tiêu tiêu dùng quá mức bình thường do khu vực hộ gia đình quá lạc quan, hoặc do khu vực
hộ gia đình có nguồn thu nhập từ trên trời rơi xuống như viện trợ nước ngoài, thu nhập do giá
cả xuất khẩu tăng đột biến.
I.2.2. Lạm phát do cầu thay đổi.
5
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác
lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía
dưới( chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm
giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, nghĩa là lạm phát.
I.2.3. Lạm phát do chi phí đẩy.
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên , thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí
nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung
của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát do thu hẹp tổng cung
hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng giá bán sản phẩm vì những lý do bất lợi. Loại
lạm phát chủ yếu đến từ phía cung và nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ hiện tượng tăng chi phí
sản xuất không mong đợi từ phía các doanh nghiệp. Tăng chi phí không mong đợi từ các doanh
nghiệp tạo ra những cú sốc tổng cung bất lợi. Công nhân đình công đòi tăng lương ở diện rộng,
giá nguyên liệu tăng đột biến, thảm họa tự nhiên làm đình trệ hoạt động sản xuất của nhiều
doanh nghiệp là những ngòi nổ của loại lạm phát này. Lạm phát chi phí đầy không thể xuất
hiện trong nền kinh tế có thị trường cạnh tranh lành mạnh. Hiện tượng lạm phát loại này có thể
bắt nguồn từ nguyên nhân không thuộc nền kinh tế. Có các dạng lạm phát chi phí đẩy sau:
- Lạm phát do tiền lương đẩy: các nghiệp đoàn đòi tăng lương cho người lao động không hề liên
quan tới nhu cầu thực tế về lao động.
- Lạm phát do lợi nhuận đẩy: loại lạm phát này gây nên do các công ty độc quyền dùng “ sức
mạnh” độc quyền để tăng lợi nhuận khi đặt giá bán sản phẩm của họ cao hơn giá do thị trường
hàng hóa quyết định. Trường hợp này đã xảy ra ở nước ta với giá xi măng do hiệp hội Xi măng
quy đinh vào năm 1995.
- Lạm phát do giá hàng nhập khẩu đẩy: giá hàng nhập khẩu tăng hoàn toàn độc lập với nhu cầu
của nền kinh tế, thí dụ các nước OPEC tăng giá dầu lên gấp bốn lần vào cuối năm 1973 kéo dài
sang năm 1974 gây lạm phát của một loạt nước nhập khẩu dầu mỏ.
- Lạm phát di thuế đẩy: tăng thuế làm cho giá sinh hoạt tăng, chẳng hạn khi thuế giá trị gia tăng
tăng từ làm cho mức giá chung của nền kinh tế tăng.
- Lạm phát do nguồn tài nguyên cạn kiệt: khi nguồn tài nguyên chủ yếu của nền kinh tế bị cạn
kiệt( dầu mỏ) làm cho giá năng lượng tăng; hay môi trường nước bị ô nhiễm làm cho sản phẩm
nghành thủy sản tăng. Giá của từng ngành này sẽ ảnh hưởng tới mức giá chung của toàn bộ nền
kinh tế.
I.2.4. Lạm phát do cơ cấu.
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành
kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong
ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá
thành sản phẩm.Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
I.2.5. Lạm phát do xuất khẩu.
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng có hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động
cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung
thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung mất cân bằng.
I.2.6. Lạm phát do nhập khẩu.
6
Sản phẩm không tự sản xuất mà phải nhập khẩu. khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung
cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền
trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng lên. Lạm phát hình thành
khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
I.2.7. Lạm phát đẻ ra lạm phát.
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự định duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng
hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra
lạm phát. Đây là trường hợp dính của Việt Nam và vô cùng nguy hiểm.
I.3. Vấn đề rút ra
Qua những nghiên cứu của các nhà kinh tế học nổi tiếng, ta có thể nhận thấy một quan
điểm rất rõ ràng nguyên nhân của lạm phát là do lượng cung tiền tăng.
Xét trên tình hình kinh tế nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ta thấy rõ điều này. Từ năm
1986, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới. Từ đó nguồn đầu tư từ nước ngoài đổ vào Việt
Nam tăng dần qua các năm mà chủ yếu là đầu tư trực tiếp FDI nhằm tận dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên và lực lượng lao động dồi dào cộng với giá nhân công rẻ của nước ta. Nhưng thực
tế nền sản xuất ở Việt Nam còn yếu, công nghệ còn yếu kém nên khả năng sản xuất không
tương ứng với tiền đầu tư. Đơn giản hơn là tiền trong lưu thông nhanh hơn số lượng hàng hóa
và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Như vậy, lượng cung tiền tăng lên và tất yếu dẫn
đến lạm phát. Ngoài ra, lượng tiền dư ra đó một phần không nhỏ sẽ đỗ vào chứng khoán, bất
động sản ,…hoặc một số mặt hàng chủ yếu khác. Từ đó, xuất hiện hiện tượng đầu cơ và nâng
giá. Như vậy, mức giá chung sẽ tăng lên. Điều đó càng thúc đẩy lạm phát. Tóm lại, M2 là yều
tố không thể thiếu khi xem xét đến nguyên nhân gây ra lạm phát cao.
Bên cạnh đó, giá dầu trên thị trường thế giới không ngừng tăng lên. Điều này gây ra lạm
phát do đột biến giá theo lý luận của trường phái Neo- Keynesian. Ngoài ra, nó còn gây ra lạm
phát do chi phí đẩy. Giá dầu tăng làm chi phí sản xuất các mặt hàng tăng lên đáng kể, góp phần
đẩy lạm phát tăng cao.
I.4. Ảnh hưởng của lạm phát.
I.4.1. Đối với vấn đề thất nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế.
Tất cả các nền kinh tế và nhà tiền tệ đều đồng ý cho rằng tiền tệ sẽ không có ảnh hưởng
đến sự phát triển của nền kinh tế trong dài hạn. Tuy nhiên, trong ngăn hạn, tiền sẽ góp phần
giải quyết nạn thất nghiệp và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để rõ hơn, ta xem xét mô hình
tổng cung- tổng cầu và đường cong Philips về sự chuyển đổi giữa lạm phát và nạn thất nghiệp.
Khi nền kinh tế đạt mức cân bằng toàn dụng). Lúc này, lạm phát chưa xảy ra và thất
nghiệp ở mức tự nhiên ( điểm Eo). Giả sử rằng Chính phủ phát hành tiền để trang trải ngân
sách thì nền kinh tế tạm thời có them một khối lượng tiền so với trước kia. Điều này sẽ làm
tăng tổng cầu của nền kinh tế và vì vậy đường AD sẽ dịch chuyển từ ADo đền AD1 cắt đường
SRASo tại E1. Tại E1 (Y1; P1) nền kinh tế đạt được mức tổng sản lượng Y1 và mức giá P1.
Lưu ý rằng Y1 > Yo, P1>Po mà điều này có nghĩa là nền kinh tế đang trải qua quá trình lạm
phát. Điểm E1 hình 2.2 chỉ ra mức lạm phát hiện tại là 1 và nạn thất nghiệp ở mức u, giảm bớt
một phần so với mức thất nghiệp tự nhiên u*.
7
Do Y1> Yo ( mức cân bằng toàn dụng), áp lực về lương bắt đầu gia tăng khiến cho các
nhà sản sản xuất cáng khó khăn hơn trong việc tạo ra lợi nhuận cho chính họ. Điều này khiến
họ thu hẹp sản xuất và vì vậy đường SRAS chuyển dịch từ SRASo đến SRAS1 cắt đường AD1
tại E2. Tại điểm E2 (Y o; P2) nền kinh tế trở lại mức cân bằng toàn dụng Yo, áp lực về lương
không còn nữa. Tuy nhiên, mức giá toàn xã hội bây giờ là P2. Điểm E2 chỉ ra mức lạm phát là
và thất nghiệp trở về mức tự nhiên u*.
Cuối cùng, việc tài trợ chi tiêu Chính phủ thông qua con đường phát hành tiền chỉ kích
thích sản xuất phát triển và giải quyết nạn thất nghiệp trong nhất thời (trong ngắn hạn), về lâu
dài nền kinh tế sẽ trở về mức cân bằng toàn dụng ban đầu nhưng mức giá cả sẽ cao hơn trước
đây. Có nghĩa là việc phát hành tiền cuối cùng sẽ gây ra lam phát.
Trong thực tiễn, các nhà kinh tế học đều nhất trí với nhau rằng: lạm phát chỉ tác động
tích cực lên nền kinh tế cũng như góp phần giải quyết nạn thất nghiệp chỉ khi nó được kiềm giữ
ở mức độ 10%. Thirlwall (Akhtar Hossain 1996) sau khi nghiên cứu ảnh hưởng của lạm phát
đối với nền kinh tế của 15 nước Châu Mỹ La Tinh đã kết luận rằng lạm phát có mối quan hệ
đồng biến với phát triển nền kinh tế chỉ khi nó được giữ dưới mức 10%. Vượt qua mức này,
lạm phát sẽ cản trở quá trình phát triển kinh tế.
I.4.2. Đối với sự phân phối thu nhập và của cải.
Một khi lạm phát đã diễn ra trong một thời gian dài và trở nên dự đoán trước được thì
thị trường dần dần thích nghi. Một khoản phụ phí cho lạm phát dần dần hình thành trong lãi
suất trên thị trường. Một khi lãi xuất được điều chỉnh như vậy thì sẽ không còn sự phân phối lại
thu nhập và của cải.
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác động không
được dự đoán trước đối với giá trị thực tế của cải nhân dân. Nói chung, lạm phát có xu hướng
phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định sang tay những
người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định. Sự giảm lạm phát không được dự
đoán trước có tác động ngược lại.
Như vậy, lạm phát chỉ làm xáo trộn thu nhập và tài sản, phân phối lại một cách ngẫu
nhiên của cải trong nhân dân mà không có tác động gì có ý nghĩa đối với một nhóm riêng lẻ
nào.
I.4.3. Đối với sản lượng và công ăn việc làm
Ảnh hưởng đối với mức sản lượng nói chung là trong thời kỳ lạm phát tăng lên bất ngờ
thường là những thời kỳ có công ăn việc làm nhiều và sản lượng cao.
8
Lạm phát tăng đã xảy ra khi đầu tư phát triển mạnh và công ăn việc làm dồi dào. Thế
nhưng, về lâu dài không có mối quan hệ tất yếu giữa lạm phát và sản lượng, không có mối quan
hệ trực tiếp giữa lạn phát với mức sản lượng và công ăn việc làm.
Tác động nền kinh tế vĩ mô đối với sự phân bổ tài nguyên. Lạm phát làm biến dạng . giá
cả tương đối, tỷ lệ lạm phát càng cao thì sự biến dạng giá cả tương đối càng lớn. Một mặt hàng
mà giá trị biến dạng một cách trầm trọng do lạm phát là tiền tệ. Giá cả của đầu vào hoặc hàng
hóa đã được định giá theo những quy tắc lâu dài ( những hợp đồng lao động cà giá cả trong
những ngành công nghiệp được điều tiết) cũng có xu hướng tách xa hơn khỏi mức giá cả chung
trong những thời kỳ lạm phát.
II. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Việt Nam sau 12 năm kiểm soát được lạm phát(1995-2007), tháng 12 năm 2007, lạm
phát quay trở lại với CPI 2 con số. Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng với các tháng
đầu năm 2008.
II.1. Diễn biến lạm phát 2007-2008.
Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt
hàng tăng vọt trong các quý đầu năm
2008: Trong 4 tháng đầu năm,giá lương
thực thực phẩm đã tăng 18,01% cao
gấp rưỡi 11.6% của lạm phát CPI và
cao tương đương bằng mức giá lương
thực các năm 2007, trong đó lương
thực tăng 25%,còn thực phẩm tăng
15,6%.
Trong khoảng 8 tháng đầu năm,
biểu đồ CPI tạo thành những đường
dốc đứng, trồi lên, sụt xuống kế tiếp
nhau. “Nhịp điệu” tăng CPI tạo thành
những đợt sóng, vượt lên một tháng lại
giảm tốc hai tháng mà đỉnh của những
“con sóng” CPI rơi vào các tháng 2, 5
và 8.
Ở 4 tháng còn lại, đường biểu diễn giá
trị CPI tạo thành dốc, trượt xuống
mạnh mẽ, vượt qua mức âm cho đến
tháng tận cùng của năm, khép lại một năm 2008 đầy biến động bằng việc xóa sạch xu hướng
tăng của lạm phát, nhưng làm gia tăng nỗi lo suy giảm.
Năm 2008 khép lại với mức lạm phát kỷ lục 19,89% - nếu so với tháng 12/2007, và xấp xỉ 23%
- nếu so với giá tiêu dùng bình quân của năm 2007, cùng với nỗi lo chính đã không còn là lạm
phát, mà là giảm phát.
Nguồn: Tổng cục thống kê
9
Chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng
đầu năm 2008
Nguồn: www.tuoitre.com.vn
II.2. Diễn biến lạm phát năm 2009.
Không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá tiêu
dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế trầm, thăng
phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng.
Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng Hai,
Sáu, Chín và Mười hai, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Quy luật nén - nhả
nới lỏng dần qua các vòng “xoắn ốc”, và lạm phát gia tăng sau mỗi chu kỳ được hình thành.
Trong 8 tháng đầu tiên, diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính quy luật
và cho cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiệu
những đột biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện thực hóa
phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát.
10
Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so sánh. Nhưng
sự gia tăng mạnh mẽ chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm là một điều đáng lo ngại chuẩn bị
bước vào năm 2010.
II.3. Diễn biến lạm phát năm 2010.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 vẫn cao ở đầu và cuối năm, thấp ở giữa
năm.Diễn biến CPI năm 2010 như hình chiếc cốc, tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh
và đáy lên đến hơn 1,5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm cao nhất đều được tạo thành
từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12, trong khi đáy kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8,
chỉ “bay là là” quanh mức 0%, xác định kỷ lục ngược với xu thể kể trên.
Xuống chậm trong quý đầu năm, “ru ngủ” bằng mức tăng rất thấp giữa năm, để rồi lại
dốc ngược rất sớm trong tháng 9, kéo dài mức tăng trên 1% liên tiếp 3 tháng sau đó, diễn biến
CPI năm 2010 hình thành nên hai thời điểm thay đổi của cảm nhận về lạm phát, sau các cú đột
biến “lao dốc” và “bốc đầu”. Lo ngại lạm phát một lần nữa được “treo” vào mức tăng 1,98%
của tháng 12/2010.
Nhìn trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những thay đổi chính
sách vĩ mô và can thiệp thì trường từ cơ quan chức năng. Năm 2011 đang đến cũng đóng lại
một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neo lại những đoán định về hướng điều chỉnh
chính sách có thể xuất hiện trong đầu năm 2011.
II.4. Diễn biến lạm phát năm 2011.
Diễn biến lạm phát năm 2011 khá phức tạp, thể hiện ở việc tăng cao những tháng đầu
năm và giảm dần từ quý II. Từ đầu năm đến tháng 5, chỉ số giá tiêu dùng gia tăng ở mức cao.
Tuy nhiên, lạm phát đã có xu hướng giảm từ tháng 6 khi triển khai thực hiện Nghị quyết số
11/2011/NQ-CP của Chính phủ bắt đầu phát huy hiệu quả. Đến hết tháng 11/2011, chỉ số giá
tiêu dùng đã tăng tới 17,5% so với cuối năm 2010. Trong 4 tháng cuối năm, lạm phát có dấu
11
hiệugiảmtốc,chỉdưới1%mỗitháng.
Tuy nhiên, lạm phát tháng 12 lại có dấu hiệu nhích lên so với 2 tháng trước đó. Cụ thể, lạm
phát tháng 10 và tháng 11 chỉ là 0,36% và 0,39% nhưng lạm phát tháng 12 lên 0,53%.
II.5. Diễn biến lạm phát năm 2012.
Năm 2012 là năm đầu tiên trong vòng 4 năm trở lại đây có mức tỷ giá khá ổn định. Tỷ
giá hiện nay đang thấp hơn so với đầu năm và dao động quanh mức 20.800 – 20.100
VND/USD. Đây được xem là một nét khá tích cực đối với nền kinh tế.
Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) liên tục giảm trong 6 tháng đầu năm 2012, tính đến hết
tháng 6/2012 tăng 2,52% so với tháng 12/2011 và tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2011. Đây là
cơ sở để điều hành lạm phát mục tiêu năm 2012 ở mức 7-8% và tạo dư địa cho việc thực hiện
chính sách tài khóa, tiền tệ nhằm giảm chi phí lãi vay vốn trong những tháng còn lại của năm.
So với thời điểm 31/12/2011, tổng phương tiện thanh toán (M2) trong 6 tháng đầu năm
ước tăng 6,84% (tháng 5/2012 tăng 4,47%); tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức
tín dụng tăng 7,83% (tháng 5/2012 là 5,42%).
Nhưng đến tháng 9 lạm phát tại Việt Nam lại tăng một cách bất thường, Chỉ số giá tiêu
dùng 2,2% là mức tăng lịch sử so với tháng 9 hằng năm, xô đổ mọi dự báo của các chuyên gia
và cho thấy điều hành giá đang có vấn đề. Sau những lo ngại về nguy cơ giảm phát cách đây
vài tháng trước, ta có thể nhận định về việc “thả” giá các mặt hàng, dịch vụ như vậy để
“kích” CPI. Có thể một số đại diện cơ quan chức năng cho rằng “nhân dịp” lạm phát đang thấp,
có thể điều chỉnh mạnh giá xăng dầu.
Đáng ngạc nhiên hơn nữa, mức tăng 2,47% hồi tháng 9, sang tháng 10, mức tăng CPI
tháng 10 đã giảm mạnh. Mặc dù, giá các nhóm hàng đều nhích lên so tháng trước, song mức
tăng không đáng kể. CPI tháng 11 lại có xu hướng giảm khá mạnh so với tháng 10. Tính
chung, lạm phát hiện tăng hơn 6,5% so với thời điểm cuối năm 2011. Tác nhân chính gây tăng
giá trong tháng này vẫn là nhóm thuốc và dịch vụ y tế (tăng 5,16%) trong đó, dịch vụ y tế tăng
6,66%.Một diễn biến khá bất ngờ khác là chỉ số giá thực phẩm được báo cáo giảm 0,21% trong
tháng 11, mặc dù thị trường đã bước vào giai đoạn cuối năm. Chính nhân tố này đã khiến chỉ số
12
ở khu vực hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,08% trong tháng này, mặc dù giá lương thực và
ăn uống ngoài gia đình vẫn tăng lần lượt 0,05% và 0,2%.
Diễn biến tăng giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế 4 tháng qua. Số liệu: GSO
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sau 11 tháng. Số liệu: GSO
Dự báo lạm phát cả năm 2012 của Việt Nam sẽ ở mức từ 7,5% đến 8,5%,lạm phát có
thể sẽ quay lại mức hai con số vào quý II của năm 2013 do tác động của việc tăng mạnh mức
viện phí và dịch vụ y tế cũng như một số mặt hàng thiết yếu khác có thể được điều chỉnh.
Qua trên ta nhận thấy từ năm 2008 đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn
và biểu hiện tính chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên đến đỉnh điểm
vào tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%).
13
III. Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam.
Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay
đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải
vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn
rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát...) và có trục
trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...). Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 71,1% thời
kỳ 2001-2005 lên 72,2% thời kỳ 2006-2010.
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP
bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng có một phần
do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư.
Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các
thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-
2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2011).
Trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó đáng lưu
ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và
sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su,
gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một
nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên
phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại
và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD.
Nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng suất lao động
thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng lên qua các thời kỳ ( thời kỳ
2006-2011 lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực).
Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ tương
đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước (năm 2008 của
Nhật Bản 73.824 USD, Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc 38.235 USD,
Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD, Indonesia 4.597 USD,
Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD...).
Tổng thu ngân sách/GDP của Việt Nam thuộc loại khá cao (mấy năm nay đạt trên
dưới 28%), nhưng thu từ dầu thô, từ hải quan, thu từ đất đai là những khoản không trực tiếp
phản ánh hiệu quả kinh tế và có xu hướng giảm (thu từ dầu thô năm 2005 chiếm 29,2%, 6 tháng
đầu năm 2011 chiếm 13,9%; thu từ hải quan, tương ứng chiếm 16,7% và 22,5%; thu từ đất đai
chiếm khoảng 6-7%).
Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở mức thấp, nhưng từ năm 2008 đến
nay ở mức cao, tuy đã có xu hướng giảm xuống trong vài năm nay, nhưng vẫn thuộc loại cao.
Trong tổng chi ngân sách, tỷ trọng chi cho đầu tư, chi cho lĩnh vực xã hội là cần thiết, nhưng
14
thuộc loại cao, nhất là chi cho đầu tư công-thể hiện Nhà nước còn “ôm” nhiều quá mà cần
khuyến khích các nguồn lực xã hội.
Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát. Tốc độ tăng dư
nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP.
Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ gấp trên
2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên 6,2 lần-một hệ số rất cao.
Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi con số tương ứng của nhiều
nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, mà tổng
phương tiện thanh toán của Việt Nam không chỉ là tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ.
Tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với lạm phát trên 4
mặt.
- Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho sản
xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền.
- Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh toán
tăng lên.
- Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động tới nhập
lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý, đến lòng
tin vào đồng nội tệ...
- Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở trong
nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế giới; làm tăng
nợ quốc gia khi tính bằng VND.
Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường là tất yếu,
đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Tuy nhiên, kết quả của việc
thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn dập cùng một lúc sẽ tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn,
như đã từng xảy ra trong thời kỳ lạm phát phi mã, hay vào tháng 2-3 vừa qua.
Giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đối với lạm phát ở
trong nước xét trên các góc độ khác nhau.
- Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao (năm
1992 đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt 130,8%, năm 2010
đạt 154,4%, khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn)-tức là có độ mở khá cao, đứng thứ 5 thế giới-
nên biến động giá cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến biến động giá ở Việt Nam hơn các
nước khác.
- Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VND tăng kép: vừa
tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VND tăng.
Ngoài ra, cũng cần tính đến sự chuyển động của dòng tiền giữa các kênh đầu tư. Từ
quý II/2007, thị trường chứng khoán sau khi lên đỉnh đã đao xuống mạnh, làm cho một lượng
tiền lớn từ kênh này chuyển sang làm cho giá bất động sản bốc lên và giá tiêu dùng tăng cao
vào cuối năm 2007, đạt đỉnh điểm vào năm 2008.
15
Giá vàng, giá bất động sản tăng cao vào năm 2009, đầu năm 2010 cũng đã hút một
lượng tiền lớn vào đây, nên CPI cũng tăng chậm lại. Từ cuối 2010, chứng khoán và bất động
sản đều giảm, góp phần làm cho sức ép tăng giá tiêu dùng cao lên. Sự chuyển động của dòng
tiền giữa các kênh cũng góp phần tạo lên sự cộng hưởng và chia sẻ dòng tiền với thị trường tiêu
dùng.
Như vậy, lạm phát ở Việt Nam do nhiều yếu tố. Các giải pháp kiềm chế lạm phát cần
tác động vào các yếu tố đó.
IV. Các giải pháp kiềm chế lạm phát Việt Nam.
Mục tiêu ưu tiên của Việt Nam năm 2012 là kiềm chế lạm phát dưới 10%, các năm sau
thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát khoảng 5 đến 7%. Trong bối cảnh với các áp lực lạm phát
còn khá đậm như kể trên (dù chỉ số CPI tháng 1-2012 chỉ tăng 1% so với tháng 12-2011 và khả
năng CPI tháng 2-2012 sẽ tăng khoảng dưới 1,5% so với tháng 1-2012 là tín hiệu tốt vì thấp
hơn nhiều cùng kỳ năm trước), thì rõ ràng đây là mục tiêu cần thiết, nhưng không dễ đạt được,
nếu thiếu các nỗ lực và sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía và nhiều loại công cụ, giải pháp, mà
nổi bật là:
Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt theo tín
hiệu thị trường; kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để bảo đảm tăng
tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ tín dụng hằng năm không vượt quá mức đề ra trong
Nghị quyết 11. Giữ mặt bằng lãi suất hợp lý. Ðiều hành tỷ giá chủ động, phù hợp, không để
biến động lớn. Giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại; bảo đảm
vốn cho sản xuất; kiểm soát chặt cho vay bất động sản và kinh doanh chứng khoán; kiểm soát
nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, giảm sâu hơn bội chi ngân
sách; tăng cường tiết kiệm chi thường xuyên; rà soát, sắp xếp lại danh mục đầu tư công, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn và chuyển một phần đầu tư nhà nước sang đầu tư từ các nguồn vốn
khác. Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm nợ
công trong giới hạn an toàn.
Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước về giá; xử lý nghiêm khắc các hành vi tăng giá
bất hợp lý, nhất là đối với các nguyên vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu;
công khai, minh bạch và tăng cường cơ chế thị trường đối với giá các hàng xăng dầu, điện và
những mặt hàng nhạy cảm khác chưa có cạnh tranh thị trường đầy đủ.
Thứ tư, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và quản lý thị trường để hạn chế
thấp nhất các tác động tăng giá do yếu tố tâm lý và đầu cơ. Các bộ và địa phương hữu quan
phải chủ động, kịp thời can thiệp thị trường hoặc trình cấp có thẩm quyền các giải pháp ứng
phó trong trường hợp cần thiết để bảo đảm không xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hóa, gây
tăng giá đột biến, ảnh hưởng sản xuất và đời sống của nhân dân, nhất là rà soát cân đối cung -
cầu các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước như: gạo, xăng, dầu,
phân bón, xi-măng, sắt thép.
Thứ năm, kiểm soát chặt chẽ hơn việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích để
giảm nhập siêu và cải thiện cán cân thanh toán. Ðẩy mạnh xuất khẩu, tăng hàm lượng nội địa
và giá trị gia tăng của sản phẩm; phát triển sản xuất thay thế có hiệu quả hàng nhập khẩu; tiếp
tục khuyến khích thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn ODA và FDI (đặc biệt
16
trong phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ và nông nghiệp), cùng với việc kiểm soát,
ngăn chặn việc chuyển giá, trốn thuế. Tăng cường quản lý các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài (FII). Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch quốc tế và nguồn kiều hối.
Thứ sáu, thúc đẩy trên thực tế quá trình tái cấu trúc kinh tế vĩ mô và vi mô, gắn với các
đột phá chiến lược theo một chương trình tổng thể; đồng thời, chủ động giảm thiểu các tác
động mặt trái của quá trình này. Chủ động điều chỉnh cơ cấu đầu tư công theo hướng giảm dần
tỷ trọng và nâng cao hiệu quả; kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và tăng cường
quản lý đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ và kiểm soát chặt chẽ đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước. Ðẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và sắp xếp lại các doanh nghiệp
nhà nước. Phải rà soát đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng
công ty. Tái cơ cấu các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính, tín dụng theo hướng
tăng hợp lý về quy mô, giảm nhanh số lượng các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém; nâng
cao chất lượng tín dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng.
Thứ bảy, cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản
xuất, kinh doanh và mở rộng thị trường; bảo đảm đủ vốn, đủ ngoại tệ với lãi suất hợp lý cho
sản xuất các ngành hàng, các sản phẩm trọng điểm mà thị trường trong nước và xuất khẩu đang
có nhu cầu lớn. Hoàn thiện cơ chế chính sách để huy động các nguồn lực cho phát triển và nâng
cao hiệu quả đầu tư; đa dạng các hình thức đầu tư theo các cơ chế BOT, BT, BTO...; đẩy mạnh
hình thức hợp tác công - tư (PPP) để phát triển hạ tầng có quy mô lớn nhằm tạo bước đột phá
trong lĩnh vực quan trọng này.
Thứ tám, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường công tác phòng,
chống tham nhũng. Cần tạo đột phá về nhận thức lý luận và chủ thuyết phát triển, củng cố giá
trị chuẩn và tạo đồng thuận xã hội chung, tăng cường cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và đổi mới
công tác cán bộ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện có hiệu quả chương trình
cải cách hành chính, chú trọng cải cách thể chế và thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp và nhân dân.
17
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- k094040n_9866.pdf