Đề tài Điều kiện về Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp

Địa hình: Bắc Trung Bộ nơi bắt đầu của dãy Trường Sơn, mà sườn Đông đổ xuống Vịnh Bắc Bộ, có độ dốc khá lớn. Lãnh thổ có bề ngang hẹp, địa hình chia cắt phức tạp bởi các con sông và dãy núi đâm ra biển, như dãy Hoàng Mai (Nghệ An), dãy Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh). sông Mã (Thanh Hoá), sông Cả (Nghệ An), sông Nhật Lệ (Quảng Bình). Cấu trúc địa hình gồm các cồn cát, dải cát ven biển, tiếp theo là các dải đồng bằng nhỏ hẹp, cuối cùng phía Tây là trung du, miền núi thuộc dải Trường Sơn Bắc. Nhìn chung địa hình Bắc Trung Bộ phức tạp, đại bộ phận lãnh thổ là núi, đồi, hướng ra biển, có độ dốc, nước chảy xiết, thường hay gây lũ lụt bất ngờ gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân. - Đất đai: Bắc Trung Bộ có diện tích đất cát, đất bạc màu, đất trơ sỏi đá chiếm tỉ lệ lớn. Có 3 loại đất chính: Đất đỏ vàng trung du miền núi, bao gồm đất đỏ feralit, đất đỏ bazan hoặc đất feralit đã phân hủy từ nguồn gốc đá vôi thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp dài ngày hoặc khai thác lâm nghiệp, trồng cây ăn quả. Đất phù sa bồi tụ ven sông hoặc đồng bằng ven biển, thích hợp đối với cây lương thực, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Đất cát hoặc cát pha ven biển, chất lượng kém, chỉ trồng được một số loại cây hoa màu, trồng rừng phi lao, bạch đàn chống gió và cát bay ven biển Quỹ đất tự nhiên của vùng là hơn 5 triệu ha, trong đó đã sử dụng 2,8 triệu ha (54,4%), đất chưa sử dụng 2,3 triệu ha (45,6% diện tích tự nhiên).

doc90 trang | Chia sẻ: anhthuong12 | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều kiện về Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Bộ và Tây Nguyên. Có hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Các miền đồng bằng có diện tích không lớn do các dãy núi phía Tây trải dọc theo hướng Nam tiến dần ra sát biển và có hướng thu hẹp dần diện tích lại. Đồng bằng chủ yếu do sông và biển bồi đắp, khi hình thành nên thường bám sát theo các chân núi. - Đất đai: Với diện tích tự nhiên hơn 3,37 triệu ha, diện tích đất nông nghiệp là 409 nghìn ha (chiếm hơn 11% diện tích tự nhiên) đất trồng cây hàng năm 349.000ha (chiếm 82% diện tích đất nông nghiệp) trong đó diện tích hai và ba vụ lúa là 155.974 ha. Đất trồng cây lâu năm mới đạt trên 10% đất nông nghiệp (44.360 ha) và đất một vụ lúa (thiếu nước trong mùa khô) còn 40.260 ha. Đất chưa sử dụng còn 1,7 triệu ha trong đó đất bằng chưa sử dụng là 83 nghìn ha, đất trống, đồi núi trọc khoảng 1,3 triệu ha, trong đó có khả năng sử dụng trong nông nghiệp khoảng 120.000 ha, diện tích mặt nước chưa sử dụng là 11.619 ha. Đất có thể phân thành 3 nhóm chính: + Nhóm đất vàng phát triển trên các đá mácma axít, và trung tính chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu trên khu vực đồi núi. + Nhóm đất xám bạc màu chiếm khoảng 10% diện tích tự nhiên. + Nhóm đất phù xa chiếm gần 10% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu dọc các lưu vực sông. Nhìn chung đất Duyên Hải Nam Trung Bộ có độ phì nhiêu thấp. Đất cấu tạo tại chỗ do được hình thành trên đất mẹ nghèo chất dinh dưỡng, lại có địa hình dốc. Đất vùng đồng bằng phần lớn là nghèo độ phì. Bình quân diện tích đất nông nghiệp theo đầu người thấp, đất có khả năng trồng lúa chỉ có 350m2 /người. Đất chưa sử dụng còn lớn, trước hết là đất bằng và mặt nước ven biển, đất trống, đồi núi trọc nhiều cần được trồng rừng và sử dụng cho lâm nghiệp. Đây là những tiềm năng cần được khai thác trong tương lai. - Khí hậu: Trên nền chung của cả nước là tính chất ẩm nhiệt đới gió mùa; khí hậu của vùng này còn mang sắc thái của khí hậu á xích đạo. Cụ thể là bức xạ lớn hơn so với các vùng khác. Biên độ dao động của nhiệt độ thấp .Tổng nhiệt lượng trong năm lớn. Lượng mưa nhìn chung tương đối thấp so với các vùng khác, lượng mưa trung bình hàng năm chỉ khoảng 1200mm. Đây là vùng hàng năm thường bị bão tàn phá, kèm theo là lũ lụt, đã gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đời sống và sản xuất .Một số địa phương chỉ trồng được một vụ lúa một năm. Sự phân hóa về khí hậu có thể phân chia thành 3 tiểu vùng : + Tiểu vùng Nam –Ngãi : tiểu vùng này có lượng mưa khá lớn trung bình hàng năm có khoảng 2.000 –2.200 mm ở đồng bằng, trên 3.000 mm ở vùng núi, số ngày mưa trung bình năm khoảng 120 –140 ngày, mùa mưa kéo dài 6 tháng từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau; mùa khô từ tháng 2 đến tháng7. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 25,5 -260C ở đồng bằng, giảm xuống 23 –240 C ở độ cao 400 – 500 m và 20 –đến 220C ở độ cao trên 1.000m. Tổng tích ôn hòa khoảng 9.5000C ở đồng bằng, giảm xuống 8.5000C ở độ cao 500 –600m. + Tiểu vùng Bình – Phú: tiểu vùng có lượng mưa trung bình năm chỉ khoảng 1.500-1.700 mm ở đồng bằng và trên 2000 mm ở vùng núi cao, số ngày mưa tương đối ít, khoảng 120 – 130 ngày /năm, mùa khô kéo dài 8 tháng, từ tháng 1 đến tháng 8 nhiệt độ trung bình năm 26 – 270 C tổng tích ôn 9.500 – 9.7000C, độ ẩm khá thấp trung bình năm khoảng 80%. + Tiểu vùng Khánh Hoà: Lượng mưa trung bình năm ở đây chỉ vào khoảng 1.300-1.400 mm với 100 ngày mưa. Mùa mưa ngắn từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm, mùa khô kéo dài từ 8-9 tháng, từ tháng 12 đến hết tháng 8, trong đó đặc biệt ít mưa là 4 tháng, từ tháng 1 đến tháng 4 (20-3-mm/tháng), chế độ nhiệt cao đều quanh năm (26-270C), độ ẩm rất thấp trung bình năm khoảng 80%. Với các tiểu vùng khí hậu nêu trên việc bố trí cây trồng, vật nuôi và thời vụ phải phù hợp với từng điều kiện sinh thái cụ thể, để tránh thiên tai nhất là bão, lũ, úng, khô hạn, khai thác được những thuận lợi của chế độ khí hậu. b. Điều kiện kinh tế - xã hội Duyên hải Nam Trung bộ là địa bàn cư trú của người Kinh, chỉ có khoảng 5% dân cư là đồng bào dân tộc . Từ Bình Định đến Khánh Hòa là nơi cư trú của người Chăm xen với người Kinh. Phía Tây Nam Khánh Hòa là nơi sinh sống của dân tộc Gia Rai và Chơ Ru. Đồng bào dân tộc phân bố ở các vùng cao mật độ chỉ khoảng 13 người /km2 (bình quân cả vùng là 196 người/km2) với 8 dân tộc có số dân lớn là Xuđăng (24.860 người), Cơ tu (30,620 người), Giétriêng (6.520 người), Raglai (28.610 người), Chăm (17.280 người), Ê Đê (14.300 người) Bana (21.500 người ). Đến nay có khoảng 70% đồng bào dân tộc ở các vùng còn khó khăn là vùng sâu, vùng xa. Kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp, mức sống đa phần còn đói nghèo và 40% dân số còn mù chữ. Gần 50% lao động tập trung trong khu vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Lao động ngành công nghiệp chỉ khoảng 6,3%, ngành dịch vụ 35,4%, xây dựng là 0,7% và 10,5% là lao động phi sản xuất vật chất. Trình độ lao động nhìn chung tương đối khá, đội ngũ lao động được đào tạo từ công nhân kỹ thuật trở lên đạt 9,4% lao động trong nền kinh tế quốc dân tương đương mức bình quân cả nước. Dân cư có trình độ học vấn tương đối khá, tỷ lệ biết chữ là 89% cao hơn mức trung bình của cả nước. Tiềm năng lao động của vùng này khá phong phú và có trình độ tay nghề cao. Do sớm tiếp xúc với kinh tế thị trường, cách tổ chức quản lý trong sản xuất phần nào thích ứng được với xu thế hiện nay. 3.3. Hạn chế đối với phát triển nông nghiệp - Khí hậu: ít thuận lợi cho phát triển nông nghiệp: lượng mưa trung bình thấp chỉ khoảng 1200mm/năm, cát nước mặn thường xuyên xâm lấn vào đất liền do tác dụng của thủy triều và gió bão. Đây cũng là vùng hàng năm bị bão tàn phá, kèm theo là lũ lụt đã gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đời sống và sản xuất. Một số địa phương chỉ trồng được một vụ lúa/năm. - Diện tích đồng bằng nhỏ hẹp, đất đai kém màu mỡ, năng suất cây lương thực không cao - Đây là vùng khô hạn nhất cả nước. Mùa khô kéo dài và sâu sắc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp và gây khó khăn cho đời sống sinh hoạt của con người. 3.4. Tình hình phát triển nông nghiệp vùng Bản đồ kinh tế chung Duyên hải Nam Trung Bộ Cây công nghiệp (ngắn ngày, dài ngày) chiếm 15% diện tích cây trồng, đã hình thành những vùng cây công nghiệp tập trung như mía (28.000 ha, sản lượng 1 triệu tấn), dứa 18.000 ha, trong đó diện tích thu hoạch 13.000 ha), lạc 20.000 ha) và gần đây là chè, dâu tằm, đào, cao su, ca cao, cà phê Chăn nuôi chiếm 27% giá trị sản lượng nông nghiệp, đàn trâu có khoảng 157,8 nghìn con, bò 1,1 triệu con (chiếm gần 20% đàn bò cả nước), đàn lợn 4 triệu con. Chương trình sinh hóa đàn bò và nuôi lợn theo hướng lấy thịt nạc đang phát triển tốt. Chăn nuôi bò sữa và các đặc sản bắt đầu phát triển, trước hết ở vùng phụ cận thành phố Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang với quy mô vài trăm con mỗi vùng. Với đặc điểm về tài nguyên thiên nhiên sản xuất vùng Duyên hải Nam Trung bộ trong nhiều năm qua không ổn định. Vấn đề đặt ra hiện nay là vùng cần có sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đảm bảo ổn định sản xuất, nâng cao đời sống, đưa hiệu quả sản xuất cao hơn. Hướng phát triển của vùng về lương thực, thực phẩm là chuyển đổi cơ cấu mùa vụ kết hợp với biện pháp thay đổi giống, thâm canh, đưa sản xuất ổn định, có mức tăng trưởng cao. Cụ thể là tập trung các ngành sản xuất hàng hóa Ngành sản xuất mía đường: đây là ngành truyền thống của vùng và cả nước. Với điều kiện sinh thái đặc thù, cây mía hiện là cây chủ lực trong nền kinh tế nông nghiệp, góp phần làm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Vì vậy vùng tập trung xây dựng vùng trồng và chế biến mía đường lớn nhất cả nước, phấn đấu đạt sản lượng 500 tấn đường /năm (chủ yếu là các tỉnh Quảng Ngãi – Bình Định – Phú Yên). Phát triển cây công nghiệp lâu năm đầu tư phát triển cây quế, điều, cao su và một số loại cây ăn quả đặc biệt so với các vùng khác như: nho, thanh long, dừa - Về chăn nuôi: Vùng có đủ điều kiện phát triển đàn trâu, bò số lượng lớn, chất lượng cao, gia súc, gia cầm (lợn gà, vịt) hình thành vành đai thực phẩm lớn, chủ động cung cấp cho các đô thị, các vùng và xuất khẩu. Phát triển nuôi trồng, khai thác chế biến hải sản và đẩy mạnh kinh tế biển. Những loại ưu thế cần tập trung đầu tư như : tôm hùm, tôm sú, ngọc trai, điệp và bảo vệ những sinh vật biển ngoài khơi xa bờ. 3.5. Định hướng phát triển nông nghiệp của vùng duyên hải Nam Trung Bộ - Phấn đấu giữa mức tăng trưởng ổn định trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng thâm canh, tăng vụ tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa. - Phát huy năng lực của các công trình thủy lợi hiện có và xây dựng các công trình mới để thâm canh, kết hợp mở rộng diện tích nhằm từng bước thực hiện mục tiêu an toàn lương thực và góp phần tham gia xuất khẩu. - Chú trọng phòng chống thiên tai lũ lụt. - Phát triển các cây công nghiệp ngắn ngày (mía, lạc, thuốc lá,) và cây công nghiệp dài ngày (điều, dứa, cà phê, chè, ca cao, cao su, hồ tiêu), tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. - Phát triển nông nghiệp kết hợp với lâm nghiệp, vườn đồi tạo môi trường phát triển bền vững. - Chú trọng trồng cây ăn quả phục vụ đời sống, tạo cảnh quan, môi trường cho du lịch. - Phát triển mạnh và đưa ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất hàng hóa. Tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản lượng nông nghiệp đến 2010 đạt 40 – 45%. Đẩy mạnh chăn nuôi bò thịt, bò sữa, đàn lợn và gia cầm (cần chú trọng công tác thú y cho ngành chăn nuôi). MỘT SỐ SẢN PHẨM CHUYÊN MÔN HÓA Ở DHNTB Trồng lạc ở Quảng Ngãi Trồng dừa ở Quảng Nam Nuôi thủy sản ở Khánh Hòa 4. Tây Nguyên 4.1. Khái quát chung Tây nguyên bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Diện tích tự nhiên là 54640,6 km2 chiếm 16,5% diện tích cả nước, năm 2015 là gần 5607,9 nghìn người chiếm 6,1% dân số cả nước. Phía Đông và Đông Nam giáp DHNTB và ĐNB, phía Tây có trên 500 km đường biên giới với Lào và Cam-Pu-Chia nên có vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng của cả nước. Có lãnh thổ rộng lớn và nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp đặc biệt có lợi thế để phát triển cây công nghiệp lâu năm. Tây Nguyên đã trở thành một trong hai vùng sản xuất hàng hoá nông sản xuất khẩu lớn của cả nước. 4.2 Thế mạnh phát triển nông nghiệp a. Điều kiện tự nhiên  - Địa hình và đất đai: địa hình chủ yếu là các cao nguyên bazan xếp tầng ở các độ cao khác nhau, trung bình là 700 – 800m rất rộng lớn bề mặt khá bằng phẳng tạo thuận lợi cho việc phát triển nông - lâm nghiệp với quy mô lớn, đặc biệt là những vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm (cà phê, chè, cao su). Trong vùng có nhiều loại đất tốt, đặc biệt là đất đỏ ba dan có khoảng 1triệu ha tập trung chủ yếu ở các cao nguyên Buôn Ma Thuột, Đắc Nông, PlâyKu, Kon Hà Nừng, Di Linh, Đức Trọng thích hợp cho việc phát triển cây công ngiệp dài ngày như chè, cà phê, cao su và các loại cây ăn quả. Đất đỏ vàng phát triển trên nền đá mácma axít chiếm khoảng 1,8 triệu ha, tuy kém phì nhiêu hơn đất đỏ ba dan nhưng tơi xốp, giữ ẩm tốt, thích hợp với nhiều loại cây trồng. Diện tích đất phù sa sông suối ở các vùng trũng giữa núi với khoảng 130.000ha, thích hợp cho việc phát triển cây lương thực, rau đậu thực phẩm, nhất là trồng lúa nước. - Khí hậu: Tây Nguyên có khí hậu cận xích đạo thuận lợi phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới. Tuy nhiên, khí hậu có sự phân hóa theo độ cao, ở các cao nguyên có độ cao trên 1000m khí hậu mát mẻ thích hợp phát triển tập đoàn cây, con cận nhiệt, ôn đới. Khí hậu có sự phân mùa rõ rệt. Mùa khô ở Tây Nguyên kéo dài thuận lợi cho việc bảo quản và phơi sấy sản phẩm - Tài nguyên nước:Do lượng mưa lớn nên dòng chảy khá dồi dào với một số hệ thống chính thượng Xê Xan, sông Xrêpok với 3 nhánh chính Krông Ana- Krông Knô - Ea H’leo, thượng sông Ba, thượng nguồn sông Đồng Nai Tổng lưu lượng nước mặt hàng năm trung bình 50 tỉ m3. Ngoài ra còn có một số hồ chứa lớn như Biển Hồ, hồ Lăk là nguồn cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp của vùng. b. Điều kiện kinh tế – xã hội Tây Nguyên đang chuyển mạnh từ một nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với các vùng chuyên môn hóa khác nhau. Vì vậy trình độ thâm canh từng bước được nâng lên. Điều kiện cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kí thuật, cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến từng bước được cải thiện góp phần nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa ở Tây Nguyên. Người dân Tây Nguyên sớm tiếp cận với nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, do vậy họ rất năng động trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt trong những năm gần đây, Tây Nguyên thu hút được một lượng lớn lực lượng lao động từ các vùng khác chuyển tới. Thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng do nhu cầu về các sản phẩm cây công nghiệp lâu năm ngày càng lớn. Nhà nước có nhiều chính sách ưu tiên phát triển kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp ở Tây Nguyên nói riêng. 4.3. Những hạn chế đối với phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên Mùa khô kéo dài là khó khăn lớn nhất về mặt tự nhiên đối với Tây Nguyên. Hơn nữa sự suy thoái lớp phủ rừng trong những năm gần đây đặt ra những vấn đề phức tạp trong việc quản lý tài nguyên nước của vùng. Nếu giải quyết tốt vấn đề nước tưới thì cùng với chế độ nhiệt và tài nguyên đất, Tây Nguyên sẽ tạo ra một nền sản xuất nông nghiệp đa dạng với năng suất sinh học cao. Đây là vùng dân cư thưa thớt, mức sống của nhân dân còn thấp, tỉ lệ mù chữ cao, điều kiện cơ sở hạ tầng, giao thông, thông tin liên lạc, mạng lưới cơ sở công nghiệp còn thiếu thốn là một trong các nguyên nhân kìm hãm sự phát triển nông nghiệp cũng như phát triển KT-XH của vùng. 4.4. Các sản phẩm chuyên môn hóa của vùng Nông nghiệp là ngành kinh tế chính của vùng, đóng góp phần lớn trong cơ cấu GDP 50,7% (2004), giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên đạt 10.210,7 tỷ đồng chiếm 11,7% cả nước. a. Ngành trồng trọt: Tây Nguyên là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn thứ hai cả nước sau Đông Nam Bộ. Cây công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội, sinh thái cao và lâu dài cho Tây Nguyên. Bản đồ kinh tế chung của Tây Nguyên - Cây công nghiệp lâu năm: + Cà phê: cà phê là cây trồng chủ lực của Tây Nguyên. Tây Nguyên là vùng có diện tích và sản lượng cà phê lớn nhất cả nước. Tính đến hiện nay Tây Nguyên đã chiếm 80% diện tích và 90% sản lượng cà phê cả nước. Hiện nay, Tây Nguyên có hai vùng chuyên canh cây cà phê lớn. Đó là vùng cà phê Buôn Ma Thuột và vùng cà phê Gia Lai. Trong những năm gần đây, Tây Nguyên phát triển mạnh cây cà phê chè có chất lượng cao hơn cây cà phê vối và mở rộng diện tích cây cà phê xuống phía nam Plâycu và tỉnh Kon Tum. Tuy nhiên diện tích và sản lượng cà phê ở Tây Nguyên thiếu ổn định do thiếu vốn và chưa thích ứng được với biến động của thị trường. Tây Nguyên đã chú ý tạo dựng thương hiệu cho cây cà phê ở thị trường trong nước và thế giới. + Cây cao su: cây cao su là loại cây công nghiệp có ưu thế thứ 2 ở Tây Nguyên sau cây cà phê. Đây cũng là vùng có diện tích và sản lượng cao su lớn thứ 2 cả nước sau Đông Nam Bộ. Cây cao su phân bố ở độ cao hơn 600m, trên các vùng đất xám ở phía Tây và Nam tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc. Mô hình trồng cao su của vùng này đang tạo ra sự hấp dẫn mạnh mẽ đối với các tổ chức, các thành phần kinh tế và các hộ gia đình tham gia đầu tư phát triển cao su. + Cây chè: trồng chủ yếu trên độ cao 500 - 900m so với mặt nước biển, tập trung ở Lâm Đồng với chè B’lao, ở Gia Lai nổi tiếng với chè Bầu Cạn, Biển Hồ. Chè Tây Nguyên phát triển chủ yếu trong các hộ gia đình nông dân, nông trường quốc doanh chỉ quản lí 13,6% diện tích canh tác. + Cây hồ tiêu: đây là cây trồng để lấy hạt có giá trị xuất khẩu cao, trồng nhiều nhất ở Đắc Lắc, Đắc Nông. Tây Nguyên là vùng trồng nhiều hồ tiêu thứ hai cả nước sau vùng ĐNB. - Cây công nghiệp ngắn ngày: chủ yếu là dâu tằm tập trung nhiều nhất cả nước, phân bố ở Lâm Đồng, Đắc Lắc. Cây mía: cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến đường trong vùng. Cây bông: cung cấp một phần bông thay thế nhập khẩu, nhờ phát huy được lợi thế về đất đai, khí hậu kết hợp với các chính sách khuyến khích phát triển của tổng công ty bông Việt Nam, tỉnh Đắc Lắc đã mở rộng diện tích trồng bông. - Ngoài các sản phẩm chuyên môn hóa trên, Tây Nguyên còn được biết đến là vùng chuyên canh rau, hoa cao cấp ở Đà Lạt phục vụ cho các thành phố lớn và xuất khẩu. Biểu đồ: Sản lượng một số nông sảncủa Tây Nguyên so với cả nước (2004) Cà phê Chè Cao su Các vùng còn lại Tây Nguyên b. Ngành chăn nuôi: Có nhiều thế mạnh phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng hàng hoá do có diện tích đồng cỏ rộng và khí hậu thích hợp. Đàn bò tăng nhanh hơn đàn trâu, đặc biệt là nuôi bò sữa với quy mô lớn ở Lâm Đồng. Trước đây chăn nuôi bò chỉ có ở quy mô gia đình của một số đòng bào dân tộc Ê Đê, Gia Rai...Tuy nhiên trong những năm gần đây, đàn bò tăng mạnh và mở rộng quy mô. Vùng chăn nuôi bò sữa Đức Trọng trở thành vùng chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa nổi tiếng ở nước ta. Đàn lợn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao nhờ nguồn thức ăn dồi dào từ vùng trồng hoa màu lương thực. Một vài hình ảnh về các sản phẩm chuyên môn hóa của Tây Nguyên Thu hoạch cà phê ở Tây Nguyên Thu hoạch chè ở Bảo Lộc-Lâm Đồng Vườn trồng hoa ở Đà Lạt Chăn nuôi bò sữa ở Đức Trọng-Lâm Đồng 4.5. Định hướng phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên Định hướng phát triển chủ đạo của Tây Nguyên phải là chuyển sang sản xuất hàng hoá đa dạng, quy mô lớn. Phát triển kinh tế vùng gắn với việc bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái, gắn với phát triển xã hội. Riêng đối với nông nghiệp cần phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, phát huy ưu thế và tiềm năng phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, có các biện pháp cần thiết để thích ứng với biến động của thị trường thế giới về các sản phẩm hàng hóa của vùng. Thực hiện thâm canh cao kết hợp với phát triển công nghiệp chế biến; quy hoạch đối với tất cả các cây trồng như cà phê, cao su, chè, điều, hồ tiêu, câu ăn quả, cây dược liệu và các loại cây công nghiệp ngắn ngày. Mở rộng diện tích và thâm canh ngô, bông. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, lấy chăn nuôi hộ gia đình là chính nhằm tạo nguyên liệu thịt, sữa, da phục vụ công nghiệp chế biến. Kết hợp phát triển nông nghiệp với việc đẩy mạnh mạng lưới công nghiệp chế biến và nâng cấp cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng. 5. Đông Nam Bộ 5.1. Giới thiệu Vùng Đông Nam Bộ bao gồm gồm 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh. Diện tích tự nhiên là 23.605,2 km2, dân số năm 2015 là gần 16127,8 nghìn người, chiếm 7,13% diện tích tự nhiên, chiếm 17,6% dân số cả nước. Là vùng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Với vị trí thuận lợi để giao lưu với các vùng khác trong nước và thị trường quốc tế, đất đai màu mỡ cùng với những thuận lợi về cơ sở hạ tầng, ĐNB được đánh giá là vùng có điều kiện phát triển một nền kinh tế tổng hợp và khai thác lãnh thổ theo chiều sâu. Ngành nông nghiệp phát triển dựa trên sự hỗ trợ đắc lực của công nghiệp và các ngành dịch vụ khác nhau. Bên cạnh đó nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu cho công ngiệp chế biến (trong đó có xuất khẩu). Có thể nói, Đông Nam Bộ là vùng hội tụ đầy đủ nhất các nguồn lực để trở thành vùng kinh tế phát triển nhất cả nước. 5.2. Thế mạnh phát triển nông nghiệp a. Vị trí địa lí ĐNB có vị trí địa lí rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và nông nghiệp. Vùng này nằm kề với Đồng bằng sông Cửu Long – vùng lương thực, thực phẩm lớn nhất cả nước, giao lưu thuận tiện nhờ có mạng lưới kênh rạch và hệ thống đường bộ. Bằng đường bộ còn có thể dễ dàng giao lưu với Campuchia, với vùng Nam Tây Nguyên; bằng đường bộ và đường sắt xuyên Việt có thể liên hệ với các tỉnh khác trong cả nước, nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ. Cụm cnagr Sài Gòn (đường không và đường biển) và Vũng Tàu tạo cửa ngõ cho vùng mở ra với nước ngoài. b. Điều kiện tự nhiên - Địa hình: ĐNB nằm trên vùng đồng bằng và bình nguyên rộng chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long với những vùng đất gò đồi lượn sóng. Nhìn chung, địa hình thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp tập trung có quy mô lớn, đặc biệt cho sự phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. - Khí hậu: Nằm trong miền khí hậu phía Nam, ĐNB có đặc điểm của một vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt cao và tương đối ổn định trong năm, nhiệt độ trung bình 23-250C, lượng mưa khá phong phú tập trung chủ yếu vào mùa mưa, ít chịu ảnh hưởng của bão và các thiên tai khác thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng nhất là các loại cây trồng nhiệt đới, tạo điều kiện hình thành nèn nông nghiệp nhiệt đới đa dạng, tăng khả năng thâm canh, xen canh, tăng vụ, năng suất cây trồng, vật nuôi cao. - Đất đai: Trong vùng có nhiều loại đất tốt, giàu dinh dưỡng như đất đỏ bazan chiếm 40% diện tích của vùng, nối tiếp với miền đất badan của Nam Tây nguyên và cực Nam Trung Bộ. Đất xám bạc màu (phù sa cổ) chiếm diện tích nhỏ hơn chút ít, phân bố thành vùng lớn ở các tỉnh Tây Ninh và Bình Dương rất thích hợp với phát triển cây công nghiệp ngắn ngày ( đậu tương, mía, thuốc lá) và cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê, hồ tiêu, điều). - Nguồn nước: dồi dào từ các hệ thống sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai (lớn thứ ba Việt Nam), có các hồ chứa nước lớn như hồ Dầu Tiếng và Trị An. Tổng lượng nước mặt dự trữ hiện tại hàng năm lên đến gần 4 tỉ m3, đủ khả năng cung cấp nước cho vùng. Nguồn nước ngầm có trữ lượng khá lớn, phân bố tập trung ở Biên Hoà - Long An và TP Hồ Chí Minh. - Tài nguyên thủy, hải sản: Vùng ĐNB nằm gần các ngư trường lớn là ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu và ngư trường Cà Mau – Kiên Giang, đồng thời có các điều kiện lí tưởng để xây dựng để xây dựng các cảng cá. Ven biển có rừng ngập mặn, thuận lợi để nuôi trồng các loại thủy sản nước mặn và nước lợ. c. Điều kiện kinh tế- xã hội: - Lao động: Lực lượng lao động tại chỗ khá dồi dào. Mặt khác số lao động lại có kĩ thuật, nhạy bén với những tiến bộ khoa học kĩ thuật, tính năng động cao với nền sản xuất hàng hoá và đã quen với việc kinh doanh trên thị trường. Đây là tiềm năng quý giá để khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực của ĐNB. - Cơ sở vật chất kĩ thuật: tương đối tốt, đặc biệt mạng lưới giao thông vận tải tốt hơn các vùng khác, đã xây dựng nhiều nhà máy công nghiệp chế biến tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp vùng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. - Nền kinh tế thị trường: sớm hình thành và phát triển tại Đông Nam Bộ là một trong các điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế của vùng. - Vốn: là vùng đang tiếp tục thu hút đầu tư trong nước và quốc tế lớn nhất cả nước. Có thể nói, tất cả những yếu tố trên là nguồn lực đưa Đông Nam Bộ trở thành vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước 5.3. Những hạn chế đối với phát triển nông nghiệp của vùng Hạn chế lớn nhất đối với phát triển nông nghiệp của vùng là sự phân hóa mùa sâu sắc. Mùa khô kéo dài tới 4 – 5 tháng (từ cuối tháng XI đến hết tháng IV) gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Tuy nhiên, Đông Nam Bộ đang từng bước khắc phục bằng việc xây dựng các hồ chứa, các công trình thủy lợi để giải quyết vấn đề nước tưới vào mùa khô. Vấn  đề thủy  lợi trong vùng có ý nghĩa hàng đầu. Nhiều  công trình thủy lợi đã được xây dựng. Công trình thủy lợi Dầu Tiếng trên thượng lưu sông Sài Gòn (tỉnh  Tây  Ninh) là công  trình thủy lợi lớn nhất của nước ta hiện nay. Hồ Dầu Tiếng rộng 270 km2, chứa 1,5 tỉ m2 nước,  bảo đảm tưới tiêu cho hơn 170 nghìn ha đất thường xuyên bị thiếu nước về mùa khô của tỉnh Tây Ninh và của huyện Củ Chi (Thành  phố Hồ Chí Minh). Việc giải quyết nước tưới cho các vùng  khô hạn về mùa khô và tiêu nước cho các vùng thấp dọc sông  Đồng  Nai và sông La Ngà cũng được thực hiện kết hợp với việc  xây dựng các công trình thủy điện trên sông Bé, sông Đồng Nai và sông La Ngà. Nhờ đó, diện tích đất trồng  trọt tăng lên, hệ số sử dụng  đất trồng cây hàng năm cũng tăng và khả năng bảo đảm lương thực, thực phẩm  của Vùng  cũng khá hơn. 5.4. Những sản phẩm chuyên môn hóa chủ yếu của vùng ĐNB có tiềm năng to lớn phát triển nông nghiệp với những thế mạnh nổi bật như chuyên canh cây công nghiệp, chăn nuôi nhất là nuôi bò sữa. Giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng tăng lên đáng kể đạt 17.769,3 tỷ đồng chiếm 12,2% cả nước (năm 2004). Bản đồ kinh tế chung Đông Nam Bộ a. Ngành trồng trọt: Do có nhiều điều kiện thuận lợi nên ở ĐNB đã hình thành nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung trên quy mô lớn. Nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng cao trong sản lượng hàng hoá cả nước. - Cây công nghiệp: Đây là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn thứ nhất cả nước, đặc biệt là các loại cây công nghiệp nhiệt đới có giá trị xuất khẩu lớn. Tập đoàn cây công nghiệp dài ngày của vùng Đông Nam Bộ bao gồm cao su, cà phê, chè, điều, dâu tằm. Cây lâu năm là thế mạnh của vùng Đông Nam Bộ và chiếm 36% diện tích cây lâu năm của toàn quốc. Trong số cây công nghiệp dài ngày, chiếm ưu thế là cây công nghiệp (76,6%), còn cây ăn quả chiếm tỉ lệ rất ít. Tại đây đã hình thành nên các vùng chuyên canh cây công nghiệp với cơ cấu cây trồng tương đối ổn định. + Cây cao su: Việc trồng cây cao su ở Đông Nam Bộ đã được tiến hành từ thời Pháp thuộc. Cho đến nay, cây cao su đã trở thành cây trồng chủ lực của vùng (khoảng 38% diện tích đất trồng cây lâu năm của vùng). Diện tích và sản lượng cao su của vùng chiếm trên 80% cả nước. Cây cao su của vùng Đông Nam Bộ tập trung ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước Hiện nay cây cao su đang được đầu tư theo chiều sâu, những vườn cao su già cỗi được thay bằng các loại giống cao su mới của Indonesia và Malaixia với năng suất cao gấp nhiều lần. Vì thế sản lượng cao su những thập kỉ tới chắc chắn sẽ tăng lên và khẳng định được vị thế của cây cao su Việt Nam trên thị trường thế giới. + Cây cà phê: do có diện tích đất đỏ bazan, có điều kiện tưới tiêu và cây cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao nên ĐNB trở thành vùng trồng cà phê lớn thứ hai cả nước sau Tây nguyên, trồng nhiều ở Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Diện tích cà phê hiện nay của toàn vùng là 65 nghìn ha và sản lượng 81 nghìn tấn, chiếm 15,5% diện tích và 10% so với cả nước (năm 2002). + Cây hồ tiêu: nhờ có đất đỏ bazan và khí hậu nhiệt đới thích hợp cho phát triển hồ tiêu, mặt khác vùng có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, có kĩ thuật mới, giống mới nên diện tích và năng suất hồ tiêu của vùng không ngừng được mở rộng. Năm 2002 diện tích đạt 19.840 ha, sản lượng là 36.800 tấn, chiếm 52,7% và 63% cả nước. Tập trung ở ba huyện Xuân Lộc, Long Khánh, Châu Thành (Bà Rịa - Vũng Tàu) trên đất vườn của các hộ nông dân. + Cây điều: đây là vùng trọng điểm trồng điều hiện nay, diện tích và sản lượng chiếm trên 70% của cả nước. Số lượng điều tiêu thụ trong nước rất ít khoảng 10%, chủ yếu là để xuất khẩu với giá thành cao. Được trồng ở đất có tầng canh tác mỏng hoặc đất cát ven biển, đất xám khô hạn. Tập trung ở các huyện Long Thành, Châu Thành, Long Khánh và các huyện thuộc tỉnh Bình Phước. - Cây công nghiệp hàng năm: khá phong phú với nhiều loại cây như mía chiếm 22,5% diện tích và 21,6% sản lượng của cả nước trồng nhiều ở Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương; đậu tương 20,15% và 15,17% tập trung ở Đồng Nai, Bình Phước; thuốc lá 56,4% và 52,9% trồng tập trung ở Tây Ninh và một số tỉnh trong vùng; Là vùng trồng bông vào loại lớn nhất nước ta nhờ có điều kiện khí hậu đất đai thích hợp diện tích chiếm 45,2% và sản lượng chiếm 60,2% cả nước. - Cây ăn quả: đặc biệt những loại cây ăn quả cao cấp, sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Những khu vực trồng cây ăn quả lớn là Thủ Đức, Đồng Nai, Lai Thiêu; bưởi Tân Triều (Biên Hoà); chuối, sầu riêng (long Khánh); nhãn, mãng cầu (Bà Rịa - Vũng Tàu). - Cây lương thực: tuy không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất lương thực nhưng vùng cũng đã trồng và đã cải tạo ra các cây lương thực hàng hoá đánh giá cao như lúa, ngô, sắn. b. Ngành chăn nuôi: Hình thức chăn nuôi cũng như cơ cấu ngành có sự thay đổi, do nhu cầu sử dụng các sản phẩm ngày càng lớn nên chăn nuôi công nghiệp phát triển thay thế cho chăn nuôi gia đình lấy sức kéo trước đây. - Chăn nuôi bò: hình thức chăn nuôi phân tán trong hộ gia đình đã được thay thế theo hướng tập trung trang trại kể cả bò sữa và bò thịt. Năm 2004 tổng đàn bò của vùng đạt 599,7 nghìn con trong đó bò sữa là 13 nghìn con, sản lượng sữa chiếm 75% cả nước. Điển hình là nuôi bò sữa theo hình thức công nghiệp ở huyện Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh) - Chăn nuôi trâu: không phát triển bằng chăn nuôi bò, năm 2004 vùng có 105,5 nghìn con chiếm 3,7% cả nước. - Chăn nuôi gia cầm: như gà, vịt với trên 17 triệu con năm 2004, phương thức nuôi đa dạng cả hình thức nuôi công nghiệp, thả vườn và cổ truyền nhằm đáp ứng thị hiếu của thị trường. c. Nuôi trồng và đánh bắt thủy sản: Đông Nam Bộ có tiềm năng thuỷ sản khá lớn, gồm các nguồn lợi từ hải sản, thuỷ sản nước lợ và nước ngọt. Vùng có đường bờ biển dài khoảng 100 km với nhiều ngư trường rộng lớn. Hiện nay ngành này có nhiều cơ hội phát triển lớn hơn nữa bởi tập trung vốn đầu tư vào việc hiện đại hóa trang thiết bị nhất là phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ. ĐNB là vùng tương đối điển hình ở nước ta về khai thác và tổ chức sản xuất lãnh thổ theo chiều sâu. Đó là sự kết hợp giữa chuyên môn hoá sản xuất và phát triển tổng hợp, tạo nên một tổng hợp thể sản xuất lãnh thổ hợp lí cả về công nghiệp và nông nghiệp, gắn việc khai thác kinh tế trên đất liền với dải ven biển và đảo, hình thành một nền kinh tế biển đa dạng và phong phú. 5.5. Định hướng phát triển nông nghiệp Đông Nam Bộ là vùng đại diện cho sự phát triển năng động, hội nhập quốc tế tích cực. Vùng ĐNB và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có vai trò đầu tàu thúc đẩy một cách quyết định đối với sự phát triển của cả nước. Tập trung sức lực, trí tuệ để phát triển vùng ĐNB và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là yêu cầu chiến lược của công cuộc thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là biểu trưng quan trọng cho sự thịnh vượng của nước ta sánh vai với khu vực và quốc tế. Để vùng ĐNB tiếp tục phát triển nhanh thì vùng cần đi đầu trong hầu hết các lĩnh vực phát triển của đất nước. Tiến hành tổ chức lãnh thổ hợp lí trong một không gian phát triển sôi động, hài hoà để phát huy ngày càng mạnh các chức năng của vùng. Đối với lĩnh vực nông nghiệp phải đẩy mạnh thâm canh để không ngừng tăng tỉ suất hàng hoá. Hình thành các vùng chuyên canh cao su, cà phê với quy mô lớn để xuất khẩu trên cơ sở thu hút đầu tư ở trong và ngoài nước. Mặt khác tuỳ theo thị trường và điều kiện tự nhiên của từng khu vực , có thể phát triển cây điều, cọ dầu, hồ tiêu với diện tích lớn và gắn với công nghiệp chế biến. Đối với cây công nghiệp ngắn ngày, tuỳ tình hình thực tiễn , mở rộng và thâm canh các vùng mía, đậu tương, thuốc láThâm canh các vùng cây lương thực như ngô, lúa, hình thành vành đai rau thực phẩm, chăn nuôi quanh các khu công nghiệp và các thành phố lớn. Hình thành các vùng nông sản hàng hoá xuất khẩu (cao su, hồ tiêu, điều). Như vùng chuyên canh cao su ở Đồng Nai, chuyên canh cà phê ở Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu; vùng chuyên canh hồ tiêu ở Bà Rịa - Vũng Tàu; vùng chuyên canh điều ở Bình Phước MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ SẢN PHẨM CHUYÊN MÔN HÓA Ở ĐNB Điều Cao su Hồ tiêu 6. Vùng đồng bằng sông Hồng 6.1. Thế mạnh phát triển nông nghiệp của vùng - Vị trí địa lý: với diện tích: 14.799km2 (chiếm 4,5% diện tích), nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa trung du, miền núi phía Bắc và Tây Bắc với vùng biển phía Đông, đồng bằng sông Hồng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, đối với phát triển nông nghiệp nói riêng. - Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên: + Với diện tích đất đã được sử dịng trên 1 triệu ha. Đất rất thích hợp với việc thâm canh lúa nước và trồng màu cũng như trồng các cây công nghiệp ngắn ngày (đay, đậu tương, lạc, mía,), đất đai thường xuyên được phù sa của hai sông: sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp nên rất màu mỡ và ngày càng mở rộng ra biển (hàng năm chín cửa sông của vùng đồng bằng sông Hồng góp phần lấn ra biển hàng trăm ha đất mới). + Nước phục vụ phát triển nồng nghiệp rất dồi dào, được cung cấp từ hệ thống sông Hồng và hồ Hòa Bình và nhiều sông khác. + Khí hậu tương đối thuận lợi cho phát triển nồng nghiệp. Đặc biệt, ở đây có một mùa đông lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Đồng thời mùa này cũng là mùa khô thuận lợi cho việc canh tác các loại cây và rau vụ đông. Như vậy, ta thấy điều kiện tự nhiên ở đây rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, còn một số kho khăn do điều kiện tự nhiên mang lại như: + Độ màu mỡ của đất do sự khác nhau trong đê và ngoài đê, đất trong đê ngày càng xấu đi do bạc màu, và diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do sự tăng lên của đất thổ cư, + Nước phụ thuộc nhiều vào mùa, mùa lũ nước gây ứ đọng trên sông, còn mùa cạn thì lượng nước rất ít, lòng sông thường khô cạn rất thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp lẫn sinh hoạt và các lĩnh vực khác. + Khí hậu là sự quá dư thừa nước trong mùa mưa và thiếu nước trong mùa khô. Do vậy, để ổn định việc phát triển sản xuất, đặc biệt là trong nông nghiệp, đòi hỏi phải có hệ thống thủy nông nhằm chủ động tưới tiêu. - Điều kiện kinh tế - xã hội: + Đồng bằng sông Hồng với nguồn lao động dồi dào (mật độ 994 người/Km2, 2015) đáp ứng được nhu cầu cần nhiều lao động của ngành nông nghiệp. + Người lao động có kinh nghiệm trồng lúa nước và trình độ thâm canh cao, xen canh, gối vụ, do đồng bằng sông Hồng là cái nôi của nền văn minh lúa nước, có lịch sử hình thành rất sớm. + Nguồn lao động có trình độ học vấn và kỹ thuật cao. + Sự phát triển mạnh của công nghiệp và giao thông vận tải có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nồng nghiệp. + Đồng bằng sông Hồng với hệ thống đê bao phát triển mạnh đảm bảo cho sự phát triển liên tục của ngành nông nghiệp được ổn định quanh năm. Tóm lại, đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nguyên và kinh tế - xã hội rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và thực tế đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng nông nghiệp phát triển nhất cả nước, đặc biệt là vùng lương thực - thực phẩm lớn thứ hai cả nước chỉ sau đồng bằng sông Cửu Long. 6.2. Những ngành nông nghiệp chính a. Ngành trồng trọt + Trồng cây lương thực: Đồng bằng sông Hồng, với tư cách là một trong những vựa lúa lớn nhất cả nước (cùng với đồng bằng sông Cửu Long), đồng bằng sông Hồng góp phần vào việc giải quyết lương thực cho số dân đông đảo của vùng (85% sản lượng) và còn cung cấp khoảng 5% cho các vùng lân cận. Chẳng những thế, vùng còn với đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu một lượng lớn lương thực ra thế giới (đồng bằng sông Hồng xuất khẩu 10% giá trị sản xuất lương thực cho vùng), đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới (chỉ sau Thái Lan). Cùng với xu hướng phát triển nông nghiệp của cả nước, nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng chủ yếu là trồng lúa nước (chiếm gần 90% trong tổng diện tích ngành trồng trọt). Cơ cấu nông nghiệp của vùng có sự mất cân đối giữa tròng trọt và chăn nuôi, cả trong ngành trồng trọt cũng có sự mất cân đối giữa cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày. Về hiện trạng sử dụng đất, do đồng bằng sông Hồng được khai thác từ lâu đời, cùng với đội ngũ khoa học kỹ thuật cao, cơ sở thủy nông, hạ tầng phát triển mạnh, đồng bằng đã sử dụng gần như triệt để diện tích đất có thể phát triển nông nghiệp với 57,65% diện tích đất tự nhiên của vùng. Khả năng mở rộng diện tích đất từ khai hoang là rất hạn chế. Tuy nhiên, ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, dân số, diện tích đất thổ cư tăng lên cũng góp phần làm giảm diện tích đất nông nghiệp, sự phát triển đất chuyên dụng, đất xây dựng các công trình dân dụng, làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp của vùng vẫn đảm bảo bằng cách mở rộng diện tích theo hình thức thâm canh (tăng hệ số sử dụng đất). Với điều kiện thuận lợi: đất đồng bằng được phù sa sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp, nước được cung cấp dâyd đủ, nguồn lao động đông và có kinh nghiệm trong thâm canh lúa nước, có hệ thống sản xuất phân lân, phân đạm, phân super phot phat cùng các nhà máy chế biến và giao thông thủy lợi khá phát triển, nên cây lương thực giữ vị trí hàng đầu trong nông nghiệp nói chung và cây ngắn ngày nói riêng (cây công nghiệp hàng năm chiếm 89,15% diện tích đất nông nghiệp, trong đó, phần lớn dùng để trồng cây lương thực). Phát huy truyển thống thâm canh tăng vụ, diện tích cây lương thực giữ vị trí hàng đầu trong nông nghiệp, diện tích cây lương thực năm 2015 là 1201,7 ha (chiếm 13,3 % diện tích cây lương thực cả nước), trong đó 1110,4 triệu ha là trồng lúa. Đồng bằng sông Hồng có trình độ thâm canh cao và cũng là vùng áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển nông nghiệp rất lớn nên năng suất lúa của vùng đạt cao nhất cả nước (năng suất trung bình đạt 60,6 tạ/ha). Sản lượng cao và ngày càng tăng: năm 2013 đạt sản lượng gần 6655,4 nghìn tấn, năm 2015 đạt sơ bộ khoảng 6734,5 nghìn tấn lúa. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 6,9 triệu tấn. Về cơ cấu sản lượng lương thực, lúa chiếm 97%, hoa màu 3% (chủ yếu là ngô, khoai, sắn trồng ở các bãi ven sông hoặc vùng đất cao trên đồng bằng luân canh với cây ngắn ngày khác). Một điểm đặc biệt của vùng đồng bằng sông Hồng là khí hậu một mùa đông lạnh gần 6 tháng (từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau) nên vùng khác với đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng có những vùng thâm canh, chuyên canh rau quả làm thực phẩm xuất khẩu, nhiều nhất là vụ đông xuân (còn gọi là thực phẩm vụ đông), phân bố chủ yếu ở Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Hà Nam. + Cây công nghiệp: chủ yếu là cây công nghiệp ngắn ngày được trồng nhiều ở đồng bằng sông Hồng là chuyên canh cây đai và cói. b. Ngành chăn nuôi Đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng là chăn nuôi tiểu gia súc và gia cầm. Đàn lợn thường gắn với vùng sản xuất lương thực. Đến năm 2015 đã có 7061,2 nghìn con lợn (chiếm 25,7 % đàn lợn cả nước); đàn gia cầm trên 90 triệu con (chiếm 26,6 % đàn gia cầm của cả nước). Đàn trâu thì có chiều hướng giảm từ 168,3 nghìn con năm 2010 xuống 130,5 nghìn con năm 2015. Như vậy, chỉ trong 10 năm trở lại đây, đàn trâu đã giảm 37,8 nghìn con. Đàn bò giảm từ 651,7 nghìn con năm 2010 xuống còn 496,6 nghìn con năm 2015. Đáng chú ý là việc phát triển bò sữa ở ngoại thành thành phố Hà Nội với qui mô nhỏ, hộ gia đình. 6.3. Định hướng phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Hồng - Đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, góp phần cùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Hình thành các vùng sản xuất lúa, ngô chất lượng cao. - Khai thác tiềm năng đất đai một cách có hiệu quả để xây dựng và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, chất lượng cao; phát triển và làm giàu môi trường sinh thái, tiết kiệm đất đai trong phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng. - Xây dựng các vùng chuyên canh, phát triển sản xuất râu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, hoa và vật nuôi nhằm tăng nhanh tỉ trọng của các ngành này trong giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Phát triển nuôi trồng thủy sản ven bờ, đánh bắt thủy sản ven bờ. - Phát triển nông nghiệp đi đôi với công nghiệp chế biến, với xây dựng nông thôn mới; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền nông nghiệp và nông thôn. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến. - Đẩy mạnh ngoại giao, tìm kiếm nhiều thị trường xuất khẩu có tiềm năng lâu dài và ổn định. - Tạo thương hiệu sản phẩm và tăng cường quảng bá trên thị trường. 7. Vùng nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long 7.1. Thế mạnh phát triển nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Cửu Long - Vị trí địa lý: diện tích 37.717,3 km2, chiếm 12% diện tích tự nhiên cả nước. + Đây là vùng tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc. + Là một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu ở Đông Nam Á và thế giới. Là vùng sản xuất lương thực lớn nhất và cũng là vùng thủy sản, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn của nước ta. + Nằm giữa một khu vực kinh tế năng động, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng phát triển năng động nhất nước (Đông Nam Bộ) và gần các nước trong khu vực. + Nằm trên đường hàng hải và hàng không quốc tế, do đó thuận lợi cho giao lưu kinh tế với khu vực và thế giới. Với vị trí này, đồng bằng sông Cửu Long thuận lợi phát triển kinh tế biển và trở thành vùng xuất khẩu gạo lớn nhất của cả nước. - Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên: + Địa hình: vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long diện tích khoảng 4 triệu ha, chủ yếu do bồi tụ của sông Mê Kông, hiện hàng năm còn mở rông về phía biển từ 80 – 100m. Đây là vùng đồng bằng có qui mô lớn nhất nước ta. Trội hơn cả là tiềm năng nông nghiệp. Diện tích rộng lớn và độ cao địa hình thấp (trung bình 3 – 5m, có khu vực chỉ cao 0,5 – 1m, độ dốc trung bình 1cm/km) nên mùa mưa thoát lũ chậm. Ngược lại, về mùa khô thì sự xâm lấn của nước mặn lại tăng cường (nhất là vào năm 2016). Thêm vào đó là do sự bồi tụ không đều nhau nên đồng bằng có sự phân hóa, nên đồng bằng còn có sự phân hóa thành các vùng cao thấp khác nhau (vùng trũng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, và vùng đất cao giữa sông Tiền và sông Hậu,). Với địa hình như trên rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là thâm canh cây lúa nước. Nhưng để khai thác hợp lý và có hiệu quả, vùng cần giải quyết hàng loạt vấn đề: phát triển hệ thống thủy lợi để dùng nước ngọt cải tạo đất “tháo chua, rửa mặn”, bố trí cơ cấu cây trồng thích hợp, đắp đê ngăn mặn, đắp bờ bao, + Khí hậu: Đồng bằng sông Cửu Long có khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo, với nền nhiệt cao từ 24 – 27oC. Sự biến động nhiệt ngày đêm, theo mùa nhỏ, gần như suốt năm là mùa nóng (tổng nhiệt hoạt động từ 9.500 – 10.000oC), số giờ nắng trung bình là 2.400 – 2.600 giờ. Sự phân hóa khí hậu không lớn giữa các miền, cùng với sự phân hóa của địa hình, rất thích hợp cho sinh vật tăng trưởng và phát triển. Đó là tiền đề cho việc thâm canh, tăng vụ. Ở vùng này, ngoài hai vụ lúa chính, ngày càng nhiều địa phương đã tăng lên sản xuất ba vụ trong năm (hoặc ba vụ lúa: vụ đông xuân, hè thu và vụ mùa, hoặc hai vụ lúa và một vụ màu,). + Đất đai: Tài nguyên đất của vùng khá phong phú và đa dạng: đất phù sa ven sông, đất phèn, đất mặn, đất xám, trong đó, quan trọng nhất là đất phù sa ngọt ở ven và giữa hệ thống sông Tiền và sông Hậu với tổng diện tích khoảng 29,7% diện tích toàn vùng và khoảng 1/3 tổng diện tích đất phù sa cả nước. Ngày nay, các loại đất khác: đất phèn, đất mặn đã và đang được khai thác mạnh vào sản xuất nông nghiệp. Nhìn chung, đó là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp theo hướng chuyên môn hóa sâu và mạnh trong vùng. Đây là thế mạnh tự nhiên mà các vùng khác ở nước ta không có được. + Nguồn nước: Với hai sông lớn: sông Tiền và sông Hậu cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt, lượng nước phong phú quanh năm là nguồn cung cấp nước cho viễc tưới tiêu trong nông nghiệp. Nguồn nước ở đây còn chứa nhiều phù sa có tác dụng bồi đắp, mở rộng đồng bằng. Nguồn nước còn có tác dụng tháo chua, rửa mặn góp phần tăng diện tích dất nông nghiệp cho vùng. Với nguồn nước dồi dào như vậy nên là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. - Điều kiện kinh tế - xã hội: + Dân số hiện nay là 17,5 triệu người, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên cao cộng với cơ cấu dân số trẻ đó là nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là lao động trong nông nghiệp. Người dân lại có kinh nghiệm trồng lúa nước, cây ăn trái và đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản. Trình độ văn hóa của người dân càng tăng lên cùng với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao ngày càng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hóa. + Có hệ thống trạm trại, trủy lợi , giao thông vận tải, trung tâm lai tạo giống, dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp ngày càng phát triển. Ví dụ: Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, khoa Nông nghiệp trường Đại học Cần Thơ, là nơi lai tạo nhiều giống lúa mới và từng bước phát triển công nghệ chế biến sản phẩm nông nghiệp, Hiện nay, được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước, việc áp dụng và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm cho các loại nông sản hàng hóa của vùng ngày càng chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước (bưởi Năm Roi, xoài cát Hào Lộc, các loại hải sản, trái cây đóng hộp,) 7.2. Các ngành nông nghiệp chính của vùng đồng bằng sông Cửu Long a. Ngành trồng cây lương thực: Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, cây lương thực chiếm ưu thế tuyệt đối. Đến năm 2002 diện tích cây lương thực là trên 3,8 triệu ha và sản lượng đạt trên 17 triệu tấn, chiếm 46,2% diện tích và 48,3% sản lượng lương thực cả nước. - Cây lúa: chiếm vị trí hàng đầu trong cây lương thực và đóng 72 – 75% giá trị gia tăng ngành trồng trọt với 3,81 triệu ha gieo trồng và đạt sản lượng 17,4 triệu tấn (51% diện tích và 51,5% sản lượng lúa của cả nước). - Năng suất ngày càng tăng dẫn đến sản lượng tăng do những n¨m gần đây vùng tăng cường đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật để cải tạo đất phèn, mặn, Vả lại, tạo ra được những giống lúa mới (ngắn ngày, kháng sâu bệnh,) thích hợp với điều kiện sinh thái trên từng khu vực, tăng vụ, Đồng bằng sông Cửu Long là vùng xuất khẩu gạo lớn nhất cả nước (năm 2002 khoảng 3 triệu tấn). - Ngoài lúa, vùng còn phát triển hoa màu nhưng qui mô nhỏ. Nhiều nhất là ngô, trồng ở các bãi ven sông, nhiều nhất ở An Giang, khoai lang tròng nhiều ở Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, sắn ở Long An, Vĩnh Long, Trà Vinh. Cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả chiếm khoảng 22 – 25% giá trị gia tăng ngành trồng trọt. Cây ăn quả ngày càng tăng diện tích, đặc biệt là những vùng chuyên canh cây ăn quả đặc sản. Các cây ăn quả đặc trưng là cam, chuối, quýt, canh, xoài, ổi, nhãn, dứa, sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, b. Ngành chăn nuôi: Có nhiều điều kiện phát triển cả chăn nuôi gia súc lớn, gia súc nhỏ, gia cầm và cả nuôi trồng thủy hải sản. + Đàn trâu có xu hướng giảm từ 329 nghìn con năm 2010 xuống 36,6 nghìn con năm 2015, đàn trâu được nuôi nhiều ở Châu Đốc (An Giang), Bến Tre, Long An. + Lợn năm 2010 có 2,3 triệu con, năm 2015 là 3,15 triệu con (chiếm 13,6% đàn lợn của cả nước). + Đồng bằng sông Cửu Long có truyền thống nuôi vịt đàn do tận thu nguồn lúa rơi và tôm cá phong phú. Hiện nay có khoảng 34,9 triệu con gia cầm, trong đó vịt là chủ yếu, đàn vịt chiếm 26% đàn gia cầm của cả nước (2015) và được nuôi nhiều ở Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên Giang, Đồng Tháp. KẾT LUẬN Tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng là một trong những vấn đề đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như các nhà hoạch định chiến lược phát triển ở mỗi quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Đối với những nước này, việc khai thác các nguồn lực trong nước cũng như quốc tế cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước có hiệu quả hay không phụ thuộc không nhỏ vào công tác tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Sự vận dụng và phát triển một cách khéo léo các lí thuyết về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã giúp cho nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đạt được những thành tựu có tính chất bước ngoặt với sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Ở Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cũng hết sức đa dạng và đang phát huy những hiệu quả kinh tế nhất định, trong đó nổi bật là sự phát triển của các vùng nông nghiệp tập. Trong hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, các hình thức này vẫn không ngừng được hoàn thiện và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Doãn Vịnh - Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. 2. Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền - Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI. 3. Đặng Văn Phan, Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, Nxb. Giáo dục,Hà Nội, 2008. 4. Đặng Văn Phan, Vũ Như Vân, Tổ chức không gian lãnh thổ kinh tế - xã hội Việt Nam: nhận thức và hành động hướng tới sự phát triển bền vững,Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, Hà Nội, tháng 12/2008. 5. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức, Giáo trình địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, Tập 1, 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003. 6. Lê Thông (chủ biên), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2011. 7. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông, Địa lí kinh tế - xã hội đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2005. 8. Chu Tiến Quang (chủ biên), Lưu Đức Khải, Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam, thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. 9. Website Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, Ngày 29/01/2010. PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ NHÓM 4 STT Thành viên thực hiện Nội dung công việc 1 Đỗ Anh Chiến - Nhóm trưởng - Tổng hợp bản word và powerpoint - Đại diện nhóm tổng hợp phần thuyết trình 2 Lê Thị Minh Huệ - Thực hiện chương cơ sở lý luận (phần 1 và 2) - Đại diện nhóm trả lời các câu hỏi 3 Vũ Thị Nhuân - Thực hiện chương cơ sở lý luận (phần 3, 4 và 5) - Làm và tổng hợp powerpoint - Thuyết trình 4 Phạm Thị Bích Thảo - Thực hiện chương cơ sở lý luận (phần 6) - Làm powerpoint - Tổng hợp bản word - Thuyết trình 5 Đinh Thị Vân - Thực hiện chương các hình thức tổ chức LTNN (mục xí nghiệp nông nghiệp) - Làm powerpoint - Thuyết trình 6 Nguyễn Thị Yến - Thực hiện chương các hình thức tổ chức LTNN (mục thể tổng hợp nông nghiệp và băng chuyền địa lí) - Làm powerpoint 7 Trình Tiến Đức - Thực hiện chương các hình thức tổ chức LTNN (mục vùng nông nghiệp) - Làm powerpoint 8 Nguyễn Thị Phố - Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục xí nghiệp nông nghiệp) - Làm powerpoint 9 Phạm Thị Kim Liên - Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục thể tổng hợp nông nghiệp) - Làm powerpoint 10 Nguyễn Hà Trang - Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục vùng nông nghiệp: Trung du miền núi Bắc Bộ, Đông Nam Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên) - Làm powerpoint 11 Nguyễn Thị Vân Thu - Thực hiện chương tổ chức LTNN Việt Nam (mục vùng nông nghiệp: đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và đánh giá chung) - Làm powerpoint - Tổng hợp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docto_chuc_lanh_tho_nong_nghiep_nhom_4_sua_25_2_8975_2078572.doc
Luận văn liên quan