Mục lục
1. Khái quát chung 3
1.1. Khái niệm khu vực công . 3
1.2. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước . 4
2. Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khu vực công . 5
2.1. Giữ vai trò chủ đạo là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế . 5
2.2. Đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước 8
2.3. Điều tiết thị trường phù hợp với tình hình thực tế của đất nước: . 8
2.4. Tạo ra nhiều công ăn việc làm: 10
2.5. Giúp cho nền kinh tế tự chủ hơn, hạn chế sự phụ thuộc và nguy cơ bị thâu tóm của nước ngoài. .11
2.6. Cung cấp các sản phẩm phù hợp với mức sống của người dân . 13
3. Doanh nghiệp nhà nước không nên nằm trong khu vực công. 13
3.1. Thứ nhất .14
3.2. Thứ hai .14
3.3. Thứ ba. .15
3.4. Thứ tư .16
3.5. Thứ năm .16
4. Nên nằm trong khu vực công, nhưng phải có những đổi mới trong hoạt động . 19
4.1. Cơ chế giám sát cần chặt chẽ hơn, tách cơ quan quản lý khỏi kinh doanh 20
4.2. Cơ chế quản lý phù hợp hơn và thống nhất . 21
4.3. Cần xã hội hóa nhiều hơn nữa và chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết 23
4.4. Về quy định về nhân sự và phân công phân cấp hợp tác quản lý theo từng bộ phận chuyên quản 26
4.5. Xác lập và khống chế các tỉ lệ tài chính nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho tập đoàn. Trong đó tỉ lệ nợ không quá 3 lần trên vốn chủ sở hữu 27
4. Định hướng phát triển DNNN . 30
Mục lục 32
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2546 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khuc vực công, nhưng một số quan điểm khác thì ngược lại, hãy giải thích và trình bày quan điểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài :
Có quan điểm cho rằng : Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khuc vực công, nhưng một số quan điểm khác thì ngược lại. Hay giải thích và trình bày quan điểm.
Mục lục
1. Khái quát chung.
1.1. Khái niệm khu vực công.
Khu vực công là khu vực phản ánh hoạt động kinh tế chính trị được tiến hành bởi nhà nước.
Đặc điểm của một cơ quan hay đơn vị được xếp vào khu vực công :
trong một chế độ dân chủ, những người chịu trách nhiệm lãnh đạo các cơ quan công lập đều trực tiếp hay gián tiếp được công chúng bầu ra hoặc được chỉ định.
Các đơn vị trong khu vực công được giao một số quyền hạn nhất định có tính chất bắt buộc, cưỡng chế mà các cơ quan tư nhân không thể có được.
Khu vực công gồm:
- hệ thống các cơ quan quyền lực :
Cơ quan lập pháp, tư pháp , và hành pháp từ trung ương đến địa phương
Hệ thống quốc phòng và các cơ quan an ninh
Hệ thống các đơn vị cung cấp dịch vụ công
Hệ thống cơ quan cung cấp an sinh xã hội
- hệ thống các đơn vị kinh tế của nhà nước :
Các doanh nghiệp nhà nước
Các định chế tài chính
Ngân hàng trung ương
Các đơn vị được nhà nước cấp vốn hoạt động
1.2. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao.Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, có quyên và nghĩa vụ dân sự , chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh.
- Đặc điểm :
Quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về nhà nước . Các hoạt động kinh doanh là đặc điểm phân biệt doanh nghiệp nhà nước với các tôt chức, cơ quan chính phủ
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đảm bảo tính định hướng chủ nghĩa xã hội
Tài sản là 1 bộ phận của nhà nước thuộc sở hữu của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước chỉ là người quản lý kinh doanh trên số tài sản của nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức bộ máy quản lý, bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, kế hoạch
2. Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khu vực công
2.1. Giữ vai trò chủ đạo là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ X có nêu rõ: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu toàn dân (toàn dân, tập thể, tư nhân) đã hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu thủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo luật pháp đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Trong kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển…”
DNNN một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Bộ phận này sẽ dẫn dắt nền kinh tế đi lên và làm động lực cho các ngành nghề khác phát triển. Trong quá trình phát triển đất nước hiện nay với sự hoạt động của mình, DNNN luôn góp phần ngày càng cao trong tăng trưởng kinh tế của đất nước, luôn là khu vực tạo ra của cải vật chất lớn cho xã hội, chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu, đem lại nguồn ngoại tệ cho quốc gia. Ngoài ra các DNNN không ngừng đổi mới và phát triển, hiện nay nhiều doanh nghiệp không những có khả năng thực hiện việc kinh doanh và đầu tư ở trong nước mà còn tham gia đầu tư ở nước ngoài, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của DN và đây cũng là một cầu nối với kinh tế nước ngoài.
Đến cuối năm 2005, sau 20 năm đổi mới khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn đóng góp tới 39% GDP ( trong đó khu vực DNNN chiếm giữ tới 70%), kinh tế dân doanh chiếm 45,5%GDP, kinh tế hợp tác xã đóng góp 8% GDP, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,5% GDP. Trong đó DNNN đóng góp tới 50% thu ngân sách của quốc gia. (nguồn: viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương)
DNNN đóng góp to lớn trong việc tạo ra “bộ mặt” kết cấu hạ tầng của quốc gia, để nền kinh tế đi lên thì không thể thiếu được những công trình cơ sở hạ tầng lớn, mà việc xây dựng những công trình này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, chu kỳ dài, rủi do cao, lợi ích xã hội rộng lớn. Thế nên các doanh nghiệp bình thường không đủ sức làm và cũng không muốn làm. Chính nhờ những DNNN mà đất nước ta có những cơ sở hạ tầng lớn như ngày hôm nay làm động lực cho sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước trong hiện tại và cả trong tương lai. Với một cơ sở hạ tầng tốt đủ đáp ứng cho nền kinh tế thì đây la một tiền đề quan trọng trong việc thúc đẩy cho các ngành nghề khác phát triển.
DNNN là những cơ sở quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa đất nước, thông qua DNNN chúng ta đã có nhiều công cuộc hiện đại hóa trong nhiều lĩnh vực. như hiện nay qua các DNNN việc hiện đại hóa và công nghiệp hóa nền nông nghiệp, nông thôn đã và đang được thực hiện. Bằng cách đưa máy móc cơ giới vào hoạt động sản xuất nhằm giải phóng sức lao động cho con người. Nhà nước đã đầu tư, thành lập những công ty cơ khí trong lĩnh vưc nông nghiệp như Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam, công ty máy nông nghiệp miền nam… với mục đích sản xuất ra các loại máy móc cơ khí với giá thấp để người nông dân có thể mua sử dụng vào mục đích nông nghiệp và có giảm lượng nhập khẩu máy móc nông nghiệp từ nước ngoài. Ngoài nông nghiệp chúng ta cũng đang thực hiện hiện đại hóa trong lĩnh vực giao thông, công nghiệp…
Một nền kinh tế mạnh thì phải có những doanh nghiệp lớn để có đủ khả năng chống chọi với những biến động trong nền kinh tế thế giới và giúp kinh tế đất nước vực dậy sau khủng hoảng, với tính qui mô và trọng trách to lớn của các doanh nghiệp này thì nhà nước phải là người đứng ra thành lập, quản lý và kiểm soát sao cho có thể đảm bảo được những mục tiêu đề ra và tính ổn định của nền kinh tế. Để làm được điều này thì đòi hỏi phải có một nguồn lực lớn về vốn lớn và một trình độ khoa học kỹ thuật nhất định. Trong vấn đề này thì các doanh nghiệp khác chưa đủ các nguồn lực để thực hiện mà phải có sự can thiệp của nhà nước. Trong quá trình hoạt động để đảm bảo được sự tồn tại và sự phát triển vững chắc, đôi khi các doanh nghiệp phải hy sinh những lợi ích trước mắt mà phải tập trung vào những mục tiêu kinh tế dài hạn, do đó doanh nghiệp có thể sẽ hoạt động với mức lợi nhuận thấp hoặc chấp nhận thua lỗ trong thời kỳ đầu, điều này thường khó có thể bắt gặp ở những doanh nghiệp bình thường khác.
DNNN thường nắm giữ những nghành nghề kinh doanh quan trọng của nền kinh tế quốc dân do đó thông qua các doanh nghiệp này nhà nước sẽ thực hiện việc cơ cấu từng ngành nghề sao cho phù hợp với nên kinh tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay nhà nước đang tích cưc hỗ trợ những ngành nghề quan trọng tạo động lực phát triển kinh tế như các ngành công nghiệp, nông nghiệp, vận tải.
2.2. Đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước
Do đây la những doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước nên doanh thu từ hoạt động kinh doanh sẽ thuộc về nhà nước quản lý, đây là một nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước.
Mức đóng góp ngân sách của 7 tập đoàn, 11 tổng công ty 91 và 56 tổng công ty 90 trong 6 tháng đầu năm của name 2008 cho thấy
Tổng nộp ngân sách của các DNNN là 78.066 tỉ đồng, đạt 68,4% kế hoạch năm, tăng 58,6% so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, 18 tập đoàn, tổng công ty 91 đạt 62.484 tỉ đồng, bằng 70% kế hoạch năm, tăng 62% so với cùng kỳ 2007.
Những tập đoàn, tổng công ty nhà nước có mức nộp ngân sách cao là: Tập đoàn Dầu khí đạt 75% kế hoạch năm, tăng 18% so cùng kỳ 2007; Tổng công ty Lương thực miền Nam đạt 94% kế hoạch năm, tăng 38% so cùng kỳ 2007; Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đạt 66% kế hoạch năm, tăng 35% so cùng kỳ 2007,...(nguồn: báo điện tử Đảng cộng sản)
2.3. Điều tiết thị trường phù hợp với tình hình thực tế của đất nước:
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ:”… Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .Trong đó nền kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế…”. Kinh tế nhà nước ở đây bao gồm nhiều thành phần góp lại, nhưng “Các tập đoàn, Tổng công ty nhà nước là lực lượng giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế, là công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô” (theo lời của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng vào Ngày 10/3/2010, tại buổi làm việc với đại diện các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước). DNNN chính là chủ thể quan trọng nhất và cũng chính các DNNN là những phương tiện để cho Chính phủ có thể áp dụng những biện pháp điều tiết thị trường một cách bền vững.Trong những năm qua vai trò điều tiết thị trường của các DNNN đã được kiểm chứng và đã đạt những thành tựu đáng kể
Thứ nhất vì là doanh nghiệp thuộc về nhà nước nên doanh thu của các doanh nghiệp nhà nước đóng góp một phần quan trọng trong việc cân đối thu chi của ngân sách nhà nước , Tổng cục Thống kê cho rằng DNNN tạo ra khoảng 27% GDP của Việt Nam trong năm 2008(còn cả khu vực kinh tế nhà nước là khoảng 35%), đóng góp của khu vực DNNN vào tăng trưởng GDP là 19% trong giai đoạn 2006-2009. Góp phần quan trọng để Chính Phủ có thêm nguồn vốn đầu tư thêm vào các dự án an sinh xã hội,góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Thành tích chống lạm phát năm 2008 và chống suy giảm kinh tế năm 2009 được cho là công lớn của các DNNN (trích báo cáo tóm tắt của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giám sát các tập đoàn, tổng công ty nhà nước ).Có thể kể đến là ở ngành Viễn thông, trong khi hầu hết các mặt hàng trên thị trường tăng giá ào ào vào thời điểm đó thì giá cước viễn thông đã giảm trung bình 15% sau khi thông tư 02/BTTTT của Bộ Thông tin truyền thông cho phép doanh nghiệp viễn thông được tự quyết định giá cước.
Cũng trong năm 2008 thì lĩnh vực xăng dầu cũng đã có những nỗ lực kiềm chế rất đáng khen dù giá dầu thế giới có những biến động mạnh.Có những thời điểm giá xăng tăng đến 19000đ/l .Cuối cùng đến ngày 1/12/2008, giá bán lẻ xăng còn 12000đ/l bằng với mức giá ở năm 2005.
2.4. Tạo ra nhiều công ăn việc làm:
Với chủ trương đúng đắn là cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước bởi khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp sẽ có được những sự thay đổi cơ hội tiếp cận được mọi nguồn lực trong xã hội, nâng cao trình độ quản lý, công nghệ và nhân sự, làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Theo đó từ khoảng 6500 doanh nghiệp nhà nước vào đầu năm 2001 đã rút gọn xuống còn khoảng hơn 1.700 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.(Thống kê Bộ tài chính vào tháng 10/2009) kéo theo đó số nhân viên làm trong doanh nghiệp nhà cũng được tinh giảm xuống nhanh chóng thực với khoảng 1,9 triệu lao động 54,8 triệu lao động toàn xã hội tức là chỉ sử dụng khoảng 3,5% số lao động hiện có trong nền kinh tế. Nhưng chỉ với ngần ấy lao động, các DNNN đã tạo ra 27% GDP của Việt Nam trong năm 2008 nó cho thấy sự hiệu quả trong việc tạo ra lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước trong khi cùng thời kì với các doanh nghiệp tư nhân chiếm nhiều lao động nhất với 53,7% và tạo ra 46,1% GDP. Nghĩa là 1 lao động ở trong khu vực nhà nước hiệu quả gấp 9 lần so với 1 lao động ở khu vực tư nhân.
Mặc dù số DNNN bị tinh giảm khá nhiều nhưng với sự đầu tư lớn của nhà nước, các DNNN cũng đã đầu tư nhiều dự án trọng điểm quan trọng với vốn lớn và qua đó, gián tiếp tạo ra công ăn việc làm tại từng địa phương có dự án đầu tư ví dụ dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, Quảng Ngãi với vốn đầu tư tổng cộng là 3,5 tỉ USD,nó đã tạo ra 12.000 việc làm trong suốt quá trình xây dựng và khoảng 2000 kĩ sư sẽ làm việc tại đây khi nhà máy được vận hành tối đa.
Bên cạnh đó mức lương của người lao động ngày một được cải thiện theo Theo dự toán mới nhất được thông qua, việc tăng lương tối thiểu lên 830.000 đồng một tháng được thực hiện từ 1/5/2011 từ mức 730.000 như hiện nay, nghĩa là sẽ tăng khoảng 13,7%,đây là mức tăng khá cao và theo Bộ trưởng Nội vụ Trần Văn Tuấn đánh giá thì tăng lương đã vượt mức tăng lạm phát,nó sẽ giúp cho những người lao động đang làm việc trong DNNN có thể trang trãi thêm trong chi tiêu hàng ngày.
2.5. Giúp cho nền kinh tế tự chủ hơn, hạn chế sự phụ thuộc và nguy cơ bị thâu tóm của nước ngoài.
Ngày nay DNNN giữ vài trò là xương sống của nền kinh tế với việc nắm hầu hết các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế với sự hỗ trợ rất lớn từ phía chính phủ về vốn và nguồn nhân lực đã giúp cho các DNNN ngày càng phát triển và có thể cạnh tranh được với các công ty nước ngoài góp phần vào sự tăng trưởng, ổn định và tự chủ của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang có khoảng 8 tập đoàn và 90 tổng công ty Nhà nước đang hoạt động trên các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: viễn thông, hàng không, dầu khí, đóng tàu, khai thác than, bảo hiểm v.v… Đó là những lãnh vực có tác động sâu xa đến các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước khác. Ngoài ra còn có 6 ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách cũng tác động rất mạnh mẽ đến thị trường tín dụng.
Với việc sỡ hữu những DN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng giúp chính phủ điều chỉnh tình hình an ninh lương thực và an ninh năng lượng theo hướng giảm lệ thuộc vào nước ngoài và từng bước nâng cao khả năng và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Ví dụ như những ngành như điện, khai khoáng, dầu khí, viễn thông… VN đang từng bước làm chủ công nghệ và phát triển. Hiện nay VN là một trong những nước có sản lượng tàu biển tính theo khối lượng hàng đầu thế giới, là nước có đường dây 500KV dài nhất Đông Nam Á và là nước có sự phát triển về hạ tầng viễn thông nhanh nhất Châu Á…
Ngoài ra cùng với quá trình cạnh tranh các DNNN cũng từng bước vươn ra nước ngoài để đầu tư điều đó cũng đóng góp những thuận lợi nhất định cho các chính sách đối ngoại và đối nội của chính phủ đồng thời gia tăng ảnh hưởng của VN ra nước ngoài, ví dụ như sự đầu tư của tập đoàn dầu khí của VN ở Venuezela, một số nước Đông Âu hay hợp tác với một số công ty dầu khí của Mỹ, Anh, ngoài ra còn có sự đầu tư của Viettel, BIDV vào thị trường Campuchia … điều đó cũng giúp nâng cao vị thế của VN trong quan hệ kinh tế và chính trị với các nước.
2.6. Cung cấp các sản phẩm phù hợp với mức sống của người dân.
Vì mục đích tồn tại của DNNN không chỉ đơn thuần là mục đích kinh tế mà còn có chức năng chính trị to lớn. Vì vậy ngoài việc đạt được lợi nhuận trong kinh doanh các DNNN còn có chức năng hỗ trợ xã hội. Ví dụ: hiện nay chúng ta vẫn đang được dùng than với giá rẻ hơn so với các nước trong khu vực vì TKV đã lấy lợi nhuận từ xuất khẩu với giá cao để bù đắp cho giá than trong nước, ngoài ra giá điện của VN cũng rẻ hơn với nhiều nước trong khu vực…..Ngoài ra vào các dịp cao điểm như lễ, tết các DNNN cũng có nhiều chương trình giảm giá nhằm bình ổn giá cả thị trường giúp cho đời sống của người dân ít biến động hơn.
Ngoài ra việc nắm giữ hầu hết các lĩnh vực quan trọng cũng giúp cho các DNNN có thể tạo ra mặt bằng giá cả giúp định hướng giá cả thị trường sao cho phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Đồng thời nó cũng có tác động tới các thành phần kinh tế khác.
3. Doanh nghiệp nhà nước không nên nằm trong khu vực công.
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp hoạt động dựa vào vốn của nhà nước. Chính vì là “con đẻ” nên doanh nghiệp nhà nước được hưởng rất nhiều ưu đãi mà các loại hình doanh nghiệp khác không có, nhưng hình như chính vì tâm lý ỷ lại mình là “con đẻ ” nên DNNN đã tỏ ra quá chậm trễ trong việc phát triển. Ở nước ta, nhà nước đã bảo hộ quá nhiều cho DNNN, tạo tất cả điều kiện thuận lợi từ vốn, đất đai, nguồn nhân lực…. nên làm cho áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Nhà Nước giảm đi đáng kể, và như một quy luật tất yếu: khi áp lực cạnh tranh không có thì động lực phát triển, động lực đổi mới sẽ không còn. Đây là nguyên nhân chủ làm cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả. Trong những năm qua chính phủ đã không ngừng rót vốn và tiếp tục bảo hộ cho DNNN với một niềm tin DNNN sẽ là đẩu tàu trong công cuộc phát triển nền kinh tế song kết quả thu về là gì?
3.1. Thứ nhất, trong 10 năm trở lại đây tỷ lệ đóng góp của khu vực DNNN cho ngân sách nhà nước trung bình chưa tới 20% và ngày một giảm so với chính mình cũng như so với khu vực tư nhân (bao gồm khu vực DNDD và FDI). Nếu như trong giai đoạn 2001-2005, DNNN đóng góp 19,6% cho ngân sách, cao gần gấp rưỡi so với khu vực tư nhân, thì trong giai đoạn 2006-2009, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 17%, tức là chỉ bằng bốn phần năm so với khu vực tư nhân.
3.2. Thứ hai, đóng góp của khu vực DNNN vào GDP cũng đi theo xu hướng tương tự. Báo cáo của Chính phủ thường dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê cho rằng DNNN tạo ra khoảng 35% GDP của Việt Nam, nhưng điều này không chính xác vì 35% là tỷ lệ đóng góp của cả khu vực nhà nước - trong đó DNNN chỉ là một bộ phận.
Sau khi trừ đi GDP tạo ra từ các hoạt động của khu vực nhà nước nằm ngoài DNNN (như quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, hoạt động đoàn thể...) thì trong giai đoạn 2006-2009, khu vực DNNN trung bình chỉ tạo ra khoảng 28% GDP, giảm từ mức 30% của giai đoạn 2001-2005.
Hơn nữa, đóng góp của khu vực DNNN vào tăng trưởng GDP đã giảm từ mức 33% trong giai đoạn 2001-2005 xuống 19% trong giai đoạn 2006-2009, nguyên nhân là do tốc độ tăng GDP của khu vực DNNN giảm từ 7,6% xuống 4,0% - tức là chỉ bằng một nửa so với khu vực tư nhân.
3.3. Thứ ba, về phương diện lao động - việc làm, kết quả điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê cho thấy tỷ trọng lao động của khu vực DNNN giảm rất nhanh từ mức 44% trong giai đoạn 2001-2005 xuống chỉ còn 24% trong giai đoạn 2006-2008. Không những thế, tỷ lệ tạo ra việc làm mới cũng giảm một cách tương ứng từ -4% xuống -22%, tức là DNNN không những không tạo ra việc làm mới mà còn cắt giảm lao động, do vậy đặt gánh nặng tạo việc làm mới hoàn toàn trên vai của khu vực tư nhân, chủ yếu là của khu vực dân doanh.
Đã đành việc cắt giảm lao động là hệ quả khó tránh khỏi trong quá trình cổ phần hóa DNNN, nhưng nếu DNNN thực sự ngày một lớn mạnh thì chúng cũng phải có khả năng tạo ra việc làm mới, một yêu cầu tối quan trọng đối với một nền kinh tế đang phát triển nhanh và có lực lượng lao động trẻ dồi dào như Việt Nam.
3.4. Thứ tư, nếu nhìn vào hoạt động sản xuất công nghiệp, lĩnh vực trung tâm trong chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa của Việt Nam, thì vai trò của khu vực DNNN cũng hết sức khiêm tốn. Nếu như vào năm 1995, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước và tư nhân là 50%-50%, thì đến năm 2009, tỷ lệ này chỉ còn là 20-80%.
Không những thế, tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước (theo giá cố định) đã giảm từ 29% trong giai đoạn 2001-2005 xuống chỉ còn 8% trong giai đoạn 2006-2009. Trong khi đó, đóng góp của khu vực dân doanh tăng từ 34% lên 46% trong cùng thời kỳ.
3.5. Thứ năm, có bằng chứng cho thấy các DNNN đóng góp một cách khiêm tốn cho kim ngạch xuất khẩu nhưng lại là nơi tạo ra một tỷ lệ lớn kim ngạch nhập khẩu. Vì các nguồn số liệu chính thức hiện nay không tách bạch số liệu xuất - nhập khẩu của khu vực DNNN và DNDD nên kết quả xuất - nhập khẩu của hai khu vực này chỉ có thể được ước tính một cách gần đúng. Cụ thể là sau khi trừ dầu thô, than và khoáng sản thì DNNN chỉ tạo ra khoảng 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu.
DNNN không ngững không đóng góp nhiều cho nền kinh tế mà một số DNNN còn lạm dụng và có những hành động tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Một số ví dụ cho ta thấy được ảnh hưởng không tốt của các DNNN đối với toàn bộ nền kinh tế:
ảnh hưởng của ngành điện:
điện là nguồn năng lượng thiết yếu để duy trì cuộc sống sinh hoạt của người dân, tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế và các vấn đề an sinh xã hội. Nếu như trong các lĩnh vực khác thì các doanh nghiệp có một sân chơi bình đẳng hơn, doanh nghiệp nào có chất lượng sản phẩm tốt,phục vụ chu đáo, giá cả hợp lý thì sẽ được khách hàng lựa chọn thì điều này đã không xảy ra đối với ngành điện, nơi mà người dân và các doanh nghiệp phải mua điện với giá định sẵn trong khi chất lượng dịch vụ, cung ứng còn rất nhiều bất cập. nếu như tập đoàn điện lực đưa các nhà máy điện vào hoạt động đúng tiến độ thì đá không đẫn đến những bất cập trên và cũng không ảnh hưởng tới nền kinh tế quá lớn như thế.
- trong khoảng thời gian từ tháng 3-6/2010 đã diễn ra tình trạng cắt điện luân phiên kéo dài đã kéo theo nhiều hệ lụy cho xã hội, làm đảo lộn cuộc sống sinh hoạt của người dân, chất lượng cuộc sống bị giảm sút. Có thể kể ra đây một số hệ lụy từ việc cắt điện luân phiên kéo dài trong thời gian qua: cắt điện trong thời gian thời tiết nắng nóng, có khi lên tới trên 400C, các thiết bị làm mát, hạ nhiệt không thể nào hoạt động làm ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, đặc biệt là người già và trẻ nhỏ; cắt điện luân phiên có khi cả ngày lẫn đêm, vào khoảng thời gian của mùa thi khiến cho việc ôn tập của các sĩ tử gặp không ít khó khăn; cắt điện kéo dài, các trạm bơm chịu cảnh “nằm im” không hoạt động, công tác tưới tiêu, giải hạn cho đồng ruộng bị ngưng trệ, gây thất bát mùa màng đối với người nông dân; lịch cắt điện dài hơi, dày đặc khiến cho kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp phải thay đổi, thời gian giao hàng không đúng như tiến độ ghi trong hợp đồng, công nhân ngày làm, ngày nghỉ, thiệt hại về vật chất lên tới hàng tỷ đồng; cắt điện liên tục cũng khiến cho ngành du lịch lao đao, một ngành công nghiệp “không khói” đã buộc phải “nhả khói” khi các khách sạn, nhà nghỉ ở các khu du lịch đều phải mua máy phát điện phục vụ cho nhu cầu của các du khách.
tuy việc cung cấp nguồn điện cho cả nước còn nhiều bất cập, nhưng mà thời gian qua thì ngành điện luôn đòi tăng giá dựa vào lý do chi phí đầu tư sản xuất điện lớn, giá điện trong nước chưa bằng so với mức giá của các nước trong khu vực cho nên đã dẫn đến thực trạng từ trước tới nay giá điện chỉ có tăng mà chưa hề giảm. Tính đến nay năm 2009 giá điện đã tăng 8,96% so với năm 2008. Tổng công ty Điện lực Việt Nam đề nghị tăng giá để bù lỗ và có nguồn vốn đề đầu tư phát triển dự án điện nhưng lại đề nghị trích một khoản tiền khổng lồ để thưởng cho nhân viên trong khi thu nhập trung bình của ngành điện thuộc loại cao trong nền kinh tế. Nhiều năm qua ngành điện luôn kêu là lỗ nhưng con số được ngành điện công bố là lãi, thậm chí là lãi lớn với con số lên tới 6000 tỷ đồng.
Một ví dụ cụ thể trong thời gian vừa qua là vấn đề của Vinashin.
-Trong lần đầu tiên Chính phủ VN phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế với số lượng là 750 triệu đôla, đây là một khoản vay nợ của chính phủ dành cho các DNNN thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia, khi phát hành ra thị trường thế giới thì tương ứng với số lượng phát hành là khoản dự trữ ngoại tệ quốc gia là 3 tỷ đôla, đây là một khoản vay thương mại do đó lãi xuất ở mức cao là 7,125% / năm.
Phần lớn khoản vay này được chuyển cho Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) thực hiện việc xây dựng và phát triển ngành đóng tàu Việt nam với số số tiền là 500 triệu đôla.
Trong quá trình hoạt động của mình do việc đầu tư tràn lan vào nhiều ngành nghề trong đó có những dự án đầu tư không phải là ngành nghề chính của Vinashin dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp không đem lại hiệu quả. Cho nên khi đến thời kỳ đáo hạn vay doanh nghiệp không thể trả được nợ và đứng trên bờ vực phá sản. Lúc này chính phủ phải đứng giữa 2 sự lựa chọn tiếp tục cho Vinashin vay để trả nợ hoặc chấp nhận Vinashin phá sản. Một khi chính phủ lựa chọn một trong hai thì cũng đều làm tăng gánh nặng cho toàn xã hội.
trên đây chỉ là 2 ví dụ minh họa cho các hoạt động không hiệu quả của các DNNN vẫn còn các DNNN hay tập đoàn kinh tế khác hoạt động tốt, gây ảnh hưởng nặng nề tới nền kinh tế như Tập đoàn Than Khoáng sản, Tổng công ty Hàng không, Tổng công ty xăng dầu và cả tập đoàn Dầu khí,….
Với thực trạng hoạt động như vậy của DNNN thì liệu mục đích và hy vọng của chính phủ có đạt được hay không? Và phải chăng nguyên nhân nằm ở việc DNNN đã và đang nhận được sự bảo hộ quá lớn? Vậy có nên hay không chính phủ hãy để DNNN ra khỏi khu vực công để họ có thể tiếp cận gần hơn với sự cạnh tranh của cơ chế thị trường cạnh tranh. Biết đâu khi đó các DNNN sẽ hoạt động hiệu quả hơn và có những đóng góp tích cực cho nên kinh tế nước nhà.
4. Nên nằm trong khu vực công, nhưng phải có những đổi mới trong hoạt động
4.1. Cơ chế giám sát cần chặt chẽ hơn, tách cơ quan quản lý khỏi kinh doanh.
Trao cho hội đồng quản trị, lãnh đạo của các tập đoàn, tổng công ty những quyền hạn quá lớn trong đầu tư, kinh doanh và sử dụng vốn của Nhà nước, nhưng lại không đi kèm với cơ chế kiểm soát, giám sát hiệu quả. Đây là tình trạng chung của việc quản lý tài chính ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Các DNNN trực thuộc chính phủ, bộ hoặc UBND cấp tỉnh nên bản thân của nó đã có một quyền lực thực tế và có một quyền lực ngầm nâng đỡ phía sau cho nên việc kiểm tra, thanh tra không thể nào phản ánh đúng tình hình thực tế việc quản lý và sử dụng nguồn vốn tại các doanh nghiệp này. Lấy ví dụ như trường hợp Vinashin, đã được thủ tướng yêu cầu thanh tra, kiểm tra từ năm 2007, thậm chí mời cả công ty kiểm toán quốc tế KPMG để kiểm toán nhưng mãi đến năm 2010 nó vỡ nợ thì mới phát hiện ra vấn đề là một minh chứng rõ ràng.
Hiện nay, theo các quy định của pháp luật hiện hành thì cơ chế giám sát việc quản lý vốn nhà nước tại các DNNN có thể được nhìn nhận qua các kênh chủ yếu như sau:
i) Chủ sở hữu nguồn vốn nhà nước giám sát việc quản lý nguồn vốn thông qua đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước.
ii) Chủ sở hữu nguồn vốn nhà nước thực hiện việc giám sát dựa trên kế hoạch tài chính, chế độ kế toán, thống kê và kiểm toán.
iii) Chủ sở hữu vốn nhà nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát thông qua các cơ quan tài chính có thẩm quyền đối với công tác tài chính của DNNN theo quy định của pháp luật.
Những kênh giám sát trên còn mang nặng tính hành chính và không phát huy được vai trò đối với vấn đề giám sát hiệu quả kinh doanh của DNNN. Do đó nhà nước cần rút dần cách thức đầu tư trực tiếp nguồn vốn của mình vào các doanh nghiệp thông qua việc cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê các DNNN. Và cần phải bỏ cơ chế đơn vị chủ quản “đại diện” tạo sự nhập nhằng, chồng chéo vai trò, chức năng quản lý hành chính với nhiệm vụ hoạch định, điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các DNNN phải cần minh bạch trong hoạt động và công bố thông tin trong quản trị doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của những DNNN lớn thì thường xuyên phải công bồ thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người dân có thể theo dõi được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Có thể thông báo những kết quả kiểm toán của các DNNN ra công chúng để đảm bảo tính giám sát của người dân. Trong hoạt động tài chính cần phải có tính minh bạch hơn nữa, cơ chế giám sát phải hiệu quả, cấm những hoạt động lấy vốn từ nhà nước cấp để cho vay lại hoặc đầu tư trái mục đích.
Phải tách quản lý hành chính nhà nước ra khỏi quản lý kinh doanh doanh nghiệp. Các quyết định kinh doanh phải do những người kinh doanh đưa ra. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp mà quản lý thông qua hiệu quả đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp, thông qua người đại diện tham gia quản trị doanh nghiệp theo đúng luật doanh nghiệp và các quy tắc của thị trường.
4.2. Cơ chế quản lý phù hợp hơn và thống nhất.
Chúng tôi nghĩ rằng để cho việc quản lý và thực hiện các mục đích xã hội một cách hiệu quả thì các DNNN nên được chia thành hai phần: một loại doanh nghiệp nhà nước làm nhiệm vụ chính trị- xã hội và những doanh nghiệp nhà nước nhằm mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế. Đối với các DNNN làm nhiệm vụ chính trị - xã hội như các DN quốc phòng, y tế, điện… thì nhà nước có thể tiếp tục hỗ trợ để phát triển nhưng phải đảm bảo các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh đúng ngành nghề mà nhà nước đã giao tránh trường hợp đầu tư tràn lan gây thất thoát và làm giảm hiệu quả của ngành nghề mà mình đang kinh doanh.VD như EVN hiện nay họ dùng rất nhiều vốn và nhân lực để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhưng hàng năm vào mùa khô nước ta luôn bị thiếu điện và tỷ lệ tổn thất điện năng hiện nay đang rất cao khoảng 13-14%, vậy thì tại sao EVN không tập trung nâng cấp hệ thống truyền tải điện và xây dựng them nhiều nhà máy điện mới ? Còn với các DN nhằm mục đích kinh doanh như các công ty bia, bánh kẹo quốc doanh… hay các lĩnh vực cần nhiều vốn nhưng khả năng thu hồi vốn chậm thì nhà nước có thể đầu tư và hỗ trợ nhưng khi các lĩnh vực này đã phát triển đến một mức cần thiết thì các NN nên rút lui và nhường chỗ cho khu vực tư nhân tham gia vào, một mặt để tăng hiệu quả quản lý một mặt sẽ giúp cho lĩnh vực đó phát triển hơn, tăng tính cạnh tranh và giảm độc quyền
Ngoài ra để cho việc quản lý được công khai và minh bạch hơn thì phải tách bạch ra, các tổng công ty lớn không cho trực thuộc các bộ nữa mà giao về một bộ chuyên quản, còn các công ty nhỏ thì giao cho các công ty đầu tư và kinh doanh vốn quản lý sẽ hạn chế được việc đề ra chính sách để làm lợi cho doanh nghiệp của mình. VD bộ Xây dựng, khi đề ra những chủ trương về hỗ trợ xây dựng nhà ở, thì các tổng công ty thuộc bộ đã có rất nhiều công trình có thể hứng được vốn đó và có những ưu đãi từ nhà nước về đất đai…Đồng thời chúng việc tách bạch các tổng công ty lớn ra khỏi các bộ chủ quản sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho bộ chuyên quản dễ dàng kiểm soát và điều hành hoạt động của các tổng công ty. Bởi vì đứng trên vị trí của một bô chuyên quản nhà nước có thể dễ dàng quyết định và phân bổ nguồn lực hợp lý cho các tổng công ty tránh trường hợp đầu tư chồng chéo, dàn trải và không đúng mục đích của các tổng công ty. VD như hiện nay PVN cũng tham gia thị trường tài chính, bất động sản, EVN thì tham gia vào thị trường viễn thông…
4.3. Cần xã hội hóa nhiều hơn nữa và chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết.
Ngày nay việc cổ phần hóa các DNNN luôn được nhắc đến một cách thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng,nhưng xuất phát từ những nguyên nhân gì thì mấy ai biết được.Những mặt ưu điểm chính có thể kể đến như là:
Cổ phần là biện pháp sắp xếp lại, làm thay đổi về chất của các DNNN nhờ vào việc hình thành các doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu cũng như tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp.
Cổ phần hóa cũng đã giúp Nhà nước thu về hàng ngàn chục tỷ đồng nhờ vào việc bán bớt phần vốn của mình tại các DNNN, từ đó có vốn để đầu tư cho các dự án trọng điểm cần thiết.
Cổ phần hóa cũng góp phần vào việc hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn, đa ngành, đa lĩnh vực và đặc biệt là góp phần quan trọng vào việc đổi mới tư duy kinh tế
Lợi ích nó là vậy nhưng thực trạng cổ phần hóa DNNN hiện nay ra sao? trong gần 20 năm tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đến nay (bắt đầu từ năm 1991), dù đã cổ phần hóa được trên 4.000 doanh nghiệp, song đại đa số vẫn là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ,và còn tới hơn 1.700 doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, sắp xếp lại (chiếm khoảng 75% tổng nguồn vốn, giá trị tài sản của khối DNNN), trong đó có tám tập đoàn và khoảng 80 tổng công ty lớn.
Tuy là cổ phần hóa là việc nên làm nhưng vẫn nên giữ lại những tổng công ty,tập đoàn chủ chốt có vị trí chiến lược trong nền kinh tế như xăng dầu,viễn thông làm mũi nhọn để bứt phá nền kinh tế nước ta.Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước trong điều kiện mà chúng ta đã để các nước khác vượt lên về kinh tế,khoa học, kĩ thuật,mà muốn đuổi kịp thì phải mất cả chục năm (Thái Lan), thậm chí là trăm năm (Singapore).Những tập đoàn này được coi là những bước “đi tắt,đón đầu” giúp cho nước ta không bị tụt hậu về công nghệ,kinh tế…và tạo ra bước đột phá đã giúp chúng ta rút ngắn thời gian
Xuất phát từ điều này nên những DNNN đã được nhà nước ta đặc biệt “ưu ái”,hằng năm,hàng nghìn tỉ đồng từ tiền thuế của người dân chảy vào các tập đoàn,tổng công ty nhà nước để họ “đầu tư” cho các dự án của mình.Nhưng những khoản đầu tư này đáng tiếc là không được các DNNN tập trung đầu tư vào lĩnh vực chuyên môn của mình mà lại ra sức đầu tư dàn trãi ra rất nhiều lĩnh vực,gây ra sự lãng phí lớn, làm giảm đi sức mạnh của chính các DNNN này, như Vinashin đầu tư xây dựng tới 110 nhà máy nhưng có đến 70% trong số đó là đầu tư vào những lĩnh vực chẳng có liên quan gì đến đóng tàu như đầu tư chứng khoán,bảo hiểm,thậm chí là garage bán ô tô! Nó chẳng phục vụ được gì cho ngành tàu biển.Thực tế ở nước ngoài cho thấy các tập đoàn lớn khi họ đầu tư thì luôn có một tầm nhìn,một chiến lược dài hạn.Đơn cử như công ty sắt thép Pohang (POSCO),Hàn Quốc dưới sự điều hành của ông Tae-Joon Park – chủ tịch công ty,khi đầu tư vào lĩnh vực giáo dục một lĩnh vực mà mới nghe qua chúng ta cho rằng không liên quan gì đến sản xuất thép cả,đã sáng lập ra trường ĐH Khoa học và Công nghệ Pohang, (Postech),sau 24 năm nó đã là trường đại học tốt nhất Hàn Quốc hiện nay và đứng thứ 28 trên thế giới.Hằng năm,họ thu hút hằng ngàn sinh viên giỏi trên toàn đất nước Hàn Quốc cũng như nước ngoài và dễ nhiên những sinh viên tốt nhất sẽ được họ ưu ái trao học bổng và có thể kí hợp đồng để sau này có thể ra làm luôn cho chính tập đoàn của mình.Ngoài ra,những ngiên cứu, ứng dụng công nghệ mới được sáng tạo tại những phòng ngiên cứu hiện đại tại đây, nếu thấy hữu ích họ sẽ áp dụng luôn vào trong quá trình sản xuất của công ty mình.Đó mới gọi là đầu tư “đa ngành ,đa lĩnh vực” và đạt được mục tiêu là sinh lợi.
Đối với thực trạng của Việt Nam hiện nay,công tác quản lí còn lỏng lẻo, việc sử dụng vốn nhà nước một cách tràn lan vô tội vạ như hiện nay tại các DNNN là một điều khó tránh khỏi bởi “Cha chung đâu ai khóc”, theo kiến nghị của nhóm chúng tôi nên có những biện pháp siết chặt lại việc đầu tư theo cách này bằng cách cụ thể hóa thành những văn bản luật với những biện pháp chế tài mạnh tay.Bên cạnh đó nên hướng các DNNN tập trung các nguồn vốn của mình vào những lĩnh chủ lực riêng của từng ngành mình như dầu khí thì nên tập trung vào việc tìm kiếm và khai thác khí đốt thôi, cần thiết thì có thêm những công ty phụ trợ như công ty hóa dầu,lọc dầu, kết hợp với vận tại biển để vận chuyên dầu, việc có thêm những “ngân hàng dầu khí” hay “bảo hiểm dầu khí” là không cần thiết bởi vì đó không phải là ưu tiên và mục đích khi chính phủ rót vốn đầu tư vào đây.
Có thể kể đến một trong những DNNN đã và đang thành công với việc cụ thể hóa chức năng của mình đó là Viettel,họ đã xác định là viễn thông và CNTT là ngành kinh doanh chính. Ngoài ra, Viettel còn đầu tư nghiên cứu phát triển và sản xuất phần cứng, phần mềm thiết bị điện tử, viễn thông, CNTT và thông tin quân sự. Với chiến lược đúng đắn cùng với sự đầu tư hiệu quả,hiện nay,từ vốn điều lệ 2,3 tỉ đồng từ khi thành lập đến nay sau 10 năm vốn điều lệ của Viettel đã là 50.000 tỉ đồng, doanh thu 60.000 tỷ vào năm 2009 và nằm trong Top 3 nhà phân phối lớn nhất thị trường viễn thông tại Việt Nam.Không dừng lại ở đó,Viettel đang từng bước phát huy thế mạnh về viễn thông của mình bằng cách đầu tư ra nước ngoài và có được những thành công nhất định ở thị trường Lào và Campuchia,ngoài ra Viettel cũng đang xúc tiến đầu tư ra Haiti và Modambic.Có thể nói Viettel là một tấm gương điển hình về sự chuyên môn hóa trong riêng lĩnh vực của mình, xứng đáng để các doanh nghiệp khác phải học hỏi kinh nghiệm.
4.4. Về quy định về nhân sự và phân công phân cấp hợp tác quản lý theo từng bộ phận chuyên quản
Nâng cao phẩm chất và năng lực cán bộ công chức,người hoạt động trong lĩnh vực điều hành ,quản lý vừa là công việc thường xuyên,vừa mang tính lâu dài, để chuẩn bị cho đội ngũ công chức đáp ứng đủ yêu cầu mà nhà nước giao cho và sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân
Trình độ chuyên môn,am hiểu thông lệ và luật pháp,biết bảo vệ lợi ích quốc gia đồng thời có thể hoà nhập với quần chúng nhân dân
Có những sự thưởng phạt công bằng minh bạch tạo tính kỉ cương,tuân thủ luật pháp,hướng đến lợi ích và công bằng xã hội
Thông qua cơ chế này mỗi bộ phận sẽ chịu trách nhiệm trước Chính phủ và nhân dân.theo từng lĩnh vực,từng địa bàn,theo dõi phối hợp với các bộ phận chuyên trách thanh tra,kiểm tra,giám sát tổng hợp tình hình và đánh giá hiệu quả hoạt động,hạn chế tính tư lợi,bỏ túi riêng
Việc phân cấp từng bộ phận chuyên trách sử dụng vốn hiệu quả phải đặt trong khuôn khổ và phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp.Thông qua đó cần thống nhất về hạn mức vốn đầu tư mà Nhà nước cấp,không hướng vào việc tăng thêm ưu đãi,thiết lập hệ thống thông tin quản lý,hợp lý hoá tổ chức bộ máy quản lý,khắc phục tình trạng lợi ích tập trung về một phía ảnh hưởng lợi ích dân tộc
4.5. Xác lập và khống chế các tỉ lệ tài chính nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho tập đoàn. Trong đó tỉ lệ nợ không quá 3 lần trên vốn chủ sở hữu.
-Về hoạt động huy động vốn cho đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần rà soát và thực hiện nghiêm túc việc sử dụng nguồn tài chính hiệu quả,việc cắt giảm, đình hoãn các dự án, công trình, dự án đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa thật cần thiết; kiên quyết cắt giảm hoặc dừng việc mua, xây dựng trụ sở mới, đất đai, bất động sản, phương tiện, thiết bị phục vụ gián tiếp cho hạot động kinh doanh để tập trung nguồn lực tài chính vào các dự án có hiệu quả, sớm đưa vào khai thác, sử dụng
-Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, xác định các điều kiện bảo đảm vay và sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước để kịp thời có biện pháp chấn chỉnh đối với những trường hợp không hiệu quả hoặc có vi phạm.
- Xét về tổng thể, hệ số nợ phải trả không quá 3 lần trên vốn chủ sở hữu, để đảm bảo an toàn về tài chính của doanh nghiệp.
- Nếu doanh nghiệp có tỷ lệ cao hơn mức này,Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Tài chính chủ trì, kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng để có giải pháp thích hợp với từng trường hợp cụ thể
-Cải tiến cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó giám sát về tài chính là quan trọng, thiết lập hệ thống báo cáo các chỉ tiêu tài chính để cơ quan quản lý nhà nước nắm được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp và có chỉ đạo cần thiết; mặt khác, giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để tự đánh giá và quản trị doanh nghiệp có hiệu quả hơn.
-Trong lĩnh vực quản lý kinh tế,pháp luật cần có sự chế tài đối với loại hành vi thuộc về vấn đề năng lực quản trị, điều hành, việc sử dụng vốn, huy động nguồn vốn,về quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác
-Cần có cơ chế giám sát việc quản lý tài chính của nhà nước tại các DNNN, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thông qua các cơ quan tài chính có thẩm quyền đối với công tác tài chính của DNNN. Câu chuyện Vinashin được Thủ tướng yêu cầu cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm thanh, kiểm tra từ năm 2007 nhưng mãi đến khi nó sụp đỗ toàn diện vào năm 2010 mới phát hiện ra vấn đề là một hệ quả tất yếu không có gì khó hiểu.
-Từ vụ việc điển hình Vinashin vừa qua, chúng ta thấy rõ hơn yêu cầu điều chỉnh cơ chế quản lý nguồn vốn Nhà nước từ chủ thể quan trọng nhất ở đây là Nhà nước, với vai trò chủ sở hữu nguồn vốn là rất quan trọng.đảm bảo lợi ích của người dân thông qua việc sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước một cách hiệu quả.
-Các Công ty nhà nước cần giới hạn tổng mức đầu tư tài chính không được vượt quá 30% tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp.
-Đặc biệt, vốn đầu tư của công ty nhà nước tại doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư không vượt quá 20% vốn điều lệ của các doanh nghiệp này. Trường hợp, các công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế, Tổng công ty đang đầu tư vốn tại các doanh nghiệp này vượt quá mức khống chế trên thì cần có kế hoạch điều chỉnh giảm để đảm bảo tỉ lệ quy định
-Hạn chế việc đầu tư vốn vào những doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề không phải nhiệm vụ chính thì các công ty Nhà nước phải sử dụng tối thiểu 70% tổng nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có ngành nghề kinh doanh chính (hoặc chủ yếu). Tổng mức đầu tư ra ngoài công ty Nhà nước (bao gồm đầu tư ngắn hạn và dài hạn) không vượt quá mức vốn điều lệ của công ty Nhà nước theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
4. Định hướng phát triển DNNN.
Việc có nên cho tồn tại mô hình DNNN trong nền kinh tế hay không thì vẫn là một tranh cãi lớn trong xã hội hiện nay, nhưng theo quan điểm của chúng tôi thì vẫn cần phải có một sự đóng góp nhất định của những doanh nghiệp này cho nền kinh tế và cần phải duy trì bộ phận này nằm trong khu vực công. Nhưng việc duy trì bộ phận này trong một nền kinh tế thị trường thì phải có những định hướng rõ ràng trong tương lai.
Các DNNN hiện nay tuy có quy mô ngày một lớn, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, dịch vụ và những ngành nghề của xã hội nhưng hiệu quả đạt được thì lại không như mong đợi. Phần lớn nguồn lợi đều được giành ưu tiên cho nhưng doanh nghiệp này, từ những ưu tiên về cơ chế chính sách, hỗ trợ vốn cho đến những ưu tiên về các nguồn lợi khoáng sản… Việc giành phần lớn những nguồn lợi cho DNNN sẽ tạo ra một sự cạnh tranh không công bằng trên thị trường, khi đó những nguồn lực sẽ được sử dụng một cách thiếu hiệu quả và dẫn đến những tổn thất không đáng co. Do đó đẻ tạo ra một sự công bằng cho tất cả các thành phần trong nền kinh tế và đạt hiệu quả trong sử dụng nguồn lực thì phải dần bỏ những ưu đãi cho DNNN, để các DN nay có thể tự mình vận động và tồn tại trên thị trường khi đó tính hiệu quả sẽ được đảm bảo. Lúc này nhà nước nên chuyển những ữu đãi của DNNN sang cho khu vực tư nhân, tạo điều kiện cho khu vực này phát triển, và đưa khu vực này thành một mũi nhọn làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước một cách bền vững.
Như trên đã nói thì trong quá trình phát triển dài hạn của đất nước bộ phận những DNNN nên chuyển giao dần vai trò và vị trí của mình cho những doanh nghiệp tư nhân. Trong quá trình chuyển giao này thi các DNNN tạo điều kiện và môi trường cho khu vực tư nhân phát triển lớn mạnh, nhưng các DNNN này vẫn phải giữ được vai trò xã hội của minhf.
Yêu cầu về tích tụ và tập trung vốn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tất yếu dẫn đến việc hình thành TĐKT hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực trong phạm vi rộng lớn tầm quốc gia và quốc tế.
Mặt khác, trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, dưới áp lực cạnh tranh gay gắt đến từ bên ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam vốn có tiềm lực nhỏ bé, năng lực quản lý còn nhiều hạn chế, khả năng chiếm lĩnh thị trường còn kém.
Trong bối cảnh của kinh tế nước ta, nếu để các doanh nghiệp tự liên kết với nhau như ở các nước thì có lẽ còn lâu chúng ta mới có được những TĐKT đủ mạnh bởi TĐKT vẫn là một khái niệm mới mẻ ở nước ta và trên thực tế thì chúng ta chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về TĐKT.
Trong tình hình hiện nay của Việt Nam, phần lớn các DNTN có qui mô nhỏ, pham vi hoạt động trong các ngành nghề chưa mạnh, do đó lúc này thì DNTN chưa có tiềm năng để có thể tạo ra những tập đoàn lớn giúp chi phối điều hành nền kinh tế đi lên. Để thực hiện được vấn đề này thì nhà nước phải là người đứng ra thành lập những tập đoan kinh tế đủ mạnh cho nền kinh tế dựa trên việc sát nhập những công ty nhỏ hơn của nhà nước. Một khi những tập đoàn này đã có hoạt đọng ổn định và tạo hiệu quả cho nền kinh tế thì nhà nước nên chuyển những tập đoàn nay sang cho khu vực tư nhân bằng hình thức cổ phần hóa. Một khi được chuyển sang cho khu vực tư nhân thì nó sẽ không chịu suwh chi phối từ nhà nước và hoạt đông theo cơ chế thị trường. từ đó nó sẽ thực hiện đúng vai trò làm mũi nhọn tăng trưởng kinh tế đất nước.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Doanh nghiệp nhà nước nên nằm trong khuc vực công, nhưng một số quan điểm khác thì ngược lại Hay giải thích và trình bày quan điểm.doc