MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DƯỢC PHẨM VÀ NGÀNH DƯỢC PHẨM VIỆT NAM 4
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DƯỢC PHẨM 4
1. Khái niệm dược phẩm 4
2. Vị trí, vai trò của dược phẩm 6
3. Đặc điểm của dược phẩm 7
II. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DƯỢC PHẨM VIỆT NAM 10
1. Sự hình thành và phát triển 10
2. Đặc điểm của ngành dược phẩm Việt Nam 13
3. Quản lí của Nhà nước về dược phẩm 14
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC THÀNH CÔNG TRONG PHÁT TRIỂN NGÀNH 17
1. Ngành dược phẩm Pháp 18
2. Ngành dược phẩm Ấn Độ 19
3. Ngành dược phẩm Trung Quốc 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM VỚI DƯỢC PHẨM NGOẠI NHẬP 23
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM 23
1. Hệ thống doanh nghiệp dược Việt Nam 24
2. Thực trạng sản xuất dược phẩm 27
2.1 Các nhân tố chính ảnh hưởng đến sản xuất dược phẩm 27
2.1.1 Cơ sở vật chất – kĩ thuật 27
2.1.3 Nguồn nhân lực 31
2.1.4. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ 31
2.1.5 Các ngành công nghiệp liên quan đến sản xuất dược phẩm 32
2.2. Tình hình sản xuất dược phẩm ở Việt Nam 35
2.3 Thực trạng phân phối dược phẩm 48
2.3.1 Tổng quan về hệ thống phân phối dược phẩm ở Việt Nam 48
2.3.2 Thực trạng phân phối dược phẩm sản xuất trong nước 51
II. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM VỚI DƯỢC PHẨM NGOẠI 57
1. Môi trường cạnh tranh 57
2. Thực trạng phát triển của dược phẩm ngoại tại thị trường Việt Nam 63
2.1 Đặc điểm của dược phẩm ngoại nhập tại thị trường Việt Nam 63
2.2 Tác động của dược phẩm ngoại nhập đến thị trường dược phẩm Việt Nam 70
2.2.1 Sự biến động của giá thuốc 70
2.2.2 Tình hình cung ứng thuốc nội cho bệnh viện 70
3. Đánh giá khả năng cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam với dược phẩm ngoại nhập 71
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM VỚI DƯỢC PHẨM NGOẠI NHẬP 74
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DƯỢC PHẨM VIỆT NAM. 74
1. Những cơ sở để định hướng phát triển ngành dược 74
1.1 Xu hướng phát triển của ngành dược phẩm thế giới 74
1.2 Tiềm năng của thị trường Việt Nam 75
2. Chiến lược phát triển ngành dược Việt Nam 78
II. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM VỚI DƯỢC PHẨM NGOẠI. 79
1. Giải pháp từ các cấp quản lý 79
1.1 Giải pháp từ Chính phủ 80
1.1.1 Xây dựng đồng bộ, rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước về dược phẩm 80
1.1.2. Tăng cường điều tiết thị trường dược phẩm cho phù hợp 81
1.2. Giải pháp từ ngành dược phẩm 84
1.2.1. Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành dược 84
1.2.2. Tăng cường quản lý hành nghề, đăng kí kinh doanh và chất lượng thuốc sản xuất trong nước và thuốc nhập khẩu 85
1.2.3. Thường xuyên công bố danh mục thuốc thiết yếu và thuốc hiếm 86
2. Giải pháp từ các doanh nghiệp 86
2.1 Nâng cao năng lực sản xuất 86
2.1.1 Thay đổi tư duy đầu tư và chuẩn bị tốt cơ sở pháp lý 86
2.1.2. Tăng cường vốn đầu tư và đổi mới công nghệ 89
2.1.3. Chủ động tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất 90
2.1.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 90
2.1.5. Đẩy mạnh khai thác thông tin 91
2.2 Giải pháp về sản phẩm 92
2.2.1 Đa dạng hoá chủng loại, mẫu mã sản phẩm 92
2.2.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm 93
2.2.3. Kiểm soát chi phí hạ giá thành sản phẩm 93
2.2.4. Phát triển sản phẩm Đông dược 94
2.3. Xây dựng hệ thống phân phối mạnh 95
2.4. Đẩy mạnh hoạt động marketing, xây dựng và quảng bá thương hiệu dược phẩm Việt Nam 96
2.5 Đẩy mạnh liên kết 96
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
104 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10780 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dược phẩm Việt Nam – Thực trạng phát triển và giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh với dược phẩm ngoại nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy, đối với tiêu dùng thuốc trong bệnh viện cũng như ở các cửa hàng bán lẻ thì thuốc ngoại vẫn được ưa dùng hơn.
Do có tiềm lực về tài chính nên các các hãng dược phẩm ngoại hoàn toàn có khả năng mở rộng kênh phân phối và thực hiện marketing cho dược phẩm của mình.
Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO và cam kết mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài vào kinh doanh là một cơ hội rất lớn với các nhà đầu tư nước ngoài ở lĩnh vực dược phẩm. (Mức thuế hiện nay chỉ còn 0-5% so với 0-10% trong những năm trước đây và các công ty này có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp vào thị trường Việt Nam vào ngày 1/1/2009 tới đây )
Điểm yếu
Giá thuốc ngoại hiện nay vẫn còn đang ở mức cao so với thuốc nội. Việt Nam là một nước đang phát triển phần lớn người dân có thu nhập trung bình thấp vì vậy khi lựa chọn giữa các loại thuốc có cùng chức năng thì tâm lí chung của người dân vẫn là chọn thuốc có giá rẻ hơn.
Cho đến trước thời điểm 1/1/2009 thì các doanh nghiệp nước ngoài vẫn chưa được trực tiếp vào kinh doanh tại thị trường Việt Nam và vẫn phải chịu những chính sách bảo vệ thị trường thuốc nội địa của chính phủ Việt Nam.
2.2 Tác động của dược phẩm ngoại nhập đến thị trường dược phẩm Việt Nam
2.2.1 Sự biến động của giá thuốc
Trong những năm gần đây giá thuốc tại Việt Nam có xu hướng biến động mạnh và khó kiểm soát. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là việc dược phẩm Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào thị trường dược phẩm thế giới. Các doanh nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập ngoại do vậy khi giá nguyên liệu biến động thì giá thuốc trong nước cũng biến dộng theo. Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì chỉ số giá tháng 12 năm 2007 của nhóm hàng y tế, dược phẩm đứng thứ 7/10 nhóm hàng chủ yếu. Chỉ số giá bình quân năm 2006 của nhóm hàng y tế, dược phẩm là 5.12% đứng thứ 6/10 và năm 2007 là 7.05 % đứng thứ 5/10 nhóm hàng chủ yếu. Tỷ lệ tăng của chỉ số giá nhóm hàng dược phẩm, y tế là 63,95% so với mức tăng 93.36% của chỉ số giá tiêu dùng.
Tình trạng độc quyền trong phân phối thuốc cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến sự biến động của giá thuốc tại Việt Nam.
2.2.2 Tình hình cung ứng thuốc nội cho bệnh viện
Như dã trình bày ở mục Hệ thống phân phối thuốc thì tỷ lệ dược phẩm nhập khẩu phân phối tại các bệnh viện vẫn chiếm một tỷ lệ cao và khó thay thế (Năm 2007 là 51.7%). Nguyên nhân là do nhu cầu sử dụng thuốc đặc trị tại các bệnh viện và việc các bác sĩ chủ yếu vẫn có thói quen kê đơn thuốc ngoại cho bệnh nhân.
2.2.3 Tình hình tiêu dùng ở các nhà thuốc
Tình trạng tiêu dùng nhiều thuốc ngoại cũng xảy ra tương tự ở các nhà thuốc Việt Nam. Theo thống kê của Cục quản lý dược Việt Nam năm 2007 thì số lượng thuốc nội được bán ở khối nhà thuốc là 60% nhưng tổng số tiền để mua thuốc chỉ đạt 32%. Đây thực sự là một thách thức không nhỏ đối với dược phẩm Việt Nam.
3. Đánh giá khả năng cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam với dược phẩm ngoại nhập
Có thể nhận thấy việc cạnh tranh với các sản phẩm ngoại nhập chủ yếu diễn ra ở các sản phẩm tân dược - những sản phẩm Việt Nam có khả năng sản xuất nhưng vẫn tiến hành nhập khẩu. Khả năng các doanh nghiệp dược Việt Nam có thể chế biến nguyên vật liệu và sản xuất cung ứng đầy đủ nhu cầu về các loại thuốc đặc trị của người dân là không thể xảy ra trong những năm tới đây. Vì vậy, ngành dược Việt Nam vẫn phải chấp nhận nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước chưa có khả năng sản xuất để đáp ứng nhu cầu phòng chữa bệnh của người dân. Tuy nhiên, đối với các mặt hàng mà chúng ta có khả năng sản xuất thì các doanh nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh nhất định để tìm chỗ đứng cho mình trên thị trường đặc biệt là trong những năm tới khi sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn khi lộ trình mở của ngành dược theo cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đang đến gần. Trên cơ sở tiềm lực sẵn có và những lợi thế có được dược phẩm Việt Nam có thể áp dụng các chiến lược cạnh tranh sau:
Cạnh tranh nhấn mạnh vào chi phí thấp: Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang xếp vào nhóm nghèo trên thế giới. Thu nhập của đại đa số người dân còn thấp mối quan tâm của họ về sản phẩm là giá cả. Các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ sản xuất những mặt hàng thông thường phục vụ đại đa số người sử dụng. Mặt khác với lợi thế sản xuất tại chỗ, chi phí cho nhân công thấp, chi phí cho việc vận chuyển bảo quản thuận lợi hơn nhiều so với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy dược phẩm Việt Nam nên lựa chọn chiến lược cạnh tranh nhấn mạnh vào chi phí thấp.
Mặt khác với khí hậu thuận lợi cho việc nuôi trồng dược liệu kể cả các loại cây con quý hiếm, có giá trị cao trên thế giới, cùng với vốn kinh nghiệm quý giá của thuốc cổ truyền phù hợp với xu hướng ngày càng trở về với thuốc thảo dược làm thuốc trên thế giới hạn chế những tác dụng không mong muốn, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất thuận lợi cho việc kế thừa các loại thuốc đông y tạo nên sự khác biệt hóa so với đối thủ cạnh tranh. Đây cũng chính là điều kiện để dược phẩm Việt Nam có thể lựa chọn chiến lược khác biệt hoá trong cạnh tranh với các loại thuốc ngoại nhập. Tuy nhiên để khai thác được lợi thế này đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược phát triển cụ thể. Xây dựng vùng nguyên liệu và đầu tư cho việc nghiên cứu sản xuất các loại thuốc có nguồn gốc y học cổ truyền có như vậy thuốc sản xuất ra mới có chỗ đứng trên thị trường.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế và mô hình bệnh tật của người Việt Nam như đã nêu ở trên, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không dủ tiềm lực tài chính cũng có thể lựa chọn chiến lược tập trung hoá. Tập trung vào sản xuất các loại thuốc có nhu cầu lớn của Việt Nam như các loại thuốc về nhiễm trùng hoặc kí sinh trùng, ỉa chảy, nhiễm khuẩn đường hô hấp, sốt rét. Đây là những loại bệnh có tỉ lệ người Việt Nam mắc phải là rất cao, không đòi hỏi kĩ thuật cao trong quá trình sản xuất. Vì thế có thể giúp các doanh nghiệp này tồn tại và cung cấp một lượng thuốc thiết yếu cho người dân.
Đối với doanh nghiệp có quy mô lớn hơn có tiềm năng tài chính lớn hơn nên được khuyến khích, hỗ trợ sử dụng chiến lược trọng tâm hoá thông qua việc sản xuất, kinh doanh những loại thuốc đặc trị, những sản phẩm đòi hỏi hàm lượng kĩ thuật cao với phân khúc thị trường có thu nhập cao về hệ thống y bác sĩ điều trị, bệnh viện hoặc các loại thuốc mang tính xã hội cao như: lao, AIDs, ung thư…Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã tiến hành sản xuất được các loại thuốc đặc trị có chất lượng tương đương với dược phẩm nhập ngoại. Điều này đã thúc đẩy ngành dược phẩm Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm nói riêng nỗ lực hơn nữa trong việc thâm nhập vào thị trường thuốc đặc trị, thị trường mang lại lợi nhuận cao và góp phần giảm giá thành, giảm lượng chi cho ngoại tệ.
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM VỚI DƯỢC PHẨM NGOẠI NHẬP
I. Định hướng phát triển ngành dược phẩm Việt Nam.
1. Những cơ sở để định hướng phát triển ngành dược
Những nghiên cứu và dự báo về phát triển dược phẩm thế giới nói chung, của Việt Nam nói riêng giữ vai trò hết sức quan trọng đối vói việc đưa ra các định hướng phát triển ngành. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, dự báo thị trường là một trong những cơ sở cho việc xây dựng Kế hoạch hóa sát thực và nâng cao chất lượng quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của ngành dược phẩm nói chung. Đối với các doanh nghiệp thì đây là cơ sở cơ sở để xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình nâng cao khả năng cạnh tranh trong những năm tới. Bởi vậy muốn đưa ra được định hướng phát triển cho ngành dược trong những năm tới thì trước hết cần tìm hiểu và dự báo về thị trường dược phẩm thế giới và thị trường dược phẩm Việt Nam trong thời gian tới để làm cơ sở cho việc định hướng.
1.1 Xu hướng phát triển của ngành dược phẩm thế giới
Xu hướng phát triển ngành dược của các nước dựa trên thực trạng phát triển của ngành công nghiệp dược phẩm và điều kiện kinh tế ở các nước này:
Tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức...ngoài việc sản xuất ra các thuốc generic còn tập trung nghiên cứu phát minh ra các thuốc mới, thuốc đặc trị các bệnh nan y, thuốc tác dụng kéo dài, thuốc giải phóng có kiểm soát, thuốc có tác dụng tại đích, vi nang,...
Các nước trong khu vực Nam Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ...sản xuất thuốc generic, nghiên cứu sản xuất thuốc mới, ngoài ra còn tập trung nghiên cứu nguyên liệu làm thuốc.
Các nước trong khu vực Asean tập trung hướng vào sản xuất thuốc generic.
Các nước có nền công nghiệp chưa được phát triển lượng thuốc sử dụng chủ yếu thông qua nhập khẩu.
Tình hình sử dụng thuốc của các nước trên thế giới: Giá trị sử dụng thuốc bình quân trên đầu người ở các nước phát triển là 40 USD năm 1995; 60 USD năm 2005 và dự báo trong năm 2010 là 120 USD. Tại các nước đang phát triển khoảng 15,6 USD năm 2005 và dự báo sẽ đạt 19,5 USD năm 2010. Giá trị sử dụng thuốc trên thế giới tăng trưởng khoảng 9 - 10%/ năm. (Nguồn: Đề án phát triển ngành dược năm 2005 )
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới kể cả các nước phát triển và đang phát triển đang áp dụng mô hình: Cơ quan quản lý thuốc - Thực phẩm - Mỹ phẩm (FDA - Food and Drug Administration). Ví dụ: Mỹ, Úc, Thái Lan, Singapore, Malayxia...
1.2 Tiềm năng của thị trường Việt Nam
Việc dự báo về tình hình phát triển của thị trường dược phẩm Việt Nam là xem xét dự báo ở các mặt như quy mô thị trường, chủng loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm, khả năng tham gia thị trường của các hãng dược phẩm nước ngoài vào Việt Nam, mức doanh số hàng năm của dược phẩm sản xuất trong nước .
Quy mô thị trường
Theo Cục quản lý dược Việt Nam với dân số trên 84 triệu người, tổng giá trị tiền thuốc sử dụng của thị trường Việt Nam tăng hàng năm 15 - 17%, tiền thuốc bình quân đầu người tăng 12-14%/năm thì đến năm 2010 khi dân số nước ta là 88 - 89 triệu dân doanh số bán ra của dược phẩm ước khoảng 1.060 triệu đến 1.330 triệu USD tăng khoảng ba lần so với năm 2000. Qua đây có thể khẳng định Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng cần được tổ chức khai thác tốt. Ngành công nghiệp dược Việt Nam cần tổ chức nắm bắt thời cơ vươn lên mọi mặt mới có thể làm chủ thị trường đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng đang ngày một tăng cao trong nước.
Về chủng loại sản phẩm
Theo dự đoán về phát triển kinh tế xã hội, đến năm 2010 và 2015, mô hình bệnh tật Việt Nam, về cơ bản vẫn là mô hình của một nước đang phát triển như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển hơn, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa được đẩy mạnh hơn thì mô hình bệnh tật sẽ chuyển dịch nhiều sang mô hình bệnh tật của các nước phát triển. Các loại bệnh như tim mạch, huyết áp, tiểu đường, bệnh nghề nghiệp...sẽ phát triển mạnh hơn và tỷ lệ người cao tuổi cũng tăng theo mức sống. Điều này đòi hỏi sự đáp ứng của ngành dược về chủng loại và khối lượng sản phẩm thích hợp với từng thời kỳ.
Không chỉ quan tâm đến mô hình bệnh tật các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến chủng loại sản phẩm sản xuất ra. Theo chỉ đạo của Nhà nước và mục tiêu phát triển của ngành dược thì trong những năm tới đây các doanh nghiệp sẽ được khuyến khích đa dạng hóa chủng loại thuốc sản xuất đặc biệt là sản xuất các loại thuốc đặc trị, thuốc có hàm lượng kĩ thuật cao để giảm tỉ lệ thuốc nhập khẩu, ổn định giá thuốc trong nước. Bên cạnh đó các loại thuốc đông dược cũng sẽ được khuyến khích phát triển phát huy thế mạnh của thuốc y học cổ truyền.
Về chất lượng sản phẩm
Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, thu nhập, mức sống của người dân ngày càng cao, người tiêu dùng sẽ đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, mẫu mã. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp dược Việt Nam cần phải phấn đấu đạt các tiêu chuẩn GMP, GLP, GSP...và sản xuất các loại thuốc đạt chất lượng cao tương đương với khu vực và thế giới không chỉ ở thuốc tân dược mà còn ở cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuốc đông dược. Đối với thuốc tân dược theo quy định của Bộ Y tế đến 6/2008 tất cả các doanh nghiệp sản xuất thuốc đều phải đạt tiêu chuẩn GMP. Chắc chắn rằng cho đến năm 2010 và 2015 số doanh nghiệp Việt Nam đạt các tiêu chuẩn này sẽ tiếp tục tăng cũng đồng nghĩa với việc chất lượng thuốc Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh đó việc kiểm soát chất lượng thuốc cũng sẽ được đẩy mạnh hơn nữa. Trong những năm gần đây số lượng các loại thuốc giả, thuốc kém chất lượng ngày càng gia tăng trên thị trường ở cả thuốc sản xuất trong nước và thuốc nhập khẩu. Trong những năm tới xu hướng này sẽ có chiều hướng tiếp diễn do dược phẩm là một trong những ngành công nghiệp siêu lợi nhuận. Vì vậy việc kiểm tra giám sát chất lượng thuốc là một điều cần thiết.
Khả năng tham gia của các hãng dược phẩm lớn của nước ngoài vào Việt Nam
Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO thì các hãng dược phẩm nước ngoài sẽ không được phân phối thuốc trực tiếp vào Việt Nam. Cam kết này có hiệu lực vĩnh viễn. Quy định này cùng với những chính sách phát triển dược phẩm trong nước của Chính phủ có thể sẽ làm giảm lượng thuốc nhập khẩu trong những năm tới. Tuy nhiên tỉ lệ giảm sẽ nhỏ do hiện tại tiềm lực của các doanh nghiệp còn nhỏ quy mô sản xuất chưa lớn. Các loại thuốc đặc trị, thuốc mà Việt Nam chưa sản xuất được, nguyên liệu để sản xuất thuốc sẽ tiếp tục được nhập khẩu. Trong những năm gần đây khi vị thế của đất nước ngày càng được nâng cao thì các hãng nước ngoài vào kinh doanh ở Việt Nam ngày càng nhiều. Bên cạnh dấu hiệu đáng mừng là đầu tư nước ngoài vào sản xuất dược phẩm tăng thì số lượng các hãng dược phẩm nhảy vào phân phối dược phẩm kinh doanh kiếm lời cũng sẽ gây không ít khó khăn cho dược phẩm sản xuất trong nước.
Doanh số, thị phần của dược phẩm sản xuất trong nước
Theo dự báo đến năm 2010 giá trị thuốc sản xuất trong nước sẽ đạt 1000 triệu USD. Thuốc sản xuất trong nước sẽ chiếm 60% thị phần thuốc tiêu thụ trong nước năm 2010 và 70% vào năm 2015 và 80% vào năm 2020. Đặt ra mục tiêu trên thể hiện quyết tâm cao của ngành dược trong việc phát triển dược phẩm trong nước.
2. Chiến lược phát triển ngành dược Việt Nam
Ngày 29 tháng 3 năm 2007 Chính phủ đã ban hành quyết định số 43/2007/QĐ-TTg phê duyệt đề án " Phát triển công nghiệp dược và xây dựng mô hình hệ thống cung ứng thuốc của Việt Nam giai đoạn 2007-2015 và tầm nhìn 2020” theo đó đã xác định các nội dung sau:
Mục tiêu chung
Phát triển ngành dược thành ngành kinh tế – kỹ thuật mũi nhọn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao năng lực sản xuất trong nước và kiện toàn hệ thống cung ứng thuốc của Việt Nam để chủ động cung ứng thường xuyên, kịp thời và đủ thuốc có chất lượng, giá cả hợp lý, sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc nâng cao sức khoẻ của nhân dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới.
Mục tiêu cụ thể
1. Về phát triển công nghiệp dược Việt Nam
a) Xây dựng và phát triển hệ thống các nhà máy sản xuất thuốc trong nước, tiến tới đáp ứng cơ bản nhu cầu về thuốc phòng và chữa bệnh cho nhân dân; bảo đảm được thuốc sản xuất trong nước đáp ứng được 70% trị giá tiền thuốc vào năm 2015 và 80% vào năm 2020, trong đó thuốc thuộc danh mục: thuốc thiết yếu, phục vụ cho các chương trình y tế quốc gia đáp ứng khoảng 90% nhu cầu sử dụng.
b) Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học bao gồm: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai và sản xuất thử nghiệm các nguyên liệu làm thuốc phục vụ phát triển công nghiệp hoá dược và đáp ứng yêu cầu nguyên liệu sản xuất thuốc trong nước.
c) Xây dựng và phát triển các nhà máy hoá dược nhằm sản xuất và cung cấp nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp bào chế thuốc, bảo đảm đáp ứng được 20% nhu cầu nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp bào chế thuốc vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
d) Phát huy tiềm năng thế mạnh về dược liệu và thuốc y học cổ truyền, đẩy mạnh công tác quy hoạch, nuôi trồng và chế biến dược liệu, xây dựng ngành công nghiệp bào chế thuốc từ dược liệu và thuốc y học cổ truyền trở thành một phần quan trọng của ngành dược phẩm Việt Nam, bảo đảm số lượng thuốc có nguồn gốc từ dược liệu và y học cổ truyền chiếm 30% số thuốc được sản xuất trong nước vào năm 2015 và 40% vào năm 2020.
2.Về xây dựng mô hình hệ thống cung ứng thuốc
Xây dựng và phát triển hệ thống lưu thông phân phối và cung ứng thuốc từ trung ương đến địa phương nhằm chủ động điều tiết ổn định thị trường thuốc, phục vụ tốt công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm mọi người dân có nhu cầu đều có thể tiếp cận được với nguồn thuốc có chất lượng và giá cả hợp lý.
II. Giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam với dược phẩm ngoại nhập
1. Giải pháp từ các cấp quản lý
Để có thể phát triển dược phẩm trong nước tăng khả năng cạnh tranh với dược phẩm ngoại thì trước hết cần đề cập đến vai trò của các cấp quản lý bởi ảnh hưởng của các cấp này là rất lớn: Trên thực tế, chỉ có Nhà nước mới có thể đưa ra các chính sách đúng đắn tạo môi trường thuận lợi để phát triển ngành dược, chỉ có Nhà nước mới có khả năng điều tiết thị trường kiểm soát việc nhập khẩu thuốc ngoại vào trong nước và cũng chỉ có Nhà nước mới có thể đầu tư ngân sách giúp các doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư cho phát triển sản phẩm…Muốn vậy Nhà nước cũng cần có sự trợ giúp đắc lực từ cơ quan quản lý chuyên môn đó chính là Bộ Y tế. Vì vậy việc đưa ra những giải pháp về cơ chế quản lý là rất quan trọng đặc biệt với các doanh nghiệp trong nước.
1.1 Giải pháp từ Chính phủ
1.1.1 Xây dựng đồng bộ, rà soát và hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước về dược phẩm
Để hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước về dược phẩm trước hết Nhà nước cần phải nghiên cứu, điều tra, dự báo về thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh dược phẩm tại thị trường trong nước cũng như thực trạng công tác quản lý của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước cũng cần rà soát lại các chính sách chưa hợp lý để kịp thời bổ sung hoặc sửa đổi như chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu dược phẩm để đảm bảo tính đồng bộ và cung ứng thuốc hợp lý cho thị trường trong nước.
Dược phẩm là hàng hoá đặc biệt có hạn sử dụng và liên quan trực tiếp đến sức khoẻ con người, đồng thời nó cũng là hàng hoá thiết yếu cho mọi người dân. Vì vậy để nâng cao hiệu quả trong quản lý, Nhà nước cần xây dựng đồng bộ chính sách hỗ trợ đầu tư, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, chính sách cạnh tranh lành mạnh, chính sách tiêu dùng, chính sách nhập khẩu, chính sách hội nhập trong lĩnh vực dược,…
Song song với các chính sách trên thì các chính sách về tài chính tiền tệ, chính sách về thuế, các chính sách xã hội khác phải được xây dựng đồng bộ và có tác dụng tương hỗ các chính sách về thương mại. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần xây dựng các chính sách về đào tạo nhân lực dược, chính sách nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực dược, chính sách phát triển thuốc Đông dược
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngành dược: Mặc dù Luật dược đã ra đời vào 6/2005 tuy nhiên hệ thống pháp luật liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Điều lệ thuốc phòng chữa bệnh cho người, Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân, hệ thống Nghị định, Quyết định, Thông tư liên quan còn thiếu tính cụ thể và đồng bộ, vì vậy cần phải được rà soát lại để bổ sung, sửa chữa hoặc hợp nhất luật sao cho phù hợp với tình hình hiện nay. Song song với vấn đề này thì khi xây dựng luật, văn bản quy phạm pháp luật, quy chế chuyên môn về dược còn cần chú ý đến vấn đề hội nhập sao cho phù hợp với quy định pháp luật chung của khu vực và thế giới.
1.1.2. Tăng cường điều tiết thị trường dược phẩm cho phù hợp
Trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay khi ngày càng có nhiều hãng dược phẩm nước ngoài vào Việt Nam tham gia sản xuất kinh doanh thì việc nảy sinh những vấn đề tiêu cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh thuốc như chạy theo lợi nhuận, độc quyền, tranh mua, tranh bán, đầu cơ tích trữ, giá thuốc biến động…là điều dễ hiểu. Vì vậy để hạn chế những tồn tại nêu trên, Nhà nước cần có sự can thiệp để điều tiết thị trường. Nhà nước có thể điều tiết thị trường thuốc bằng nhiều cách khác nhau, các công cụ kinh tế vĩ mô và chính sách của Nhà nước hoặc Nhà nước với tư cách là nhà công nghiệp trực tiếp đầu tư vào quá trình sản xuất, kinh doanh để tạo ra nguồn thuốc điều tiết thị trường. Trong thực tế Nhà nước kết hợp cả hai phương pháp trên để điều tiết thị trường thuốc sản xuất trong nước và thuốc nhập khẩu.
Nhà nước điều tiết thị trường dược phẩm bằng chính sách vĩ mô và công cụ vĩ mô
Chính sách vĩ mô để điều tiết thị trường dược phẩm là việc Nhà nước dùng các phương pháp gián tiếp không can thiệp vào hoạt động cá thể của doanh nghiệp mà thông qua thị trường để tác động vào doanh nghiệp. Bên cạnh chính sách thuế, chính sách tín dụng là công cụ để điều tiết thị trường dược phẩm nhập khẩu thì Nhà nước còn sử dụng chính sách trợ giá, chính sách ưu đãi đầu tư sản xuất trong nước nhằm làm cho kế hoạch của doanh nghiệp phù hợp với kế hoạch phát triển của ngành dược đồng thời thu hút vốn, khả năng về công nghệ, kĩ thuật, trình độ quản lý từ nước ngoài, trong nước để nâng cao hiệu quả hiệu quả sản xuất kinh doanh thuốc. Để việc điều tiết của Nhà nước phát huy tác dụng thì hệ thống pháp luật phải kết hợp được với các yếu tố như phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,…và các cơ quan chuyên ngành như cơ quan y tế thiết lập đồng bộ hệ thống thị trường như thị trường nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, thị trường sản phẩm.
Công cụ vĩ mô: Quy hoạch, Kế hoạch phát triển ngành dược là những công cụ vĩ mô để Nhà nước điều tiết thị trường dược phẩm. Vì vậy để nâng cao vai trò điều tiết của thị trường thì Nhà nước cần xây dựng quy hoạch phát triển ngành dược bao gồm quy hoạch về phát triển công nghiệp dược, quy hoạch mạng lưới phân phối thuốc.
Nhà nước tham gia điều tiết thị trường với vai trò là nhà đầu tư sản xuất kinh doanh dược phẩm góp phần phát triển dược phẩm sản xuất trong nước
Bên cạnh việc dùng chính sách vĩ mô, công cụ vĩ mô để điều tiết thị trường, Nhà nước còn là nhà công nghiệp trực tiếp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thuốc. Trước hết là việc Nhà nước lựa chọn doanh nghiệp Nhà nước để đầu tư sản xuất, kinh doanh thuốc. Trên cơ sở này, Nhà nước có thể tự chủ được nguồn thuốc điều tiết thị trường khi có biến động như độc quyền, giá thuốc tăng cao so với giá trị của thuốc. Để thực hiện tốt vai trò trên Nhà nước cần có một số biện pháp sau:
+ Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, hoàn thiện tổ chức sản xuất, quản lý của doanh nghiệp Nhà nước.
+ Phân định rõ vai trò quản lý của Nhà nước và quản lý kinh doanh.
+ Đổi mới và hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư, mở rộng quyền tự chủ, đổi mới tổ chức quản lý nội bộ doanh nghiệp theo mô hình: Hội đồng quản trị kết hợp với việc xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của giám đốc điều hành. Lựa chọn vùng đầu tư, danh mục thuốc đầu tư và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất thuốc đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu thuốc mà những loại thuốc này doanh nghiệp Việt Nam sản xuất được.
1.2. Giải pháp từ ngành dược phẩm
1.2.1. Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành dược
Quy hoạch phát triển ngành dược phải đạt được mục tiêu là đầu tư phát triển ngành dược không tràn lan, có trọng điểm, huy động được nguồn vốn, phát huy được tối đa công suất máy móc, trình độ công nghệ. Đồng thời đảm bảo được yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế cụ thể là nâng cao năng lực cạnh tranh của thuốc sản xuất trong nước với thuốc nhập khẩu và tiến đến xuất khẩu. Quy hoạch mang lại định hướng cho doanh nghiệp lựa chọn nơi sản xuất, kinh doanh, quy mô và chủng loại thuốc để đầu tư.
Việc xây dựng và quy hoạch phát triển ngành dược mang tính định hướng và phải dựa trên cơ sở khoa học, có tính khả thi áp dụng vào thực tế. Trước hết, Cục quản lý dược Việt Nam cần phải nghiên cứu, khảo sát, điều tra về thực trạng hệ thống sản xuất, kinh doanh phân phối thuốc cũng như thực trạng về công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực này để thu thập số liệu thống kê về cơ sở hình thành nghề dược, cơ cấu, loại hình doanh nghiệp theo chức năng; Quy mô doanh nghiệp, vốn, máy móc, trang thiết bị và trình độ công nghệ; Tổ chức bộ máy, trình độ và năng lực đội ngũ quản lý, cán bộ chuyên môn, sản lượng hàng năm, doanh số sản xuất, buôn bán; Số lượng chủng loại mặt hàng, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp; phân bố mạng lưới cung ứng và sản xuất thuốc của doanh nghiệp; ý thức chấp hành pháp luật, quy chế chuyên môn của doanh nghiệp.
Bên cạnh các chính sách quy hoạch ngành dược thì kế hoạch phát triển ngành dược cũng phải đạt được mục tiêu là định hướng phát triển ngành sao cho cân đối, phải có các biện pháp bảo đảm, cân đối tổng cung và tổng cầu để định hướng cho sự vận động của thị trường thuốc. Đồng thời phải xây dựng được các kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Trên cơ sở kế hoạch phát triển ngành dược đã được định hướng mang tính chiến lược doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho đơn vị mình. Việc tiến hành theo quy trình trên vừa đảm bảo được tính tự chủ của doanh nghiệp vừa phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành.
1.2.2. Tăng cường quản lý hành nghề, đăng kí kinh doanh và chất lượng thuốc sản xuất trong nước và thuốc nhập khẩu
Hiện nay số lượng thuốc ngoại nhập khẩu vào Việt Nam là rất lớn trong đó tỉ lệ thuốc kém chất lượng được nhập khẩu vào Việt Nam chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Để có thể kiểm soát lượng thuốc ngoại nhập khẩu cũng như lượng thuốc sản xuất trong nước thì ngành dược phẩm Việt Nam mà cụ thể là Cục quản lý dược Việt Nam phải tăng cường quản lý hành nghề, đăng kí kinh doanh và chất lượng thuốc. Để có thể làm tốt nhiệm vụ trên thì Cục quản lý dược Việt Nam cần thực hiện một số biện pháp sau:
Trước hết phải xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật cụ thể có tính đồng bộ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc. Trong nội dung văn bản ngoài các quy định chung, quy định tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề dược thì cần thiết phải đưa nội dung yêu cầu các cơ quan quản lý Nhà nước về dược ở địa phương và doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc công tác báo cáo và đây cũng là tiêu chí để đánh giá hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về dược ở địa phương. Trước khi ban hành văn bản nhất thiết phải tổ chức lấy ý kiến của cơ quan liên quan, ý kiến của doanh nghiệp, của người kinh doanh dể bảo đảm tính khả thi của văn bản, văn bản phải được ban hành đồng thời với luật, nghị định đúng theo thời gian quy định và phải tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung và pháp chế hoá.
Sau khi văn bản được ban hành, Cục phải chủ động triển khai tổ chức thực hiện. Để thống nhất việc thực hiện văn bản trên toàn quốc phải tiến hành phổ biến văn bản đồng thời thu nhận ý kiến, giải đáp giúp đỡ người kinh doanh phát triển đúng hướng. Phải chủ động bổ sung các vấn đề mới sao cho chất lượng văn bản ngày càng được hoàn chỉnh và sát với thực tế.
Bên cạnh việc tăng cường quản lý về hành nghề dược thì công tác quản lý của ngành về chất lượng thuốc cũng cần phải được tăng cường đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tăng cường quản lý chất lượng thuốc bao gồm:
Phối hợp với các Viện kiểm nghiệm chất lượng thuốc để đảm bảo kiểm tra thường xuyên chất lượng thuốc sản xuất trong nước và thuốc nhập khẩu. Nghiêm túc và triệt để trong việc rút sổ đăng kí, thu hồi thuốc, huỷ thuốc không đạt chất lượng sản xuất trong nước và nhập khẩu.
Ban hành các văn bản pháp quy về quản lý chất lượng thuốc phù hợp với các tiêu chuẩn mà Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra.
1.2.3. Thường xuyên công bố danh mục thuốc thiết yếu và thuốc hiếm
Việc ban hành danh mục thuốc thiết yếu và thuốc hiếm không chỉ giúp Nhà nước quản lý tốt việc nhập khẩu thuốc, tiến hành nhập khẩu những loại thuốc mà trong nước chưa sản xuất được, thuốc hiếm mà còn giúp các doanh nghiệp định hướng sản phẩm của mình sản xuất những loại thuốc đang có nhu cầu cao trong nước. Cục quản lý dược Việt Nam cần chủ động đưa ra danh mục các loại thuốc này hàng năm để doanh nghiệp có thể nắm bắt và tổ chức sản xuất.
2. Giải pháp từ các doanh nghiệp
2.1 Nâng cao năng lực sản xuất
2.1.1 Thay đổi tư duy đầu tư và chuẩn bị tốt cơ sở pháp lý
Trong những năm vừa qua, nhìn chung dược phẩm Việt Nam vẫn còn phát triển manh mún lẻ tẻ, chạy theo thị trường. Vì vậy thay đổi tư duy về thị trường, thay đổi tư duy của nhà quản lí và thay đổi tư duy về cơ cấu sản phẩm là điều tất yếu để có thể tạo lập kế hoạch phát triển lâu dài, ổn định sản xuất.
Các doanh nghiệp phải khắc phục tình trạng đầu tư theo kiểu “mì ăn liền”, đầu tư không có quy hoạch không có định hướng gây trùng lắp, lãng phí và kém hiệu quả như hiện nay mà phải làm “ăn chắc, mặc bền” có tính đến chất lượng và đánh đúng nhu cầu. Muốn vậy, trước hết các doanh nghiệp cần điều tra khảo sát kĩ nhu cầu, tình hình sản xuất mặt hàng đó trên thị trường, ảnh hưởng của các chính sách quản lý và xác định được khả năng và vị trí của mình để đưa ra quyết định sản xuất, kinh doanh cho phù hợp.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị cho mình cơ sở pháp lý vững vàng để có thể chủ động trong sản xuất và cạnh tranh đặc biệt là vấn đề quyền sở hữu trí tuệ - vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất của doanh nghiệp. Với năng lực nghiên cứu còn nhiều yếu kém như hiện nay thì việc chủ động trong vấn đề quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Chủ động trong vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
+ Chủ động khai thác đón đầu các thuốc hết thời hạn bảo hộ sở hữu trí tuệ dưới dạng thuốc gốc, sản xuất thuốc gốc và khai thác thị trường ngách với nhóm dịch vụ hay nhóm sản phẩm có nhu cầu đặc biệt nhưng chưa có trong dòng sản phẩm chính của thị trường như : thuốc cai nghiện, thuốc chữa các bệnh hiếm gặp, thuốc chữa các loại sán…
+ Chủ dộng mua lại bản quyền của một số loại thuốc có nhu cầu cao tại Việt Nam hiện nay. Vấn đề này hiện nay đã được nhiều doanh nghiệp chủ động thực hiện. Trong thời gian vừa qua hãng ICA Pharmaceuticals - công ty 100% vốn Việt Nam đã mua lại nhãn hiệu và công nghệ bào chế (tại thị trường Đông Nam Á) thuốc Tobicom - một nhãn hiệu thuốc nhỏ mắt nổi tiếng thế giới của Hàn Quốc, thương hiệu và công nghệ sản xuất một số thuốc phụ thuộc nhập khẩu để sản xuất trong nước như thuốc tim mạch, tiểu đường, kháng virus, điều trị HIV…Đây là một dấu hiệu tốt mà các doanh nghiệp trong nước cần phát huy.
Các doanh nghiệp cũng cần chủ động trong việc tìm hiểu về luật cạnh tranh và sử dụng các dịch vụ tư vấn pháp lí sớm để ngăn chặn các tranh chấp có thể xảy ra. Hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn chủ quan trong việc tìm hiểu về luật pháp kinh doanh. Số doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý là rất ít ỏi hầu hết là các doanh nghiệp chỉ sử dụng dịch vụ này khi có tranh chấp xảy ra. Điều này vừa không hiệu quả mà còn gây tốn kém cho doanh nghiệp.
2.1.2. Tăng cường vốn đầu tư và đổi mới công nghệ
Nguồn vốn đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với dược phẩm Việt Nam. Hiện nay ngành dược Việt Nam đang ở trong một vòng luẩn quẩn đáng lo ngại là đầu tư thấp – hiệu quả thấp. Do không đủ vốn đầu tư nên doanh nghiệp không có khả năng đầu tư cho cơ sở vật chất, kĩ thuật, đào tạo nhân lực, đổi mới công nghệ dẫn đến chất lượng sản phẩm kém, doanh thu thấp. Vòng luẩn quẩn ấy tiếp tục tiếp diễn làm hạn chế khả năng phát triển của các doanh nghiệp. Vì vậy việc tạo ra nguồn vốn và chủ động huy động vốn đầu tư là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp dược phẩm Việt Nam. Các doanh nghiệp có thể tăng vốn đầu tư bằng cách:
+ Huy động từ nguồn vốn trong nước bao gồm: Vốn tự có của doanh nghiệp, vốn ngân sách Nhà nước, vốn vay của dân, vốn vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước và vốn vay ngân hàng, vốn khi cổ phần hoá…
+ Huy động từ vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: vốn đầu tư nước ngoài, vốn vay hỗ trợ ODA và vốn vay trực tiếp nước ngoài.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành liên doanh trực tiếp với các hãng dược phẩm nước ngoài. Đây được coi là một trong những phương pháp huy động vốn có hiệu quả nhất vì ngoài vốn huy động được các doanh nghiệp còn được chuyển giao các công nghệ và kĩ thuật tiên tiến từ nước ngoài thúc đẩy sản xuất hiệu quả hơn. Muốn liên kết thành công các doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động hơn trong việc hợp tác, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến kinh doanh, chủ động nắm bắt thông tin và tạo được lòng tin với các doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác, các doanh nghiệp nội địa cũng có thể gọi vốn đầu tư từ Việt kiều, từ người thân các bộ công nhân viên chức trong các doanh nghiệp dược ở các địa phương ở nước ngoài có tình cảm với quê hương, dân tộc vừa bỏ vốn đầu tư vừa tìm nguồn nguyên liệu tiên tiến về xây dựng đất nước. Đây cũng là một biện pháp rất đáng được lưu ý vì hiện nay số Việt kiều ở nước ngoài là khá lớn trong đó có đông đảo đội ngũ dược sĩ đang sống và công tác ở nước ngoài.
Đổi mới công nghệ:
Muốn nâng cao hiệu quả cũng như năng lực sản xuất đáp ứng được các tiêu chuẩn về Sản xuất thuốc tốt (GMP), Bảo quản thuốc tốt (GSP),…thì các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới công nghệ mua sắm máy móc trang thiết bị đồng bộ công suất phù hợp cần thiết đặc biệt nên quan tâm đến trang thiết bị kiểm nghiệm, kiểm soát quá trình, trang thiết bị ở các cửa hàng đề bảo quản thuốc. Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm kiếm nguồn hàng có chất lượng tốt, giá thành phải chăng để giảm chi phí tiết kiệm vốn đầu tư.
2.1.3. Chủ động tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất
Để đảm bảo được nguồn nguyên liệu cho sản xuất, các doanh nghiệp phải chủ động tìm nguồn cung ứng nguyên liệu ổn định cho sản xuất bằng cách:
+ Đầu tư nuôi trồng vùng dược liệu của doanh nghiệp phục vụ cho sản xuất. Việc đầu tư khu nuôi trồng dược liệu sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn rất nhiều trong hoạt động sản xuất: nuôi trồng được các nguyên liệu theo cơ cấu sản phẩm, đảm bảo được chất lượng.
+ Chủ động hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp địa phương giàu tiềm năng dược liệu như vậy vừa đảm bảo về nguồn cung ứng vừa đảm bảo chất lượng dược liệu.
+ Chủ dộng nhập khẩu từ thị trường cung cấp dược liệu với giá rẻ chất lượng đảm bảo. Trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO như hiện nay thì đây là một việc làm không khó vì vậy các doanh nghiệp cần nắm bắt tốt thông tin để đưa ra lựa chọn cho mình.
2.1.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Hiện nay, Việt Nam vẫn rất thiếu nguồn nhân lực có tay nghề chuyên môn hoạt động trong ngành dược phẩm. Vì vậy doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực bằng cách:
+ Có kế hoạch huấn luyện thường xuyên nâng cao tay nghề đối với đội ngũ công nhân, trình dược viên. Đối với các nhà quản trị thì ngoài kiến thức chuyên môn còn đòi hỏi cập nhật kiến thức về thương mại, luật pháp.
+ Phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo cùng các Trường trung cấp, đại học Y, Dược trên toàn quốc để chủ động đào tạo đẩy đủ số lượng và chất lượng cho cán bộ dược trong tương lai, nâng số lượng cán bộ có trình độ đại học cao hơn.
+ Thực hiện đào tạo theo địa chỉ để khắc phục tình trạng mất cân đối nguồn nhân lực giữa các vùng đặc biệt là các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, tuyến huyện, tuyến xã.
2.1.5. Khai thác thông tin
Trong xã hội thông tin như hiện nay việc thu thập, cập nhật thông tin là hết sức quan trọng. Một công ty cần thu thập, lựa chọn, xây dựng kho dữ liệu cho mình để dễ dàng tiếp xũc với thông tin cần thiế. Trong kinh doanh ngành dược đòi hỏi phải có các thông tin sau đây:
+ Thông tin về đối thủ cạnh tranh
+ Thông tin về những phát minh, tiến bộ khoa học công nghệ
+ Thông tin về sản phẩm sắp hết thời gian bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
+ Thông tin về khách hàng…
Việc nắm bắt thông tin sẽ giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ, chủ động trong sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh và giảm được chi phí. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến những chính sách, kỉ cương nhằm bảo mật thông tin để tránh tình trạng rò rỉ thông tin gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Không chỉ chủ động trong việc thu thập thông tin các doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh việc hoàn chỉnh và cung cấp cho khách hàng những thông tin về doanh nghiệp, về sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo và đặc biệt là ở các bệnh viện, quầy bán lẻ thuốc để có thể tạo được những ấn tượng tốt cho khách hàng.
2.2 Giải pháp về sản phẩm
2.2.1 Đa dạng hoá chủng loại, mẫu mã sản phẩm
Một trong những điểm yếu của dược phẩm Việt Nam hiện nay là việc các doanh nghiệp chưa có khả năng sản xuất được các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị nên chúng ta vẫn phải tiến hành nhập khẩu một lượng lớn thuốc này. Bên cạnh đó, việc các doanh nghiệp nhập các dây chuyền sản xuất cùng một loại sản phẩm đã khiến cho sản xuất trong nước bị trùng lắp hiệu quả không cao. Chính vì thế việc đa dạng hoá chủng loại và mẫu mã sản phẩm là rất cần thiết.
Các doanh nghiệp cần tăng cường ngân sách cho việc nghiên cứu tìm ra các chủng loại thuốc mới phù hợp với nhu cầu trong nước đặc biệt là việc nghiên cứu sản xuất ra các loại thuốc đông y, thuốc có nguồn gốc dược liệu có hiệu quả cao trong phòng chữa bệnh. Việc nghiên cứu và tìm ra các chủng loại thuốc mới có nguồn gốc dược liệu hiện nay đã được nhiều doanh nghiệp triển khai áp dụng và có kết quả cao. Đây là một hướng đi phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vừa tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước vừa không có va chạm về quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ. Muốn vậy thì các doanh nghiệp phải dành một khoản chi phí đích đáng cho nghiên cứu và phát triển như hầu hết các công ty dược phẩm trên thế giới đã và đang làm. Doanh nghiệp cũng có thể chọn một hướng đi khác là tiếp cận công nghệ, sản xuất nhượng quyền, mua bản quyền của các công ty đa quốc gia, các sản phẩm có hàm lượng cao uy tín lâu năm để sản xuất.
Các doanh nghiệp cũng cần mở rộng sản xuất các loại thuốc đặc trị bởi đây cũng là yếu tố quyết định để phát triển dược phẩm trong nước. Chỉ khi thuốc đặc trị của Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường thì dược phẩm Việt Nam mới được coi là thực sự hoàn thiện và có khả năng lấn áp thuốc ngoại nhập. Trong điều kiện các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế thì việc sản xuất các loại thuốc trên phải dựa trên cơ sở là thực tế trình độ máy móc, trình độ tay nghề của các nhà máy.
Tuy nhiên có một vấn đề đáng lưu ý là bên cạnh việc đa dạng hoá sản phẩm mỗi doanh nghiệp cũng cần xác định rõ sản phẩm chủ đạo của mình, sản phẩm làm nên thương hiệu cho doanh nghiệp để tiến hành phát triển theo trọng tâm tránh việc đầu tư dàn trải nhưng không có hiệu quả.
Bên cạnh đó việc chuyên nghiệp hoá mẫu mã sản phẩm cũng là điều rất quan trọng. Hiện nay, nhiều công ty dược phẩm Việt Nam đã tiến hành nhái mẫu mã của nhau và của các công ty nước ngoài. Đây không phải là một việc làm hay vì như thế sản phẩm sẽ không tạo được ấn tượng riêng cho khách hàng hơn nữa còn dễ xảy ra tranh chấp. Vì thế mỗi công ty cần đầu tư thiết kế và phối hợp với các công ty sản xuất hoặc tiến hành nhập khẩu các loại bao bì có mẫu mã đẹp, phù hợp với tác dụng của thuốc và giúp bảo quản thuốc tốt.
2.2.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định đến sự phát triển của sản phẩm. Nhìn chung dược phẩm Việt Nam vẫn được đánh giá là có chất lượng thấp hơn dược phẩm ngoại nhập. Vì vậy để cạnh tranh thì các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách:
Tìm kiếm các nguồn dược liệu có chất lượng cao. Các doanh nghiệp chỉ nên lựa chọn những nhà cung ứng vật liệu có uy tín đạt các tiêu chuẩn GMP hay tiêu chuẩn ISO để mua nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến sử dụng các tá dược vì nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Chủ động trong việc sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn thực hành sản xuất thuốc tốt (GMP), bảo quản thuốc tốt (GSP), tiêu chuẩn kiểm nghiệm thuốc tốt (GLP) để đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
2.2.3. Kiểm soát chi phí hạ giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm rẻ là một trong những lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp Việt Nam cần phát huy. Muốn kiểm soát chi phí hạ giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp phải kiểm soát được chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Muốn giảm chi phí biến đổi cần giảm chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công bằng cách:
+ Giảm giá thành nguyên liệu đầu vào bằng cách lựa chọn nhà cung ứng nguyên vật liệu giá rẻ, giảm tỉ lệ hao hụt và giảm lượng tồn kho trong quá trình sản xuất.
+ Tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ tại các địa phương để giảm chi phí sản xuất
Muốn giảm chi phí cố định thì các doanh nghiệp phải tận dụng được triệt để công suất thiết bị, tăng sản lượng bằng cách tăng năng suất lao động, giảm chi phí cố định.
2.2.4. Phát triển sản phẩm đông dược
Sản phẩm đông dược sẽ là một trong những thế mạnh của Việt Nam trong thời gian tới vì vậy việc tìm hướng đi cho sản phẩm này là rất cần thiết. Để phát triển các sản phẩm đông dược ngoài cố gắng, nỗ lực của Nhà nước thì các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất đông dược cũng cần có chiến lược phát triển hợp lý. Trước hết là tìm và phát triển nguồn nguyên liệu cho sản xuất sau đó các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học về thuốc Đông dược. Để phát triển sản phẩm đông dược, các doanh nghiệp nên thay đổi cách chế biến, bào chế với máy móc thiết bị nhằm bảo đảm tính trung thực của cây dược liệu, tiêu chuẩn hoá các sản phẩm đông dược, thiết kế bao bì đẹp và đầy mạnh hoạt động marketing cho sản phẩm. Nếu xuất khẩu được các sản phẩm đông dược ra thị trường nước ngoài thì sản phẩm này cũng sẽ có tiềm năng phát triển mạnh ở thị trường trong nước.
2.3. Xây dựng hệ thống phân phối mạnh
Vai trò của kênh phân phối trong việc phát triển sản phẩm là rất lớn. Một trong những giải pháp hữu hiệu để phát triển dược phẩm trong nước và cạnh tranh với dược phẩm ngoại nhập là việc phát triển và mở rộng kênh phân phối. Để làm tốt điều này các doanh nghiệp cần quan tâm đến những vấn đề sau:
Xây dựng một hệ thống phân phối mạnh, sâu rộng bao gồm việc tăng cường về số lượng và chất lượng hệ thống đại lí, nhà thuốc, trình dược viên. Với cơ cấu sản phẩm như hiện nay việc củng cố hệ thống phân phối, mở thêm nhiều kênh phân phối về vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới sẽ góp phần rất lớn cho việc giữ và mở rộng thị phần tăng doanh số bán ra của dược phẩm Việt Nam.
Để có thêm thị trường thêm khả năng tiêu thụ những thuốc chuyên khoa đặc trị các doanh nghiệp cũng nên tính đến hệ thống phân phối trực tiếp đến các bác sĩ, bệnh viện. Chính nhóm khách hàng này sẽ giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp rộng rãi đến người tiêu dùng. Muốn tiếp cận tốt nhóm khách hàng này doanh nghiệp cần nắm bắt tâm lý của họ và đẩy cao chi phí hoa hồng trong việc tiếp thị, phân phối.
Các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến xây dựng hệ thống phân phối nhóm sản phẩm, giá cả, chất lượng, hình thức phù hợp với khách hàng có thu nhập khá và cao ở các vùng thành thị vì đây cũng là nhóm khách hàng tiềm năng mà các doanh nghiệp trong nước chưa khai thác được hết.
Đối với các công ty chuyên về phân phối thuốc ở Việt Nam thì việc nâng cao tính chuyên nghiệp, công nghệ hiện đại và dịch vụ hậu mãi hoàn hảo để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp chuyên phân phối của nước ngoài tại Việt Nam là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này cần chủ động trong liên kết với các doanh nghiệp sản xuất thuốc Việt Nam để tham gia phân phối hạn chế việc phân phối lẻ tẻ không chuyên nghiệp như hiện nay.
Tiếp tục đầu tư vào hệ thống kho tàng, dịch vụ vận chuyển đáp ứng tốt yêu cầu bảo quản thuốc đảm bảo chất lượng thuốc phân phối.
2.4. Đẩy mạnh hoạt động marketing, xây dựng và quảng bá thương hiệu dược phẩm Việt Nam
Một trong những điểm mà doanh nghiệp Việt Nam chưa làm được hoặc làm chưa hiệu quả là việc đẩy mạnh hoạt động marketing, xây dựng quảng bá thương hiệu của mình. Hiện nay ngân sách của các doanh nghiệp chi cho vấn đề này còn rất hạn chế. Dược phẩm Việt Nam chưa được người tiêu dùng biết đến. Đây cũng là một trong những nguyên nhân lớn nhất khiến cho dược phẩm trong nước thua kém dược phẩm nhập khẩu. Để khắc phục tình trạng trên các doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Tăng cường các biện pháp tiếp thị quảng bá sản phẩm thuốc ở trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao hiểu biết cho người dân, tránh tư tưởng sính thuốc ngoại, biệt dược đắt tiền, đề cao tinh thần dân tộc, người Việt Nam sử dụng thuốc Việt Nam.
+ Đặt các áp phích quảng cáo và tiếp thị trực tiếp ở các bệnh viện và các đại lý nơi trực tiếp tiếp cận với người tiêu dùng, thường xuyên công bố những kết quả, thành tựu mà dược phẩm Việt Nam đã đạt được đến người tiêu dùng.
Để làm tốt những điều nêu trên mỗi doanh nghiệp cần phát triển bộ phận marketing với đội ngũ nhân viên giỏi chuyên làm nhiệm vụ thiết kế các áp phích, xây dựng các chương trình quảng cáo hay ấn tượng trên truyền hình. Đội ngũ trình dược viên giỏi cũng cần được tăng cường tại các bệnh viện, điểm bán lẻ thuốc.
Việc xây dựng thương hiệu phải trên cơ sở tăng cường chất lượng sản phẩm có như vậy sản phẩm mới có chỗ đứng lâu dài trên thị trường.
2.5 Đẩy mạnh liên kết
Qua phân tích ở trên có thể thấy hiện nay dược phẩm Việt Nam vẫn đang trong quá trình phát triển với tiềm lực còn nhiều hạn chế. Vì thế muốn đẩy mạnh cạnh tranh thì việc đẩy mạnh liên kết là một điều hết sức quan trọng và cần thiết. Chỉ có đẩy mạnh liên kết mới có thể phát huy sức mạnh của một khối thống nhất tăng cường khả năng cạnh tranh, còn nếu tiếp tục phát triển manh mún, lẻ tẻ như hiện nay thì ngành dược Việt Nam vẫn sẽ còn tồn tại nhiều bất cập. Việc đẩy mạnh liên kết bao gồm:
+ Liên kết giữa Cơ quan quản lý cấp Nhà nước, cấp Ngành với doanh nghiệp: Trên cơ sở tình hình phát triển của các doanh nghiệp hiện nay Nhà nước và Bộ Y tế cần có những chính sách phù hợp nhằm khuyến khích tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp có thể phát triển. Đặc biệt là việc tổ chức lại các doanh nghiệp sáp nhập các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, làm ăn không hiệu quả thành các doanh nghiệp có quy mô thích hợp mang lại lợi thế cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng nên chủ động đệ trình những vấn đề nổi cộm hiện nay để Nhà nước có hướng quản lý, giải quyết.
+ Liên kết giữa các doanh nghiệp: Việc liên kết giữa các doanh nghiệp bao gồm liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất với các doanh nghiệp sản xuất, các doanh nghiệp sản xuất với các doanh nghiệp phân phối, các doanh nghiệp sản xuất thuốc với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành liên quan như các doanh nghiệp hoá dược, các doanh nghiệp sản xuất bao bì dược…
Với các doanh nghiệp sản xuất ngoài việc sáp nhập để tăng quy mô, hình thành tập đoàn về dược phẩm thì các doanh nghiệp còn có thể liên kết, biến đổi chức năng hoạt động để hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ làm ăn không hiệu quả, không có khả năng cạnh tranh thì ngoài việc sáp nhập các công ty này có thể biến đổi chức năng hoạt động trở thành những vệ tinh thực hiện gia công một số công đoạn sản xuất mà họ có lợi thế trên cơ sở điều kiện cơ sở vật chất hiện tại cho các công ty lớn hơn.
Các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp phân phối cũng cần tăng khả năng liên kết để có thể chuyên nghiệp hoá hệ thống phân phối Việt Nam và tiến hành phân phối hiệu quả hơn.
Việc đẩy mạnh tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp trong các ngành liên quan là hết sức cần thiết để doanh nghiệp có thể đa dạng hoá sản phẩm, đảm bảo chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm.
+ Liên kết giữa nhà sản xuất và nhà cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Việc đẩy mạnh liên kết này không chỉ giúp doanh nghiệp ổn định đầu vào mà còn giúp phát triển ngành nuôi trồng dược liệu ở Việt Nam
KẾT LUẬN
Có thể nói thị trường dược phẩm Việt Nam đang là một thị trường đầy tiềm năng, nếu biết khai thác tốt sẽ không những tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển mà còn tiết kiệm được một lượng lớn ngoại tệ nhập khẩu. Nhìn chung, ngành dược phẩm Việt Nam trong thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm tạo điều kiện phát triển. Ngành cũng đã có những bước phát triển tốt đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước và đang từng bước được hoàn thiện để thay thế dược phẩm ngoại nhập. Tuy nhiên với tiềm năng còn hạn chế nên việc cạnh tranh còn nhiều khó khăn. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược phát triển ngành là đến năm 2010 sản xuất trong nước đáp ứng được 60% trị giá tiền thuốc và năm 2015 là 70% thì trong những năm tới đây toàn ngành nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng cần thực hiện các biện pháp cụ thể để nâng cao khả năng sản xuất có như vậy mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh từng bước thay thế hàng ngoại nhập và thực hiện được mục tiêu đã đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Michael Poter - Chiến lược cạnh tranh theo lý thuyết của Michael Porter - Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh (2005)
Bộ Y tế - Văn bản Hội nghị ngành Dược năm 2008 (2008)
Bộ Y tế -Viện kiểm nghiệm thuốc Trung ương. Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra giám sát chất lượng thuốc năm 2007. (2007)
Bộ Y tế - Hội nghị tổng kết công tác dược năm 2002 và triển khai công tác dược năm 2003 (2003)
Bộ Y tế - Đề án “Tăng cường quản lý Nhà nước về dược” (2005)
Bộ Y tế - Hội nghị tăng cường sử dụng thuốc trong nước (2005)
Bộ Y tế - Cục quản lý dược Việt Nam - Dự thảo báo cáo Công tác quản lý Nhà nước về dược năm 2004 và Kế hoạch công tác năm 2005 (2005)
Bộ Y tế - Báo cáo tổng kết quy hoach tổng thể đầu tư phát triển ngành dược Việt Nam thời kì 1996 – 2010 (1996)
PGS, TS. Lê Văn Truyền - Đón đầu sản xuất Supergeneric từ các hoạt chất hết bản quyền - Một hướng đi cho công nghiệp dược Việt Nam (2005)
Bộ Y tế - Ngành dược 60 năm cách mạng Việt Nam xây dựng và trưởng thành 1945 - 2005 - Nhà xuất bản Y học (2005)
Bộ Y tế - Các văn bản quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dược - Nhà xuất bản Y học (2002)
Luật dược của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 34/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005
Nghị đinh Số 79/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật dược.
Bộ y tế - Niên giám thống kê Y tế 2004, 2005, 2006.
Bộ Y tế - Cung ứng thuốc thiết yếu chăm sóc sức khoẻ cho đối tượng chính sách, người nghèo, vùng nghèo - Nhà xuất bản Y học (2005)
Các trang web:
Trang web của Cục quản lý dược Việt Nam www.dav.gov.vn
Trang web của Hiệp hội sản xuất kinh doanh dược Việt Nam www.vnpca.org.vn
www.thuoc.net ; www.vietbao.com.vn ; www.wikipedia.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dược phẩm Việt Nam – Thực trạng phát triển và giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh với dược phẩm ngoại nhập.doc