Đề tài Đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬPKẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI HÀNG NĂM Ở VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH HÓA I.1. Bản chất chung của công tác kế hoạch hóa I.2. Sự khác nhau giữa cơ kế hoạch trong nền kinh tế thị trường và cơ chế kế hoạch hoá tập trung II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH HÀNG NĂM HIỆN NAY II.1. Khái niệm và vai trò của kế hoạch hàng năm Vai trò đầu tiên phải kể đến là KH hàng năm là công cụ thực hiện, triển khai của KH 5 năm, nó phân đoạn KH 5 năm thành từng bước để thực hiện II.2. Sự cần thiết phải đổi mới công tác lập KHPT KTXH hàng năm ở Việt Nam hiện nay II.3. Kinh nghiệm xây dựng và thực hiện KHPT KTXH của Trung Quốc CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI HÀNG NĂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG KẾ HOẠCH Ở VIỆT NAM II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI HÀNG NĂM II.1. Quy trình lập kế hoạch phát triển KTXH hiện nay II.2. Về nội dung bản kế hoạch hàng năm II.3. Phương pháp lập kế hoạch hàng năm III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTXH HÀNG NĂM HIỆN NAY III.1. Những mặt được III.2. Những mặt hạn chế III.3. Nguyên nhân của những hạn chế CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HÀNG NĂM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. NHỮNG YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA VÀ QUAN ĐIỂM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC LẬP KHPT KTXH HÀNG NĂM HIỆN NAY I.1. Những yêu cầu mới đặt ra I.2. Quan điểm đổi mới cho công tác lập KHPT KTXH hàng năm II. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH HÀNG NĂM HIỆN NAY II.1. Đổi mới trong nhận thức và tư duy về công tác lập kế hoạch hàng năm đối với cán bộ, công nhân viên cũng như toàn thể người dân II.2. Đổi mới về quy trình xây dựng kế hoạch hàng năm II.3. Đổi mới về phương pháp lập kế hoạch hàng năm II.4. Lồng ghép chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo vào KHPT KTXH II.5. Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách II.6. Xây dựng và phát triển công tác dự báo, cùng với việc đổi mới trong thu thập và xử lý thông tin II.7. Nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá III. KIẾN NGHỊ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KHPT KTXH HÀNG NĂM KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

doc82 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11577 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Một vấn đề quan trọng khác mà bản kế hoạch của chúng ta đang mắc phải và cũng là một yêu cầu trong quá trình đổi mới. Đó là, bản kế hoạch của chúng ta vẫn mang nặng tính kể lể, các vấn đề nêu ra chưa có trọng tâm, các giải pháp thực hiện cũng còn chung chung. Vì thế, các vấn đề cần phải được xác định rất rõ ràng và có thứ tự ưu tiên khi can thiệp để với nguồn lực hạn hẹp chúng ta vẫn có thể giải quyết được vấn đề cốt lõi, chủ chốt để hoàn thành kế hoạch đề ra. Thứ ba, kế hoạch phải có tính khả thi cao. Tức là, bản kế hoạch được xây dựng phải có sự tham gia của các bên từ khâu thu thập thông tin đến xây dựng nội dung kế hoạch, đảm bảo sự đồng thuận và phải gắn với nguồn lực tài chính có thể huy động. Đúng vậy, sự tham gia của các bên luôn là điều kiện quan trọng ở tất cả các khâu trong quá trình lập kế hoạch, nó là nguồn lực thực hiện kế hoạch cũng như cung cấp cho bản kế hoạch nguồn thông tin đáng tin cậy. Kế hoạch cũng sẽ chỉ là một bản những mục tiêu, những giải pháp nếu chúng không được gắn với thực tiễn, gắn với điều kiện tài chính có thể huy động. Chúng ta phải biết với nguồn thu nhập, với nguồn tài chính có được cần phải chi tiêu như thế nào cho hợp lý, nếu kế hoạch đưa ra nằm ngoài khả năng cho phép thì sẽ không thể làm gì ngoài việc ngắm nhìn những mục tiêu, những kế hoạch to lớn mà lại bỏ qua những mục tiêu, những nhiệm vụ thiết thực, nằm trong khả năng có thể. Và như thế, tất cả chỉ là con số không. Thứ tư, quá trình thực hiện kế hoạch phải được kịp thời điều chỉnh theo biến động của thực tiễn. Điều này để đảm bảo nguyên tắc linh hoạt của kế hoạch. Để làm được điều đó, kế hoạch cần phải đảm bảo hai yêu cầu sau: Cần phải có kế hoạch giám sát đánh giá cụ thể và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bên. Trong nhiều năm trước đây, nội dung kế hoạch ít chú ý đến theo dõi đánh giá thực hiện. Do đó, việc chuẩn bị các báo cáo đánh giá thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn, thông tin để phân tích đánh giá thực hiện kế hoạch thiếu tính hệ thống và không chuẩn hoá. Sự hạn chế đó đã ảnh hưởng đến chất lượng của báo cáo đánh giá, đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng thông tin làm cơ sở xây dựng kế hoạch kỳ tiếp theo. Việc theo dõi đánh giá thực hiện kế hoạch trước đây chủ yếu tập trung vào các chỉ tiêu sản xuất, tiến độ thực hiện các hoạt động mà ít xem xét đến kết quả tác động của các hoạt động kế hoạch. Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch chưa gắn với đánh giá trách nhiệm của cơ quan thực hiện kế hoạch và nhiệm vụ được quy định. Với việc phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bên, quá trình thực hiện kế hoạch của chúng ta sẽ được chuyên môn hoá, được mỗi cá nhân, mỗi bộ phận, mỗi cơ quan chức năng thực hiện có trách nhiệm hơn trong mỗi hành động của mình để đảm bảo cho việc hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ năm, lập kế hoạch phải có sự lồng ghép chiến lược phát triển toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo. Vì nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến mục tiêu xã hội, trong đó con người là quan trọng nhất. Vấn đề cuối cùng mà một nền kinh tế muốn phấn đấu không phải là tăng trưởng kinh tế, mà là cuộc sống con người. Hơn nữa, việc lồng ghép các chỉ tiêu xã hội, môi trường vào KHPT KTXH giúp chúng ta giảm bớt được số lượng chỉ tiêu nhưng không làm giảm bớt những định lượng của chỉ tiêu. Chính các chỉ tiêu lồng ghép sẽ giúp cho các nhà lập kế hoạch cũng như những nhà quản lý có thể đưa ra những giải pháp đông bộ hơn, chặt chẽ hơn. I.2. Quan điểm đổi mới cho công tác lập KHPT KTXH hàng năm I.2.1. Đổi mới toàn diện cho công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm Để cho công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội thực sự trở thành công cụ cơ bản trong việc định hướng thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả và bền vững, thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác lập KHPT KTXH hàng năm cần phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện trên các mặt sau: Thứ nhất, phải coi trọng công tác dự báo về tình hình KTXH và xu thế phát triển trong và ngoài nước để có cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các chiến lược phát triển cũng như những định hướng, giải pháp thực hiện kế hoạch năm tới. Thứ hai, tổ chức, xây dựng các chương trình, dự án phát triển có hiệu quả để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, nhân lực và các lợi thế so sánh của nước ta, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn bên ngoài theo định hướng của kế hoạch. Thứ ba, để thực hiện chức năng chủ yếu của kế hoạch hoá là thúc đẩy sự hình thành cơ cấu hợp lý, đảm bảo cho nên kinh tế phát triển nhanh và bền vững, phải cải tiến nọi dung xây dựng kế hoạch hàng năm một cách thiết thực, giảm những khâu trung gian, giữ vững cân đối chủ yếu, nhất là cân đối giá trị, bao quát toàn bộ hoạt động của các thành phần kinh tế, xác định các mục tiêu kinh tế vĩ mô, các yêu cầu tăng trưởng kinh tế, các cơ cấu và mối quan hệ hợp lý của nền kinh tế. Thứ tư, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và kích thích tất cả các thành phần kinh tế phát triển với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. I.2.2. Đổi mới công tác lập KHPT KTXH hàng năm trong điều kiện thúc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế Nhân tố quyết định thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là khoa học và công nghệ. Tốc độ phát triển khoa học công nghệ càng cao, số lượng sản phẩm mới, công nghệ mới ngày càng nhiều thì đòi hỏi công tác lập kế hoạch phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi, để tìm ra những con đường giúp tăng trưởng nhanh, ổn định và rút ngắn khoảng cách với các quốc gia khác. Bản kế hoạch hàng năm phải đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đang ngày càng gia tăng đối với nền kinh tế Việt Nam. Cân bằng cán cân thanh toán là một trong bốn mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế. Tiến trình hội nhập đang ngày càng trở nên khó khăn trong bối cảnh nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng. Đó là những thách thức đối với sự điều tiết nền kinh tế của cơ quan Nhà nước cũng như đối với công tác lập kế hoạch phát triển KTXH, đặc biệt là công tác lập kế hoạch hàng năm. Nó đòi hỏi phải đưa ra những chính sách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài theo hướng phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta. I.2.3. Kế hoạch phải đảm bảo mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững. Từ đó, công tác lập KH hàng năm cũng phải hướng tới mục tiêu chung đó. Nó thể hiện ở tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong suốt quá trình phát triển. Các vấn đề chính sách xã hội đều phải được giải quyết theo hướng xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, song cần phải động viên, khuyến khích mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức và mỗi cá nhân cùng tham gia vào công tác lập kế hoạch cũng như việc thực hiện kế hoạch đó. Đó là những công việc, những vấn đề chủ yếu sau: (i) giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn, (ii) thực hiện xoá đói - giảm nghèo bằng cách xây dựng các quỹ XĐGN bằng nguồn vốn hỗ trợ trong nước và nước ngoài đồng thời quản lý chặt chẽ nguồn vốn này để công tác XĐGN được thực hiện thành công. I.2.4. Tăng cường sự phân cấp kế hoạch giữa Trung ương và địa phương Việc phân cấp trong công tác lập kế hoạch hàng năm phải được xác định rõ ràng và hợp lý. Kế hoạch phát triển kinh tế ở địa phương phải do địa phương quyết định. Cấp Trung Ương chỉ thực hiện những mục tiêu có tính hệ thống, cân đối mà các cấp chính quyền địa phương không thể thực hiện được. Việc phân cấp kế hoạch phải đi kèm với công tác kiểm tra, giám sát hợp lý, đặc biệt là việc giao quyền cho chính quyền địa phương trong kế hoạch sử dụng nguồn NSNN cần được giám sát chặt chẽ. II. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH HÀNG NĂM HIỆN NAY II.1. Đổi mới trong nhận thức và tư duy về công tác lập kế hoạch hàng năm đối với cán bộ, công nhân viên cũng như toàn thể người dân Trong các nội dung định hướng đổi mới cho công tác lập kế hoạch hàng năm thì đổi mới trong nhận thức và tư duy về kế hoạch là yêu cầu quan trọng nhất và là khâu quyết định cho những yêu cầu khác, như đổi mới về nội dung, phương pháp lập kế hoạch, đổi mới quy trình kế hoạch… Đổi mới về tư duy, nhận thức là làm thay đổi nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tính chất định hướng của kế hoạch hàng năm trong nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế, cách thức tiến hành xây dựng kế hoạch cho phù hợp với xu thế mới, để hướng vào mục tiêu phát triển ổn định và bền vững. Việc đổi mới này phải được tiến hành từ cơ quan trung ương đến địa phương, từ cán bộ, công nhân viên đến tất cả cộng đồng để có được sự quan tâm của toàn xã hội đến việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đề ra. Chỉ có thay đổi nhận thức của cơ quan trung ương mới làm thay đổi được nhận thức của chính quyền địa phương cũng như mọi người dân. Trước đây, công tác kế hoạch được lập bởi một số các cá nhân trong bộ máy chính quyền nhưng đến nay, yêu cầu sự tham gia của các bên liên quan là rất lớn, để mang lại tính khả thi cao nhất cho kế hoạch. Vì thế, đổi mới nhận thức của cộng đồng về công tác lập kế hoạch để họ thấy sự đóng góp của mình trong bản kế hoạch để rồi tạo động lực quyết tâm thực hiện những gì mình đã đặt ra. II.2. Đổi mới về quy trình xây dựng kế hoạch hàng năm Hiện nay, quy trình lập kế hoạch hàng năm vẫn dựa chủ yếu vào chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Đổi mới trong quy trình lập kế hoạch chúng ta cần phải dựa trên những nguyện vọng của địa phương, nó đại diện cho mong muốn của người dân. Có như thế kế hoạch lập ra mới sát thực tế. Kế hoạch của địa phương hay của ngành là kế hoạch mang tính độc lập, chứ không phải là cụ thể hoá những gì mà Trung ương giao cho, nó là kế hoạch của địa phương, do địa phương xây dựng, cấp Trung ương phải tổng hợp lại cho phù hợp với định hướng chung của cả nước. Để bản KH hàng năm có được sự nhất trí cao trong toàn dân thì sau khi đổi mới tư duy, nhận thức thì cần phải đổi mới về quy trình lập KH như sau: Cần phải đảm bảo tính khoa học và logic cho các nội dung, quy trình xây dựng và tổng hợp KH không chỉ bó hẹp trong ngành KH mà được xây dựng theo nhiều vòng, tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, các tầng lớp xã hội, các nhà tài trợ thông qua tổ chức các hội thảo, gửi văn bản lấy ý kiến, tổ chức tham vấn với người dân tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, giữa các Bộ, ngành, các địa phương và các nhà tài trợ, tạo thuận lợi cho quá trình triển khai thực hiện. Hiện nay, hạn chế lớn nhất gặp phải trong quy trình lập kế hoạch hàng năm hiện nay mà chủ yếu là ở các cấp địa phương vẫn được tiến hành từ trên xuống. Các nội dung trong bản kế hoạch không gắn với thực tế địa phương. Chính vì thế cần phải đổi mới quy trình lập kế hoạch theo hướng từ dưới lên trên chứ không phải là từ trên xuống. Làm được điều đó sẽ tăng tính chủ động cho chính quyền các cấp và giúp cho bản kế hoạch được xây dựng phù hợp với thực tế và giúp cho việc thực hiện cũng hiệu quả hơn. Và một hạn chế quan trọng trong quy trình lập kế hoạch hàng năm ở các cấp hiện nay là dường như thiếu đi một yếu tố rất quan trọng đó là sự tham gia của các bên trong quá trình xây dựng kế hoạch hàng năm ở cả cấp Trung ương và cấp địa phương. Để bản kế hoạch đảm bảo tính khả thi, đảm bảo cả nguyên tắc dân chủ - một trong những nguyên tắc hàng đầu của quá trình lập kế hoạch thì sự tham vấn của cộng đồng là không thể thiếu được. Đây là hướng đổi mới quan trọng trong quy trình lập kế hoạch hàng năm của chúng ta hiện nay. II.3. Đổi mới về phương pháp lập kế hoạch hàng năm Quá trình lập kế hoạch dựa trên cơ sở nguồn lực đầu vào đã mang lại những hạn chế to lớn cho công tác lập kế hoạch của chúng ta. Để phù hợp với xu hướng chung của quá trình đổi mới kế hoạch hàng năm, thì phương pháp lập kế hoạch của chúng ta nhất thiết cũng phải thay đổi. Thứ nhất, tiếp tục phát huy và sử dụng hiệu quả việc lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn. Sau quá trình phân tích, đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển, chúng ta sẽ đưa ra những mục tiêu mong muốn đạt được, với sự sắp xếp có thứ tự ưu tiên của các mục tiêu, chúng ta có thể phân bổ hiệu quả nguồn lực sẵn có cùng với việc huy động nguồn lực từ bên ngoài để kế hoạch được thực hiện thành công. Đây chinh là điểm đổi mới quan trọng tạo ra tính năng động cho công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch, với trình độ và khả năng, chúng ta có thể vẽ ra một tầm nhìn chiến lược cho quốc gia trong tiến trình hội nhập, năng động tìm ra những giải pháp, phát huy nội lực và tranh thủ tận dụng ngoại lực để không những xây dựng KH thành công mà còn thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Thứ hai, lập kế hoạch phải gắn với nguồn lực tài chính. Điều này nhằm tạo ra một bản KH được đảm bảo bằng các cơ chế, chính sách về tài chính vững chắc. Nó sẽ chỉ rõ những hoạt động nào thì được đảm bảo bằng nguồn vốn từ NSNN hay từ các nguồn tài trợ khác. Việc làm này, đảm bảo tính khả thi của KH, nhưng với nguồn lực là hạn hẹp, nên việc đạt được những mục tiêu mong muốn cao hơn những gì mình có đòi hỏi cần phải phân bổ nguồn lực cho hợp lý. Ngoài ra, những kế hoạch ngân sách phải đảm bảo tính minh bạch về tài chính và chính sách để nâng cao trách nhiệm của đối tượng tham gia vào quy trình lập kế hoạch gắn với ngân sách. Để làm được điều này, chính quyền cần công khai trước công chúng về cơ cấu và chức năng các đơn vị cũng như những mục tiêu trong chính sách tài chính. Cần quản lý chặt chẽ việc sử dụng ngân sách có hiệu quả, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra. Có như thế mới tạo được lòng tin trong quần chúng. Thứ ba, lập kế hoạch có sự tham gia. Việc xây dựng có sự tham vấn rộng rãi thể hiện sự đổi mới của phương pháp xây dựng KH và đặc biệt thể hiện sự đổi mới của Nhà nước về tăng cường sự tham gia của người dân vào công việc của Nhà nước để dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra. Điều này được các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cũng như cộng đồng dân cư đánh giá rất cao. Được tham gia đóng góp ý kiến của mình đối với bản kế hoạch chung của cả nước, tính trách nhiệm của mỗi người dân được nâng lên rõ rệt, mỗi tiếng nói, mỗi băn khoăn là một căn cứ để Chính phủ cân nhắc trong việc đánh giá những gì đã đạt được, những gì còn hạn chế và rút ra những kinh nghiệm quý báu cho bước đường tiếp theo. Ngoài ra, cần có sự tham vấn của các cơ quan nghiên cứu, những nhà khoa học… để có được những ý kiến của những nhà phân tích, những nhà chuyên môn, để giúp cho bản kế hoạch của chúng ta có căn cứ khoa học, cũng như có tính logic và tính chính xác cao hơn. Chính quyền Nhà nước các cấp đóng vai trò hướng dẫn, tạo điều kiện để các bên liên quan tham gia lựa chọn các quyết định đầu tư liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ. Nếu kế hoạch có được ý kiến tham gia rộng rãi của cộng đồng thì: (i) Đầu tư có hiệu quả hơn do có sự lựa chọn mục tiêu chính xác đối tượng đầu tư hợp với nguyện vọng và nhu cầu các bên liên quan hay của dân, và qua đó nhà nước sẽ được ủng hộ của các bên liên quan trong đó đặc biệt là dân chúng; Các chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước để đi vào cuộc sống và hợp lòng dân. (ii) Khi có sự tham gia thì lợi ích của các bên liên quan được tính đến một cách công bằng. Các chương trình, chính sách và các dịch vụ công đến trực tiếp những người hưởng lợi đặc hiệt là người nghèo tạo đà cho phát triển sản xuất và làm tăng thu nhập cho người dân. (iii) Sự tham gia của người dân sẽ huy động được tối đa nguồn lực cũng như lực lượng lao động tại chỗ, nhằm tạo việc làm cho dân, đồng thời tăng thu nhập và nâng cao trình độ cho dân (iv) Khi có sự tham gia các thông tin được công khai công tác giám sát kế hoạch được dễ dàng, tính dân chủ và minh bạch ngày càng tăng. (v) Tính trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên liên quan được nâng cao khi họ tham gia vào công tác lập kế hoạch. Với những hạn chế trong phương pháp lập kế hoạch trước đây thường gặp trong phương pháp lập kế hoạch dựa trên những gì mình có để xác định mục tiêu là: bản kế hoạch thiếu đi tính đột phá, nó cứng nhắc vì bị ràng buộc bởi những gì mình có nên có rất ít phương án để lựa chọn, cùng với đó việc thực hiện kế hoạch sẽ không hiệu quả. Để khắc phục những hạn chế và đổi mới công tác lập kế hoạch hàng năm hiện nay, chúng ta cần phải sử dụng phương pháp lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn để cân đối đầu vào. Cụ thể như sau: II.3.1. Sử dụng bảng phân tích phương án kế hoạch và cây vấn đề trong phân tích thực trạng Những hạn chế mà quá trình phân tích thực trạng gặp phải đã làm cho bước đầu tiên của công tác lập kế hoạch đã có nhiều vướng mắc. Với quan điểm chú trọng tìm ra những tồn tại chính và những nguyên nhân gây ra chúng. Chúng ta sẽ tiến hành thay phương pháp mô tả, kể lể bằng phân tích so sánh kế hoạch và thực hiện, so với cùng kỳ, so thực hiện với tiềm năng, so với các quốc gia khác cùng đặc điểm, cùng điều kiện KTXH… Cần chọn lọc một số vấn đề quan trọng để có những phân tích sâu sắc về nó. Kết hợp với việc thu thập ý kiến từ các bên liên quan để có nhận định sâu sắc hơn về thực trạng. Công cụ bảng phân tích phương án kế hoạch chính là sử dụng phương pháp ma trận SWOT. Nó trang bị cho nhà kế hoạch một cái nhìn tổng thể, toàn diện về vấn đề thực trạng cần nghiên cứu. Bằng cách kết hợp những yếu tố thuận lợi, khó khăn, mặt được và hạn chế, chúng ta có thể đưa ra những định hướng phát triển. Qua đó, nhà kế hoạch có thể biết được những ưu nhược điểm trong nội bộ vấn đề mình nghiên cứu, cũng như những cơ hội và trở ngại mà môi trường, hoàn cảnh bên ngoài tạo ra. Từ đó, nhà kế hoạch có thể chủ động xác định định hướng kế hoạch nhằm: Thứ nhất, khai thác tốt nhất các điểm mạnh của mình để tranh thủ cơ hội mà môi trường bên ngoài mang lại (trong trường hợp này, nhà kế hoạch có cơ sở để lựa chọn phương án kế hoạch lạc quan). Thứ hai, khai thác tốt nhất các điểm mạnh để giảm thiểu những nguy cơ, tác động bất lợi mà môi trường bên ngoài gây ra. Thứ ba, khắc phục triệt để các điểm yếu của mình để nắm bắt, tranh thủ những cơ hội mà môi trường bên ngoài mang lại. Thứ tư, khắc phục triệt để các điểm yếu của mình để giảm thiểu những nguy cơ, tác động bất lợi mà môi trường bên ngoài gây ra (trong trường hợp này, nhà kế hoạch có cơ sở để lựa chọn phương án kế hoạch thận trọng). Khi xây dựng ma trận SWOT, cần phân biệt rõ ràng giữa điểm mạnh, điểm yếu và cơ hội, thách thức. Điểm mạnh, điểm yếu đề cập đến những thuận lợi, khó khăn mang tính chất chủ quan trong môi trường nội bộ. Do đó, các giải pháp kế hoạch đề ra có thể tác động trực tiếp để cải thiện các yếu tố này. Còn cơ hội, thách thức là nói đến những thuận lợi, khó khăn mang tính khách quan do môi trường bên ngoài mang lại. Giải pháp kế hoạch thường không thể tác động trực tiếp để thay đổi các yếu tố này, mà chỉ có thể tận dụng (cơ hội) hoặc giảm thiểu (thách thức) mà thôi. Các câu hỏi cần đặt ra về điểm mạnh, điểm yếu: - Trong nội bộ của địa phương/ngành hiện đang có những điểm mạnh nào mà nhờ đó thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng và XĐGN trong những năm qua? Những điểm mạnh nào là quan trọng nhất (xét về thể chế, năng lực, nguồn lực… của địa phương)? Những điểm mạnh đó đã được phát huy hết hay chưa? Nếu chưa, thì đó là điểm mạnh gì và vì sao? - Trong nội bộ của địa phương hiện đang có những điểm yếu nào đang cản trở việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và XĐGN trong những năm qua mà nếu không khắc phục được thì địa phương khó có thể tiếp tục phát triển bền vững? Những điểm yếu nào là quan trọng nhất (xét về thể chế, năng lực, nguồn lực… của địa phương)? Những điểm yếu nào chưa khắc phục được, vì sao? - Đánh giá chung thì điểm mạnh là cơ bản hay điểm yếu là cơ bản? Các câu hỏi cần đặt ra về cơ hội, thách thức của địa phương: - Môi trường bên ngoài (bối cảnh quốc tế, quốc gia, vùng…) đang đặt ra những cơ hội gì cho sự phát triển trong tương lai của địa phương? Những cơ hội nào là quan trọng nhất? Những cơ hội nào đã và đang được tận dụng? Khả năng tận dụng các cơ hội đó đến đâu? Còn những cơ hội nào chưa tận dụng được? Vì sao? - Môi trường bên ngoài (bối cảnh quốc tế, quốc gia, vùng…) đang đặt ra những thách thức gì cho sự phát triển trong tương lai của địa phương? Những thách thức nào là quan trọng nhất? Những thách thức nào đã và đang được địa phương tìm cách giảm thiểu? Mức độ giảm thiểu những thách thức đó đến đâu? Còn những thách thức nào vẫn chưa có cách giảm thiểu được? Vì sao? - Những ai được hưởng lợi nhiều nhất khi những cơ hội được thực hiện và thách thức vượt qua và ngược lại ai sẽ chịu thiệt thòi? Sự lựa chọn đúng đắn là phải bảo đảm lợi ích cho nhóm người nghèo, người yếu thế trong xã hội. - Theo đánh giá chung thì cơ hội là cơ bản hay thách thức là cơ bản? Cuối cùng, xác định xem địa phương/ngành đang nằm trong ô nào tương ứng với một trong các phương án kế hoạch đã nêu trong Bảng sau: Bảng 3: Ma trận SWOT SWOT Thuận lợi: - Những cơ hội nào cho việc tăng tối đa, phát huy thế mạnh hiện nay? - Những cơ hội nào sắp xuất hiện có thể khắc phục điểm yếu? Khó khăn: - Cái gì thách thức các thế mạnh đã được xác định? - Những yếu kém nào có nguy cơ sẽ trở nên tồi tệ hơn - trong hoàn cảnh nào? Mặt được: - Các nguồn lực nào là điểm mạnh? - Khả năng khai thác điểm mạnh này như thế nào? Phương án 1: Phát huy mặt được để tranh thủ thuận lợi. Phương án 2: Phát huy mặt được để khắc phục khó khăn. Tồn tại/ hạn chế: - Vấn đề tồn tại nhất? - Các nhân tố kìm hãm sự phát triển? Phương án 3: Tranh thủ thuận lợi để khắc phục tồn tại. Phương án 4: Khắc phục tồn tại để hạn chế khó khăn. Nguồn: Bộ tài liệu đào tạo lập kế hoạch có tính chiến lược phát triển kinh tế địa phương, Hà Nội, tháng 11/2007. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Sử dụng phân tích SWOT còn có tác dụng thu hút sự tham gia của các bên liên quan trong việc xác định vấn đề và xếp hạng thứ tự ưu tiên của các vấn đề cần giải quyết. Vì phương pháp lập kế hoạch này được tổ chức hai lần hội thảo và xen vào đó là sự làm việc của các nhóm. Các nhóm này bao gồm các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau tại các cơ quan, ban ngành. Trong lần hội thảo thứ nhất, một bức tranh tổng thể được tổng hợp nhằm giúp hình dung về tình hình thực tế của mỗi địa phương cũng như của nước ta với việc mô tả về tình hình bên trong và môi trường bên ngoài có ảnh hưởng và tác động không nhỏ đến quá trình phát triển KTXH của nước ta. Lần thảo luận thứ hai, các kết luận phân tích của các nhóm được thống nhất và đạt được sự đồng thuận thông qua phân tích chuyên gia. Công cụ SWOT cũng được sử dụng trong việc đưa ra các phương án thực hiện dựa trên những phân tích thực tế. Ngoài SWOT, cây vấn đề cũng được sử dụng là một công cụ rất hữu ích cho việc phân tích bối cảnh thực tế nhằm xác định các vấn đề cơ bản và mối quan hệ nguyên nhân - hậu quả giữa chúng, đặc biệt là tìm ra nguyên nhân gốc rễ của vấn đề làm cơ sở cho việc thiết lập mục tiêu và đưa ra các giải pháp thực hiện. Bản kế hoạch hiện nay còn mắc phải hạn chế thường ôm đồm quá nhiều các vấn đề, thiếu đi tính ưu tiên thứ tự trong các vấn đề, cũng như thiếu đi những phân tích logic nguyên nhân của vấn đề đó. Cây vấn đề được xây dựng để khắc phục những hạn chế đó. Phương pháp cây vấn đề được sử dụng để phân tích mối quan hệ nguyên nhân - kết quả giữa các vấn đề để tìm ra được nguyên nhân, những vấn đề mấu chốt và cốt lõi để hình thành cây mục tiêu, cũng như tìm ra được cách giải quyết có liên quan chặt chẽ đến các vấn đề tồn tại. Phương pháp xây dựng cây vấn đề được xây dựng qua các bước sau: Thứ nhất, phát hiện các vấn đề chủ yếu cần giải quyết (vấn đề then chốt) Để xác định được vấn đề then chốt, chúng ta cần đặt ra một số câu hỏi và trả lời chúng như sau: Vấn đề đó là gì? Có ảnh hưởng đến ai? Ảnh hưởng ở quy mô và mức độ như thế nào? Có hợp lý và khả thi để giải quyết trong giai đoạn hiện tại chưa? Đây là các vấn đề mà cộng đồng quan tâm. Xác định vấn đề cần ưu tiên giải quyết bằng cách trả lời những câu hỏi: (i) vấn đề nào đang được nhiều người quan tâm nhất? Vì sao? (ii) Vấn đề nào có thể giải quyết được với sự tham gia của nhiều bên hữu quan nhất? Vì sao? (iii) Vấn đề nào cần được giải quyết trước nhất? Vì sao? (iv) Vấn đề nào nếu được giải quyết sẽ kéo theo việc giải quyết được những vấn đề khác? Vì sao? Sau khi đã xác định được vấn đề mấu chốt, nó sẽ được đưa ra cho cả nhóm thảo luận và thống nhất. Thứ hai, xác định mối quan hệ nguyên nhân - kết quả của các vấn đề đã thống nhất và lựa chọn. Ở bước này, chúng ta tiếp tục lấy ý kiến của các nhóm tham gia trong việc tìm ra những nguyên nhân cũng như hậu quả của những vấn đề then chốt đó. Qua trình này chỉ dựng lại khi mà tất cả các vấn đề then chốt đã được phát hiện rõ nguyên nhân, hậu quả và sắp xếp thành cấp I của cây vấn đề. Sau đó, chúng ta lại tiếp tục quá trình thảo luận như vậy để tìm ra nguyên nhân và hậu quả cấp II của cây vấn đề. Tại mỗi quá trình xác định nguyên nhân cũng như hậu quả ở mỗi cấp, mối quan hệ nguyên nhân – kết quả cần được sắp xếp một cách logic, hợp lý. Thứ ba, hình thành cây vấn đề. Đây là bước hệ thống hoá lại các vấn đề then chốt, các vấn đề nhánh và hậ quả các cấp thành một sơ đồ có dạng hình cây và gọi là Cây vấn đề. (Xem phụ lục số 3)(() Bài giảng của Th.S Vũ Thành Hưởng ) Nếu chúng ta phân tích từ dưới lên thì có được mối quan hệ nhân - quả giữa các cấp vấn đề (cấp dưới là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả của cấp trên nó), cứ như thế các cấp vấn đề được liên kết lại với nhau, giải quyết được những vấn đề cấp dưới sẽ góp phần giải quyết được các vấn đề cấp trên. Trong quá trình xây dựng cây vấn đề, những nguyên nhân khách quan sẽ chỉ được theo dõi và chú ý hơn trong quá trình thực hiện kế hoạch chứ nó không được phản ánh trực tiếp lên cây vấn đề. II.3.2. Sử dụng cây mục tiêu trong việc xác định mục tiêu Cây mục tiêu là việc xác định một tập hợp các mục tiêu cần đạt đến, rồi sắp xếp chúng theo thứ tự, bắt đầu từ cấp đưa ra được những kết quả cụ thể nhất và là điều kiện cần thiết để đạt được những mục tiêu cao hơn Công cụ cây mục tiêu là việc xây dựng các mục tiêu (tình trạng) mong đợi dựa trên việc giải quyết những vấn đề khó khăn, tồn tại đã đề cập ở cây vấn đề. Nó giúp nhà kế hoạch nhìn thấy rõ mối quan hệ giữa các cấp mục tiêu, cũng như là công cụ trực tiếp để xây dựng các cấp mục tiêu trong kế hoạch chiến lược.(phụ lục số 4)(() Bài giảng của Th.S Vũ Thành Hưởng ) Cây mục tiêu được xây dựng qua các bước sau : Thứ nhất, chuyển tất cả các vấn đề được phản ánh trong cây vấn đề thành các tình trạng tốt như mong muốn trong cây mục tiêu, với điều kiện các mong muốn này có tính hiện thực và có thể đạt được. Thứ hai, kiểm tra mối quan hệ “phương tiện - kết quả” tức kiểm tra tính logic của cây mục tiêu : đạt được mục tiêu cấp dưới có góp phần đạt được mục tiêu cấp trên không? Các nội dung đã rõ ràng hay chưa? Thứ ba, cần bổ sung thêm những mục tiêu mới nếu thấy cần thiết và có thể loại bỏ một số những mục tiêu nếu thấy không phù hợp. Cây mục tiêu được xây dựng phải đảm bảo các yêu cầu sau: Các mục tiêu phải có tính logic : Việc triển khai xây dựng các cấp mục tiêu tạo ra mối liên hệ chặt chẽ với nhau và vì thế các mục tiêu cấp dưới phải có tác dụng góp phần thực hiện các mục tiêu cấp trên. Các mục tiêu phải có tính cụ thể hoá dần, từ trên xuống: Vì mục tiêu được triển khai từ trên xuống dưới, nên các mục tiêu cũng phải cụ thể hoá dần để đảm bảo tính logic, sự liên hệ chặt chẽ giữa các cấp mục tiêu. Các mục tiêu phải có tính độc lập tương đối: yêu cầu này nhằm đảm bảo sự không chồng chéo của các mục tiêu, tránh lãng phí nguồn lực thực hiện. Tóm lại, cây mục tiêu được xây dựng là một công cụ để khắc phục những hạn chế mà công tác lập kế hoạch mục tiêu thường gặp phải đó là tính chồng chéo và dàn trải, ôm đồm quá nhiều mục tiêu nên việc thực hiện được chúng là rất khó khăn dẫn đến việc lập KH không thành công. Với quan điểm KH không chỉ là 1 mục tiêu mà có nhiều cấp mục tiêu từ mục tiêu bao trùm tổng thể, chia thành các mục tiêu nhỏ hơn. Ngoài ra, không được tham xác định nhiều mục tiêu, trong năm không thể làm được quá nhiều việc. Việc xác định mục tiêu hơn nữa là cần phải gắn với thực trạng và phải có sự tham vấn của các bên để đảm bảo sự đồng thuận. Cây vấn đề và cây mục tiêu cho ta một cái nhìn toàn diện nhưng đơn giản về các mối qua hệ nhân - quả giữa các vấn đề. Nó giúp quy trình xác định mục tiêu kế hoạch có logic và dễ hiểu hơn với các bên tham gia lập kế hoạch, giúp cho quá trình đề xuất giải pháp cụ thể để thực hiện kế hoạch được dễ dàng hơn. II.3.3. Sử dụng khung kế hoạch, trong việc đưa ra các giải pháp thực hiện Với quan điểm những giải pháp đưa ra phải được cụ thể hoá thành từng hành động hoặc các dự án đầu tư cụ thể, có kết quả rõ ràng. Và để làm được điều đó, chúng ta cần phải lựa chọn những giải pháp mang tính đột phá (tập trung giải quyết được những vấn đề nổi cộm nhất), và một điều quan trong xuyên suốt trong quá trình xây dựng kế hoạch hàng năm đó là sự tham vấn của các bên hữu quan khi cân nhắc giữa các giải pháp. Khung kế hoạch được xây dựng dưới dạng bảng sau: Bảng 4: Khung kế hoạch Những tồn tại, hạn chế Tác động, kết cục Đầu ra Các giải pháp, chính sách Giả thiết rủi ro Mục tiêu tổng quát Mục tiêu cụ thể Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài liệu đào tạo lập kế hoạch có tính chiến lược phát triển kinh tế địa phương, Hà Nội, tháng 11/2007 Nó được xây dựng dựa trên việc tóm tắt những nội dung kế hoạch đã lập ra, Khung kế hoạch cho chúng ta một cái nhìn tổng thế, vắn tắt về kế hoạch đề ra, vừa thấy rõ được thực trạng (cột những tồn tại hạn chế), vừa thấy rõ được những mục tiêu đề ra (ở cột tác động, kết cục), cũng như những giải pháp chính sách đưa ra để thực hiện kế hoạch cùng với những kết quả của những chính sách đó. II.3.4. Thành lập các nhóm lập kế hoạch chủ chốt và xác định các thành phần tham gia Việc sử dụng sự tham gia của các bên trong lập kế hoạch chiến lược sẽ tập trung được sự tham gia của nhiều bên, nhiều ý kiến với nội dung có thể trái ngược nhau, nhưng sau quá trình trao đổi, sẽ có được sự thống nhất, sự đồng thuận cao nhất, và hợp lý giữa các mục tiêu, các lợi ích. Để đảm bảo cho sự tham gia trong lập kế hoạch có cơ sở và có tính chiến lược thì: (i) việc xây dựng kế hoạch từ cấp địa phương phải theo định hướng phát triển chung và gắn kết với sự tham gia, đồng thời sử dụng công cụ PRA để đánh giá sự tham gia ấy. (ii) Tổ chức hội thảo lập kế hoạch chiến lược liên ngành tại địa phương để xác định mục tiêu, hài hoà ưu tiên và nguồn lực. (iii) Tổ chức các cuộc hội thảo, tham vấn nhỏ, lớn tại các cấp các ngành sau khi đã có bản thảo kế hoạch để lấy ý kiến đóng góp. (iv) Tham vấn rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua đó công khai kế hoạch cũng như khuyến khích sự tham gia rộng rãi của người dân quan tâm tới công tác lập kế hoạch. Bản Kế hoạch hàng năm của chúng ta cần có sự tham gia của các cơ quan chức năng sau cùng với những vai trò chủ yếu, cần thiết đối với mỗi thành phần như sau: Đảng, Quốc hội, Chính phủ: đưa ra định hướng và phê duyệt kế hoạch Bộ Kế hoạch và đầu tư: giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng kế hoạch phát triển KTXH Các Bộ, ngành: góp ý và điều chỉnh kế hoạch KTXH, thường chủ đạo trong kế hoạch phát triển ngành ở cấp trung ương Các viện nghiên cứu: tham gia dự thảo kế hoạch và đánh giá thực trạng Các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp: tham gia góp ý Các tổ chức quốc tế, nhà tài trợ, tổ chức phi chính phủ: tham gia góp ý Bảng 5: Nội dung cơ bản với sự tham gia của các bên trong lập kế hoạch Những việc cần thông báo để các bên liên quan và nhân dân biết 1. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và hàng năm của địa phương trong đó thông báo về thời gian, tiến trình tiến hành làm kế hoạch. 2. Các nghị quyết, chỉ thị liên quan đến công tác lập kế hoạch. 3. Dự toán và quyết toán Ngân sách hàng năm, các khoản huy động đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng và kết quả thực hiện; 4. Các chương trình dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ. 5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo của Nhà nước và của địa phương. - Bằng các văn bản. - Niêm yết công khai tại trụ sở của các cơ quan (ví dụ: UBND, HĐND) và các trung tâm dân cư, văn hoá. - Hệ thống truyền thanh và các tổ chức văn hoá, thông tin, tuyên truyền cơ sở. - Các cuộc tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND. Các kỳ họp của HĐND, các cuộc họp của Uỷ ban MTTQ, các đoàn thể, các hội, các cuộc họp của công đồng dân cư: Tại cuộc họp sơ kết 6 tháng, tổng kết cuối năm. Những việc các bên liên quan bàn và đóng góp ý kiến 1. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát triển ngành, nghiề, giải quyết việc làm cho người lao động. 2. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình Quốc gia ví dụ như về y tế, nước sạch, vệ sinh môi trường. 3. Chủ trương, phương án đền bù giải phóng mặt bằng. 4. Dự toán và quyết toán Ngân sách. 5. Kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp xây dựng và các chương trình, dự án do Nhà nước, các tổ chức và các cá nhân dầu tư tài trợ trực tiếp. 6. Thu, chi các loại quỹ và lệ phí theo quy định của Nhà nước, các khoản đóng góp của dân. - Tổ chức các cuộc họp để thảo luận và biểu quyết công khai hoặc phiếu kín, lập biên bản để gửi lên. - Tổ chức các cuộc hội thảo để bàn bạc và thảo luận lấy ý kiến thống nhất thông qua biểu quyết hoặc cho điểm. Kết quả hội nghị và thăm dò ý kiến của nhân dân phải được báo cáo đầy đủ, khách quan. - Phiếu thăm dò ý kiến từng cá nhân liên quan Nguồn: Sổ tay hướng dẫn lập Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp xã II.3.5. Củng cố bộ máy tổ chức và nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch Việc thực hiện những định hướng và những đổi mới ở trên chỉ có thể đạt được khi bộ máy tổ chức hoạt động hiệu quả. Với trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế trong công tác lập kế hoạch hàng năm. Chính vì thế bộ máy tổ chức của chúng ta cần phải được thay đổi, và nâng cao cho phù hợp với những yêu cầu của quá trình đổi mới. Điều thứ nhất phải làm đó là: hoàn thiện bộ máy kế hoạch ở Trung ương cũng như địa phương sao cho có liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau để có thể thường xuyên năm bắt tình hình, để kịp thời phục vụ cho việc điều hành thực hiện kế hoạch cũng như giúp cho chính phủ và chính quyền địa phương có thể phối hợp với nhau trong việc đưa ra các chính sách giải pháp sát vớí thực tế và đồng bộ hơn. Thứ hai, xây dựng bộ máy tổ chức bộ phận nhưng gọn nhẹ ở các ngành và các địa phương phục vụ tốt hơn cho công tác kế hoạch hoá và việc thu thập và xử lý thông tin. Tổ chức thực hiện một chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách cơ bản nhằm nâng của cán bộ các cấp đặc biệt là Bộ KH&ĐT với cán bộ của các vụ KH ở các Bộ khác, cũng như cán bộ KH ở các sở KH địa phương. II.4. Lồng ghép chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo vào KHPT KTXH Việc lồng ghép trong lập kế hoạch sẽ hướng nguồn lực tập trung vào những vấn đề bức xúc, nổi cộm và là cơ sở cho việc triển khai thực hiện KH dưới dạng các chương trình, dự án đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, nền kinh tế phát triển ngày càng cao đòi hỏi chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến mục tiêu cuối cùng của xã hội trong đó con người là yếu tố trung tâm. Việc lồng ghép các biến xã hội vào KH kinh tế là hướng hoạt động kinh tế của đất nước vào sự phát triển bền vững. Nó còn là cơ sở để các nhà quản lý đưa ra các giải pháp một cách đồng bộ, toàn diện hơn, vì thế, thực hiện được các giải pháp này chúng ta sẽ có cơ phát triển toàn diện và hiệu quả hơn. II.5. Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách Vấn đề rất quan trọng trong quá trình đổi mới công tác lập KHPT KTXH hàng năm là phải nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, trong đó cần chú ý đến các công cụ chính sách gián tiếp. Cụ thể như sau: Thứ nhất, nâng cao năng lực hoạch định chính sách của cơ quan Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan như Bộ KH&ĐT, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, văn phòng Chính phủ, văn phòng Quốc Hội. Thứ hai, tăng cường đối thoại giữa các doanh nghiệp và các quan chức Chính phủ bằng cách thành lập diễn đàn đối thoại chính sách sinh hoạt định kỳ để thảo luận và trao đổi về chính sách, kế hoạch và điều hành thực hiện chính sách, kế hoạch. Thứ ba, mở diễn đàn trao đổi chính sách trên các phương diện thông tin đại chúng, đặc biệt là trên các kênh truyền hình Trung Ương và địa phương để thu hút sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp dân cư vào việc trao đổi và hoạch định chính sách của Chính phủ. Để đảm bảo sự ăn khớp, đồng bộ và linh hoạt của bản kế hoạch hàng năm cũng như những chính sách phát triển được đưa ra, thì điều quan trọng là cần tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, giữa trung ương và các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hàng năm. II.6. Xây dựng và phát triển công tác dự báo, cùng với việc đổi mới trong thu thập và xử lý thông tin Chất lượng và hiệu lực của KH cũng như hệ thống chính sách kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, tính kịp thời và đẩy đủ của thông tin. Chính hệ thống thông tin yếu kém, đã làm hạn chế cho công tác đánh giá, dự báo và đưa ra những giải pháp tình thế kịp thời và chính xác cho một nền kinh tế. Cùng với nó, chất lượng của công tác dự báo, phân tích cũng phải được nâng cao để đáp ứng được yêu cầu trong đổi mới công tác lập kế hoạch hàng năm. Để có được một mô hình dự báo hữu dụng, việc lựa chọn mô hình dự báo ngắn hạn nên chú ý những đặc điểm sau: (i) phải đưa ra những số liệu dự báo phân tích theo quý. (ii) phải bao gồm những thông tin kịp thời phản ánh được những nét chính tình hình KTXH trong thời gian ngăn hạn, mức độ yêu cầu về chất lượng thông tin không cần quá nghiêm ngặt. (iii) không cần phân ngành ở mức độ quá chi tiết như trong hệ thống thống kê, nhưng vẫn phải đầy đủ để toát lên những nét cơ bản quan trọng nhất. II.7. Nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá Cùng với những đổi mới trong phương pháp và quy trình lập kế hoạch hàng năm, công tác TDĐG cũng cần phải được đổi mới để có được sự đổi mới toàn diện. Thứ nhất, TDĐG dựa vào kết quả. Khác với hệ thống TDĐG trước đây dựa vào đầu vào và đầu ra, việc TDĐG dựa vào kết quả cho chúng ta thấy rõ được hiệu quả của việc thực hiện KH và các chính sách, giải pháp trong KH. Nó là công cụ quản lý thiết yếu của Nhà nước. Thứ hai, sự tham gia của xã hội trong TDĐG. Công tác TDĐG cũng cần hướng tới việc tăng cường vai trò của cộng đồng, của các bên hữu quan như cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ vào việc xác định kết quả, đầu ra, chỉ tiêu và chỉ số để hệ thống chỉ tiêu, chỉ số phù hợp với yêu cầu TDĐG. Thứ ba, công tác TDĐG phải được tổ chức trong tất cả các bước của quy trình lập KH để đảm bảo hiệu quả trong từng khâu. Cần phải xây dựng một cơ chế đồng bộ, một hệ thống chỉ tiêu thống kê phù hợp hỗ trợ cho công tác TDĐG. III. KIẾN NGHỊ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KHPT KTXH HÀNG NĂM Nhà nước cần ban hành các chính sách áp dụng để nâng cao chất lượng công tác thống kê trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin phục vụ quá trình lập kế hoạch. Ngoài ra, cần tổ chức các cuộc điều tra để thu thập thông tin của các vùng, các địa phương, nguyện vọng của người dân. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, các luật kinh tế cho phù hợp và hiệu quả hơn đối với công tác lập kế hoạch. Chẳng hạn cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ việc áp dụng các phương pháp đổi mới trong công tác lập kế hoạch. Cấp Trung ương cần tăng cường hơn nữa sự phân cấp, phân quyền cho các cấp địa phương để tăng tính chủ động, sáng tạo cho cấp địa phương. Đồng thời các cấp chính quyền cần ban hành các văn bản hướng dẫn lập kế hoạch cho cấp dưới theo phương pháp mới để nhằm đổi mới một cách đồng bộ từ TW đến địa phương, cũng như tất cả các ban ngành. Các cấp thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo về đổi mới trong công tác lập kế hoạch để có thể hướng dẫn kịp thời, giúp cán bộ các cấp có thể hiểu rõ hơn về phương pháp lập kế hoạch. Từ đó tạo nền tảng, và tính hiệu quả cao hơn cho quá trình đổi mới ở các cấp, đặc biệt là cấp địa phương. Để có thể tổ chức các buổi hướng dẫn tại các cấp thì đội ngũ cán bộ có trình độ để có thể làm tốt công tác này là điều hết sức cần thiết. Đội ngũ này ngoài gánh vác công việc hướng dẫn xây dựng kế hoạch còn có nhiệm vụ theo dõi, giám sát quá trình xây dựng kế hoạch đến thực hiện nó. Song song với các buổi hướng dẫn lập kế hoạch, thì các buổi tham vấn cộng đồng cũng đặc biệt được chú trọng và là đòi hỏi cần thiết cho quá trình đổi mới của chúng ta. Nó cần phải được tiến hành song song với quá trình thiết lập kế hoạch, cho đến việc thực hiện kế hoạch và quá trình theo dõi, đánh giá. Để làm được điều này, cần phải tuyên truyền, giải thích để người dân hiểu rằng đây là cơ hội để họ thể hiện quyền làm chủ của mình đối với cộng đồng, khắc phục được tình trạng ỷ lại. Những ý kiến đóng góp của người dân cần được xử lý thoả đáng và phải được phản hồi minh bạch để việc thu hút sự tham gia của họ trong những lần tham vấn sau thuận lợi hơn. Tuyên truyền sâu rộng trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, như việc giành một chương trình thường xuyên tạo cầu nối giữa Chính phủ và tiếng nói của người dân. Mỗi người dân sẽ có thể tham gia đóng góp ý kiến, quan điểm của mình một cách rất dễ dàng, có thể thông qua website, đường dây nóng hay thư tay... Ý kiến của người dân sẽ được tổng hợp, phân tích bởi các nhà chuyên môn trong từng lĩnh vực khác nhau. Rồi từ đó, tạo cơ sở, căn cứ cho công tác lập kế hoạch phát triển KTXH năm tiếp theo. KẾT LUẬN Quá trình đổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như kế hoạch hàng năm nói riêng đã đang được thúc đẩy song song với quá trình đổi mới đất nước. Điều đó đã làm cho nó nhận được sự quan tâm rất lớn của Nhà nước và của toàn dân. Quá trình đổi mới đang được diễn ra rất mạnh mẽ từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, có rất nhiều khó khăn cho quá trình đổi mới này đặc biệt là ở các cấp địa phương. Do trình độ, nhận thức mà công tác đổi mới kế hoạch hàng năm còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, quá trình thực tập tại vụ Tổng hợp Kinh tế Quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cho em thấy rằng: quá trình lập kế hoạch vẫn chủ yếu dựa vào chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ mà không dựa vào kế hoạch của cấp địa phương. Dù cho lý thuyết của quá trình đổi mới vẫn là như vậy. Chính vì vậy, em thấy rằng: Cần phải nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, cùng toàn thể người dân bằng một hệ thống cơ sở lý luận về công tác kế hoạch hoá thật rõ ràng để qua đó các cấp chính quyền có thể thấy rõ được tầm quan trọng, vai trò của kế hoạch, và sự cần thiết phải đổi mới công tác lập kế hoạch hàng năm ở Việt Nam hiện nay. Điều thứ hai chúng ta cần phải làm đó là chỉ rõ được những gì đã làm được, những gì chưa làm được trong quá trình đổi mới để từ đó các cấp chính quyền cũng như những người dân trên đất nước Việt Nam có thể thấy rõ được thực trạng đang diễn ra cùng những thiếu sót đang mắc phải để nâng cao tính trách nhiệm của từng cá nhân, từng người dân đối với sứ mệnh đổi mới đất nước, đổi mới công tác kế hoạch hoá, cũng như công tác xây dựng kế hoạch phát triển KTXH hàng năm. Bằng những chính sách và biện pháp phù hợp với điều kiện của nước ta - một đất nước đang phát triển và còn nhiều hạn chế trong phát triển kinh tế, cũng như chất lượng nguồn nhân lực còn yếu kém, chúng ta đã gặt hái được những thành công hơn mong đợi. Thách thức nhiều nhưng thành tựu cũng không hề nhỏ bé. Điều đó đã khẳng định Việt Nam đang đi đúng hướng và cần phải phát huy hơn nữa để thực hiện thành công quá trình đổi mới công tác xây dựng KHPT KTXH hàng năm được hiệu quả hơn. Cùng với xu hướng quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi chúng ta phải không ngừng đổi mới để có thể phát triển hơn nữa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010. Bài giảng của Th.S Vũ Thành Hưởng. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2009 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2010. Đổi mới công tác kế hoạch hoá/ PGS. TS Ngô Thắng Lợi, Th.s Vũ Cương đồng chủ biên. NXB Lao động xã hội, 2007. Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận văn tốt nghiệp: “Đổi mới công tác KHPT KTXH ở Quận Đống Đa” - SVTH Nguyễn Thái Sơn. Tài liệu tập huấn lập kế hoạch có tính chiến lược phát triển kinh tế địa phương. Website baomoi.com Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư (mpi.gov.vn). Website thời báo kinh tế Việt Nam (vneconomy.vn). Website tổng cục thống kê Việt Nam (gso.gov.vn). Website trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (ncseif.gov.vn). NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN PHỤ LỤC Phụ lục số 1 : Bảng đánh giá tổng quát tình hình thực hiện kế hoạch 2009 STT Chỉ tiêu Đơn vị KH T.Hiện 2009 1. Tốc độ tăng trưởng GDP % 5.0 5.2 2. Tốc độ tăng tổng kim ngạch XK % 3 -9.9 3. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP % 39.5 42.2 4. Chỉ số tăng giá tiêu dùng % <10 7 5. Tổng thu cân đối NSNN Nghìn tỷ đồng 389.9 390.65 6. Tổng chi NSNN Nghìn tỷ đồng 491.3 533 7. Bội chi NSNN %so với GDP <7 6.9 8. Số địa phương đạt chuẩn chương trình phổ cập giáo dục THCS Tỉnh 55 55 9. Tốc độ tăng tuyển mới đại học, cao đẳng % 11.4 9.2 10. Tốc độ tăng tuyển mới trung cấp chuyên nghiệp % 15.6 11.4 11. Tốc độ tăng tuyển mới cao đẳng nghề và trung cấp nghề % 18 18.2 12. Mức giảm tỷ lệ sinh o/oo 0.2 0.2 13. Tạo việc làm Triệu ng 1.7 1.51 14. Tỷ lệ hộ nghèo % 12 11 15. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng % <19 18.8 16. Số giường bệnh trên 1 vạn dân Giường bệnh 16.85 27 17. Diện tích nhà ở đô thị bình quân đầu người m2 12.2 13.1 18. Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh % 79 79 19. Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch % 85 82 20. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý % 65 67 21. Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom % 82 82 22. Tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý % 65 65 23. Tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý % 75 75 24. Tỷ lệ KCN, KCX đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường % 65 43 25. Tỷ lệ che phủ rừng % 39.8 39.4 Nguồn : Báo cáo tình hình KTXH năm 2009 và KHPT KTXH năm 2010 Phụ lục số 2: Tình hình và khả năng hoàn thành một số chỉ tiêu KH 5 năm 2006 - 2010 STT Tên chỉ tiêu Đơn vị Mục tiêu KH 2006 - 2010 TH năm 2006 TH năm 2007 TH năm 2008 Ước TH năm 2009 Dự kiến KH năm 2010 Năm hoặc đến năm 2009 so với KH 2006 – 2010 Năm hoặc đến năm 2010 so với KH 2006 - 2010 I. VỀ KINH TẾ 1. Tốc độ tăng GDP % 7.5 - 8%/năm 8.23 8.46 6.18 5.2 6.5 7%/năm; chưa đạt 6.9%/năm; chưa đạt 2. GDP giá so sánh (năm 2000 là 273.666 Nghìn tỷ đồng 2.1 lần 425.4 461.3 489.8 515.4 548.9 1.88 lần so với 2000 2.0 lần so với 2000; không đạt 3. GDP bình quân đầu người USD 1.050 - 1.100 723 834 1.034 1.109 1.200 Vượt Vượt 4. Cơ cầu GDP - Nông, lâm, thuỷ sản - Công nghiệp và xây dựng - Dịch vụ % 15 - 16 20.4 20.34 22.10 20.44 19.88 Chưa đạt Không đạt % 43 - 44 41.54 41.48 39.73 40.18 40.33 % 40 - 41 38.06 38.18 38.17 39.38 39.79 5. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá % 16 22.7 21.9 29.1 -9.9 >6 14.9%/năm; chưa đạt 13.1%/năm; không đạt 6. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP % 40 41.5 46.5 41.3 42.2 41 Vượt Vượt 7. Tỷ lệ huy động GDP hàng năm vào NSNN % 21 - 22 27.1 27.6 28.2 23.3 23.9 Vượt Vượt II. VỀ XÃ HỘI 8. Số địa phương đạt chuẩn chương trình phổ cập giáo dục THCS Tỉnh 64 32 40 47 55 63 87% Đạt 9. Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 40 27.8 30.5 37 38 40 95% Đạt 10. Tạo việc làm Triệu ng 8.0 (5 năm) 1.65 1.69 1.62 1.51 1.6 80.8% Đạt 11. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị % <5 4.82 4.64 4.65 4.66 4.6 Đạt Đạt 12. Tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp trong độ tuổi lao động (năm 2005: 58%) % < 50 55.4 53.9 52.6 51.7 50 78.8% Đạt 13. Tốc độ phát triển dân số % 1.14 1.24 1.23 1.22 1.14 1.1 Đạt Vượt 14. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng % < 20 23.4 21.2 19.9 18.8 18 Vượt Vượt 15. Tỷ lệ hộ nghèo (năm 2005: 22%) % 10 - 11 15.5 14.82 12.1 - 12.5 11 <10 Đạt Vượt III. VỀ MÔI TRƯỜNG 16. Tỷ lệ che phủ rừng % 42 - 43 38 38.2 39 39.4 40 94% Không đạt 17. Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh % 75 66 70 75 79 83 Vượt Vượt 18. Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch % 95 76.2 75 80 82 84 86% 88%; không đạt 19. Tỷ lệ chất rắn thải đô thị được thu gom % 80 - 90 70 75 80 82 85 91% 94%; không đạt 20. Tỷ lệ chất rắn thải y tế được xử lý % 100 72 79 70 75 80 75% 80%; không đạt 21. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường % 100 41 45 40 43 45 43% 45%; không đạt 22. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý % 75 41.4 50 60 67 70 89% 93%; không đạt Nguồn: Báo cáo tình hình KTXH năm 2009 và Kế hoạch phát triển KTXH năm 2010. Phụ lục số 3: Cây vấn đề về tình trạng nghèo đói Thiên tai Năng suất thấp Khó tiếp cận thị trường Thiếu thông tin Không có đường Thiếu lương thực Đói nghèo Giống thoái hóa Đất bạc màu Thủy lợi kém Chậm chuyển đổi cơ cấu sản xuất Tư duy ngại thay đổi Chưa có mô hình mẫu Kết quả Nguyên nhân Phụ lục số 4: Cây mục tiêu về giảm tình trạng đói nghèo Giảm tình trạng nghèo An ninh lương thực được đảm bảo Năng suất được đảm bảo Khả năng tiếp cận thị trường cải thiện Cải tạo giống Cải tạo đất Nâng cấp thủy lợi Chuyển đổi cơ cấu sản xuất Xây đường Tăng cường thông tin Thay đổi tư duy Xây dựng mô hình mẫu Phương tiện Mục đích

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐổi mới công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn liên quan