MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu . . 3
Chương I 5
Những vấn đề chung về đổi mới công nghệ trong công nghiệp . 5
1. Khái niệm về đổi mới công nghệ trong công nghiệp . . 5
2. Một số phương hướng lựa chọn công nghệ thích hợp trong công nghiệp 8
3. Đánh giá công nghệ và chuyển giao công nghệ trong phát triển
công nghiệp . . 9
Chương II . . 13
Thực trạng đổi mới công nghệ trong các DN công nghiệp
Việt Nam . . . 13
1. Hiện trạng của đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp
Việt Nam . 13
2. Những nhân tố thúc đẩy và cản trở đối với quá trình đổi mới công nghệ trongcác doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam . 22
Chương III 26
Các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam 26
1. Các giải pháp đối với doanh nghiệp công nghiệp . 26
2. Các giải pháp, kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước có liên quan 27
Kết luận . . . 30
Danh mục tài liệu tham khảo . . . 31
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập làm thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, các doanh nghiệp(DN) Việt Nam nói chung và các DN công nghiệp Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều cơ hội cũng như thách thức cản trở trên con đường hội nhập. Muốn tồn tại và phát triển được buộc các DN phải tập trung không ngừng tự hoàn thiện và làm mới phù hợp với quy luật phát triển chung. Nước ta là một nước đang phát triển, nền sản xuất nhỏ và nông nghiệp là chủ yếu. Vì thế thực trạng công nghệ ở nước ta còn lạc hậu so với thế giới cũng là một điều không có gì làm ngạc nhiên.
Đã hơn 20 năm thực hiện đổi mới cơ chế chính sách, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, và đã mang lại nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhìn chung thì tình hình phát triển công nghệ vẫn còn kém, công cuộc chuyển giao, đổi mới công nghệ ở nước ta nói chung và ở các DN sản xuất công nghiệp nói riêng vẫn còn chậm và có nhiều hạn chế. Vì muốn tìm hiểu rõ hơn về thực trạng đổi mới công nghệ ở các DN công nghiệp Việt Nam hiện nay nên em đã chọn đề tài cho đề án môn học Kinh tế và quản lý công nghiệp của mình là: “Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp”. Với mong muốn tìm hiểu rõ những hạn chế còn tồn đọng và có một số giải pháp để khắc phục những hạn chế đó.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7507 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới công nghệ trong các Doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh về chất lượng sản phẩm, về chi phí sản xuất… Đổi mới công nghệ bao gồm 2 hình thức chủ yếu là: đổi mới nâng cao và đổi mới triệt để.
Đổi mới nâng cao là cải thiện các công nghệ đã tồn tại, làm cho nó “mới mẻ và hoàn thiện hơn”. Đổi mới nâng cao ít tốn thời gian, chi phí và ít rủi ro cho các chủ thể kinh tế.
Đổi mới triệt để là tạo ra các công nghệ thật sự mới mẻ, mang tính đột phá. Đổi mới triệt để là hình thức đổi mới có các tiêu chí sau:
Tập hợp các đặc tính hiệu quả hoàn toàn mới.
Giảm chi phí.
Thay đổi nền tảng cạnh tranh.
Đổi mới triệt để và đổi mới nâng cao thường diễn ra song song với nhau. Chính vì vậy khi đổi mới triệt để thành công thì nối tiếp nó sẽ là một quá trình đổi mới nâng cao, làm tăng hiệu suất và mở rộng phạm vi ứng dụng.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển đổi mới công nghệ trong công nghiệp.
Vào thế kỷ XVIII, khi mới bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, nhiều công nghệ, kỹ thuật được ra đời dựa vào kinh nghiệm sản xuất trực tiếp của loài người trong quá trình lao động chứ không phải do nghiên cứu khoa học.
Ngay từ buổi đầu công nghiệp hóa, người ta đã định nghĩa được công nghệ. Tuy chỉ với nghĩa hẹp nhưng qua đó nhận thấy việc công nghệ được biết đến và áp dụng vào công nghiệp đã bắt đầu từ thời kì sơ khai của quá trình công nghiệp hóa. Việc áp dụng công nghệ vào công nghiệp chính là việc tạo ra những phương pháp, giải pháp kỹ thuật sử dụng trong các dây chuyền sản xuất sản phẩm. Trải qua nhiều thời gian, công nghệ dần dần chuyển thành hàng hóa mua bán. Và cũng từ đó công nghệ mới thực sự được hiểu theo nghĩa rộng hơn.
Đến khi công nghệ cũ đã trở thành lạc hậu, không thể thích ứng với thời đại thì lập tức phải được đổi mới công nghệ. Mỗi ngày thị trường sản phẩm càng đa dạng hóa, việc sản xuất kinh doanh muốn đem lại lợi nhuận tối đa thì buộc các DN phải tìm mọi cách để cạnh tranh nhau trên thương trường. Đầu tiên để có thể cạnh tranh được, DN phải bảo đảm chất lượng sản phẩm của mình phải tốt, sau đó là mẫu mã sản phẩm. Ngay cả việc tổ chức các dịch vụ phục vụ khách hàng cũng là yếu tố quan trọng để DN có thêm thế mạnh khi cạnh tranh. Muốn được như vậy thì bắt buộc DN phải có những công nghệ tiên tiến, hiện đại. Như thế có nghĩa là DN phải chấp nhận thay thế, đổi mới công nghệ cho mình. Việc đổi mới công nghệ diễn ra được nhờ vào các nguồn:
- Sử dụng công nghệ truyền thống hiện có, cải tiến và hiện đại hóa công nghệ truyền thống đó.
Tự nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới.
Nhập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ.
Trong ngành công nghiệp, quá trình đổi mới công nghệ diễn ra sẽ được thể hiện qua các hoạt động cụ thể sau:
Chế tạo, sử dụng máy móc, thiết bị mới, vật liệu mới, năng lượng mới.
Áp dụng quy trình, phương pháp công nghệ mới, tiến bộ hơn.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất và quản lý.
Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Do tính cạnh tranh của thị trường, do sự đa dạng hóa của sản phẩm trên thị trường ngày càng mạnh mẽ dẫn đến việc áp dụng công nghệ và đổi mới công nghệ vào công nghiệp ngày càng cần thiết. Đổi mới công nghệ thực sự mang lại thế mạnh cho sản phẩm của DN khi tiêu thụ. Nó là yếu tố cấu thành cơ sở vật chất và là phương pháp của sản xuất công nghiệp, nó không chỉ tác động đến tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp, mà nó còn tác động mạnh mẽ đến cơ cấu ngành của công nghiệp. Nó còn giúp nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh của công nghiệp, góp phần giải quyết được nhiệm vụ bảo vệ môi trường, giảm lao động nặng, lao động phổ thông, đơn giản, độc hại…nâng cao tỷ lệ lao động có chất xám, lao động có kỹ thuật.
Một số phương hướng lựa chọn công nghệ thích hợp trong công nghiệp.
2.1 Sự cần thiết của việc lựa chọn công nghệ thích hợp.
Trong ngành công nghiệp, công việc đổi mới công nghệ rất cần thiết và phải được thực hiện đa dạng. Bởi trong cơ cấu của ngành có sử dụng rất nhiều loại công nghệ khác nhau, trong đó mỗi loại công nghệ lại có những phương thức và trình độ khác nhau. Mỗi phương pháp đổi mới sẽ đòi hỏi chi phí và mang lại kết quả cũng khác nhau. Vì vậy với những loại công nghệ khác nhau đó, chúng ta nên áp dụng các phương pháp đổi mới khác nhau để phù hợp, góp được phần nào giảm chi phí trong quá trình đổi mới và mang lại kết quả tốt nhất.
2.2 Những căn cứ và nội dung của lựa chọn công nghệ thích hợp.
Một khi muốn thực hiện đổi mới công nghệ thì ta phải hiểu rõ về các công nghệ hiện có, phải nắm bắt được chính xác về các công nghệ mới. Từ đó mới bắt đầu lựa chọn công nghệ phù hợp và tốt nhất để thay thế cho công nghệ cũ. Nhưng việc lựa chọn công nghệ cũng cần phải nghiên cứu về các nhu cầu của việc đổi mới công nghệ, đánh giá trình độ của công nghệ hiện có và khả năng cạnh tranh của ngành, của DN và các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa cần phải biết dự đoán sự phát triển của các công nghệ, xem xét quan hệ cung cầu về đổi mới công nghệ và xu thế phát triển của công nghệ để lựa chọn công nghệ thích hợp.
Mục tiêu phát triển và đổi mới công nghệ của DN là tăng khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận, cải thiện vị thế của DN trên thị trường. Việc đánh giá trình độ công nghệ hiện có của ngành và của DN công nghiệp là một trong những căn cứ trọng yếu để xác định nội dung của phát triển và đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, việc xác định công nghệ đang ở đâu trong quá trình phát triển, khuynh hướng của nó trong tương lai ra sao, công nghệ thay thế nó tiên tiến như thế nào và thay đổi sẽ diễn ra như thế nào là một điều mà các DN cần thiết phải làm trước khi bắt tay vào quá trình đổi mới công nghệ. Nhưng trong quá trình đó DN cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề như mục tiêu cụ thể của đổi mới công nghệ (Đối với nhiều ngành công nghiệp thì đó là hoàn thiện cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm, tăng trưởng nhanh, bền vững và việc làm hiệu quả), đa dạng hóa nhiều trình độ công nghệ ngay trong một DN theo hướng hiện đại hóa công nghệ truyền thống, công nghệ hiện có, để sử dụng tốt thiết bị máy móc hiện có, ứng dụng đế sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại với một số sản phẩm, năng suất và khả năng cạnh tranh.
Việc lựa chọn công nghệ rất phức tạp, cần được phân tích và đánh giá về thị trường, về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, vấn đề môi trường. Những tiêu chuẩn của việc đổi mới công nghệ đã được đưa ra để áp dụng là:
Trình độ của công nghệ.
Hiệu quả kỹ thuật của công nghiệp.
Tính thích nghi của công nghệ.
Chi phí đầu tư.
Tính sinh lợi, năng suất, chất lượng.
Môi trường vấn đề xử lý phế thải và giảm ô nhiễm môi trường.
Đánh giá công nghệ và chuyển giao công nghệ trong phát triển công nghiệp.
Đánh giá công nghệ.
Công nghệ không tồn tại một cách biệt lập mà nó luôn tồn tại trong “môi trường của con người”. Các công nghệ khi đã ứng dụng thì nó làm thay đổi môi trường xung quanh con người. Và môi trường cũng tác động lại đối với công nghệ bằng một lực thúc đẩy và định hướng cho sự phát triển của công nghệ. Công nghệ được áp dụng trong công nghiệp thường bao gồm nhiều hướng, nhiều trình độ khác nhau và mang lại những kết quả, hiệu quả khácnhau. Vì vậy, việc đánh giá công nghệ là rất cần thiết cho quá trình ra quyết định về chính sách hay kế hoạch đổi mới công nghệ trong công nghiệp.
Đánh giá công nghệ là sự so sánh giữa công nghệ được phân tích với những công nghệ đã biết cũng như với công nghệ tiên tiến cần hướng tới. Người ta còn đưa ra quan niệm về đánh giá công nghệ: Đánh giá công nghệ không chỉ giới hạn trong “cực tiểu hóa tác hại” của công nghệ và sự phát triển trong sự thích hợp với môi trường mà còn là “cực đại hóa hiệu quả tích cực” của công nghệ và phát triển công nghệ “bền vững với môi trường” xung quanh.
Đánh giá công nghệ mang vai trò hết sức quan trọng. Nó được thể hiện qua một số vấn đề sau:
+ Giúp các DN nói riêng và các quốc gia nói chung xác định được công nghệ nào là thíc hợp và khả năng thích ứng của nó để tiến hành chuyển giao công nghệ.
+ Giúp các quốc gia xác định được công nghệ vốn có và công nghệ nhập khẩu sao cho phù hợp với các mục tiêu phát triển.
+ Giúp các quốc gia quản lý công nghệ phù hợp để bảo vệ môi trường.
Đánh giá công nghệ được tiến hành qua các bước sau:
+ Mô tả công nghệ
+ Liệt kê các yếu tố tác động (Yếu tố tác động này được xác định qua việc phân tích tác động giữa công nghệ với môi trường xung quanh con người)
+ Phân tích ảnh hưởng
+ Giới hạn phạm vi ảnh hưởng
+ Nghiên cứu đường lối chính sách liên quan
+ Dùng công cụ phân tích.
Chuyển giao công nghệ trong phát triển công nghiệp.
Chuyển giao công nghệ là hoạt động nhằm đưa công nghệ tiên tiến, công nghệ hiện đại vào sản xuất thông qua việc áp dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất hoặc có thể là áp dụng một công nghệ dã hoàn thiện từ DN này sang DN khác. Chuyển giao công nghệ là sự mua bán công nghệ và là quá trình đào tạo, huấn luyện để sử dụng công nghệ được tiếp nhận.
Đây là hình thức chủ yếu để đổi mới công nghệ ở các nước đang phát triển. Tình hình công nghệ trong các nước này do còn yếu kém nên việc chuyển giao công nghệ là thực chất nhằm để đổi mới, nâng cao công nghệ trong nước.
Qua thực tế chuyển giao công nghệ, người ta đã đưa ra một số thể loại sau đây được coi là phạm trù của công nghệ:
+ Phân tích nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư.
+ Thiết kế kỹ thuật – công nghệ.
+ Thu tập về một số thông tin về công nghệ đã có.
+ Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị.
+ Phát triển công nghệ.
Có 2 kênh (nguồn) chuyển giao công nghệ:
+ Chuyển giao dọc là hình thức chuyển giao từ nghiên cứu sang sản xuất.
+ Chuyển giao công nghệ ngang là hình thức chuyển giao những công nghệ đã được hoàn thiện từ nước này sang nước khác, từ DN này sang DN khác.
Các bước để tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ:
Bước 1: Chuẩn bị chuyển giao công nghệ. Đây là giai đoạn cần phải nghiên cứu lựa chọn chính xác công nghệ cần chuyển giao.
Bước 2: Thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. Giai đoạn này phải thực hiện đàm phán, xây dựng và ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Cần lưu ý nội dung cơ bản của 1 hợp đồng bao gồm các điều khoản sau:
1/ Tên, địa chỉ bên giao nhận; tên, chức vụ người đại diện ký hợp đồng.
2/ Những khái niệm được sử dụng trong hợp đồng mà hai bên thỏa thuận.
3/ Đối tượng chuyển giao công nghệ: Tên, nội dung, đặc điểm và các dự kiến đạt được.
4/ Giá cả, điều kiện và phương thức thanh toán.
5/ Thời gian, tiến độ và địa điểm cung ứng công nghệ.
6/ Những cam kết của bên giao và bên nhận công nghệ về chất lượng công nghệ, độ tin cậy, thời gian bảo hành, phạm vi và bí mật công nghệ.
7/ Chương trình đào tạo kỹ thuật và quản lý vận hành công nghệ.
8/ Thời gian có hiệu lực của hợp đồng và các điều kiện liên quanđến viẹc 2 bên mong muốn sửa đổi thời hạn hoặc kết thúc hợp đồng.
9/ Các vấn đề liên quan đến tranh chấp phát sinh trong hợp đồng.
Bước 3: Chuẩn y hợp đồng.
CHƯƠNG II
Thực trạng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam
1. Hiện trạng của đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
1.1 Tình hình đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam những năm vừa qua.
Có thể nói công nghiệp là một ngành đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong khoảng 10 năm (từ năm 1991 đến năm 2000) tỷ lệ tăng bình quân của ngành công nghiệp khá cao ( khoảng 14%). Tuy nhiên, nếu so sánh tốc độ phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam so với thế giới thì tốc độ phát triển đó là quá chậm. Đặc biệt về mặt công nghệ thì Việt Nam đang còn lạc hậu, phát triển với một trình độ thấp rất nhiều so với một số nước trong khu vực và trên thế giới.
Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: Phần lớn các DN nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ. 80 - 90% công nghệ nước ta sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1960 - 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Tính chung cho các DN, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi đó các DN Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu. Con số này ở n Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Đánh giá của Bộ Khoa và & Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ là “loại năng lực yếu nhất” của các DN Việt Nam. (Trích từ “ DN với vấn đề đổi mới công nghệ: Vẫn là bài toán nhiều nan giải” ngày 28/09/2005 trên website của Bộ tài chính)
Hay tin từ diễn đàn DN của website Bộ công thương đã từng viết:” Trình độ trang thiết bị, máy móc lạc hậu, công nghệ chậm được đổi mới đang là cản trở đối với quá trình phát triển và hội nhập của các doanh nghiệp. Ngoài các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư, chỉ 30% các doanh nghiệp trong nước được coi là có trang thiết bị vào loại tương đối tiên tiến, nhưng tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ còn khiêm tốn, khoảng 10-11%. Điều đó đã hạn chế rất nhiều tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất. Nhiều sản phẩm sản xuất trong nước có giá cao hơn sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ 20-40%. Việc chuyển giao công nghệ ở Việt Nam chủ yếu được tiến hành thông qua nhập khẩu công nghệ. Từ năm 1987, khi Luật đầu tư nước ngoài được thông qua, một số Công ty liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài đã ra đời và dần cải thiện trình độ công nghệ và kỹ năng thực hành ở một số doanh nghiệp. Song nhìn chung, công nghệ sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp còn rất lạc hậu, lỗi thời. Thậm chí, trong các doanh nghiệp FDI tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu với giá thành cao vẫn đang diễn ra khá phổ biến. Theo một khảo sát mới đây, có tới 70% công nghệ nhập khẩu trong các doanh nghiệp FDI thuộc công nghệ của những năm 60-80, thậm chí có đến 5% là máy móc cũ được tân trang lại. Trong khi đó, tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp khá chậm. Mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 0,3% doanh thu/năm, chủ yếu là mua thiết bị, cải tiến máy móc phần cứng. Hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu khách quan nảy sinh trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch dài hạn về đổi mới công nghệ. Một khảo sát của tổ chức Swiss Contact (Thuỵ Sỹ) và GTZ (Đức) tiến hành trên 1.200 doanh nghiệp tại Việt Nam cho thấy chỉ có khoảng 0,1% doanh nghiệp có sử dụng tư vấn khi đầu tư mua sắm công nghệ. Trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường trong và ngoài nước, tại sao giới doanh nhân lại chưa thực sự quan tâm tới việc đổi mới công nghệ và ít đặt hàng với các nhà khoa học trong nước để tìm ra những giải pháp tiết kiệm nhất cho sản xuất, nghiên cứu sản phẩm mới và thay thế các máy móc nhập ngoại? “
100 DN ở Hà Nội và Tp.HCM đã được khảo sát và thực trạng yếu kém trong lĩnh vực trên của DN đã thể hiện rõ: Mức đầu tư cho đổi mới thiết bị - công nghệ của DN chỉ chiếm 3% doanh thu cả năm. Kết quả sau quá trình khảo sát cũng cho thấy, đa số các DN sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế kỉ trước, 69% DN phụ thuộc vào nguyên vật liệu, 52% phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ nhập khẩu và 19% DN lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Số cán bộ có kỹ thuật chuyên môn cũng chỉ đạt 7%.
Việc đổi mới công nghệ của DN Việt Nam còn rất chậm, thụ động và chỉ mang tính tình huống là chính. Đặc biệt, ngành dệt may thiếu thông tin nghiêm trọng, trong khi ngành này rất cần một địa chỉ tin cậy để thẩm định về nguyên vật liệu, công nghệ, thiết bị... nhưng hầu như chưa có. Theo cuộc điều tra toàn diện nhất về tình trạng kỹ thuật công nghệ năm 1990 có 78% TSCĐ trong các DN quốc doanh có thời gian sử dụng từ 5 năm trở lên. So với nguyên giá, giá trị còn lại của TSCĐ là máy móc, thiết bị chỉ còn chiếm khoảng 54,4%, trong khi đó nhà cửa và kiến trúc chiếm 63,4%. Qua đó có thể thấy, trong các DN công nghiệp đã quá chú trọng đến việc đầu tư vào xây dựng cơ bản mà để việc đầu tư vào đổi mới công nghệ chiếm tỷ lệ còn thấp.
Tình hình quản lý sử dụng công nghệ còn quá lạc hậu, nghèo nàn của các DN công nghiệp Việt Nam có thể được đánh giá thông qua những thông tin sau:
+ Tỷ lệ các công nghệ hiện đại, tiên tiến chỉ đạt 16%. Tập trung chủ yếu vào các ngành như dệt(33%), may(46%), khai thác than(37%).
+ Trình độ cơ khí hóa còn thấp. Theo điều tra vào ngày 1/1/1990, trong ngành công nghiệp chỉ có 63% lao động công nghiệp trung ương, 47% công nghiệp địa phương được cơ khí hóa và tự động hóa. Mức tỷ lệ này còn rất thấp so với thế giới.
+ Mức tiêu hao năng lượng, nhiên liệu và lãng phí nguyên liệu do nguyên nhân công nghệ ở nước ta còn khá cao. Chẳng hạn như so sánh với những nước đang phát triển ở cùng nhóm về mức tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm thì có số liệu phản ánh như sau: hóa chất là 138%, giấy 127%, than 175%, luyện kim đen 250%, ...
+ Chất lượng sản phẩm thấp, khó thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại ở nước ngoài. Các tiêu chuẩn về đánh giá sản phẩm ở Việt Nam là thấp hơn trên thế giới nhưng vẫn còn khoảng 10% DN chưa đạt được tiêu chuẩn đó.
+ Hầu hết các công nghệ được trang bị và sử dụng trong thời gian khá dài và có nhiều nguồn gốc khác nhau. Mặc dù nước ta là một nước XHCN và cũng có quan hệ với rất nhiều các nước XHCN nhưng việc nhập công nghệ từ những nước đó về nước ta lạ còn ít (chỉ khoảng 8%). Còn nhập từ những nước tư bản lại chiếm tỷ trọng rất cao ( khoảng 37,3%) trong số tổng máy móc công nghệ được sử dụng vào những năm 1986-1990.
+ Hiệu quả sử dụng thiết bị, máy móc công nghệ nhìn chung còn rất thấp. Nếu xét theo thời gian, có khoảng 80% tổng số thiết bị được sử dụng 1ca/ngày. Hệ số sử dụng công suất máy móc chỉ đạt 25% - 30%.
1.2 Thực trạng đổi mới công nghệ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay:
Nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để có thể tồn tại và cạnh tranh được ở một nền kinh tế mới thì buộc các DN phải tập trung nâng cao chất lượng, đa dạng hóa, hạ giá thành sản phẩm nhằm mở rộng thị trường của sản phẩm. Muốn làm được như vậy, DN cần thiết phải thực hiện đổi mới công nghệ trong hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, đang nằm trong nền kinh tế thị trường mở thì các DN nên tự mở rộng thị trường, quan hệ buôn bán trao đổi của mình. Phải biết học hỏi, tìm tòi những hình thức kinh doanh mới và hiệu quả. Nhập những công nghệ tiên tiến từ nước ngoài về để làm tăng thêm khả năng cạnh tranh của DN trên môi trường kinh doanh hoàn thiện nhất.
Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể tìm hiểu về thực trạng đổi mới công nghệ của 2 ngành công nghiệp đại diện là: ngành cơ khí và ngành dệt may. Việc ứng dụng công nghệ trong chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp ở nước ta hiện nay như thế nào? Chúng ta sẽ cùng làm rõ những vấn đề đó dưới đây.
1.2.1 Ngành cơ khí:
Trong những năm qua, ngành cơ khí Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc và khẳng định được chỗ đứng trong nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế của cả nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì cũng là lúc các doanh nghiệp cơ khí đã xác định được con đường tốt nhất cho mình để có thể tồn tại được là cần phải đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, làm tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường. Vì thế hầu như trong những năm gần đây các DN đang tập trung vào việc đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc hiện đại được mua về để đem vào sản xuất đã diễn ra không ngừng nhắm mục đích phù hợp với nhu cầu sản xuất sản phẩm đáp ứng thị trường.
Theo các chuyên gia, cho đến hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam đang đứng trước thời cơ để phát triển hơn bao giờ hết, bởi ngay thị trường trong nước đã là một thị trường lớn. Đặc biệt hơn nữa là hiện nay khi các ngành kinh tế như công nghiệp, nông lâm – ngư nghiệp, giao thông vận tải, sản xuất tiêu dùng…đều đang phải đầu tư trang thiết bị mới để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu này, bản thân ngành cơ khí phải phấn đầu tư đổi mới, nâng cao được năng lực của chính mình.
Lấy thí dụ điển hình trong ngành cơ khí chế tạo máy, qua cuộc khảo sát 14 DN thuộc lĩnh vực cơ khí cho thấy:
+ Đối với các cơ sở sản xuất trong nước:
− Hầu hết các thiết bị máy móc có độ tuổi trung bình 30 năm.
− Công suất thiết bị sử dụng rất thấp khoảng 20% 30%, các định mức thiết kế tiêu thụ năng lượng đều rất cao.
− Chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định, thiếu phương tiện đo lường kiểm soát chất lượng.
− Khoảng 20% trang thiết bị được đổi mới, trong đó chỉ có khoảng 10% thiết bị hiện đại nhưng không đồng bộ, chủ yếu ở các cơ sở sản xuất nhỏ, tư nhân.
− Một số cơ sở đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO.
+ Đối với các cơ sở sản xuất liên doanh:
− Trang thiết bị chủ yếu được sản xuất từ năm 1990 đến năm 1995.
− Mức độ tự động hóa chỉ đạt tới bán phần, chưa có cơ sở đạt mức độ tự động hóa hoàn toàn.
− Công suất thiết bị đạt từ 70% đến 80%.
− 90% cơ sở áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO.
+ Đối với các cơ sở dịch vụ:
− Công tác chủ yếu là lắp ráp, bảo trì, bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ.
Hay ngành cơ khí ô tô cũng là một ngành lớn mạnh trong ngành công nghiệp nước ta. Qua khảo sát 10 DN gồm 6 DN liên doanh, 1 DN quốc doanh, 3 DN tư doanh thuộc lĩnh vực cơ khí ô tô cho thấy:
- Các DN Cơ khí ôtô hoạt động rất đa dạng bao gồm nhiều lĩnh vực: sửa chữa, mua bán phụ tùng, lắp ráp tổng thành ôtô, thiết kế chế tạo khung thùng ôtô, thiết kế chế tạo bộ phận ôtô chuyên dùng, mua bán ôtô và dịch vụ hậu mã, v.v.. Nhìn chung, các DN cơ khí ôtô đều có mức độ phát triển tương đồng về trình độ công nghệ.
- Trang thiết bị chủ yếu được sản xuất từ sau năm 1990, đa số thuộc khối G7 và Nhật.
- Mức độ tự động hóa của thiết bị : do người trực tiếp điều khiển chiếm 50%, bán tự động chiếm 40% và tự động hoàn toàn chiếm 10%.
Hấu hết công nghệ khi được nhập về Việt Nam đều thuộc vào loại thế hệ lạc hậu, không đồng bộ (95% là thiết bị lẻ) và không có chuyển giao công nghệ. Thực trạng đổi mới công nghệ trong ngành cơ khí ở nước ta hiện nay vẫn còn chậm và có nhiều lúng túng trong các bước thực hiện.
1.2.2 Ngành dệt may :
Công nghiệp dệt may là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển công nghiệp cũng như phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Ở nước ta, công nghiệp dệt may được coi là một ngành kinh tế chủ chốt, thu hút một lực lượng lao động đáng kể, mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho ngân sách Nhà nước từ xuất khẩu, đồng thời với tư cách là ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, công nghiệp dệt may không những góp phần tăng tích luỹ tư bản cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế mà còn tạo cơ hội cho Việt nam hoà nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Như vậy, sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may còn có ý nghĩa phản ánh kết quả hoạt động kinh tế của cả nước một cách tương đối tổng hợp.
Tình trạng công nghệ trong ngành dệt may đã được khảo sát qua một số doanh nghiệp như sau:
− Ða số trang thiết bị đang được sử dụng tại các DN đều sản xuất từ khối G7 và Nhật. Có 1/3 là tương đối mới và 2/3 là mới. Thiết bị cũ hầu như không còn được sử dụng.
− Mức độ tự động hóa: hầu hết là tự động bán phần, số còn lại là do người trực tiếp điều khiển.
− Trình độ công nghệ: các DN tự đánh giá có trình độ công nghệ mới chiếm 75% và trung bình chiếm 25% so với các DN trong nước. So với các DN cùng lĩnh vực trong khu vực và trên thế giới thì 75% cho là trung bình, 25% cho là mới.
Còn về tình hình đổi mới công nghệ của các DN trong ngành dệt may hiện nay được nhìn nhận như sau: “Trong 10 năm qua, các DN dệt may đã đầu tư và đổi mới công nghệ khá nhiều. 50% thiết bị chế biến bông đã được nhập mới từ Mỹ. Khâu kéo sợi đã tăng tới gần 2 triệu cọc sợi, nhờ sử dụng các thiết bị có xuất xứ từ Tây Âu, trong đó có những dây chuyền vào loại hiện đại nhất thế giới hiện nay, như dây chuyền 12.000 cọc sợi kéo chỉ khâu của Công ty Dệt Phong Phú. Đánh giá về triển vọng phát triển công nghệ của ngành dệt Việt Nam, bà Judy Wang, Chủ tịch Công ty Yorkers Trade & Marketing Service (Hồng Kông) cho rằng, trong những năm vừa qua, thị trường thiết bị và công nghệ dệt may của Việt Nam đã phát triển khá mạnh. Tuy nhiên, DN Việt Nam tập trung chủ yếu vào công nghệ may, nên thị trường cho ngành dệt còn tương đối nhỏ. Tuy vậy, với chiến lược phát triển và chủ động trong việc cung cấp nguyên phụ liệu, trong vài năm tới, thị trường công nghệ và thiết bị ngành dệt sẽ thực sự bùng nổ và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà cung cấp nước ngoài tham gia vào hoạt động kinh doanh. Khi đó, các DN Việt Nam cũng có cơ hội để mua được các loại thiết bị phục vụ cho quá trình đổi mới công nghệ.” ( Theo báo Đầu tư điện tử - 28/12/2004). Không những cần trang bị lại máy và thiết bị để tăng năng lực sản xuất, các DN dệt còn đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới công nghệ, thiết bị để có thể sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của ngành may xuất khẩu. Riêng Vinatex hiện còn đến 40% máy, thiết bị thuộc các thế hệ cũ, đang cần được thay thế. Trong thời gian qua, ngành dệt đã đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng để đổi mới công nghệ và thiết bị. Một số nhà máy đầu tư công nghệ mới hoàn toàn nhưng lại không được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nhân chưa được đào tạo bài bản để tiếp thụ và làm chủ công nghệ mới nên chưa phát huy được hiệu quả đầu tư. Theo điều tra, ngành dệt hiện có tốc độ đổi mới công nghệ rất chậm, đến nay mới đổi mới được 30-35%. Nhiều thiết bị kéo sợi của Trung Quốc, Ấn Độ từ những năm 1970-1975 vẫn còn tồn tại, chưa kể có những máy dệt đã có từ cách đây 100 năm hiện vẫn được sử dụng. Các thiết bị hiện đại của Đức, Thụy Sỹ, Italia, Pháp... mới chiếm khoảng 30-35%. Thực tế này dẫn đến năng suất dệt vải của Việt Nam rất thấp, chỉ bằng 30% Trung Quốc . Cụ thể, với thiết bị kéo sợi, ngành dệt có 1,05 triệu cọc sợi thì trong đó chỉ có 10 vạn cọc là đầu tư mới, số cọc còn lại hầu hết đã sử dụng 10 năm, thậm chí 20 năm. Với máy dệt, tình trạng cũng tương tự, chỉ khoảng 20% là máy mới, số còn lại phải cải tạo hay thanh lý. Với thiết bị nhuộm, hoàn tất thì chỉ có 15% là đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
1.2.3 Việc ứng dụng công nghệ trong chiến lược sản xuất sạch hơn trong các doanh nghiệp công nghiệp.
Vấn đề sản xuất sạch hơn trong ngành công nghiệp đã được mọi người, từ những người dân, đến các doanh nghiệp sản xuất và cho đến chính phủ đã rất chú trọng từ lâu. Bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống của chúng ta. Sản xuất sạch hơn là một công cụ quản lý giúp cải thiện về cả môi trường và kinh tế. Nói cách khác, sản xuất sạch hơn là công cụ để nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ môi trường cho các DN, cải thiện môi trường sống cho công nhân và các hộ dân đang sống, làm việc trong và xung quanh các cơ sở sản xuất công nghiệp. Theo thông tin từ Bộ công thương thì chính phủ đã xây dựng chiến lược sản xuất sạch hơn để áp dụng cho các DN công nghiệp ở nước ta nhằm mang lại một môi trường sống và môi trường sản xuất không còn ô nhiễm. Điều cần nhấn mạnh ở đây là sản xuất sạch hơn không chỉ đơn thuần là việc thay đổi trang thiết bị sản xuất, mà là vấn đề thay đổi thái độ ứng xử của con người, DN đối với môi trường và áp dụng các bí quyết nhằm cải thiện quy trình sản xuất và sản phẩm của mình trên cơ sở phân tích hệ thống sao cho chi phí đạt mức thấp nhất. Thí dụ, đối với một DN sản xuất giấy, người ta có thể áp dụng nước thải của công đoạn sau để tái sử dụng cho công đoạn trước, điều này giúp họ vừa tiết kiệm vừa tái sử dụng được lượng nước đầu vào và thu hồi được cả nguyên vật liệu rơi vãi trong quá trình sản xuất. Tại Công ty giấy Việt Trì, sau khi áp dụng phương thức sản xuất sạch hơn vào thực tiễn, công ty đã tiết kiệm được gần 800 triệu đồng/năm, giảm lượng nước thải xuống còn 15%, ngoài ra hàm lượng cặn và chất rắn lơ lửng trong nước thải cũng giảm đáng kể. Hay tại Công ty thực phẩm Thiên Hương, lợi ích đem lại từ sản xuất sạch hơn cho công ty mỗi năm là 670 USD, giảm 86% lượng nước thải, tiết kiệm được 10 - 15% lượng nguyên liệu đầu vào. Tính đến thời điểm hiện nay, cả nước có gần 100 DN đã áp dụng phương thức sản xuất sạch hơn vào thực tiễn. Phương thức sản xuất sạch hơn là một phương thức tiếp cận mới áp dụng chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường, nhằm nâng cao hiệu suất sinh thái, giảm thiểu rủi ro. Mà hơn nữa sản xuất sạch hơn còn đề cập tới vấn đề thay đổi hành vi thái độ ứng xử, áp dụng bí quyết công nghệ, cải thiện từng quy trình sản xuất trong cả hệ thống sản xuất sao cho khoa học và hợp lý. Tại cơ sở dệt nhuộm Thuận Thiên, sau khi thực hiện một số giải pháp sản xuất sạch hơn vào công đoạn sản xuất, DN đã giảm được 35% lượng nước thải, 30% tải lượng ô nhiễm, 70% khí thải độc hại và tăng được 30% sản lượng, ngoài ra còn giảm đáng kể tỷ lệ vải vụn và vải thải loại. Song điều đáng nói là Công ty không phải thay đổi toàn bộ trang thiết bị sản xuất cũ, mà theo hướng dẫn của các chuyên gia, công ty chỉ thay đổi cải tiến một số bộ phận và thực hành tiết kiệm tối đa trên các công đoạn sản xuất. Hiện nay, ở cấp chính phủ, Việt Nam đã ký tuyên ngôn quốc tế về sản xuất sạch hơn. Cục Bảo vệ Môi trường Việt Nam cũng đã đưa phương thức sản xuất này vào các hoạt động trọng điểm trong chiến lược môi trường, giai đoạn 2000 - 2010 và đã xây dựng xong dự thảo quốc gia về sản xuất sạch hơn, nhằm giúp các DN Việt Nam có cách nhìn mới hơn về quan điểm và nhận thức của mình đối với phương thức sản xuất này và áp dụng nó vào thực tiễn, nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu suất kinh doanh. Tháng 9-1999, Việt Nam đã ký Tuyên ngôn quốc tế về sản xuất sạch hơn (SXSH) và qua đó khẳng định lại cam kết của Việt Nam về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Trung tâm sản xuất sạch quốc gia đã được thành lập với sự hỗ trợ của UNIDO năm 1998. Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 15-11-2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước cũng đưa ra nhiệm vụ đầu tiên về phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đến môi trường đã nêu rõ "Khuyến khích sử dụng tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì sản phẩm không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế. Từng bước áp dụng các biện pháp buộc các cơ sở sản xuất, nhập khẩu phải thu hồi và xử lý sản phẩm đã qua sử dụng do mình sản xuất, nhập khẩu". Ðiều 11 của Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) ban hành năm 2005 đã thể hiện sự quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước trong hoạt động SXSH. Luật Chuyển giao công nghệ có hiệu lực vào ngày 1-7-2007 cũng đã bước đầu xây dựng các quỹ chuyển giao công nghệ giúp cho các DN, các nhà đầu tư vay vốn đàu tư cho các công nghệ, trong đó khuyến khích phát triển công nghệ sạch, thân thiện với môi trường.
2. Những nhân tố thúc đẩy và cản trở đối với quá trình đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
2.1 Những nhân tố thúc đẩy :
Nguồn gốc của đổi mới công nghệ trong các DN chính là những yêu cầu nảy sinh trong quá trình sản xuất. Chính vì vậy nhân tố mà tác động lớn nhất tới quá trình đổi mới công nghệ chính là những nhân tố bên trong DN. Còn các nhân tố bên ngoài ít có tác dụng thúc đẩy hơn. Các nhân tố thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ đặc trưng là những nhân tố sau:
+ Yêu cầu về nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, yêu cầu về nâng cao năng suất, yêu cầu về nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu được
đánh giá là các nhân tố có tác động lớn nhất đến quá trình đổi mới công nghệ trong
các DN. 85% số DN được khảo sát đánh giá tác động của yêu cầu nâng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm ở mức độ tác động có ý nghĩa trở lên, trong khi con số này tương ứng cho yêu cầu nâng năng suất là 95%, yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh là 90% và yêu cầu về mở rộng thị trường xuất khẩu 63%.
+ Chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ của nhà nước, các quy định về luật pháp ( thuế, chính sách vay vốn,…) và chiến lược phát triển ngành hay chiến lược phát triển của công ty mẹ. Đối với chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ của nhà nước, 51% DN được khảo sát cho rằng nhân tố này tác động ở mức có ý nghĩa trở. Các con số tương ứng với môi trường luật pháp cụ thể là: quy định về thuế: 65% DN; quy định về ưu đãi vay vốn: 60% DN; quy định về đất đai: 54% DN. Chiến lược phát triển ngành/của công ty mẹ được 54% DN đã khảo sát đánh giá là có ý nghĩa thúc đẩy trở lên.
Trong thực tế cho thấy, hiệu quả từ những chính sách của Chính phủ mang lại rất tích cực, nhưng mức tác động lại chưa rõ rệt và mang lại kết quả chưa cao vì một số nguyên nhân sau:
+ Sự kém hiểu biết của các DN về những ưu đãi được Nhà nước áp dụng.
+ Thủ tục xét duyệt cho các đối tượng được hưởng ưu đãi còn phức tạp, rườm rà, và đôi khi chứa đựng yếu tố tiêu cực, lợi dụng chính sách khiến các DN không hào hứng tham gia.
+ Một số chính sách được ban hành còn chưa thực sự rõ ràng cũng như thiếu hoặc chậm có các hướng dẫn thi hành cụ thể, đầy đủ, do vậy cản trở cho quá trình thẩm định của các cơ quan chức năng và tạo điều kiện nảy sinh tiêu cực. Chẳng hạn Nghị định 119 được ban hành từ năm 1999 nhưng mãi đến năm 2002 mới có thông tư hướng dẫn và triển khai thực hiện.
+ Các chính sách ưu đãi không phù hợp hoặc chưa thực sự hấp dẫn với các DN.
+ Hiệu lực thi hành của một số văn bản pháp luật trên thực tế chưa được đảm bảo.
2.2 Những nhân tố cản trở :
Số DN tiến hành đổi mới công nghệ thời gian qua chiếm tỷ lệ cao, nhưng chủ yếu vẫn ở quy mô nhỏ, với phương thức chính là mua công nghệ của nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu. DN muốn làm “cách mạng công nghệ” trên quy mô lớn gặp phải vô vàn khó khăn. Cơ cấu công nghệ và trình độ công nghệ trong sản xuất công nghiệp nhìn chung chậm đổi mới. ở những vùng công nghiệp tập trung như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội..., thì trình độ công nghệ trong sản xuất công nghiệp cũng đã bị xuống cấp, trong khi đó tỷ lệ đổi mới hàng năm là rất ít. Qua điều tra thực tế cho thấy vì sao quá trình đổi mới công nghệ ở các DN còn chậm là vì những nguyên nhân sau:
+ Hiện nay trong đầu tư các DN chỉ chú ý đến thiết bị mà quên rằng công nghệ hàm chứa cả 4 yếu tố là: thiết bị, con người, thông tin và thiết chế. 4 yếu tố này có đồng bộ thì mới phát huy được tác dụng của công nghệ. Còn nếu chỉ chú trọng đến thiết bị thôi thì chưa thể coi là đổi mới công nghệ được. Thiết bị chỉ đem cho DN từ 40-50% năng lực sản xuất. Ở nước ta thường thấy các giám đốc rất hãnh diện với dây chuyền hiện đại của mình. Nhưng thông tin thì rất sơ sài, con người thì không đào tạo đến nơi đến chốn còn thiết chế quản lý, mua bán, chuyển giao công nghệ thì quá lỏng lẻo, trong khi các yếu tố này nhiều lúc còn quan trọng hơn thiết bị. Vì không thấy được các yếu tố phần mềm của công nghệ (thông tin, con người, thiết chế) cho nên các DN rất coi nhẹ chuyển giao công nghệ. Hiện tại có tới 95% chuyển giao là do các công ty mẹ ở nước ngoài chuyển cho các công ty con đầu tư ở Việt Nam. Số tiền chi phí chuyển giao công nghệ từ các công ty Việt Nam trả cho công ty nước ngoài là rất ít. Các DN rất ít thuê chuyên gia kỹ thuật nước ngoài. Đây chính là một cản trở rất lớn cho sự phát triển và đổi mới công nghệ.
+ Thiếu vốn: Hiện nay, hầu hết các DN vừa và nhỏ trên khắp các địa bàn cả nước đều gặp một khó khăn đó là năng lực tài chính có hạn. Việc huy động nguồn vốn để kinh doanh và đổi mới công nghệ rất khó khăn. Trong khi đó, thị trường vốn trung và dài hạn ở Việt Nam lại chưa phát triển. Việc tiếp cận các nguồn vốn trung và dài hạn rất khó khăn vì phải thế chấp nhà và đất mà nói chung là họ không có, cho nên họ không dám mơ tưởng đến “đổi mới công nghệ”. Ngoài ra, thị trường công nghệ Việt Nam còn nhiều bất cập. 70% ý kiến các DN cho rằng luật lệ mua bán công nghệ không rõ ràng, nghiêm minh; 57,7% ý kiến khác cho biết: các DN không muốn mua tri thức công nghệ trong nước do chất lượng không đảm bảo, chi phí chuyển giao cao, công nghệ không ổn định.
+ Quy trình xin hỗ trợ cho đổi mới công nghệ còn phức tạp và kéo dài. Các chính sách, văn bản pháp luật hay văn bản hướng dẫn thực hiện liên quan đến các ưu đãi cho DN trong quá trình đổi mới công nghệ chưa rõ ràng và đầy đủ, cộng với thái độ làm việc tiêu cực của một số cán bộ chức năng khiến quy trình xin hỗ trợ cho đổi mới công nghệ tốn kém nhiều thời gian của DN.
+ Theo nghiên cứu, quá trình đầu tư đổi mới công nghệ của DN còn có thể gặp rất nhiều rủi ro như thời gian hoàn vốn kéo dài, công nghệ bị sao chép do vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chưa được thực hiện nghiêm ngặt. Có tới 57% DN đánh giá nhân tố rủi ro khi đầu tư là cản trở lớn khi quyết định tiến hành đổi mới công nghệ.
+ Thiếu thông tin công nghệ và thông tin thị trường: là 2 trở ngại lớn với 70% DN trong việc đổi mới công nghệ. Hạn chế này một phần cũng do các DN chưa đầu tư thích đáng và có hệ thống cho công tác nghiên cứu thị trường sản phẩm mới/công nghệ mới, mặt khác cũng do các công cụ hỗ trợ của nhà nước về thông tin chưa thực sự hoạt động có hiệu quả. Cản trở do thiếu thông tin về công nghệ ở đây bao gồm cả những bất cập trong việc mua sắm trang thiết bị không phù hợp với trình độ công nghệ hiện có ở một số DN.
+ Thiếu nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết. Trình độ nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Trình độ của đa số công nhân kỹ thuật trong các DN hiện mới chỉ hạn chế ở năng lực tiếp thu và vận hành những công nghệ sẵn có một cách thụ động. Năng lực lựa chọn và làm chủ công nghệ kèm theo một số cải tiến nhỏ còn yếu kém.
+ Thiếu cơ hội tiếp xúc, nắm bắt công nghệ mới, cơ hội hợp tác với các tổ chức khoa học và công nghệ bên ngoài.
CHƯƠNG III
Các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam
Các giải pháp đối với doanh nghiệp công nghiệp:
+ Thứ nhất : Tạo mối liên kết chặt chẽ giữa DN công nghiệp và các cơ quan bộ phận nghiên cứu khoa học. Nếu như trong DN đã có sẵn bộ phận nghiên cứu, thiết kế thì phải liên tục áp dụng, cải tiến những phương pháp mới vào. Nó sẽ giúp DN nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như DN có thể thực hiện chiến lược hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Còn với những DN khác có thể tìm hiểu thông tin về thị trường công nghệ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc từ các cơ quan nghiên cứu để có thể tìm cho mình những công nghệ mới phù hợp với quá trình sản xuất và mang lại hiệu quả sản xuất cao. Qua mối liên hệ đó giúp DN có thể đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng và nâng cao năng lực sản xuất cho DN.
+ Thứ hai : DN cần chủ động tìm kiếm thông tin, trau dồi kiến thức về công nghệ mới, tìm hiểu về những thủ tục liên quan đến vấn đề chuyển giao công nghệ. DN cần tìm hiểu về thị trường công nghệ để biết được trên thị trường hiện có bao nhiêu loại công nghệ mới, loại nào có khả năng mang lại hiệu quả sản xuất cho DN là cao nhất, các loại công nghệ đó được xuất xứ từ những nước nào, giá cả của chúng như thế nào? Từ đó mà DN có thể so sánh và đưa ra sự lựa chọn chính xác cho mình để chuyển giao công nghệ. Và hơn nữa, DN cần tìm hiểu rõ thủ tục chuyển giao công nghệ để khi ký kết hợp đồng chuyển giao, lắp đạt máy móc sẽ diễn ra thuận lợi hơn.
+ Thứ ba : DN cần đào tạo nguồn nhân lực và có những chính sách hợp lý sử dụng nhân lực. Khi đã đổi mới công nghệ thị DN cần phải có một đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ để tiếp nhận công nghệ mới đó. Công nghệ mới chuyển giao xong chắc chắn sẽ có trình độ cao hơn công nghệ cũ nên đòi hỏi người sử dụng cũng phải có năng lực hơn. Vì thế DN cần phải tập trung đào tạo chuyên môn cho nguồn nhân lực của mình. Có thể tổ chức giảng dạy ngay tại DN và đi mời các chuyên gia trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực chuyên môn đó về giảng dạy. Hoặc có thể gửi nguồn nhân lực đó đi học ở các trường đào tạo. Như vậy việc chuẩn bị một nguồn nhân lực có trình độ, khả năng sử dụng công nghệ mới là cơ sở để DN thực hiện đổi mới công nghệ đạt hiệu quả cao.
+ Thứ tư : DN phải tiến hành đánh giá những nguồn nhân lực hiện có trong và ngoài DN. Có đánh giá chính xác được nguồn nhân lực hiện có trong DN hiện nay thì DN mới nhận thấy được những điểm mạnh và điểm yếu của mình trước những nguy cơ, thách thức và cơ hội trên thương trường. Từ đó khắc phục điểm yếu và phát triển điểm mạnh của mình. Việc đánh giá nguồn nhân lực ngoài DN giúp cho DN thấy được thị trường đối với sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh, nguồn nguyên liệu cung cấp cho DN. Từ đó DN có thể quyết định đưa ra những chính sách mở rộng quy mô sản xuất , đổi mới như thế nào cho phù hợp với nguồn nguyên liệu,…Có đánh giá được những nhân tố đó DN mới căn cứ để phân tích và thực hiện hoạt động đổi mới công nghệ một các đạt hiệu quả tốt.
+ Thứ năm : DN cần mở rộng quan hệ đối tác, tìm kiếm nguồn vốn, khách hàng, nghiên cứu công nghệ. DN phải tăng cường liên kết phối hợp với các tổ chức tài chính, liên doanh với nước ngoài. Qua việc liên kết phối hợp đó mà DN có thể nâng cao năng lực sản xuất của mình. Ngoài ra còn huy động thêm được vốn đầu tư cho hoật động sản xuất kinh doanh. Và có thể tạo nguồn vốn cho hoạt động đổi mới công nghệ dễ dàng hơn.
+ Thứ sáu : DN cần sẵn sàng quyết tâm đổi mới công nghệ
+ Thứ bảy : DN phải chủ động trong việc đầu tư vào công nghệ mới
+ Thứ tám : DN cần phải xây dựng một chiến lược phát triển lâu dài cho mình.
Các giải pháp, kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước có liên quan:
Xét từ phía nhà nước, để giúp các DN, hay nói một cách thực tế hơn trong tình hình hiện nay là thúc đẩy các DN đổi mới công nghệ, cần thiết phải có những biện pháp mang tính đồng bộ và hiệu quả. Bên cạnh việc bổ sung, sửa đổi các chính sách hiện hành, ban hành các chính sách mới, triển khai thực hiện một cách nghiêm túc cũng như phổ biến tuyên truyền các chính sách/văn bản pháp luật có liên quan đến DN như được trình bày trong phần kiến nghị dưới đây:
+ Thứ nhất : Nhà nước phải hoàn thiện cơ chế pháp lý nhằm giúp DN có thể thực hiện chuyển giao công nghệ một cách dễ dàng hơn mà lại đạt hiệu quả cao. Cải cách các chính sách về việc nhập khẩu thiết bị máy móc từ nước ngoài nhập vệ. Nhưng cũng phải kiểm tra sát hạch kỹ lưỡng để tránh tình trạng nhập thiết bị máy móc cũ, lạc hậu từ nước ngoài về làm ảnh hưởng đến nền kinh tế và môi trường.
+ Thứ hai : Tạo cơ chế gắn kết giữa DN và các tổ chức nghiên cứu và triển khai.
+ Thứ ba : Có chính sách khuyến khích hình thành các tổ chức cung cấp và thông tin công nghệ để giúp các DN có cơ hội cập nhật thông tin công nghệ, lựa chọn và xác lập phương án đổi mới công nghệ và xây dựng cơ chế cung cấp thông tin bình đẳng cho mọi DN thuộc các thành phần sở hữu khác nhau.
+ Thứ tư : Nhà nước cần gắn chặt hoạt động đổi mới công nghệ của các DN với các quy hoạch và phát triển chính sách kinh tế - xã hội của đất nước. Các chính sách đó có thể là giảm thuế suất hoặc giảm thuế trong một số năm nào đó, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, cung cấp thông tin…
+ Thứ năm : Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đổi mới công nghệ. Các cơ quan có liên quan phải thực hiện đánh giá các dự án đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vốn. Đồng thời ban hành các văn bản chính sách quy trình xây dựng và đánh giá các dự án, những tiêu chuẩn cho một dự án đổi mới công nghệ. Một số thủ tục kiểm tra, đánh giá việc chuyển giao công nghệ nhằm giúp DN thực hiện việc chuyển giao công nghệ dễ dàng hơn.
+ Thứ sáu : Nhà nước cần liên tục xây dựng hệ thống thông tin về thị trường công nghệ trong và ngoài nước. Sử dụng các công cụ truyền thông để đưa thông tin đến với DN được nhanh chóng và chính xác nhất. Từ đó giúp DN có thể tìm hiểu thêm về các loại công nghệ mới ở trong nước và cả trên thế giới. Và nhờ đó để chọn lựa cho DN loại công nghệ phù hợp nhất.
+ Thứ bảy : Nhà nước cần sớm cho ra đời quỹ “Đầu tư mạo hiểm” để hỗ trợ cho các DN đầu tư vào công nghệ mới, nhưng có độ rủi ro cao. Khi đổi mới công nghệ, DN đã phải đứng trước một khó khăn lớn đó là vốn, nhưng việc đổi mới công nghệ để mang lại hiệu quả cao ngay sau đầu tư lại cũng là một điều chưa chắc chắn. Nhìn chung việc đổi mới công nghệ buộc DN phải chấp nhận mạo hiểm. Vì thế Nhà nước cần tạo ra quỹ “Đầu tư mạo hiểm” nhằm tạo động lực cho DN khi thực hiện đổi mới công nghệ, hơn nữa còn giúp cho DN giải quyết được một số khó khăn trước mắt.
+ Thứ tám : Nhà nước khuyến khích các DN phát triển các sản phẩm mới và nâng cấp các sản phẩm hiện có thông qua thành lập quỹ hỗ trợ phát triển sản phẩm. Đây là những sản phẩm quan trọng có ý nghĩa kinh tế và xuất khẩu. Như thế này thì các DN muốn mình có thể thực hiện được điều đó buộc phải tìm ra những công nghệ mới đảm bảo sản xuất ra được những loại sản phẩm mới, có chất lượng cao hơn và chi phí sản xuất được hạ thấp xuống.
+ Thứ chín : Một số kiến nghị khác :
- Nhà nước cần hỗ trợ cho các DN trong việc vay vốn và cho vay có ưu đãi. Cần có chính sách thật cụ thể tạo điều kiện cho các DN có nhu cầu đổi mới công nghệ có thể vay được vốn dễ dàng.
- Nhà nước cần cung cấp thông tin, phổ biến rộng rãi các chính sách tới DN.
- Nhà nước cần hỗ trợ về mặt bằng cho DN. Để thực hiện chính sách này, cần triển khai đồng bộ các chính sách có liên quan khác như: qui hoạch sử dụng đất, xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, đền bù giải phóng mặt bằng... và đặc biệt cần cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong thủ tục cấp đất.
- Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cho DN. Nhà nước, một mặt cần khuyến khích, mở rộng các bậc đào tạo, các loại hình đào tạo để đáp ứng về số lượng, một mặt cần tăng cường giám sát, kiểm tra, tiêu chuẩn hóa chất lượng đầu ra để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Mặt khác cũng có các chính sách để hỗ trợ DN trong việc duy trì và khuyến khích lao động kỹ thuật có chất lượng cao, khuyến khích tự đào tạo trong mỗi DN, mỗi cá nhân.
- Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đầu tư, mở cửa thị trường, hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ sản xuất trong nước. Cải cách thủ tục hành chính cho thông thoáng hơn. Có chính sách thực tế và phù hợp với DN.
- Cần tổ chức hội thảo, giao lưu, gặp mặt giữa các DN để tạo mối quan hệ.
- Thành lập bộ phận tư vấn cho DN về vấn đề đổi mới công nghệ. Giúp DN có thêm nhiều động lực và ý kiến chọn lựa cho việc đổi mới công nghệ. Dễ dàng tìm kiếm được những thông tin về loại công nghệ mình cần. Từ đó giúp DN thực hiện đổi mới công nghệ nhanh chóng hơn.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp hiện nay, đổi mới công nghệ là một quá trình không thể thiếu. Ở nước ta, đã qua đi thời kì nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, thay vào đó là một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay, việc đổi mới công nghệ đã mang lại cho nền kinh tế những kết quả to lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã lên cao, đời sống kinh tế đã được cải thiện. Bên cạnh đó thì việc đổi mới công nghệ lại còn nhiều hạn chế và yếu kém trong quá trình thực hiện. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp nước ta hiện nay thì những nguyên nhân đó bao gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu nên những yếu tố cần thiết cho quá trình đổi mới công nghệ như vốn, nguồn nhân lực có trình độ và chính sách của Nhà nước còn nhiều thách thức và cản trở cho quá trình đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp.
Qua đề án môn học Kinh tế và quản lý công nghiệp em đã viết với đề tài : “ Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam : thực trạng và giải pháp”. Đây là một điều cần thiết và cấp bách đối với các doanh nghiệp công nghiệp nước ta hiện nay, chính vì vậy đề tài này đã mang lại cho em thêm nhiều điều bổ ích, nhiều bài học giúp cho tương lai sau này khi chính em đã có thể trở thành một nhà quản lý. Tuy nhiên, do trình độ chuyên môn còn có hạn cũng như chỉ được nghiên cứu trong khoảng thời gian của một đề án môn học nên bài viết của em chưa được thực sự hoàn chỉnh và còn nhiều vấn đề còn phải nghiên cứu kỹ hơn. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy để đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Danh mục tài liệu tham khảo
Đề án “ Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ (Ban hành theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 171/2004/QĐ-TTg, ngày 28/09/2004)”.
Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp – GS.TS Nguyễn Đình Phan & GS.TS Nguyễn Kế Tuấn. Năm 2007
Luật khoa học công nghệ: 2002
Bộ công thương, Dự thảo chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp. Khuyến khích áp dụng SXSH trong các cơ sở công nghiệp. ngày 04/09/2007.
Đức Phan: Kích thích thị trường công nghệ - Nhà nước là "bà đỡ" trong giai đoạn đầu. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 176, ngày 27/10/2004.
Bài viết “Đổi mới công nghệ và thiết bị để tăng khả năng cạnh tranh” của Văn Minh Hoa trên báo Sài Gòn Giải Phóng, ngày 28/09/2002.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
“Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam” đăng trên website Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội quốc gia, ngày 15/05/2006.
Bài viết “Khi nào nhà khoa học và nhà doanh nghiệp mới nắm tay nhau” của Trường Xuân – Mai Liên đăng trên Thời báo Tài chính Việt Nam, ngày 30/04/2003.
Bài viết “Giải pháp tạo nguồn đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp” – Nguồn TCNCKT – Trên website của Bộ Công thương, thứ sáu ngày 24/02/2006.
Bài viết “Đổi mới công nghệ thiếu thốn đủ đường” của Kiều Giang – Trên website Vnexpress, thứ năm 03/03/2005.
Bài viết “Chính phủ sẽ tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp cơ khí phát triển” – Trên website của Bộ Công thương, thứ năm ngày 27/09/2007.
Bài viết “DN với vấn đề đổi mới công nghệ: Vẫn là bài toán nan giải” – Nguồn Thời báo Tài chính số 116 – Trên website của Bộ Tài chính, ngày 28/09/2005.
Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ chủ yếu giai đoạn 5 năm 2006 – 2010 (Ban hành kèm theo quyết định số: 67/2006/QĐ – TTg ngày 21/03/2006 của Thủ tướng chính phủ).
Đề án “Đổi mới cơ chế quản lý Khoa học và Công nghệ (Ban hành theo quyết định Thủ tướng Chính phủ số 171/2004/QĐ – TTg, ngày 28/09/2004)”.
Một số website :
Cổng thông tin Kinh tế Việt Nam:
Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư):
Bộ khoa học và công nghệ:
Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đổi mới công nghệ trong các Doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam Thực trạng và giải pháp.DOC