PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai là một tất yếu khách quan trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, đô thị hoá.
Trong bộ Tư bản khi nghiên cứu quá trình tích luỹ nguyên thuỷ và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản C.Mác đã nghiên cứu rất sâu về tính tất yếu khách quan (bí mật của sự tích luỹ gọi là tích luỹ nguyên thuỷ); các thủ đoạn thu hồi, tước đoạt và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai của giai cấp bóc lột từ cuối thế kỷ XV, đến cuối thế kỷ XIX.
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt; làm một yếu tố đầu vào quan trọng của bất kỳ một ngành sản xuất, dịch vụ nào. Trong quá trình công nghiệp hoá, nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chuyển thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, dịch vụ văn minh. Cơ cấu các ngành sản xuất, dịch vụ thay đổi rất cơ bản; trong bản thân ngành nông nghiệp cũng có những thay đổi quan trọng: Cơ cấu các chuyên ngành cũng chuyển hướng gắn bó chặt chẽ với hướng phát triển của công nghiệp hiện đại, dịch vụ văn minh; của sự phát triển của các trung tâm đô thị lớn.
Do đó, cơ cấu nhu cầu đất đai thay đổi: đất đai, trước đây, dùng để trồng trọt cây lương thực, hoa màu, thì nay, phải chuyển sang thành đất chuyên dùng xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp tập trung, xây dựng các đô thị hình thành các vùng nguyên liệu cho công nghiệp, các bãi chăn thả gia súc có quy mô vừa và lớn.
Trước đòi hỏi của CNH, ĐTH việc thu hồi đất đai và chuyển đổi mục đích sử dụng theo hướng có hiệu quả ngày càng cao là một tất yếu ở nước ta.
Trong thời gian qua việc thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai có quy mô ngày càng lớn. Tốc độ thu hồi và chuyển đổi chậm chạp ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng; việc thu hồi và giải quyết đền bù, cũng như bảo đảm chất lượng tái định cư của nhân dân bị thu hồi đất còn nhiều vấn đề nảy sinh ảnh hưởng tới an sinh xã hội.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách tháo gỡ các vướng mắc kể trên. Tuy nhiên, các chính sách còn chưa đầy đủ, cơ sở lý luận chưa vững vàng; thực thi còn chưa đồng bộ, tổ chức triển khai còn nhiều bất cập, thậm chí tồn tại không ít tiêu cực.
Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: Đổi mới chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong điều kiện CNH, ĐTH ở Việt Nam thời kỳ 2006-2010 (qua tình hình của thành phố Hà Nội) làm đề tài của luận văn thạc sĩ kinh tế nhằm góp phần của mình trên hướng nghiên cứu này.
2. Tổng quan về vấn đề đang nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề: "Chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong điều kiện CNH, ĐTH" sẽ gặp phải nhiều vấn đề lý luận; những vấn đề pháp lý rất cơ bản; cũng như các công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện cụ thể, phức tạp và rất nhạy cảm.
Về lý luận sẽ phải đề cập đến vấn đề hàng hoá đất đai; thị trường hàng hoá đất đai, liên quan đến các quan niệm về sở hữu; thị trường quyền sử dụng đất đai, giá cả, phạm vi đền bù, nội dung của tái định cư, an sinh xã hội
Về pháp lý, liên quan đến hàng loạt văn bản luật đất đai, các nghị định, văn bản hướng dẫn của Chính phủ, các Bộ và Thành phố.
Về chỉ đạo thực tiễn, các vấn đề tổ chức bộ máy, quy chế chỉ đạo v.v
Đây là một vấn đề có nội dung rộng, chưa có một tác phẩm nào nghiên cứu trực diện và đầy đủ.
Có nhiều bài báo, nhiều luận văn, luận án đề cập đến vấn đề "giải phóng mặt bằng" (một cách nói dân dã, thường dùng của việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai) như một nhân tố ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, các tuyến đường; hoặc là một vấn đề bức xúc của công tác quản lý XDCB, đặc biệt là quản lý tài chính XDCB.
Về mặt lý luận đáng quan tâm có cuốn: "Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam" của TS. Lê Xuân Bá chủ biên. Do NXB khoa học - kỹ thuật xuất bản năm 2003, Kỷ yếu hội thảo nhà đất của Hà Nội - Viện Phát triển kinh tế - xã hội chủ trì và Kỷ yếu hội thảo phát triển thị trường bất động sản do Viện nghiên cứu QLKTTW chủ trì.
Tuy nhiên, sau khi luật đất đai 2003 được ban hành, nhiều câu hỏi đặt ra về tình trạng đóng băng của thị trường đất đai, nhưng chưa có tác phẩm nào đề cập đến tình hình này.
3. Mục đích nghiên cứu của Luận văn: Đây là luận văn thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị học nên:
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các cơ sở lí luận và thực tiễn để kiến nghị hướng hoàn thiện chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng. Luận văn có nghiên cứu và kiến nghị một số vấn đề thực tiễn; nhưng đó không phải là trọng tâm của luận văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong điều kiện CNH và ĐTH. Giác độ nghiên cứu của chuyên ngành kinh tế chính trị. Phạm vi nghiên cứu là các chính sách và cơ sở khoa học thực tiễn làm căn cứ cho việc xây dựng và đổi mới các chính sách đó từ 1988 đến nay và cho thời kỳ 2006-2010. Các thí dụ về tình hình chủ yếu là ở thành phố Hà Nội, có bổ xung thêm thí dụ điển hình ở các địa phương khác để chứng minh tính phổ biến của tình hình và tính khái quát của các nhận xét.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, khảo sát thực tế, phân tích, so sánh, khái quát hoá
6. Các đóng góp khoa học của đề tài:
Luận văn có các đóng góp sau:
- Hệ thống hoá, chuẩn xác hoá các quan niệm về hàng hoá đất đai, thị trường đất đai, thị trường quyền sử dụng đất; sự cần thiết khách quan phải thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai , một số biện pháp để thi hành có hiệu quả các kiến nghị đã nêu.
- Nêu lên những bài học về phát triển thị trường đất đai và cơ sở xây dựng chính sách trên cơ sở quan điểm thị trường thông qua việc khảo sát pháp luật và tình hình mua bán đất đai ở một số nước.
- Kiến nghị một số quan điểm tiếp cận và hướng đổi mới chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai.
7. Nội dung và kết cấu của luận văn
Luận văn, ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, được bố trí thành 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực tiễn của việc đổi mới chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong điều kiện CNH, ĐTH ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp đổi mới chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong điều kiện CNH, ĐTH ở Việt Nam.
117 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2968 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong điều kiện công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt Nam thời kỳ 2006 - 2010 (qua tình hình của thành phố Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cách khác đất có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, mới phấn đấu để có hiệu quả sử dụng đất đai cao là nói tới hai ý nghĩa. Một là, tận dụng khả năng của đất đai, tấc đất tấc vàng, không để một tấc đất hoang hoá. Đầu tư hợp lý để nâng cao khả năng sử dụng của đất đai. Hai là, trên cùng một thửa đất có thể lựa chọn mục đích sử dụng có hiệu quả kinh tế cao nhất. Tuy nhiên, cũng vì đất đai có hạn, nhu cầu sử dụng đất thì đa dạng và đều cần thiết cho cuộc sống (vốn rất toàn diện), vì vậy, vừa lựa chọn mục đích sử dụng có hiệu quả nhất cho từng thửa đất, lại vừa phải bảo đảm đất đai (yếu tố đầu vào quan trọng) của các nhu cầu sản xuất, dịch vụ, đời sống của xã hội. Vì vậy, việc xác định mục đích sử dụng đất đai của từng thửa đất lại phải tuân thủ quy hoạch đã được Nhà nước duyệt ở đây, hiệu quả sử dụng đất của từng thửa phải xác định trong mối quan hệ chặt chẽ với hiệu quả sử dụng đất trên từng vùng lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Nói khác đi chất lượng quy hoạch sử dụng đất của cả nước, hay từng vùng lãnh thổ có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm hiệu quả kinh tế sử dụng đất nói chung và từng thửa đất cụ thể.
- Trong lịch sử, Đảng cộng sản Việt Nam và chính thể cách mạng đã hai lần giải quyết vấn đề đất đai trên quy mô xã hội. Công cuộc cải cách ruộng đất với mục tiêu quan trọng là người cày có ruộng, thực hiện chia ruộng đất của địa chủ cho nông dân (trong những năm đầu của thập kỷ 50, thể kỷ 20). Sau một thời gian dài thực hiện hợp tác hoá nông nghiệp (miền Bắc từ những năm 1959 - 1960… Miền Nam sau năm 1975…) Sở hữu tập thể về đất đai hình thành trên phạm vi rộng lớn trong cả nước. Tiếp đó đến năm 1980 Hiến pháp mới ra đời (thay thế Hiến pháp năm 1959) chế độ đa sở hữu về đất đai, được thay thế bằng chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước làm đại diện. Những khiếm khuyết của cơ chế kế hoạch hoá tập trung trong quản lý kinh tế xã hội nói chung và trong quản lý đất đai nói riêng bộc lộ ngày càng rõ ràng,và gay gắt. Chính nhân dân (trước hết là nông dân) đã "mò mẫm" tự tìm ra cơ chế thích hợp, hiện tượng "khoán chui" ngày càng phát triển. Đến ngày 13/11/1981 một năm sau Hiến pháp 1980 chỉ thị 100 của Ban bí thư đã xác nhận cơ chế khoán hộ ra đời và theo đó chế độ giao đất cho nông dân sử dụng ổn định và lâu dài được xác nhận (sau của cải cách ruộng đất, đây là lần thứ 2 Nhà nước ta lại thực hiện giao đất cho nông dân nói riêng, cho người sử dụng nói chung).
Lần thứ nhất, hướng tiếp cận chủ yếu là giải quyết một vấn đề xã hội, vấn đề quyền lợi của nông dân, đội quân chủ lực của cách mạng dân tộc, dân chủ; tranh thủ được giai cấp nông dân, cũng có được liên minh công nông là bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng.
Lần thứ hai, hướng tiếp cận chủ yếu cũng là hướng tới giai cấp nông dân (bây giờ là nông dân tập thể). Nhưng cả hai lần đều nhằm giải phòng lực lượng sản xuất. Lần thứ nhất là đưa tư liệu sản xuất đến cho người sản xuất; lần thứ hai cũng vậy, ruộng đất được giao khoán cho các hộ nông dân sử dụng lâu dài, để họ phát huy cao độ chủ động trong phát triển sản xuất, cởi bỏ các cơ chế kìm hãm khả năng sản xuất của họ.
Như vậy hướng tiếp cận là giai cấp nông dân, nhưng mục tiêu kinh tế là rõ ràng.
Kết quả của hai lần giải quyết vấn đề đất đai trên đã chứng tỏ chủ trương của Đảng là sáng suốt. Đó là thắng lợi của sự kết hợp nhuần nhuyễn của việc thực hiện hai hướng xã hội và kinh tế trong giải quyết vấn đề đất đai.
Lần này, là lần thứ 3, vấn đề thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai đang là vấn đề xã hội, vấn đề kinh tế rất bức xúc trên phạm vi cả nước (Báo Đầu tư ngày 19 tháng 8 năm 2005 vốn đầu đề: "Dân tố khổ vì chuyện đất đai". Khi phản ánh một trong 13 đoàn kiểm tra của Bộ Tài nguyên môi trường ở Lạng Sơn vốn đầu tư "Nóng bỏng - đất đai" Báo đầu tư phản ánh tình hình. Khi đoàn kiểm tra làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh).
Mức độ "nóng bỏng" cũng rất cao, có nơi nông dân đã có nhiều hình thức tập hợp đấu tranh, có nơi đã sô sát đổ máu. Lòng dân không yên, dân không tin vào chính quyền nhất là cấp xã, huyện…
Tình hình này cho thấy thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai là cần thiết khách quan. Nhưng chỉ thực hiện được tốt khi hết sử lý các vấn đề xã hội một cách phù hợp. Muốn vậy, phải nhận thức được bản chất của các mối quan hệ cơ bản nảy sinh; có chính sách kinh tế - xã hội phù hợp; có kế hoạch và quy trình tiến hành hợp lý và được tổ chức thực thi chặt chẽ; các cán bộ thực thi công vụ này phải thực sự vì dân, chính công vô tư.
3.2.1.3. Các chính sách phải bảo đảm tính hệ thống
Cấu trúc của một chính sách phải đầy đủ các yếu tố cơ bản: Mục tiêu chính sách; Các nguyên tắc thực hiện mục tiêu chính sách; Các chính sách bộ phận; Các giải pháp và công cụ thực hiện chính sách.
Mục tiêu của hệ thống chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai là một mục tiêu kép. Một mặt, phải thực hiện được nhiệm vụ thu hồi đất của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, phải giải quyết công việc làm mới (Đào tạo nghề, tổ chức các cơ sở sản xuất kinh doanh mới để thu hút những người lao động vừa bị thu hồi đất), tái định cư, ổn định thu nhập, đời sống cho họ và gia đình họ. Hai mục tiêu này gắn bó, hỗ trợ nhau. Muốn thu hồi đất thì phải lo đời sống cho người bị thu hồi đất. Nếu không chăm lo việc tái định cư, ổn định đời sống cho người bị thu hồi đất, giải quyết thoả đáng các quan hệ lợi ích thì không thể thu hồi được đất.
Với mục tiêu như trên, chính sách phải được thực hiện theo các nguyên tắc nào? Các nguyên tắc phải được quy định trong chính sách thành quy trình, cách tiến hành, các chế tài cụ thể. Thí dụ: Thu hồi đất, đi liền với yêu cầu an dân, ổn định đời sống và an toàn chính trị. Do đó phải công khai, vận động quần chúng nhân dân, tái định cư phải đi trước việc thu hồi đất… Nơi nào không thực hiện quy định trên phải có chế tài xử lý.
Tính hệ thống đòi hỏi một chính sách phải có các chính sách bộ phận, có công cụ biện pháp thực hiện thích hợp. Đất đai là một vấn đề nhạy cảm. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất là một quá trình liên hoàn từ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đến thu hồi và giao đất cho các chủ dự án sử dụng theo mục đích mới. Trong quá trình đó phải giải quyết một loạt quan hệ rất cơ bản; gắn liền với lợi ích của các bên: Nhà nước, dân cư vùng bị thu hồi đất, các hộ gia đình bị thu hồi đất, các chủ dự án nhận đất… Phải có hệ thống chính sách bộ phận. Mỗi chính sách bộ phận lại phải xác định rõ mục tiêu (Mục tiêu bộ phận phải đồng chiều với mục tiêu chung của hệ thống có nguyên tắc thực hiện, có hệ thống các công cụ và giải pháp thực hiện thích hợp.
Trong hệ thống chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng hiện nay tính hệ thống đồng bộ còn nhiều vấn đề cần được xem xét. Thí dụ trong chính sách đào tạo nghề, toàn bộ hệ thống biện pháp, công cụ thực thi là bị bỏ trống; chính sách tái định cư việc tạo nguồn vốn còn đang rất lúng túng. Trong chính sách giá cả, nguyên tắc xác định giá được quy định rõ, nhưng phương pháp tính giá chưa thể hiện được nguyên tắc nên gây ra nhiều khiếu kiện, bức xúc.
3.2.2. Hướng đổi mới nội dung các chính sách và chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Luận văn kiến nghị đổi mới nội dung các chính sách như sau:
3.2.2.1. Chính sách tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp, bảo đảm thu nhập, ổn định đời sống của người bị thu hồi
Trong hệ thống chính sách liên quan đến thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai thì sự quan tâm của Nhà nước đến chính sách này chưa đúng với tầm quan trọng của nó.
Trong Luật Đất đai ngày 26/11/2003, vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp, bố trí việc làm mới được ghi ở khoản 4, điều 45: "Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi".
Khoản 4 ghi: "Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho tiếp tục sản xuất thì được bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới".
Như vậy, việc đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới chủ yếu do người bị thu hồi đất tự lo, Nhà nước chỉ hỗ trợ (có thể trực tiếp hoặc gián tiếp).
Trong Nghị định 197/2004/NĐCP ngày 3/12/2004 của Chính phủ v/v "Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất". Vấn đề hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm được ghi trong điều 29 chương IV như sau: "1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động, mức hỗ trợ và số lao động cụ thể được hỗ trợ do UBND cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương. 2. Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề".
Theo khoản 2 của điều 29 này thì chỉ có một bộ phận các lao động trẻ, có trình độ mới được chuyển đổi nghề ngiệp. Vì phải còn trẻ và có trình độ văn hoá mới thi được vào các cơ sở dạy nghề. Hơn thế nữa, nếu không có cơ sở dạy nghề, hoặc cơ sở dạy nghề ở xa, người bị thu hồi đất không đi học được thì Nhà nước không có trách nhiệm.
Vận dụng chính sách của Nhà nước, các địa phương đã có nhiều quy định khác nhau. Thí dụ: Đà Nẵng hỗ trợ 4 triệu đồng/1 lao động; TiềnGiang 1,06 triệu đồng cho 1 lao động nếu bị thu hồi 0,1 ha trở xuống, nếu bị thu hồi nhiều hơn thì được trợ cấp cả khoá học. Ở Hà Nội, nếu bị thu hồi 30¸ 50% diện tích đất thì hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho 1 lao động, nếu thu hồi từ 50¸70% diện tích đất thì hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho 2 lao động; nếu bị thu hồi trên 70% diện tích thì hỗ trợ cho toàn bộ lao động mà hộ đó có. Mỗi lao động được hỗ trợ 3,8 triệu đồng.
Hỗ trợ tiền là quý, nhưng không phải cứ có tiền là người nông dân bị thu hồi đất có thể chuyển đổi được nghề nghiệp và có chỗ làm việc mới. Nông dân đi học nghề mới vì lúng túng không biết đi học nghề gì? học nghề nào để có việc làm? Bởi họ không có thông tin về phát triển kinh tế và nhu cầu lao động theo ngành, nghề. Hơn nữa, trình độ học vấn thấp là cản trở rất lớn cho việc đào tạo nghề. Thí dụ, trình độ văn hoá của nông dân vùng ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh như sau:
- Không biết chữ năm 1996 là 3,57%; năm 2000 là 1,85%
- Chưa qua hết cấp 1 năm 1996 là 30,76%; năm 2000 là 21,98%
- Qua hết cấp 1 năm 1996 là 32,78%; năm 2000 là 34,27%
- Qua hết cấp 2 năm 1996 là 19,25%; năm 2000 là 21,23%
- Qua hết cấp 1 năm 1996 là 13,64%; năm 2000 là 20,67%
(Nguồn: Thống kê lao động - việc làm của Bộ LĐTBXH 1996, Điều tra lao động - việc làm 2001 của Sở LĐXH thành phố Hồ Chí Minh).
Với trình độ văn hoá như trên thì không thể không tổ chức học nghề, nếu không có quá trình chuẩn bị trước, nhất là, có thời gian để nâng cao trình độ văn hoá.
Về trách nhiệm đào tạo, chính sách của Nhà nước không qui trách nhiệm cụ thể. Người bị thu hồi đất, mất tư liệu sản xuất, không tiếp tục nghề nông được nữa, thì phải tự lo việc chuyển đổi nghề nghiệp, tự chọn lấy một nghề mới - không dừng lại ở đó, các tỉnh đều vượt lên trên chính sách để có những qui định về trách nhiệm giải quyết việc làm mới cho các chủ dự án được nhận đất. Ở Hà Nội mỗi ha thu hồi đất phục vụ cho dự án chủ dự án phải đào tạo tại chỗ và tuyển dụng ít nhất 10 lao động địa phương. Hưng Yên qui định cứ thuê 100m2 đất phải thu nhận 1 lao động địa phương. Tuy nhiên, số lao động địa phương được các dự án đào tạo và tiếp nhận rất hạn chế.
Chính sách của Chính phủ và các quy định của địa phương chưa tính đến những khó khăn của lao động mất đất trong việc chuyển đổi ngành nghề. Theo điều tra các hộ gia đình nông thôn ngoại thành Hà Nội của Trường Đại học Lao động xã hội Hà Nội tháng 11/2003 thì khó khăn khi tham gia đào tạo của các hộ:
Với hộ thuần nông: thiếu tiền 52,27%; Không có thời gian thích hợp: 27,27%; Không có nghề đào tạo thích hợp: 20,45%; Trường lớp xa: 54,55%; Khó khăn khác: 2,27%…
Với điều kiện của những người bị thu hồi đất, vấn đề lựa chọn hình thức đào tạo rất quan trọng. Theo điều tra của Trường Đại học Lao động xã hội tháng 11/203 thì có mấy điểm rất cần chú ý là: Hình thức phải đa dạng, trong đó hình thức đào tạo ngắn hạn, dài hạn ngay tại địa phương có vai trò rất quan trọng.
Từ những tình hình và phân tích trên đây. Luận văn có các đề xuất sau:
Một là, cần đưa chính sách đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm mới đối với người bị thu hồi đất vào đúng vị trí quan trọng hàng đầu của nó về kinh tế, chính trị, xã hội. Quy hoạch đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp phải được lập đồng thời với các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất đai. Nếu chưa hoàn thành việc chuyển đổi nghề nghiệp thì chưa tiến hành thu hồi đất.
Có thể lí giải căn cứ của đề xuất này như sau:
Thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai là tất yếu khách quan. Tuy nhiên, chúng ta không thể "tước đoạt" của nông dân theo kiểu chủ nghĩa tư bản (như Mác mô tả trong chương 27-28 quyển I - tập 3 bộ Tư bản). Mục tiêu của chúng ta là thúc đẩy sự phát triển, hiểu theo nghĩa bền vững với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định xã hội ở trình độ công bằng, văn minh cao; với môi trường sinh thái được bảo vệ. Muốn vậy, phải chăm lo đến nghề nghiệp và việc làm mới cho người mất đất. Vì đó, là yếu tố quan trọng nhất để ổn định và nâng cao đời sống của bộ phận dân cư này. Nếu họ không được quan tâm đầy đủ, thất nghiệp, nghèo đói đến với họ thì không thể có an toàn xã hội (ở đây cần lưu ý tình trạng thất nghiệp hiện đã diễn ra, và các tệ nạn xã hội đang xuất hiện ngày một nhiều).
Hơn thế nữa việc chuyển đổi nghề nghiệp cần có thời gian vật chất. Vì vậy không thể thu hồi đất, người mất đất không còn tư liệu sản xuất nữa, mất nghề nghiệp lúc đó mối lo chuyển nghề. Cách làm như hiện nay là quá muộn và tắc trách.
Việc chuyển đổi nghề nghiệp, bố trí việc làm mới trách nhiệm thuộc về ai? Cách đặt vấn đề như hiện nay, là không thể chấp nhận được. Trách nhiệm không thể chỉ là của người dân mất đất mà phải thuộc về xã hội, trước hết là Nhà nước.
Nông dân, đặc biệt là nông dân thuần nông trình độ văn hoá thấp (như đã nêu số liệu ở phần trên) khi mất đất biết chuyển sang nghề gì nếu như họ không biết gì về hướng phát triển kinh tế, hướng đổi mới cơ cấu ngành nghề của vùng lãnh thổ họ đang sống. Ai mang đến cho họ các thông tin cần thiết và tư vấn hướng chuyển nghề nghiệp phù hợp với hướng chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp trung dài hạn, có thể là ai khác được? nếu không phải là Nhà nước. Nhà nước phải có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế, hoặc trực tiếp tổ chức các hình thức đào tạo nghề thích hợp. Chứ không thể chi "hỗ trợ" cấp cho họ vài triệu bạc coi như hoàn thành nhiệm vụ như chính sách hiện nay.
Nhìn một cách hệ thống thì Nhà nước khi quy hoạch phát triển kinh tế, quy hoạch sử dụng đất đai thì phải tính ngay đến quy hoạch việc chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư bị thu hồi đất, có kế hoạch đào tạo phù hợp đi trước kế hoạch thu hồi đất đai - Nếu chưa hoàn thành việc chuyển đổi nghề nghiệp thì chưa tiến hành thu hồi đất.
Hai là, trong luật cũng như trong Nghị định của Chính phủ cần có 1 mục riêng, 1 điều riêng (thậm chí 1 nội dung chuyên đề) về chính sách này, trong đó, nội dung phải đầy đủ toàn diện hơn. Theo tôi phải có các yếu tố sau đây:
- Các quy định về lập và duyệt quy hoạch bảo đảm phải có kế hoạch đào tạo phát triển nhân lực của các vùng sẽ bị thu hồi đất trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất đai. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội sẽ là căn cứ để tính toán nhu cầu lao động (số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề…). Đối chiếu nhu cầu trên với tình hình lao động địa phương, lên kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Từ đó lên kế hoạch phát triển các hình thức tổ chức đào tạo phù hợp.
- Các quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin, tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho những người có khả năng mất đất học tập chuyển đổi nghề nghiệp theo các hình thức phù hợp. Các quy định trách nhiệm của các bên Nhà nước, chủ dự án, người mất đất trong việc tổ chức đào tạo và bảo đảm các nguồn lực cho hoạt động đào tạo.
- Các quy định về tổ chức bộ máy quản lý theo dõi quá trình đào tạo và giải quyết các khó khăn vướng mắc nảy sinh.
- Các quy định về kiểm tra kết quả đào tạo và phối hợp đồng bộ giữa tiến độ đào tạo và tiến độ thu hồi đất triển khai các dự án.
Ba là, các qui định giao nhiệm vụ cho Tổng cục Dạy nghề và cho các cơ sở dạy nghề tập trung ngoài nhiệm vụ đào tạo theo kế hoạch, phải có trách nhiệm: xây dựng các chương trình đào tạo, dạy nghề ngắn hạn cho từng ngành nghề phải bố trí lực lượng làm nòng cốt hướng dẫn nên dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề xã, huyện, hoặc tự đào tạo tại cơ sở.
3.2.2.2. Chính sách tái định cư, ổn định đời sống của những người bị thu hồi đất
Từ các biểu hiện trình bày ở chương 2, đối chiếu với các chính sách tái định cư ghi ở điều 42 Luật Đất đai (26/11/2003) được cụ thể hoá ở chương V Nghịđịnh 197/204/NĐCP ngày 3/12/2004 có thể nêu lên các nhận xét sau đây:
- Công tác tái định cư đã không thực hiện được mục tiêu trên của chính sách, trong các văn bản Nhà nước kể trên không ghi rõ mục tiêu của chính sách. Nhưng có thể hiểu mục tiêu của công tác tái định cư ở mấy điểm sau:
· Tái định cư là một biện pháp quan trọng để đẩy nhanh tốc độ thu hồi đất phục vụ việc triển khai nhanh các dự án.
· Dân cư bị thu hồi đất, bị xáo trộn cuộc sống tái định cư là một biện pháp giúp họ ổn định lại cuộc sống.
Nếu mục đích của tái định cư là như trên thì công tác tái định cư (với những nhược điểm nêu ở phần trên) đã không thực hiện được mục tiêu đã không an được dân; ngược lại, gây oán hận, làm mất an toàn xã hội; dân không tin chính quyền, đặc biệt là chính quyền cơ sở và cấp huyện. Ông Mai Văn Dũng - Phó Chủ tịch huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa Vũng Tàu) trả lời câu hỏi "Tại sao dân khiếu kiện vượt cấp" của trưởng đoàn kiểm tra luật Đất đai số 1 ngày 18/8/2005 đã nói: "Dân khiếu kiện vượt cấp vì họ chỉ tin tỉnh chút chút và không tin xã và huyện nữa rồi" trang web báo Đầu tư 18/8/2005).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện được mục tiêu của chính sách: như công tác quy hoạch, kế hoạch; như đạo đức cán bộ sa sút, tình trạng tham nhũng tràn lan v.v.., trong đó, phải nói đến bản thân chính sách. Tôi cho rằng "Điểm xuất phát" của chính sách là chưa thật chuẩn xác. Cũng như khái niệm "giải phóng mặt bằng", khái niệm "tái định cư" ở đây đứng về phía các "Dự án" chứ không đứng về phía người dân. Trừ những kẻ "phạm pháp" trong việc lấn chiếm và sử dụng đất đai. Còn đa số người bị thu hồi đất sử dụng đất hợp pháp, thậm chí đất đai họ đang quản lý, vốn gốc là đất thuộc sở hữu tư nhân, sau hiến pháp 1980 nó mới được tuyên bố là quốc gia công thổ. Họ định cư trên mảnh đất đó từ lâu (thậm chí nhiều đời). Họ không làm hại ai, họ muốn có cuộc sống ổn định. Chính các "dự án" đến, mà họ bị thu hồi đất đai, cuộc sống của họ bị xáo trộn. Đáng lẽ chủ đầu tư + Nhà nước phải lo cho họ tái định cư. Ngược lại, chính sách của ta là "Hỗ trợ tái định cư" tại sao lại chỉ là hỗ trợ. Ông Đặng Hùng Võ, thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường khi kiểm tra tình hình thực hiện Luật Đất đai tại Thừa Thiên Huế đã nói rất đúng rằng: "Về mặt vĩ mô cũng cần có sự điều chỉnh lại. Thú thật, tự nhiên nhà mình đang ăn ở yên lành, bàn thờ nghiêm trang thế này, người khác tới lấy cũng khó chịu lắm chứ. Nhưng có nhiều việc không thể không làm, vấn đề làm thế nào cho thoả đáng, cho nghiêm túc. Có những trường hợp chúng ta nhân danh luật để thu hồi đất và chỉ hỗ trợ thôi, nhưng rồi đẩy người ta đi đâu". Đọc kỹ thì thấy luật đất đai 2003 quan niệm "tái định cư" chỉ là "nhà ở và đất ở" còn những vấn đề đời sống của người dân và con em họ như việc làm, thu nhập, học hành v.v.. không thuộc khái niệm này. Do đó "tái định cư" đi với "bồi thường" còn những vấn đề đời sóng đi đôi với "hỗ trợ".
- Các qua điểm và biện pháp triển khai công tác tái định cư chưa thật sự được làm rõ trong chính sách.
Có thể nêu lên các biểu hiện chủ yếu:
· Công tác quy hoạch, kế hoạch không có tầm tổng thể. Quy hoạch tái định cư, không trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất, và đến lượt quy hoạch sử dụng đất lại không xuất phát từ quy hoạch phát triển đô thị, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội: Trong báo cáo của Sở Tài nguyên - Môi trường thành phố Hà Nội v/v "Đầu tư, xây dựng, quản lý, sử dụng quỹ nhà tái định cư năm 2003-2004 và kế hoạch năm 2005 phục vụ công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố Hà Nội có nhận định "Thành phố chưa có kế hoạch trung hạn, dài hạn, về đầu tư xây dựng các khu tái định cư đồng thời với quy hoạch phát triển đô thị và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời kỳ vừa qua, cũng như thời kỳ 2005-2010. Việc xác định mô hình khu tái định cư, quy hoạch các diện tích đất để tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân, điều kiện hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của khu tái định cư chưa được nghiên cứu và đánh giá kỹ lưỡng".
· Nguồn vốn cho tái định cư không được xác định rõ. Hiện nay Hà Nội có ba nguồn nhà đất để giải quyết tái định cư. Một là, trích từ 20% quỹ đất, 30% quỹ nhà của các dự án xây dựng, cải tạo, sửa chữa nhà trên địa bàn; Hai là, mua từ dự án xây dựng, hoặc đặt hàng nhà; Ba là, ứng với ngân sách cho các chủ đầu tư xây dựng các khu nhà tái định cư tập trung với số lượng lớn. Vốn được huy động từ nhiều nguồn, phân tán, dàn trải. Có những nguồn vốn lớn có được từ các khoản thu về đất chưa được đầu tư trở lại để phát triển quỹ đất, quỹ nhà cho tái định cư.
- Không có chế tài xử lý đối với việc thi hành các quy định của chính sách dẫn đến tuỳ tiện.
Có thể nêu lên các biểu hiện cụ thể sau:
· Khoản 3 điều 42 luật Đất đai 2003 qui định: "UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất… khu tái định cư… phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ". Nhưng không có tỉnh, thành phố nào thực hiện điều đã ghi trong luật, ở đâu cũng giải phóng mặt bằng đi trước giải quyết tái định cư. Tình hình này gây những bức xúc có nhiệt độ cao trong dân cư ở hầu hết các nơi. Theo Bí thư Quận uỷ quận 9 thành phố Hồ Chí Minh khi làm việc với đoàn kiểm tra đất số 1 - ngày 24/8/2005 đã khẳng định: "Nếu tái định cư xong mới giải toả (thu hồi đất) thì bức xúc của dân sẽ hạ nhiệt ngay" (Đoàn Trang, trang web của báo Đầu tư - 24/8/2005). Theo Thanh niên, trang web Vneconomy cập nhật 27/8/205 trong bài "Chưa có chỗ tái định cư cho dân thì không được giải toả". Trả lời phỏng vấn của Thanh niên: "Thưa Thứ trưởng nhiều người dân tại các quận 2, 9, 12 nơi đoàn kiểm tra đã đi qua rất bức xúc vì các chủ đầu tư dự án không bố trí cho họ tái định cư trước khi giải toả?". Ông Đặng Hùng Võ trả lời: "Làm thế là sai luật, không có chỗ tái định cư cho dân thì không được giải toả".
Thanh niên lại hỏi: "Các chủ đầu tư thì cho rằng dự án vẫn phải triển khai thực hiện?". Ông Đặng Hùng Võ nhấn mạnh:"Thì phải ngừng ngay dự án, bất kể là dự án nào cũng phải có chỗ tái định cư rồi mới được giải toả. Không được đẩy người dân vào chỗ bế tắc, cùng đường. Nếu địa phương nào làm sai điều này thì phải chấn chỉnh ngay". Ông Võ nói vậy, nhưng trong luật, cũng như trong nghị định 197/2004/NĐCP ngày 03/12/2004 của Chính phủ không có cơ chế nào để chấn chỉnh. Các địa phương, các chủ dự án vẫn cứ làm sai luật để được việc của mình, còn người dân thì đã, đang, và sẽ bị đẩy đến cùng đường và bế tắc.
Từ tình hình và những phân tích trên đây, luận văn kiến nghị hoàn thiện chính sách theo các nội dung sau:
- Xem xét lại quan điểm tiếp cận khi thiết kế chính sách. Theo chúng tôi phải quán triệt quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội. Không thể chỉ đứng về một phía là các "Dự án", coi trọng việc xây dựng các dự án, để tăng trưởng mà quên đi lợi ích của cộng đồng dân cư bị thu hồi đất. Không ai cho phép đẩy dân đến bế tắc, cùng đường. Chính sách chưa làm rõ mục tiêu của hệ thống của chính sách liên quan đến việc thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, trong đó có chính sách tái định cư, nên sự chống đối của nhân dân khá mạnh mẽ và tốc độ triển khai các dự án do đó cũng rất chậm chạp.
- Cần quy định rõ: Phải có quy hoạch dài hạn xây dựng các khu tái định cư trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch sử dụng đất dài hạn. Phải kiên quyết đảo chiều "Thu hồi, tái định cư" sang "Tái định cư - Thu hồi".
Mô hình các khu tái định cư phải phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp của dân cư. Không thể dồn tất cả vào chung cư (người trồng rau, hoa; người chuyên nghề chăn nuôi vào chung cư như chúng tôi đã dẫn bài báo chỉ phản ánh ở phần trên.
Về vấn đề xây dựng các khu tái định cư, theo tôi nên theo phương thức Nhà nước xây dựng có khu tái định cư theo mô hình gắn với đặc điểm từng loại nghề nghiệp. Có sẵn quỹ tái định cư Nhà nước bán cho các chủ dự án phục vụ đền bù, giải toả mặt bằng. Nguồn vốn có thể từ các nguồn thu từ đất.
- Các chính sách cần có qui định các chế tài cần thiết đủ để răn đe những ai làm sai chính sách. Đặc biệt là hiện tượng giải toả trước khi có khu tái định cư.
3.2.2.3. Chính sách giá cả, thuế khoá, các hình thức giao dịch trong quan hệ chuyển mục đích sử dụng đất
Giá đất là vấn đề bức xúc nhất hiện nay. Thông qua các thông tin từ 13 đoàn kiểm tra thi hành luật đất đai 2003 vào tháng 8 vừa qua của Bộ Tài nguyên - Môi trường thì giá đất là quá thấp nhất là giá đất nông nghiệp, có thể nêu các biểu hiện cụ thể như sau:
- Giá đất đền bù còn chưa sát giá thị trường, đặc biệt là giá đất nông nghiệp quá thấp
Ở Hà Nội, ở đâu khi đoàn kiểm tra việc thi hành luật đất đai đến cũng được phản ánh giá đất không sát thị trường như luật quy định. Báo cáo trước đoàn kiểm tra Chủ tịch UBND phường Hạ Đình Hà Nội ông Nguyễn Hào Quang khẳng định: vấn đề dẫn đến khiếu kiện nhất hiện nay là giá đền bù. Theo khung giá của thành phố thì giá đền bù dọc đường Khương Đình là 12 triệu đồng/m2 nhưng thực tế giá thị trường ở khu vực này là 30 triệu đồng/m2. Với đất ruộng có vận dụng mọi quy chế về đền bù hoa màu, hỗ trợ chuyển đổi nghề thì giá đền bù cũng chỉ khoảng 300.000đ/m2 trong khi giá thị trường là nhiều triệu đồng khiến người dân luôn cảm thấy bị thiệt thòi. Lãnh đạo Hà Nội cho rằng: "Xác định giá đất thế nào là sát giá thị trường… cũng không phải là đơn giản".
(Báo An ninh thủ đô - Bài Kết thúc đợt kiểm tra thi hành Luật Đất đai-Xem xét thực tiễn để điều chỉnh vĩ mô của Thành Nam).
Ở thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng cũng như vậy. Thí dụ, báo Sài Gòn giải phóng dẫn lời ông Nguyễn Văn Hoàng - Trưởng ban giải phóng mặt bằng quận 12 thì đất ở trên đường Trường Chinh theo giá thành phố cao nhất là 4 triệu đồng/m2 trong lúc giá thị trường là 15 triệu đồng/m2.
Giá đất nông nghiệp quá thấp, thí dụ ở xã Phước Kiến huyện Nhà Bè giá đất của thành phố Hồ Chí Minh là 25.000đ/m2, trong lúc giá Công ty Tân An Huy thoả thuận mua của dân là 1 triệu đồng/m2, Với giá trên dân huyện Nhà Bè muốn mua 1 nền nhà 50m2 của công ty Tân An Huy phải bán đi 20.000m2 (tỷ lệ 400/1); Ở Phường An Hội, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ giá đất 1 công đất đền bù là 40.690đ/m2 chỉ bằng 1/10 giá thị trường, bán đi 4,5 công đất mới mua được 1 nền nhà 50m2 của khu tái định cư Thới Nhật liền kề.
Về giá đất nông nghiệp, ông Đặng Hùng Võ - Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường có ý kiến với báo Thanh niên như sau: "Tôi thấy việc đền bù hiện nay có quá nhiều bất cập, nhất là với giá đất nông nghiệp tại các dự án Nhà nước. Có nhiều trường hợp bị thu hồi hàng ngàn m2 nhưng mức đền bù lại không mua nổi một miếng đất để ở, khiến người dân lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn" (bài: Chưa có chỗ tái định cư cho dân thì không được giải toả- VNECONOMY cập nhật 27/8/2005).
Kết thúc đợt kiểm tra thi hành luật Đất Đai, ông Mai Ái Trực - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường nói với báo An ninh thủ đô rằng: "Đúng là giá đất có vấn đề, kể cả giá đất áp dụng cho đền bù giải phóng mặt bằng, và giá đất áp dụng cho thuê, giao đất. Bộ đã trình Chính phủ sửa đổi Nghị định số 17/CP và 187CP theo đó, giá đất áp dụng cho bồi thường nếu không sát giá thị trường thì UBND cấp tỉnh phải quyết định lại cho phù hợp. Quyền sử dụng đất là tài sản của người dân, nên cần được đối xử cho đúng mức" (Bài xem xét thực tiễn để điều chỉnh vĩ mô - An ninh thủ đô số 5/92005).
- Vấn đề công bằng xã hội chưa thể hiện rõ trong chính sách giá đền bù.
Những biểu hiện không công bằng cụ thể như sau:
· Người dân bị thu hồi đất (tư liệu sản xuất quan trọng nhất đối với nghề nghiệp mà họ đang theo dõi) sau khi nhận sự đền bù của Nhà nước. Không đủ để mua lại phần đất (tư liệu sản xuất) mà họ vừa giao cho Nhà nước ngay trên địa bàn mà họ đang sống. Vậy là các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và người dân trên lĩnh vực này không trên cơ sở ngang giá, cơ sở quan trọng của công bằng.
· Cách tính giá thu hồi hiện nay chưa phản ánh hết các yếu tố của khái niệm giá trị quyền sử dụng đất. Giá đất đai được tính trên cơ sở thu nhập hoa lợi trên mảnh đất đó, không sai. Nhưng khi Nhà nước giao cho họ quyền sử dụng lâu dài và quyền chuyển nhượng thì thực chất đã giao cho họ những phần quan trọng của quyền sở hữu. Ông Mai Ái Trực - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường đã khẳng định: "Quyền sử dụng đất chính là tài sản của người dân nên cần được đối xử cho đúng" (Xem xét thực tiễn để điều chỉnh vĩ mô - An ninh Thủ đô 5/9/2005). Tài sản khi bán phải lấy giá thị trường làm chuẩn. Vì vậy, muốn đúng, đầy đủ thì giá đất phải sát giá thị trường mới công bằng. Hơn nữa đất là TLSX sử dụng nhiều năm, tính giá trên cơ sở thu nhập hoa lợi 1 năm là chưa đúng.
· Khoảng chênh giữa giá thu hồi đất và giá đất các chủ dự án (sau khi được giao đất) bán ra quá lớn. Người bị Nhà nước thu hồi đất thấy mình quá thiệt thòi. Khoảng chênh này để các chủ dự án được hưởng cũng không hợp lý vì phần họ đầu tư mới vào thửa đất còn quá khiêm tốn. Phần chênh này có được là do mục đích sử dụng đất thay đổi. Các chủ dự án không thể được hưởng phần không do mình làm ra.
- Quan hệ giao dịch đất đai còn mang nặng tính chất hành chính, chủ yếu là ép buộc, thậm chí cưỡng chế, chứ không phải là sự giao dịch dựa trên sự thoả thuận. Cụ thể là:
· Giá thu hồi là không sát giá thị trường, Nhà nước ép giá đối với nông dân.
· Chưa có nơi tái định cư, đã thu hồi đất, đẩy dân đến tình trạng rất khó khăn.
· Tính công khai chưa được bảo đảm.
Từ những phân tích trên Luận văn kiến nghị: Phải nghiên cứu toàn diện chính sách giá cả thu hồi đất đai theo hướng:
Một là, làm rõ mục tiêu của chính sách về vấn đề này tôi nghĩ cần trả lời cho được một số câu hỏi sau:
+ Đền bù đầy đủ, hay chỉ là đền bù một phần tư liệu sản xuất mà người dân bị thu hồi.
+ Giải quyết sự hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất, chủ các dự án được nhận giao đất chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quan hệ tr lệ như thế nào cho hợp lý. Cần có cơ chế điều tiết để hài hoà lợi ích giữa nông dân, chủ dự án và Nhà nước.
+ Có thể giải quyết các giao dịch đất đai theo quan hệ thị trường được hay không?
Hai là, làm rõ hệ thống biện pháp, công cụ để thực hiện chính sách giá cả. Thí dụ như: dân chủ, công khai, các thủ tục…
Ba là, các chế tài thưởng phạt nghiêm túc những ai, cơ quan làm sai chính sách.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
3.3.1. Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân, làm rõ trách nhiệm công dân với công cuộc xây dựng đất nước, trên cơ sở đó tự giác chấp hành chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai là một nhiệm vụ lớn mà Đảng, Nhà nước đang tiến hành trên phạm vi cả nước, ở địa phương nào cũng có những bức xúc của quần chúng. Việc thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người, trước nhất là nông dân. Các vấn đề lợi ích kinh tế không được giải quyết hợp lý, sẽ ảnh hưởng đến quan hệ giữa Nhà nước với dân cư, giữa các nhóm dân cư với nhau, làm chậm sự tăng trưởng kinh tế và suy giảm lòng tin, mất an toàn xã hội v.v..
Thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trở thành một vấn đề có tầm kinh tế, xã hội, chính trị. Nó cần được quan tâm trên các mặt sau:
+ Làm rõ với nhân dân, trước hết là nông dân hiểu rõ sự tất yếu phải chuyển đổi mục đích sử dụng ruộng đất.
+ Tổ chức các đợt học tập sâu, rộng để nhân dân hiểu mục tiêu, các bước tiến hành, các thủ tục, công cụ của chính sách.
+ Các tổ chức Đảng, quần chúng phải vào cuộc tổ chức đợt vận động này.
3.3.2 Nâng cao chất lượng và sự đồng bộ của các quy hoạch
Có mấy hiện tượng thể hiện sự yếu kém của công tác quy hoạch cần phải khắc phục:
- Quy hoạch treo, thu hồi đất sau đó bỏ hoang gây lãng phí "treo dân theo quy hoạch", gây mất lòng của nhân dân.
Thí dụ: Ở Thừa Thiên Huế, ông Nguyễn Thanh Hà- Phó Chủ tịch UBND huyện Phú Lộc cho biết: "Quy hoạch khu đô thị mới Chân Mây - Lăng Cô đã được công bố. Triển khai theo quy hoạch thuật sự quá chậm. Tình trạng quy hoạch treo nhiều năm khiến người dân bức xúc" (Đẩy người dân đi đâu? (Tuổi trẻ, 22/8/2005).
Ở Hà Nội, tờ Công an Nhân dân ngày 25/8/2005 trong mục ý kiến người dân đã nêu ý kiến của ông Đỗ Huy Bảo số nhà 89, tổ 14, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân:"Nhà tôi trong số 300 hộ phải di dời thuộc dự án cây xanh. Dự án treo 3 năm không động tĩnh gì, nhưng bản thân chúng tôi lúc nào cũng nơm nớp lo lắng, cuộc sống không ổn định".
Ở Hải Phòng, theo ông Bùi Quang Sản - Phó Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường: Hải Phòng có 672 dự án, cho thuê đất từ năm 2001 đến nay chỉcó 207 dự án triển khai. Phần lớn các dự án phát triển nhà sau khi nhận đất xong đã rơi vào tình trạng đắp chiếu.
- Quy hoạch chậm, quy hoạch lạc hậu, quy hoạch bất hợp lý:
Thí dụ: + Huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, xã Mỹ Hoá là vùng Bưởi Năm Roi nổi tiếng, nay quy hoạch thành khu công nghiệp (Đất đai: Bảo thủ trong tư duy, thiếu minh bạch về quản lý. Trang web - Báo Đầu tư, VNEVECONOMY cập nhật 1/9/2005)
+ Toàn thành phố Hải Phòng mới có 66 xã phường trong tổng số 219 xã, phường, thị trấn có quy hoạch sử dụng đất đạt 30,2% quá thấp đối với đô thị hoá loại I.
"Do đó, dân không biết Nhà nước lấy đất đến đâu, lấy đất xong lại để cỏ mọc lút đầu người rất phí phạm. Thậm chí có nơi như ở phường Đằng Hải (quận Hải An) khi dân thắc mắc, ông chủ tịch phường lại yêu cầu… chỉnh lại mốc giới" (Trần Lê, Bất cập quản lý đất đai - Kiểm tra thi hành luật Đất đai ở Hải Phòng - Thời báo Kinh tế Việt Nam 24/8/2005).
- Quy hoạch không bàn bạc, không công khai với dân.
Thí dụ: Ở quận Thanh Xuân Hà Nội, ông Phùng Ngọc Nghệ trưởng đoàn kiểm tra luật Đất đai nhận xét: "Điểm chung ở các dự án thuộc quận Thanh Xuân là thiếu công khai, không bàn bạc với dân" (Thanh niên, 24/8/2005, theo chân các đoàn kiểm tra thực hiện Luật Đất đai).
- Quy hoạch sử dụng đất, không được xây dựng trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, không phù hợp với yêu cầu thị trường nên nay quyết định mai sửa:
Thí dụ: ở huyện Châu Đốc (Bà Rịa Vũng Tàu) có 10 hộ nhận được 5 lần quyết định thu hồi đất với các mục đích khác nhau chỉ trong thời gian từ 1977-2003. Ông Khải trưởng đoàn kiểm tra việc thi hành luật Đất đai số 1 phải kêu lên: Các anh thay đổi quy hoạch như vậy, người dân mệt mỏi, bức xúc là đúng rồi" (Kiểm tra tình hình thi hành Luật Đất đai - Bài cho dân biết tại sao treo - Trang web báo Đầu tư cập nhật chiều 19/8).
3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác cán bộ
Công tác quản lý đất đai là một công tác phức tạp, nhạy cảm cần phải có đội ngũ cán bộ có chất lượng cao đảm nhận. Theo tôi trong tình hình hiện nay việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ cần chú ý các khía cạnh sau:
- Đạo đức cán bộ, các sai phạm về quản lý đất đai phần đông là do cán bộ không giữ vững đạo đức, hám lợi gây ra như tham nhũng, lợi dụngchức quyền, chiếm đoạt đất công…
Cần có biện pháp giáo dục thích hợp, đồng thời có cơ chế xử lý, răn đe nghiêm túc.
- Giáo dục tinh thần trách nhiệm trước dân, thông cảm trước những khó khăn của dân vừa qua. Có nhiều biểu hiện chứng tỏ cán bộ vô cảm trước khó khăn và những đòi hỏi chính đáng của nhân dân. Tại cuộc họp đại biểu Quốc hội chuyên trách 5/8/2005 Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã phê phán: "Tại sao phát hiện thấy bất hợp lý mà không trình ngay với Quốc hội để mà sửa điều luật đó. Bộ trưởng thấy bất hợp lý phải có công văn gửi Chính phủ và gửi Quốc hội, thì Quốc hội sẽ sửa ngay. Quốc hội không bao giờ được làm thiệt hại cho Chính phủ, Quốc hội không bao giờ được làm thiệt hại cho dân. Bất cứ ai soạn thảo với tư cách là Bộ trưởng cũng phải chịu trách nhiệm như thế (thấy luật mà phiền hà dân thì phải đề nghị sửa), chứ không thể cắm đầu vào làm để gây phiền hà cho dân" (Báo Lao động, số ra ngày 6/8/2005).
Việc thu hồi đền bù, tái định cư, giải quyết việc làm mới ổn định thu nhập đời sống của dân cư bị thu hồi đất có bao nhiêu bất hợp lý, dân bị đẩy tới cùng đường, bế tắc, thế mà, nhiều cán bộ "cắm đầu" vào thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao, không thấy khó khăn cho dân. Tại sao thế? Tại cán bộ xa dân, vô cảm trước nguyện vọng của dân.
- Cần nâng cao năng lực cán bộ. Với cán bộ cấp vĩ mô, phải có năng lực, trí tuệ đề suất chính sách, cán bộ cấp cơ sở là năng lực, kỹ năng tổ chức công việc và khả năng vận động quần chúng. Đặc biệt cán bộ phải đọc, học, rèn luyện, khắc phục ngay tình trạng "cán bộ địa chính ở địa phương cũng chưa nắm hết được điều luật, qui định của luật và nghị định liên quan đến đất đai nên không biết giải quyết các trường hợp cụ thể như thế nào hoặc làm sai" (theo ông Bùi Ngọc Tuân trưởng đoàn kiểm tra thi hành luật Đất đai số 8 trao đổi với báo Tuổi trẻ. Trang web báo Đầu tư).
Cơ cấu đội ngũ cán bộ cần điều chỉnh bổ xung cho hợp lý, có đủ khả năng đảm bảo thực hiện các công việc trong nội dung QLNN về đất đai: như xây dựng và quản lý thi hành pháp luật đất đai, xây dựng và quản lý hệ thống thông tin đất đai rõ ràng, minh bạch, cập nhật, quản lý hồ sơ,…
KẾT LUẬN
Đối chiếu với mục đích nghiên cứu (mục 3 phần mở đầu) Luận văn đã hoàn thành nhiệm vụ và có các kết quả sau đây:
1. Hệ thống hoá, chuẩn xác hoá các quan niệm về hàng hoá đất đai, thị trường đất đai, thị trường quyền sử dụng đất, sự cần thiết khách quan phải thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai. Thông qua đó phân tích, đối chiếu với thực trạng vận động của hàng hoá đất đai ở Việt Nam.
2. Luận văn cũng thông qua việc khảo sát pháp luật và tình hình thị trường đất đai ở một số nước, nêu lên những bài học kinh nghiệmvề phát triển thị trường đất đai; về việc xây dựng các chính sách trên cơ sở quan điểm thị trường.
3. Sau khi làm rõ các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội có liên quan đến việc cụ thể hoá chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai luận văn trình bày nội dung của hệ thống chính sách của Nhà nước và tình hình vận dụng, cụ thể hoá các chính sách của Nhà nước hình thành các văn bản pháp quy về thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai phù hợp với điều kiện Hà Nội. Luận văn cho rằng Hà Nội đã triển khai Luật Đất đai một cách bài bản, thành phố đã kịp thời ban hành nhiều văn bản theo đúng thẩm quyền để triển khai thi hành Luật; Tổ chức tốt công tác tuyên truyền; Bộ máy quản lý đất đai được xác lập nhanh và đầy đủ; chuyển đổi tư duy kịp thời mỗi lần thay đổi Luật.
4. Luận văn đã giành một phần dung lượng khá lớn đề phân tích tình hình thực hiện chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai ở Hà Nội. Có lấy thêm thí dụ điển hình ở các địa phương khác để chứng minh tính phổ biến của tình hình và tính khái quát của các nhận xét.
Luận văn đã nêu rõ: Từ năm 2000 đến nay diện tích đất thu hồi hàng năm là rất lớn, ảnh hưởng đến đời sống của vài chục ngàn hộ dân cư. Tuy nhiên so với kế hoạch thì tốc độ thu hồi chậm, diện tích thu hồi chưa đạt kế hoạch; tỷ lệ tái định cư thấp, đời sống của người thu hồi đất bị xáo trộn. Việc giải quyết việc làm mới còn lúng túng.
Luận văn cũng phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình trên, trong đó luận văn cho rằng nhận thức về đất đai và thị trường đất đai còn chưa rõ ràng nên chính sách đất đai không ổn định, cho đến Luật Đất đai 2003 cách tiếp cận, mục tiêu, nội dung công cụ thực thi chính sách vẫn còn nhiều vấn đề cần làm rõ; công tác quản lý đất đai, chất lượng quy hoạch, kế hoạch cũng là những nhân tố ảnh hưởng mạnh đến chất lượng giải quyết các vấn đề liên quan đến thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai.
5. Luận văn đã giành phần quan tâm lớn nhất cho kiến nghị hướng đổi mới chính sách thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai. Sau khi dự báo nhu cầu sử dụng đất đai đến năm 2010 của Hà Nội và chỉ rõ nhiệm vụ thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai những năm tới là rất lớn. Luận văn một lần nữa làm rõ tính cấp thiết và quan điểm đổi mới chính sách. Luận văn đề nghị phải đổi mới hệ thống chính sách theo các nội dung sau:
- Một là, đổi mới quan điểm tiếp cận, đối với tổng thể hệ thống cũng như từng chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai theo hướng thực hiện ba quan điểm: thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai là tất yếu khách quan; quan điểm kinh tế thị trường; quan điểm hiệu quả và kinh tế xã hội.
- Hai là, nội dung của từng chính sách phải xác định rõ mục tiêu của chính sách, các công cụ, biện pháp thực hiện chính sách.
- Ba là, từ quan điểm tiếp cận, mục tiêu của từng chính sách phải là rõ mục tiêu chung của tổng thể hệ thống chính sách, từ đó, sắp đặt thứ tự các chính sách theo trật tự tầm quan trọng và trình tự thời gian thực hiện. Luận văn cũng đề xuất một số biện pháp cần thực hiện ngay để bảo đảm việc thực thi chính sách có hiệu quả.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Xuân Bá (2003). Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam - NXB Khoa học và Kĩ thuật.
Báo Đầu tư, trang Web (Nguyên Hương) Phân lô bán nền - nên hay không; (Đoan Trang) Khổ vì quá nhiều dự án; (theo Hà Nội mới) Nhà tái định cư giải phóng mặt bằng: cung chẳng kịp cầu; (Đinh Toàn) Đẩy người dân đi đâu; (Minh Luận) Cho dân biết vì sao treo; (theo Tuổi trẻ) Vốn làm nóng thị trường bất động sản; Nguyễn Hằng Tình: Kiểm tra tình hình thực hiện Luật Đất đai tại các tỉnh 22/8/2005; (theo Sài Gòn giải phóng) Kiểm tra đất đai tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nhiều vướng mắc, chậm thực hiện, 23/1/2005; (theo Thanh niên) Chưa có chỗ tái định cư cho dân thì không được giải toả, 27/8/2005; (K. Hưng) Dân khiếu niệm vượt cấp vì không tin địa phương; theo VnExpress: Tất cả dự án sử dụng đất ở Hà Nội sẽ phải đấu thầu, 20/8/2005; (Đoan Trang) Tại sao dân kéo đến đông vậy.
Báo Đầu tư, phóng sự - Dân tố khổ chuyện đất đai, Báo Đầu tư 19/8/2005 và 22/8/2005.
T.T. Bình, Tp.Hồ Chí Minh - Tràn ngập đơn khiếu nại về giá đền bù, Thanh niên 24/8/2005.
Trịnh Hoà Bình - Giải pháp mặt bằng ở Hà Nội vẫn khó khăn, Thời báo kinh tế 27/7/2005.
Bộ Tài nguyên - Môi trường:
- Thông tư số 18/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất.
- Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.
- Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Hướng dẫn lập, điều chỉnh, thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quyết định số 25/2004/QĐ-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Ban hành kế hoạch và triển khai thi hành Luật Đất đai.
Chủ tịch nước, Pháp lệnh thuế nhà đất 3/7/1992
Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam (14/10/1994).
C. Mác, Tư bản- quyển thứ nhất, tập 3- NXB Sự thật - 1960.
Ngô Thế Chi, hướng dẫn thực hành thuế và kế toán thuế - NXB Thống kê 1999.
10) Chính phủ - Nghị định 64/1993/NĐ-CP (ngày 27/9/1993) về việcgiao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp - Công báo.
11) Chính phủ- Nghị định 02/1994/NĐ-CP (ngày 15/1/1994) về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp - Công báo.
12) Chính phủ- Nghị định 60/1994/NĐ-CP (ngày 5/7/1994) về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị- Công báo.
13) Chính phủ- Nghị định 87/1994/NĐ-CP (ngày 17/8/1994) về khung giá các loại đất - Công báo.
14) Chính phủ- Nghị định 90/1994/NĐ-CP (ngày 17/8/1994) về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng - Công báo.
15) Chính phủ- Nghị định 01/1995/NĐ-CP (ngày 4/1/1995) về giaokhoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp Nhà nước - Công báo.
16) Chính phủ- Nghị định 36/1997/NĐ-CP (ngày 24/4/1997) về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - Công báo.
17) Chính phủ- Nghị định 22/1998/NĐ-CP (ngày 2/4/1998) về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng - Công báo.
18) Chính phủ- Nghị định 17/1999/NĐ-CP (ngày 29/3/1999) về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất - Công báo.
19) Chính phủ- Nghị định 38/2000/NĐ-CP (ngày 23/8/2000) về thu tiền sử dụng đất - Công báo.
20) Chính phủ- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP (ngày 29/10/2004) về việc thi hành luật Đất đai.
21) Chính phủ- Nghị định 164/2004/NĐ-CP (ngày 14/9/2004) về việc đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án.
22) Chính phủ- Nghị định 182/2004/NĐ-CP (ngày 29/10/2004) về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai.
23) Chính phủ- Nghị định 1447/QĐ-TTg (ngày 09/11/2001) về việc phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai thành phố Hà Nội đến năm 2010.
24) Chính phủ- Nghị định 188/2004/NĐ-CP (ngày 16/11/2004) về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
25) Chính phủ- Nghị định 197/2004/NĐ-CP (ngày 3/12/2004) về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
26) Văn Cương, Thu hồi đất của dân rồi bán đấu giá cao gấp 34,6 lần! Công an thành phố Hồ Chí Minh số 20/8/2005.
27) Trung Chính, Kiểm tra đất ở đâu thấy sai đó - Thời báo Kinh tế Việt Nam 19/8/2005.
28) Chính phủ, số 582 TTg ngày 24/8/1996 - Phê duyệt kế hoạch sử dụng đất đai năm 1996 của thành phố Hà Nội.
29) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX - NXB Sự thật, NXB Chính trị Quốc gia.
30) Đa vít Ri các đô, Những nguyên lý cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khoá- NXB Chính trị Quốc gia 2002.
31) Bùi Thị Bích Hằng, Việc làm cho nông dân hết đát sản xuất, xây dựng hệ thống nông nghiệp đô thị sinh thái - Thời báo Kinh tế 19/8/2005.
32) Thu Hương, Nóng bỏng đất đai, Đầu tư 24/8/2005.
33) Phan Lê, Nhiều địa phương giải quyết khiếu nại về đất đai chưa tốt, Sài Gòn giải phóng ngày 21/8/2005.
34) Trần Lê, Bất cập quản lý đất đai- Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 24/8/2005.
35) Nguyễn Văn Nam, Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất, quy hoạch lại nguồn lao động- Thời báo Kinh tế ngày 19/8/2005.
36) Thành Nam, Xem xét thực tiễn để điều chỉnh vi mô - An ninh Thủ đô ngày 5/9/2005.
37) Nhóm phóng viên, Nan giải chuyện đền bù giải toả - Sài Gòn giải phóng 26/8/2005.
38) Nhóm phóng viên, Gỡ dần những bức xúc - Công an nhân dân, 25/8/2005.
39) Tuyết Nhung, Hà Nội, dân Hạ Đình kêu khổ - Thanh niên ngày 24/8/2005.
40) Quốc hội, Luật Đất đai năm 1987, 1993, 1998 (sửa đổi bổ xung), 2000 (sửa đổi bổ xung)- Công báo, 2003 - NXB Chính trị Quốc gia, 2004; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 3/7/1992; Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất 22/6/1994.
41) Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1988 và 1992 - NXB Chính trị Quốc gia năm 1995.
42) Nguyễn Xuân Sang, Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất, tiết kiệm tập trung vốn cho chuyển nghề mới. Thời báo kinh tế 19/8/2005.
43) Sở Tài nguyên - Môi trường và nhà đất Hà Nội, Báo cáo về đầu tư, xây dựng, quản lý và sử dụng quỹ nhà tái định cư năm 2003-2004 và Kế hoạch 2005 phục vụ công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố Hà Nội 5/2005.
44) Vũ Quốc Tuấn, Đất đai; những vấn đề thể chế bảo thủ trong tư duy, thiếu minh bạch trong quản lý - Thời báo Kinh tế Việt Nam 1/9/2005.
45) Đinh Toàn, Đẩy người dân đi đâu? Tuổi trẻ 22/8/2005.
46) - Đoan Trang, Giải toả nhiều, tái định cư không bao nhiêu, Tuổi trẻ, 24/8/2005.
- Đoan Trang - Đà Lạt: đưa nông dân trồng rau vào chung cư, họ sống bằng gì?
47) Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 216/2005/QĐ-TTg 31/8/2005 v/v Ban hành Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất.
48) Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 108/1998/QĐ-TTg 20/6/1998 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến 2020.
49) UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo sơ kết công tác thực hiện các dự án đấu giá quyền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2003 - và dự kiến kế hoạch năm 2004.
50) UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo sơ kết 2 năm 2003-2004 thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố và kế hoạch năm 2005 (1/2005),
51) UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2004, Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2005 của thành phố Hà Nội (11/2004).
52) UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết chính sách đất đai kiến nghị về chủ trương sửa đổi luật đất đai 29/7/2002.
53) UBND thành phố Hà Nội, Quyết định 199/2004/QĐ-UB ngày 29/12/2004 v/v ban hành các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
54) UBND thành phố Hà Nội, Quyết định 137/2005/QĐ-UB ngày 9/9/2005 v/v Ban hành quy định về đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
55) UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện NQ số 20 NQ-TU của Thành uỷ, NQ số 09/2000/NQQHD của HĐND thành phố và nhiệm vụ giải phóng mặt bằng 2005.
56) Nguyễn Thị Hải Vân, Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất- Thời báo Kinh tế Việt Nam 13/7/2005.
57) Nguyễn Thị Hải Vân - Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất - Phối hợp chặt chẽ giữa TW và địa phương - Thời báo kinh tế, 19/8/2005.
58) Thanh Vân, Dự án đường vành đai 3 (Hà Nội) - chậm vì thiếu nhà tái định cư - Báo Giao thông vận tải 22/8/2005.
59) Nguyễn Hoàng Vinh, Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất, kết hợp đồng bộ các giải pháp - Thời báo kinh tế 19/8/2005.
60) Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, kỷ yếu hội thảo khoa học - thị trường nhà đất ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước 4/2002.
61) Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, kỷ yếu hội thảo "Phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam" 2/2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đổi mới chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong điều kiện CNH, ĐTH ở Việt Nam thời kỳ 2006-2010 (qua tình hình của thành phố Hà Nội).docx