MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
DANH MỤC BẢNG BIỂU .4
Lời mở đầu .1
Chương I: Một số vấn đề về thương mại điện tử và thanh toán điện tử .3
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thương mại điện tử 3
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử 3
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thương mại điện tử .6
1.1.3. Phân loại thương mại điện tử 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thanh toán điện tử . 8
1.2.1. Khái niệm về thanh toán điện tử .8
1.2.2. Đặc điểm của thanh toán điện tử 9
1.2.3. Phân loại các hình thức thanh toán điện tử 9
Chương II: Thực trạng thanh toán điện tử và sử dụng thẻ ATM tại VN tại
Việt Nam .14
2.1 Thực trang phát triển của thanh toán điện tử tại Việt Nam 14
2.1.1 Tiền đề cho việc phát triển thanh toán điện tử tại Việt Nam 14
2.1.2 Các loại hình thanh toán điện tử xuất hiện tại Việt Nam .17
2.1.3 Kết quả mang lại từ việc ứng dụng thanh toán điện tử tại Việt Nam giai
đoạn 2006- 2010 .20
2.2 Thực trang sử dụng thẻ ATM taị Việt Nam . 23
2.2.1.Sự xuất hiện của ATM tại Việt Nam 23
2.2.2 Sự phát triển của thẻ ATM tại Việt Nam .23
2.2.3 Hạn chế còn tồn tại của công cụ thanh toán ATM tại Việt Nam .25
Chương III: Giải pháp cho thanh toán điện tử tại Việt Nam .29
sử dụng mô hình e-ATM .29
3.1 Xây dưng mối liên kết vi mô cho việc sử dụng mô hình thanh toán e-ATM tại Việt
Nam. . 29
3.1.1 Sơ đồ hoạt động của thẻ e-ATM. 29
3.1.2 Cách thức sử dụng thẻ ATM 30
3.1.2.1 Cách thức đăng kí 30
3.1.2.2 Cách thức tính phí khi sử dụng: .34
3.1.2.3 Cách thức phòng chống gian lận 37
3.2 Xây dựnh mối liên kết vĩ mô cho việc sử dụng công cụ thanh toán e- ATM tại Việt
Nam. . 39
3.2.1 Xây dựng mối liên kết liên ngân hàng trong thị trường thẻ ATM. 39
3.2.2 Xây dựng hệ thống lưu trữ thông tin khách hàng cho hệ thống liên ngân
hàng. .40
3.3 Hiệu quả dự kiến của việc ứng dụng e- ATM trong thanh toán trong nước 41
3.3.1 Hiệu quả vi mô 41
3.3.2 Hiệu quả vĩ mô 45
Kết luận 47
Danh mục tài liệu tham khảo .48
Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang ngày càng hội nhập sâu và rộng
hơn với nên kinh tế thế giới. Điều đó đã kéo theo sự xuất hiện của những loại
hình kinh doanh mới, tiêu biểu nhất có thể kể đến đó là Thương mại điện
tử(TMĐT). Theo như Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2008, TMĐT đã và
đang được các doanh nghiệp ứng dụng rộng rãi và đạt những hiệu quả bước
đầu. Cùng với xu hướng đó, các tổ chức đào tạo chính quy cũng bắt đầu đẩy
mạnh hoạt động giảng dạy về TMĐT. Qua đó ta có thể thấy, TMĐT đang
ngày được nâng cao được vai trò của mình thông qua những đóng góp không
nhỏ của nó cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của TMĐT đó là sự xuất hiện của những phương
thức thanh toán điện tử hoàn toàn mới so với thói quen thanh toán truyền
thống của người Việt Nam. Các phương thức thanh toán tại Việt Nam hiện
nay chủ yếu chỉ đang thực hiện đáp ứng nhu cầu thanh toán trên một phạm vi
hoặc tính chất nhất định. Trong số đó, loại hình thanh toán bằng ATM đang
được ngày càng phổ biến,khai thác nhiều hơn những tiện ích mà nó mang lại
nhằm đẩy nhanh quá trình thanh toán ví dụ như là khách hàng có thể chuyển
một khoản tiền lớn từ tài khoản này đến tài khoản kia trong một ngân hàng
mà không cần phải vận chuyển tiền mặt và thực hiện thao tác này tại ngân
hàng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn mà nó mang lại, phương thức
thanh toán qua ATM vẫn còn rất nhiều hạn chế. Điều này đã thúc đẩy cần
phải cho ra đời một loại thanh toán để khắc phục những nhược điểm của
ATM đó là e-ATM. Nhờ đó, nhà cung cấp dịch vụ có thể giảm được chi phí
phát hành các loại thẻ cũng như là chi phí duy trì các cọc thanh toán ATM
vốn là một trong những nguyên nhân gây ra tranh cãi về việc có nên gia tăng
phí dịch vụ trong khi rút tiền qua cọc ATM hay không. Đồng thời, các khách
hàng cũng vừa có thể tiết kiệm chi phí của mình, vừa tiết kiệm được chi phí
thời gian khi phải đến các quầy giao dịch tại các ngân hàng hay tới các cọc
ATM để thực hiện thanh toán. Không những thế, bằng việc sử dụng loại hình
thẻ e- ATM, việc giao dịch của các loại thẻ khác nhau liên ngân hàng cũng
được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả hơn thông qua trung tâm chuyển
mạch của thẻ ATM là Banknetvn và đồng thời chi phí giao dịch này nhờ đó
cũng được giảm đi. Qua đó, có thể thấy rằng việc nghiên cứu thực trạng của
vấn đề và đưa ra một hình thức thanh toán e- ATM cải tiến và hiệu quả hơn
cho người Việt Nam là hết sức quan trọng và cần thiết đảm bảo cho sự phát
triển bền vững và hiệu quả của TMĐT tại Việt Nam trong những năm sắp tới.
Chính vì những lý do đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“e-ATM – Giải pháp cho công cụ thanh toán mạnh và phổ biến trong thanh
toán điện tử tại Việt Nam”.
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2616 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài E - ATM Giải pháp cho công cụ thanh toán mạnh và phổ biến trong thanh toán điện tử tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề phía người khách hàng, Internet Banking cho phép
khách hàng tiết kiệm được chi phí thời gian và tiền bạc vì chỉ cần một máy
tính nối mạng, khách hàng đã có thể thực hiện các thao tác như kiểm tra số dư
tài khoản, nhật ký chi tiêu, chuyển khoản, thanh toán hóa đơn. Chính vì lý do
như vậy, bản thân các ngân hàng cũng đang nỗ lực nâng cao khả năng quản lý
cũng như cơ sở hạ tầng để có thể mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng
và các tiện ích của Internet Banking. Trong những năm tới, Inernet Banking
sẽ trở thành một công cụ để các ngân hàng cạnh tranh trong thị trường và trở
nên phổ biến hơn trong thanh toán điện tử tại Việt Nam.
b/ NgânLượng.vn
NgânLượng.vn là dịch vụ thanh toán điện tử (thanh toán điện tử) cho
thương mại điện tử đầu tiên tại Việt Nam cả về hoạt động thị trường, số
lượng người dùng và tổng lưu lượng giao dịch thanh toán. Là một trong
những sản phẩm của công ty PeaceSoft, thừa kế và phát huy được bề dày kinh
nghiệm lâu năm trong lĩnh vực TMĐT từ liên doanh ChợĐiện Tử - eBay, nó
cho phép các cá nhân và doanh nghiệp gửi & nhận tiền thanh toán tức thời
cho các giao dịch trên Internet một cách an toàn, tiện lợi và phổ biến.
NgânLượng.vn hoạt động theo mô hình ví điện tử, trong đó mỗi người
dùng đăng ký sở hữu một tài khoản ví loại cá nhân hoặc doanh nghiệp (dành
cho các tổ chức có tư cách pháp nhân). Tài khoản ví sau đó có thể liên kết với
một tài khoản ngân hàng để người mua nạp tiền (trước khi thanh toán) và
người bán rút tiền (sau khi nhận thanh toán) một cách tiện lợi. Sự hỗ trợ từ
các nhà đầu tư tài chính và công nghệ hàng đầu thế giới bao gồm tập đoàn
IDG (Mỹ) và tập đoàn SoftBank (Nhật) cùng liên doanh chiến lược với tập
19
19
đoàn eBay (Mỹ) giúp NgânLượng.vn có đủ khả năng đảm bảo tài chính cho
toàn bộ các giao dịch thanh toán điện tử tại thị trường VN.
Hình 2.1. Mô hình hoạt động thanh toán điện tử của
NgânLương.vn
nguồn
Hình 3. Quy trình giao dịch “thanh toán tạm giữ”
nguồn
NgânLượng.vn đã đầu tư xây dựng một hệ thống cổng thanh toán liên
thông rộng khắp với các ngân hàng và các tổ chức tài chính như
20
20
VietComBank, Đông Á, VietinBank, TechComBank, VISA/MASTER. Điều
đó góp phần đưa NgânLượng.vn trở thành công cụ thanh toán điện tử được ưa
dùng và chấp nhận rộng rãi . Ngoài ra, NgânLượng.vn được coi là công cụ
thanh toán xuyên biên giới đầu tiên và duy nhất tại VN thông qua eBay.vn,
cổng giao dịch TMĐT mua & bán lẻ giữa VN với 39 quốc gia khác trên thế
giới trong mạng lưới của tập đoàn eBay.
Kể từ khi hoạt động tháng 4 năm 2009, NgânLượng.vn đã nhanh chóng
xác lập vị trí dẫn đầu thị trường với hơn 100.000 tài khoản ví, trên 2.000
người bán hàng (website hỗ trợ) và chiếm khoảng 50% lưu lượng thanh toán
điện tử cho thương mại điện tử tại VN. Sau 1 năm hoạt động, NgânLượng.vn
đã được bầu chọn là dịch vụ ví điện tử ưa thích nhất trong một cuộc khảo sát
do Hiệp hội thương mại điện tử VN (VECOM) và Sở công thương TP.HCM
tổ chức đầu năm 2010.
Mặc dù vậy việc ngân lượng sử dụng thẻ thanh toán quốc tế (visa,
master) trong quá trinh nạp tiền vào gây nên những hạn chế về số lượng tài
khoản người dùng và làm tăng chi phí khi đăng kí tài khoản ban đầu.
Tại thời điểm hiện tại, thị trường thương mại điện tử Việt Nam đã xuất
hiện nhiều công cụ thanh toán điện tử trong đó phổ biến nhất là hai công cụ
được trình bày ở trên. Tuy nhiên, số lượng người sử dụng mỗi công cụ mới
chỉ đạt tối đa khoảng 200.000 trong số lượng hơn 20 triệu người sử dụng
Internet. Điều đó cho thấy sự hạn chế của các công cụ thanh toán tại Việt
Nam hiện nay.
2.1.3 Kết quả mang lại từ việc ứng dụng thanh toán điện tử tại Việt
Nam giai đoạn 2006- 2010
Thương mại điện tử đang ngày càng phát triển ở Việt Nam và làm thay
đổi thói quen của người tiêu dùng đồng thời tạo ra cơ hội cho các doanh
nghiệp triển khai nhiều hình thức giới thiệu và phân phối hàng hoá đến người
dùng. Khảo sát mới nhất của công ty nghiên cứu thị trường Cimigo đưa ra
21
21
ngày 7/4 năm 2010 cho thấy mua sắm điện tử tăng trưởng 12% trong giai
đoạn từ năm 2007 ở TPHCM và Hà Nội. Ngân hàng điện tử đang dần trở nên
phổ biến với mức tăng trưởng từ 7% đến 11% ở Hà Nội và TPHCM trong
vòng ba năm (2007, 2008 và 2009). Số lượng người mua hàng trên các trang
đấu giá, mua sắm tăng lên hơn 40%.Mua sắm điện tử được sử dụng thường
xuyên hơn ở phía Bắc (Hà Nội và Hải Phòng) và chủ yếu phổ biến với nhóm
tuổi 15-35. Lượng người sử dụng Internet để mua sắm điện tử và sử dụng
ngân hàng điện tử cũng tăng theo thành phần kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước đã thiết lập được hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng, kết nối 63 tỉnh, thành phố với hiệu năng xử lý và quy trình nghiệp
vụ thanh toán hiện đại theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đáp ứng nhu cầu
thanh toán với dung lượng ngày càng cao của nền kinh tế. Bên cạnh đó, hệ
thống ngân hàng thương mại đã phát triển cả về quy mô và mạng lưới hoạt
động. Các ngân hàng đã thiết lập được hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking)
và hệ thống thanh toán nội bộ với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Đặc biệt là
ngành viễn thông, công nghệ thông tin đã thiết lập được hệ thống hạ tầng kỹ
thuật rộng khắp, đáp ứng tốt các điều kiện cần thiết để triển khai các dịch vụ
và phương tiện thanh toán điện tử trên toàn quốc.
Nhờ đó, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh
toán đã giảm mạnh qua các năm (giảm từ 31,6% năm 1991 đến nay chỉ còn
khoảng 15%).
Hoạt động thanh toán điện tử phục vụ cho việc thu, chi Ngân sách Nhà
nước đã được chú trọng triển khai, nhất là việc triển khai công tác hiện đại
hóa quy trình thu, nộp thuế giữa cơ quan thuế - Kho bạc Nhà nước – Hải quan
– Tài chính – các ngân hàng thương mại đã được hình thành. Bên cạnh đó,
dịch vụ trả lương qua tài khoản cũng được triển khai mạnh mẽ và đạt được
nhiều kết quả khả quan. Theo thống kê, đến cuối năm 2009 đã có 41,5% đơn
vị hưởng lương từ ngân sách Nhà nước với 1,44 triệu cán bộ, công chức nhận
22
22
lương qua tài khoản, chiếm 46% tổng số người hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước. Đây cũng là đội ngũ được đánh giá là hình mẫu trong việc thúc đẩy
thanh toán điện tử tại Việt Nam.
Đặc biệt, nhận thức, thói quen của các tổ chức, doanh nghiệp và một bộ
phận người dân trong xã hội về thanh toán điện tử đã có sự thay đổi tích cực,
các giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp, giữa các tổ chức kinh tế đã
được thực hiện chủ yếu qua ngân hàng. Các dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng đã
từng bước được triển khai phục vụ nhu cầu thanh toán của xã hội.
Thời gian vừa qua, sự phát triển của một số phương tiện và dịch vụ thánh
toán mới, tiện ích như Mobile banking, Internet banking, Ví điện tử đã xuất
hiện và đang dần đi vào cuộc sống, phù hợp với xu thế thanh toán của các
nước trong khu vực và trên thế giới. Theo thống kê của ngân hàng Nhà nước,
đến cuối năm 2009, đã có khoảng 70.000 Ví điện tử được mở, trong đó Công
ty VietUnion có số lượng Ví nhiều nhất đạt hơn 32.000 Ví. Giá trị giao dịch
qua Ví cũng được tăng dần theo thời gian. Các công ty cung cấp các dịch vụ
thanh toán này cũng đã chủ động và tích cực hợp tác với các ngân hàng
thương mại và các đơn vị kinh doanh thương mại điện tử.
Trong thời gian tới, ngân hàng Nhà nước tiếp tục xây dựng kế hoạch
thực hiện cụ thể cho từng địa bàn, phù hợp với đặc điểm tình hình và xu
hướng phát triển của từng địa phương với mục tiêu đến cuối năm 2010 có ít
nhất 55% tổng số đơn vị hưởng lương từ ngân sách Nhà nước thực hiện trả
lương qua tài khoản. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục quán triệt các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán triển khai tập trung nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng
và phát triển mạnh thanh toán điện tử trên cơ sở gia tăng các tiện ích phát
triển thanh toán điện tử, cụ thể như thanh toán hóa đơn sinh hoạt thường kỳ
như thanh toán tiền điện, tiền nước, điện thoại, Internet thông qua tài khoản
trả lương, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng máy POS tại các đơn vị chấp
23
23
nhận thẻ vì đây là một trong những giải pháp chiến lược mang tính đột phá
trong quá trình mở rộng, phát triển thanh toán điện tử tại Việt Nam.
2.2 Thực trang sử dụng thẻ ATM taị Việt Nam
2.2.1.Sự xuất hiện của ATM tại Việt Nam
Thanh toán qua thẻ được coi là giải pháp bước đầu cho hệ thống thanh
toán điện tử tại Việt Nam. Ứng dụng công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ
tầng cơ sở phục vụ cho thanh toán ngân hàng phát triển mạnh kể từ năm 2002.
Trong đó, công nghệ cho thanh toán thẻ là hoạt động được ưu tiên triển khai.
Lúc đầu chỉ có một số ngân hàng như ngân hàng ngoại thương Việt Nam,
ngân hàng công thương Việt Nam … tham gia phát hành thẻ ATM.
Ban đầu thẻ ATM chỉ có chức năng rút tiền đơn thuần do khi đó chưa có
cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của hệ thống thẻ trong sự phát triển của
các ngân hàng. Khi đó muốn sử dụng được các loại thẻ phải cần phải lập một
tài khoản ở ngân hàng cung cấp, mọi giao dịch qua thẻ được ghi lại trong tài
khoản này, và hầu như chỉ được rút tiền không quá số dư tối thiểu trong tài
khoản này, kèm theo đó là số tiền rút phải là cấp số của 50 nghìn đồng.
2.2.2 Sự phát triển của thẻ ATM tại Việt Nam
Tính từ năm 2002 đến nay kể từ khi ưu tiên phát triển thanh toán thẻ
triểm khai thì thẻ thanh toán nói chung và thẻ ATM nói riêng thu được nhiều
thành tựu tích cực. Trong đó từ năm 2002 đến năm 2006 với chủ trương xây
dựng nền móng cơ bản cho thanh toán thẻ trong nước nhưng đã thu được
những thành công không nhỏ. Số lượng thẻ năm 2006 đạt 4 triệu thẻ và số
máy ATM lên đến 2500 máy. Trong giai đọan này hầu như tất cả các máy
ATM đều được nhập khẩu từ nước ngoài vì thế nên chi phí cao lên đến 5000-
10000 đôla/ chiếc. Mặt khác thì do vấn đề cán cân thanh toán bị phụ thuộc
vào ngân hàng nhà nước lên số lượng máy không thể mua được nhiều. Trong
đó thì việc sử dụng thẻ ATM thường xuyên chưa đi vào cuộc sống của người
tiêu dùng.
24
24
Thực hiện đề án “Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai
đoạn 2006 – 2010” nên ngay từ năm 2007 đã có những bước chuyển biến
quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng của việc sử dụng thẻ ATM. Đầu tiên
đó là số lượng thẻ tăng lên nhanh chóng hơn hẳn cả thời kì 2002-2006, trong
năm 2007 con số đó lên tới 8 triệu thẻ, còn hết năm 2008 đã đạt tới 13,4 triệu
thẻ thanh toán. Đến năm 2009 số lượng này đã tăng chậm lại do sự phát triển
của thanh toán điện tử trên phương tiện internet banking sau khi ngân hàng
nhà nước hoàn thành nâng cấp hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai
đoạn 2. Tiếp theo đó là sự đột phá về số lượng các loại máy ATM, trong năm
2007 số lượng này đã là hơn 4000 chiếc, còn năm 2008 là 7051 chiếc, đến nay
2009 chúng ta đã cho xây dựng những nhà máy lắp ráp máy ATM đầu tiên, và
trong tương lai không xa thì những chiếc máy đầu tiên mang thương hiệu Việt
Nam sẽ phủ khắp mọi nơi.
Mặt khác Hệ thống thanh toán của hai liên minh thẻ lớn nhất cả nước là
Banknetvn và Smartlink với trên 90% thị trường thẻ toàn quốc đã được kết
nối liên thông.
Thực tế cho thấy rằng trong năm 2009 thị trường thanh toán điện tử Việt
Nam phát triển nở rộ, đa dạng về cách thức, trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong khi đó thì thị trường thẻ ATM không phát triển nhiều về mặt số lượnng
như các năm trước mà tập chung mạnh về mặt chất lượng. Điều này thể hiện
giao dịch qua thẻ tăng mạnh, khiến cho nhiều ngân hàng đang từng bước
chuẩn bị kế hoạch thu phí, khi sử dụng thẻ ATM để rút tiền.
Một điều nữa đó chính là trong năm Quyết định 371 /2007 về quy chế
ban hành về việc phát hành thẻ và các loại thẻ được phép ban hành. Trong
đó cho phép phát hành loại thẻ trả trước vô danh không yêu cầu có tài khoản
ngân hàng. Thực tế đây là loại thẻ ghi nợ nhưng được thực hiện hoàn toàn
tách biệt với các ngân hàng, nhằm tạo tiền đề cho các tổ chức tín dụng tài
chính có thể phát hành thẻ mang mục đích thanh toán. Đối với các lọai thẻ trả
25
25
trước không gắn liền với ngân hàng thì việc tuân theo quy chế thẻ là không
nhất thiết, vì thế các tổ chức tài chính, tín dụng có thể phát hành cũng như
quản lí kèm theo các dịch vụ của mình dễ dàng hơn.
Theo Quy chế thẻ ban hành kèm theo Quyết định 371, tổ chức phát hành
thẻ, tổ chức thanh toán thẻ chỉ là các ngân hàng, cụ thể tại Quy chế này chỉ có
các khái niệm ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, không có
khái niệm tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ nói chung. Nhưng
trong Quy chế thẻ ban hành kèm theo Quyết định 20 mở rộng các chủ thể phát
hành thẻ, ngoài ngân hàng còn có thể là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ
chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng cũng có
thể được phát hành thẻ khi các tổ chức này được phép hoạt động ngân hàng
trong đó có hoạt động phát hành thẻ. Việc mở rộng các tổ chức được phát
hành thẻ phù hợp với thực tế hiện nay là có một số tổ chức không phải là ngân
hàng nhưng cũng có hoạt động phát hành thẻ có tính chất thanh toán rộng rãi
ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán, hoạt động ngân hàng. Do vậy, quy định
về việc phát hành thẻ của các tổ chức khác này một mặt để thừa nhận, mặt
khác là để quản lý nhà nước đối với việc phát hành thẻ của các tổ chức khác
này.
Theo Quy chế thẻ ban hành kèm theo Quyết định 371, tổ chức phát hành
thẻ chỉ phát hành thẻ cho các chủ thẻ là cá nhân. Tuy nhiên, do tính năng của
thẻ cũng thích hợp để sử dụng trong quản lý chi tiêu của các tổ chức. Do vậy,
để thúc đẩy sự phát triển của thị trường thẻ, Quy chế thẻ ban hành kèm theo
Quyết định 20 quy định chủ thể sử dụng thẻ ngoài các cá nhân, còn có thể là
các tổ chức.
2.2.3 Hạn chế còn tồn tại của công cụ thanh toán ATM tại Việt Nam
Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh cả về số lượng và giao dịch
nhưng chúng ta vẫn thấy những hạn chế còn tồn tại trong việc sử dụng thẻ
ATM.
26
26
a)Về chức năng của thẻ ATM:
Với chức năng chủ yếu là để rút tiền hầu như rất ít có khả năng cho vay
đối với khách hàng. Với các ngân hàng thực hiện cho vay thì điều kiện cho
vay lại khá là khó khăn, một khách hàng bình thường hầu như không có cơ
hội tiếp cận đến các khoản vay này.
Một điều nữa đó chính là chức năng thanh toán của thẻ ATM thông
thường bị hạn chế bới việc sử dụng máy ATM và máy POS tại các điểm cố
định, do vậy muốn sử dụng được thẻ ATM chúng ta phải tìm đến những nơi
có địa điểm đặt máy. Nó thật sự rất tốn thời gian và công sức mặc dù sự phát
triển của phương tiện đi lại đã giảm ngắn thời gian này bởi vì sự phân bố máy
ATM tại Việt Nam chỉ tập chức ở một số khu vực nhất định do chi phí của
việc lắp đặt máy và bố trí máy chưa khoa học, đồng bộ. Mặt khác đôi khi
chúng ta cũng có thể có thể gặp những chiếc máy này nhưng chúng ta cũng
không thể sử dụng được chiếc thẻ của chúng ta vì không mang thẻ ATM.
Mặt khác thì khả năng thanh toán điện tử của ATM là hoàn toàn không
có chức năng thanh toán điện tử, mặc dù về cấu tạo của chiếc thẻ ATM không
có gì khác nhiều so với các lọai thẻ thanh toán bình thường. Đây có thể là do
nguồn gốc của thẻ ATM được xuất phát từ Mỹ nơi có những loại thẻ thanh
toán mạnh đã trở thành công cụ phổ biến trong thanh toán điện tử như thẻ
VISA, MASTER…. Do đó việc ra đời thẻ ATM đối với họ chỉ nhằm giảm
bớt các giao dịch đơn giảm tại ngân hàng, và việc cấp các loại thẻ thanh toán
gặp nhiều vấn đề trong công tác quản lí liên quan đến tài khoản ngân hàng của
họ. Chính vì lẽ đó khi cho phát hành thẻ ATM tại Việt Nam, hầu như các
ngân hàng đã mặc nhiên hiẻu thẻ ATM chỉ có khả năng rút tiền và coi đó chỉ
là một sản phẩm mang lại giá trị gia tăng đối với ngân hàng. Thực tế này thể
hiện rõ trong thời kì đầu khi việc phát hành thẻ ATM của các ngân hàng mang
tính bộc phát hầu như không chịu sự quản lí của một tổ chức chung nào cả về
thẻ lẫn máy rút tiền, chúng chỉ xử lí nếu cùng trong một ngân hàng. Điều này
27
27
hoàn toàn sai lầm vì ở Mỹ họ có hệ thống chuyển mạch ACH dùng cho cả các
lọai thẻ trong đó có thẻ ATM, còn ở Việt Nam lúc đó hầu như không có một
trung tâm chuyển mạch nào cả. Ngày nay thì với sự ra đời của các liên minh
thẻ và hệ thống chuyển mạch nên hệ thống thẻ ATM ở Việt Nam đã có bước
chuyển biến đáng kể, song những giao dịch điện tử vẫn chủ yếu đối với các
tài khoản ở cùng với một ngân hàng, trừ một số ngân hàng đặc biệt như
citibank.
b)Phí sử dụng thẻ ATM.
Trong thời điểm hiện tại thì chi phí sử dụng thẻ ATM ngày càng gia tăng
với một tốc độ chóng mặt, đầu tiên chúng ta có thể thấy đến đó chính là số dư
tối thiểu, có thể hiểu đó là chi phí để có thể sở hữu một chiếc thẻ ATM. Ở một
số ngân hàng lớn ở các nước phát triển thì điều này hoàn toàn ngược lại. Chi
phí này lại phụ thuộc vào tùy từng ngân hàng, tùy từng thời gian gây nên sự
chồng chéo trong khả năng quản lí chung của nhà nước.
Tiếp đó ở một số ngân hàng hiện tại như ACB bạn còn phải nộp thêm
một loại phí duy trì tài khoản trung bình là 10 nghìn/ tháng. Một số ngân hàng
còn đang đề nghị thêm vào các chi phí để rút tiền khi sử dụng máy ATM, một
công cụ không thể thiếu khi dùng thẻ. Một loại phí mà bạn chắc chắn phải
nộp thêm đó là khi bạn rút tiền tại các cột ATM không đúng với ngân hàng
phát hành thẻ của bạn. Chi phí này mới được đưa vào sử dụng cách đây không
lâu. Mặt khác khi xảy ra sự cố vật chất đối với thẻ của bạn, thì bạn cần phải
làm lại chiếc thẻ thì bạn vẫn phải nộp một khoản tiền như lúc làm thẻ mới.
c)Việc xuất hiện thẻ giả
Thực tế cho thấy trên thị trường thẻ ATM đã xuất hiện một số lọai thẻ
giả do công tác làm thẻ của các ngân hàng chạy đua thành tích mà đã quên đi
công tác bảo mật trong ngân hàng. Có rất nhiều vụ việc làm thẻ giả, tuy nhiên
đây chỉ là vụ việc nhỏ chưa có tính nghiêm trọng nhưng thể hiện công tác
quản lí thẻ và làm thẻ chưa được quan tâm đúng mức. Nhưng trong tương lai
28
28
khi trường hợp xuất hiện các thẻ ATM giả như trường hợp các thẻ tín dụng
giả gần đây, với quy mô công nghiệp bởi các máy làm thẻ thì hệ thống thẻ
ATM Việt Nam sẽ khó có thể giải quyết.
29
29
Chƣơng III
Giải pháp cho thanh toán điện tử tại Việt Nam
sử dụng mô hình e-ATM.
Trên cơ sở các phân tích chương II, chúng tôi xin đưa ra một mô hình
thanh toán điện tử dựa trên nền tảng của thẻ ATM có tên gọi là mô hình thẻ e-
ATM. Trong đó thẻ e-ATM là một loại thẻ ghi nợ như thẻ ATM được số hóa
và gắn liền với tài khoản trên hệ thống e-ATM. Mô hình này dựa trên mô hình
cung cấp thẻ virtual card của một số tổ chức tài chính mạnh chẳng hạn như
entropay, citi bank, ecocard. Mô hình e- ATM của chúng tôi xây dựng sẽ khắc
phục được những hạn chế trong việc sử dụng thẻ ATM, tăng cường sự quản lí
của nhà nước về thương mại điện tử thông qua kiểm soát các luồng tiền và hệ
thống này sẽ cung cấp dịch vụ thanh toán một cách toàn diện, đầy đủ cho
người sử dụng Việt Nam mà không chịu bất kì một hạn chế nào như các tổ
chức cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử nước ngoài.
3.1 Xây dƣng mối liên kết vi mô cho việc sử dụng mô hình thanh
toán e-ATM tại Việt Nam.
Trong phần này chúng ta chỉ đề cập đến mối liên hệ giữa nhà cung cấp
dịch vụ và người sử dụng, nó thực sự hết sức quan trọng vì liên quan trực tiếp
đến sự tiện ích và phổ biến của hệ thống thẻ e-ATM.
3.1.1 Sơ đồ hoạt động của thẻ e-ATM.
Quy trình thanh toán điện tử e-ATM (Sơ đồ 3.1)
Tiền sẽ được chuyển thông qua 1 thẻ ATM điện tử do nhà cung cấp dịch
vụ cung cấp cho người sử dụng khi đăng kí ban đầu. Khi đó tiền sẽ chuyển
Thẻ ATM Tài khoản
ngân hàng của
người bán
hàng
Thẻ e-ATM
30
30
trực tiếp từ tài khoản ATM của người sử dụng sang thẻ e-ATM, khi chuyển
tiền sang thẻ e-ATM họ có thể ngay lập tức sử dụng số tiền trong thẻ e-ATM,
số tiền này sẽ có thể dùng trong để thanh toán ngay lập tức với nhu cầu sử
dụng, nếu số tiền trong thẻ của người sử dụng không được dùng đến họ có thể
ngay lập tức chuyển tiền từ thẻ ATM về tài khoàn ngân hàng của họ để có thể
hưởng lãi suất tiền gửi như các tài khoản khác.
Sau khi người sử dụng hoàn thành các bước để thực hiện thanh toán cho
nhà kinh doanh, thì số tiền họ chi trả từ thẻ e-ATM sẽ được chuyển sang
trạng thái chờ chuyển tiền. Trong thời gian này một trong hai bên, hoặc
người bán mua chứng nhận mình đã giao hàng hoặc người mua chứng nhận
mình đã nhận hàng thì tiền lập tức chuyển sang tài khoản e-ATM của người
bán đã được đăng kí với nhà cung cấp dịch vụ. Trong trường hợp người mua
hoặc người bán từ chối thanh toán trong trường hợp tiền vẫn trong trạng thái
chờ thì người mua phải chịu phí do nhà cung cấp dịch vụ đã thông báo ban
đầu. Điểm khác biệt ở đây so với các nhà cung cấp thẻ khác là không phải là
người bán chịu những phí hoàn tiền, vì đòi hỏi trách nhiệm của người mua với
tài khoản của mình trong việc chọn lựa nhà cung cấp cũng như sự bảo mật
thông tin tài khoản người dùng.
Khi xác nhận người gửi trong các giao dịch người mua, tiền của người
mua sẽ chuyển vào tài khoản đã đăng kí với nhà cung cấp sau khi trừ đi các
khoản chi phí và phí dịch vụ dưới một lệnh chờ, tiền sẽ được cộng dồn vào
và quyết toán với tài khoản của nhà cung cấp vào một ngày cố định trong
tháng. Người bán hàng khi đó sẽ được nhận đầy đủ tiền của mình kèm theo
sao kê các giao dịch của mình trong tháng đó.
3.1.2 Cách thức sử dụng thẻ ATM
3.1.2.1 Cách thức đăng kí
a) Đối với người tiêu dùng
31
31
Đối với tài khoản người dùng: Việc đăng kí với tài khoản người dùng
phải thỏa mãn điều kiện thật dễ dàng và thông dụng. Để tạo điều kiện cho
những người bình thường cũng có khả năng sử dụng dễ dàng. Việc đầu tiên
luôn đòi hỏi người dùng cung cấp thông tin cá nhân, vì ở Việt Nam mạng lưới
kiểm tra thông tin cá nhân chưa được phổ biển nên chúng ta chỉ cần quan tâm
đến số chứng minh thư, ngày sinh và tên của cá nhân đó còn những phần
thông tin khác sẽ bắt buộc phải điền nhưng chúng ta sẽ xem xét nó để đối
chiếu với thông tin của thẻ ATM (thường là tài khoản ngân hàng). Sau khi
điền xong các thông tin cá nhân chúng ta sẽ đi vào xác minh tài khoản ngân
hàng của người dùng. Phần này sẽ là phần quan trọng nhất đòi hỏi sự bảo mật
trong khi đăng kí của người dùng, mỗi khách hàng sẽ tự tạo một tài khoản
trên e-ATM, sau đó họ sẽ cần phải điển số tài khoản ngân hàng và thẻ ATM,
chúng ta sẽ xác nhận việc này thông qua 2 mã xác nhận đó là tháng làm thẻ
hoặc ngày hết hạn của thẻ, và mã bin ATM người dùng của thẻ. Khách hàng
có thể thay đổi mã bin ATM của họ ngay lập tức, miễn sao cho vào thời điểm
họ điền, mã bin đó là chính xác. Sau khi điền đúng các thông tin yêu cầu trên
khách hàng cuả chúng ta sẽ được cung cấp các thông số của chiếc thẻ e-ATM
của họ như số thẻ, ngày hết hạn, tên và mã bin thẻ của họ. Mã bin của thẻ
ATM được dùng như là phần xác nhận cho việc thanh toán đối với các người
bán hàng, còn để muốn chuyển tiền tới các thẻ e-ATM khác họ cần phải
active để có được mã chuyển tiền trên tài khoản của mình, mã chuyển tiền
này được cung cấp bới nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo cho các giao dịch
chuyển tiền an toàn đối với các chủ tài khoản.
Sau đây là mẫu điền:
Phần I : Thông tin cá nhân của khách hàng
Họ và tên:…………………………………………………….
Ngày tháng năm sinh:………………………………………..
Số CMT:……………………………………………………..
32
32
Hộ khẩu thường trú:…………………………………………
Địa chỉ:……………………………………………………….
Số ĐT:………………………………………………………..
Nghề nghiệp:………………………………………………...
Tên tài khoản:……………………………………………….
Mật khẩu:……………………………………………….
Phần II: Thông tin về tài khoản ngân hàng của khách hàng
Số tài khoản:………………………………………………….
SIWF CODE:…………………………………………………
Số thẻ ATM:………………………………………………….
Ngày sử dụng (hoặc hết hạn sử dụng):………………………
Mã bin của thẻ ATM:…………………………………………
b) Đối với tài khoản người bán hàng
Đối với tài khoản người bán hàng: Công việc đầu tiên đối với tài khoản
người kinh doanh đó là điền đầy đủ thông tin cá nhân như đối với tài khoản
người dùng kèm theo đó là một số phần mô tả việc kinh doan sau khi đăng kí
như là lĩnh vực kinh doanh, doanh thu ước tính theo chu kì kinh doanh, thời
gian hoạt động kinh doanh và các kế hoạch kinh doanh tiếp theo. Đây chỉ là
các thủ tục bắt buộc của các nhà kinh doanh để cho người cung cấp dịch vụ có
khả năng hiểu cơ bản về khách hàng.
Sau đây chúng ta sẽ có mẫu điền:
Tên:…………………………………………..
Loại hình kinh doanh:………………………..
Lĩnh vực kinh doanh:………………………..
Mặt hàng kinh doanh:……………………….
Địa chỉ:………………………………………
Tên tài khoản:………………………………...
33
33
Mật khẩu:……………………………………..
Điều tiếp theo chúng ta cần xác định loại hình người bán hàng của tài
khoản là kinh doanh cá nhân hay là kinh doanh có tổ chức. Đối với các loại
hình kinh doanh này khác nhau sẽ có những tiêu chuẩn hạn mức cũng như sự
hỗ trợ khác nhau của nhà cung cấp, ngược lại nhà cung cấp cũng có yêu cầu
tùy vào việc kinh doanh của người bán hàng. Đối với kinh doanh cá nhân thì
việc yêu cầu thêm các thông tin như điền thông tin người tiêu dùng nhưng họ
sẽ bị giới hạn bởi các giao dịch và bị kiểm soát bởi các đối tác kinh doanh của
họ. Còn đối với tổ chức kinh doanh việc xác định người bán hàng chỉ cần
thông qua mã số thuế của doanh nghiệp, việc giám sát các hoạt động của họ
sẽ được thông qua các báo cáo kinh doanh khi nộp thuế.
Dưới đây là mẫu điền cho tài khoản người bán hàng:
Đối với kinh doanh cá nhân:
Kinh nghiệm kinh doanh:………………..
Xuất sứ sản phẩm:……………………….
Giá sản phẩm:…………………………..
Danh sách các sản phẩm kinh doanh…………..
Số CMT:………………………………………
Đối với khách hàng là tổ chức:
Ngày thành lập:……………………………….
Xuất sứ sản phẩm:…………………………….
Giá sản phẩm:………………………………….
Danh sách các sản phẩm kinh doanh…………..
Doanh thu hằng năm:…………………………
Mã số thuế:………………………………
34
34
3.1.2.2 Cách thức tính phí khi sử dụng:
Chúng ta cũng sẽ chia ra là 2 phần đó là tính phí đối với tài khoản người
dùng và tài khoản kinh doanh
a) Thu phí với tài khoản người dùng:
Chúng ta sẽ không lấy bất kì chi phí nào đối với khoản tiền của người
dùng nạp vào thẻ e-ATM. Ngoài ra chiệc thẻ e-ATM sẽ không có thêm khoản
tiền nào khác, kể cả khoản tiền ký quỹ trong thẻ, người tiêu dùng sẽ được
dùng đến đồng tiền cuối cùng trong chiếc thẻ e-ATM của họ. Nhưng đối với
chiếc thẻ e-ATM thứ 2 trở đi chúng ta sẽ bắt đầu thu thêm phí tạo lập thẻ mới
và phí xóa bỏ thẻ cũ trong trường hợp chiếc thẻ cũ vẫn có khả năng sử dụng.
Đây là việc hạn chế việc dụng thẻ bừa bãi và đánh vào những khách hàng có
nhu cầu sử dụng thẻ tiện lợi hơn khi gặp vấn đề đối với thẻ ATM. Nhưng
chúng ta sẽ đặt giới hạn một khoản tiền cho mỗi lần nạp tiền vào thẻ e-ATM.
Vì mục tiêu thanh toán để tiêu dung nên chúng ta sẽ để giới hạn nạp tiền từ
100.000 đồng 20.000.0000 đồng vào trong thẻ e -ATM, và số tiền lớn nhất
có thể thanh toán 1 lần trong thẻ e-ATM là 20.000.000 đồng, đó là một khoản
thanh toán được tính toán hợp lí theo số tiền mặt có thể rút bằng thẻ ATM của
người dùng. Đây cũng là giới hạn cao nhất trong 1 ngày chi tiêu cũng như
trong 1 lần chi tiêu của khách hàng.
b) Thu phí với tài khoản người bán hàng:
Việc thu phí đối với tài khoản người bán hàng sẽ phức tạp hơn nhiều so
với cách thu phí đối với người tiêu dùng. Thu phí đối với tài khoản người bán
hàng sẽ gồm có đó là thu phí lắp đặt ban đầu cho nhà người bán hàng, thu phí
hằng tháng và các khoản thu khác phát sinh.Chúng ta sẽ có một bảng giá tham
khảo của 3 cổng thanh tóan điện tử lớn nhất trên thế giới là Paypal,
2checkout, worldpay và e-ATM
35
35
Các phƣơng
thức
Pay pal Worldpay 2checkout e-ATM
Phí đăng kí miễn phí miễn phí 900.000 đ (49$) 500.000đ
Phí hằng năm miễn phí
2.500.000 đ
(140$) miễn phí Miễn phí
Phí giao dịch 3,9% +5.700 đ ( 0.3$) 3.95%
5,5% + 8,500 đ
(0.45$) 2,5%
Thời gian xử lí
đăng kí
ngay lập tức ( thực tế là 2-
3 ngày) 5 ngày ngay lập tức 2 ngày
Hình 4. Bảng so sánh phí sử dụng của pay pal, worldpay, 2checkout
và
e-ATM
Thứ nhất là phần thu phí lắp đặt cổng thanh toán của e-ATM chúng ta để
mức giá là 500k đồng. Mặc dù đối với các trang cung cấp cổng thanh toán
như Paypal hay worldpay là miễn phí, thì việc thu tiền lắp đặt là không mang
tính cạnh tranh. Tuy nhiên mức thu phí 500k chỉ mang tính tượng trưng vì đối
với một doanh nghiệp kinh doanh nó không mang ý nghĩa nhiều về mặt kinh
tế, nhưng nó lại mang ý nghĩa lớn về việc xác định khách hàng khi tham gia
vào thương mại điện tử, nơi mà rủi ro thường xuyên xảy ra. Mặt khác chi phí
này có thể tăng thêm 5 triệu đồng khi người bán hàng muốn sử dụng cổng
thanh toán riêng hiện trên trang của họ, mà không dùng sự chuyển tiếp đến
trang của nhà cung cấp dịch vụ
Phần thứ 2 là phần thu phí hằng tháng phụ thuộc vào chi phí để duy trì
,bảo dưỡng cổng thanh toán một cách thường xuyên và giá trị các khoản thanh
toán thông qua cổng thanh toán. Thực tế chi phí duy trì bảo dưỡng cổng thanh
36
36
toán diễn ra đều đặn thường không tốn quá nhiều chi phí, do vậy chúng ta có
thể hiểu rằng lợi nhuận của công ty có tăng trưởng mạnh mẽ hay không phụ
thuộc chính vào giá trị các khoản thanh toán thông qua cổng thanh toán e-
ATM. Đối với các người bán hàng sử dụng thẻ quốc tế như chúng ta thấy ở
trên thì nó lên tới 3.9%, nó phản ánh phần giá trị tăng thêm của sản phẩm khi
sử dụng công cụ thanh toán điện tử. Chúng ta thấy một mức phí cạnh tranh
của e- ATM so với các công cụ khác là 2,5% / giao dịch . Mức giá này thấp
hơn hẳn không phải là do sử dụng công cụ cạnh tranh về giá mà do đây là lơi
thế có được do sự quản lí thẻ ATM một cách dễ dàng bởi hệ thống liên minh
thẻ ngân hàng Banknetvn, Smartlink và ngân hàng nhà nước. Nếu như các
công cụ sử dụng thẻ tín dụng quốc tế như Visa, Master hay Amex … luôn
phải chịu mức phí cao do sử dụng dữ liệu của các tổ chức tài chính khác, thì
thẻ ATM ở VN lại có được mức phí thấp khi tham gia vào liên minh thẻ. Mặt
khác việc sử dụng thẻ e-ATM còn không phải chịu những quy định ngặt
nghèo của các nhà phát hành thẻ nước ngoài. Điều này là hết sức quan trọng
trong khi tình hình thanh toán điện tử đang có chiều hướng xấu đi và thắt chặt
hơn sau khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2008. Mức phí
này không hề thay đổi theo việc cổng thanh toán điện tử được làm trực tiếp
trên trang của người bán hàng hay là được chuyển tiếp đến cổng thanh toán
đặt trên trang e-ATM. Nhưng ngược lại phía bên người bán hàng sẽ phải chịu
phí chargeback cao do độ rủi ro về sự bảo mật trên trang của người bán hàng
không thể kiểm soát được. Vì vậy nó sẽ làm cho doanh nghiệp phải cân nhắc
kĩ lựa chọn của mình giữa chi phí và sự bảo mật của hệ thống mạng.
Phần tiếp theo là rất nhiều lọai phí nhỏ hơn liên quan đến các vấn đề
khác liên quan đến việc bảo mật và kiểm tra thông tin khách hàng. Thường thì
các lọai phí liên quan đến việc kiểm tra thông tin khách hàng của mỗi lọai thẻ
thanh toán khác nhau phụ thuộc vào cả bên cung cấp thẻ lẫn bên có trách
nhiệm kiểm tra thông tin, chẳng hạn như việc kiểm tra thông tin của thẻ visa
37
37
lên tới 0,3$-0,5% trên mỗi giao dich gồm có số thẻ, ngày hết hạn và mã bảo
vệ.Việc đặt mức giá là 500đ trên mỗi giao dịch chỉ giúp chúng ta kiểm tra
thông tin đơn thuần. Mặt khác việc tính phí charge back khi xảy ra sự cố sẽ
chủ yếu là trừ vào tiền của người mua vì thế, người bán chỉ bị trừ đi số tiền bị
phải hoàn trả mà không phải trả thêm chi phí nào khác.
3.1.2.3 Cách thức phòng chống gian lận
Việc kiểm tra xác nhận các giao dịch có vấn đề từ lâu đã trở thành một
vấn đề khó giải quyết kể cả đối với các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán lâu
đời như Paypal. Vì thế trong phần này chúng ta chỉ có thể trình bày mang
nặng tính tổng quan vì nó liên quan đến nhiều vấn đề dành cho các chuyên
viên kĩ thuật về máy tính.
Đầu tiên là việc xác minh và phân loại tài khoản người dùng bởi vì trong
thanh toán điện tử cần các sử dụng tài khoản thường xuyên chứ không nhất
thiết phụ thuộc về số lượng tài khoản đăng kí. Chúng ta sẽ chia tài khoản
thành 4 loại tài khoản đó là tài khoản thông thường, tài khoản theo dõi, tài
khoản cần xác minh và cuối cùng là tài khoản bị giới hạn do nghi ngờ gian
lận. Việc phân chia các tài khoản được dựa trên số lượng giao dịch và loại tài
khoản người dùng mà họ giao dịch. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày các loại tài
khoản theo sự phân loại đó.
Tài khoản thông thường là loại tài khoản mà trong đó giá trị giao dịch,
với các giao dịch hầu như các không có vấn đề như số lượng lớn và tài khoản
bị giới hạn.
Tài khoản bị theo dõi là những tài khoản có một số hành động đặc biệt
trong quá trình giao dịch hoặc trong những hành động chưa xác định rõ ràng
như tài khoản mới lập, tài khoản được dùng bởi địa chỉ mạng ở nước ngoài,
tài khoản chưa hoàn thành quá trình xác minh sau khi đăng kí. Những tài
38
38
khoản này chỉ có giá trị thanh toán nhỏ và bị giới hạn trong các sản phẩm tài
chính.
Tài khoản cần xác minh là những tài khoản đã dùng được lâu nhưng
không thường xuyên tham gia giao dịch hoặc số lượng tham gia giao dịch quá
nhỏ hoặc quá lớn. Việc xác minh sẽ trình bày chi tiết cho từng loại ở phần
sau.
Tài khoản bị giới hạn do bi nghi ngờ gian lận là những tài khoản đã bị
báo cáo bởi các tài khoản người dùng và tài khoản người bán hàng về các giao
dịch gian lận. Đối với các tài khoản loại này thì chúng sẽ ngay lập tức bị khóa
và mọi giao dịch đang ở trạng thái chờ cũng sẽ bị hủy bỏ luôn. Kèm theo đó
để phục hồi lại tài khoản loại này người dùng sẽ cần phải chứng minh mình là
chủ thực sự tài khoản, chứng minh giao dịch của mình là hoàn toàn hợp pháp,
và chỉ ra được phần lỗi trong giao dịch đó thuộc về trách nhiệm của tài khoản
đối tác.
Việc xác minh tài khoản theo cách chia theo tài khoản ở trên là gồm 2
loại đó là việc xác nhận thông thường và việc xác nhận đặc biệt.
Đối với việc xác nhận thông thường dùng cho những tài khoản cần xác
minh và tài khoản cần theo dõi, đây là những xác minh thường xuyên để kiểm
tra sự còn họat động hay họat động không hiệu quả của các 2 loại tài khoản
này. Vì thế chúng ta chỉ cần nhận bản sao một số giấy tờ chứng minh tài
khoản còn hoạt còn hoạt động hay chứng minh chủ tài khoản. Việc xác minh
này sẽ xảy ra khi họ mới họat động thường là 3 tháng sau khi mở tài khoản,
còn đối với các lần sau chúng ta sẽ chỉ cần xác nhận qua điện thoại với số
điện thoại mà họ đã đăng kí.
Đối với các tài khoản cần xác nhận đặc biệt yêu cầu người chủ tài khoản
trước tiên phải cung cấp các tài liệu xác định người dùng, sau đó chúng ta sẽ
yêu cầu giải thích các về vấn đề giao dịch của họ, trong trường hợp mà việc
39
39
giải thích gặp vấn đề giải quyết không triệt để sẽ yêu cầu cần một sự xác nhận
của ngân hàng chủ tài khoản về tính minh bạch của chủ tài khoản. Điều này
thường bắt buộc người dùng phải bảo vệ tài khoản mất nhiều thời gian và
công sức, do đó yêu cầu người nhận phải quan tâm thực sự đến tài khoản của
mình. Nhưng việc xác minh này sẽ làm tăng độ tin tưởng của tài khoản đối
với người cung cấp dịch vụ nên nó sẽ làm cho việc xác minh đơn giản hơn và
sẽ làm tài khoản giảm bớt sự giới hạn như tài khoản thông thường.
Thứ hai chúng ta sẽ có tất cả 3 lớp mật mã bảo vệ khi sử dụng tài khoản
e-ATM tính kể từ khi chúng ta nạp tiền vào tài khoản thông qua thẻ ATM đến
khi giao dịch của chúng ta hoàn tất. Lớp mật mã đầu tiên chính là mã bin của
thẻ ATM, chức năng của lớp mã này là bảo vệ tài khoản ngân hàng của người
dùng khỏi những hành vi chuyển tiền ra tài khoản ngân hàng một cách bất
hợp phát. Đây là bước vô cùng dễ dàng và quan trọng, vì tất nhiên bạn phải
nhớ mã bin của mình khi bạn sử dụng ATM của ngân hàng. Tiếp theo đấy
chính là điền mã bin cho chiếc thẻ e-ATM của người dùng. Với chức năng
linh hoạt như thẻ ATM bạn có thể thay đổi mã bin của thẻ e-ATM bất cứ khi
nào thông qua tài khoản e-ATM của bạn, đây như là việc bạn bảo vệ cho
chiếc thẻ e-ATM của mình sau khi đã nạp tiền vào thẻ e-ATM. Bước cuối
cùng để hoàn tất một giao dịch là bạn phải đánh vào đó mã giao dịch mà
người dùng được nhận từ với hệ thống e-ATM, với mã code này người dùng
phải là người đăng kí ban đầu. Việc thay đổi mã code chỉ được thực hiện duy
nhất khi bạn chứng minh bản thân là chủ tài khoản hợp pháp tại phòng đại
diện của hệ thống e-ATM. Với 3 lớp bảo vệ này kèm theo việc kiểm tra người
dùng khi đăng nhập thì khó có một cá nhân nào có khả năng điều khiển tài
khoản của bạn ngay khi bạn đã đăng kí.
3.2 Xây dựnh mối liên kết vĩ mô cho việc sử dụng công cụ thanh toán
e- ATM tại Việt Nam.
3.2.1 Xây dựng mối liên kết liên ngân hàng trong thị trường thẻ ATM.
40
40
Trên thị trường thẻ ATM chúng ta còn thiếu sự liên kết lẫn nhau trong
lĩnh vực thanh toán. Bằng việc sử dụng thông qua hệ thống thẻ ATM để họat
động, chúng ta sẽ mở tài khoản ở tất cả các ngân hàng hoạt động ở Việt Nam,
kèm theo sự gia nhập vào hai liên minh thẻ là Smartlink và Banknetvn .
Thông qua các tài khoản của hệ thống thẻ ATM, chúng ta có thể nhận tiền của
khách hàng khi tham gia hệ thống và rút tiền của họ ra ngoài hệ thống e-
ATM. Việc này sẽ giảm thời gian và chi phí khi khách hàng phải đến tận ngân
hàng hay cột ATM để thực hiện các giao dịch. Thực tế cho thấy sau khi xuất
hiện liên minh thẻ Banknetvn và Smartlink thì việc rút tiền thông qua các cây
ATM của các ngân hàng là hoàn toàn dễ dàng, nhưng chúng ta sẽ chủ yếu
quan tâm đến việc chuyển khoản giữa các tài khoản với nhau. Khi hệ thống
thanh toán bằng e-ATM được hoàn thiện thì việc chuyển khoản giữa các ngân
hàng trở nên thuận tiện và đơn giản không chỉ những ngân hàng trong liên
minh thẻ mà cả đối với những ngân hàng không thuộc liên minh thẻ. Mặt
khác với các ngân hàng hiện nay thì việc cần có nhiều trụ sở, lẫn nhân viên
giao dịch chỉ để thực hiện nghiệp vụ chuyển và nhận tiền nội địa. Trong khi
lợi nhuận thu được từ lĩnh vực này rất thấp đã tạo nên một gánh nặng không
nhỏ gia tăng chi phí trong kinh doanh củ ngân hàng. Vì thế việc giảm thiếu
chi phí này sẽ làm cho nguồn vốn của ngân hàng trở nên dồi dào hơn, có thể
tập trung vào các dịch vụ tài chính khác, có khả năng sinh lợi lớn hơn.
Có thể nói hình thức thanh toán này làm cho các ngân hàng có được sợi
dây liên kết chặt chẽ vững mạnh và giảm thiểu chi phí, còn người dùng thì trở
nên thuận tiện hơn trong giao dịch nhận và gửi tiền với bất kì ngân hàng nào.
3.2.2 Xây dựng hệ thống lưu trữ thông tin khách hàng cho hệ thống
liên ngân hàng.
Ở các nước phát triển trên thế giới họ có một cơ sở dữ liệu về thông tin
cá nhân rất đầy đủ. Điều này tạo thuận lợi không nhỏ cho các hoạt động kiểm
tra kiểm soát của chính phủ mà còn giúp cho họ có cái nhìn tổng quát về tình
41
41
hình đất nước ở tất cả các mặt. Ở Việt Nam hệ thống thông tin cá nhân thực
sự chỉ thể hiện dưới văn bản giấy tờ ở các cơ quan địa phương, vì vậy việc
xác minh, kiểm tra gặp rất nhiều khó khăn cũng như chi phí tốn kém. Hơn thế
nữa việc xây dựng hệ thống thông tin khách hàng giúp các ngân hàng có thể
trao đổi và kiểm tra lịch sử giao dịch khách hàng của mình với các ngân hàng
khác. Nó giúp các ngân hàng giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động tài chính
của mình như cho vay nợ xấu và gian lận trong giao dịch.
Việc xây dựng thông tin khách hàng đòi hỏi cần có một thời gian và chi
phí vô cùng lớn, nên không thể một tổ chức ngân hàng hay cơ quan chính phủ
có thể làm ngay và nhanh được. Nhưng với cả một hệ thống ngân hàng cùng
làm việc và tổng hợp thông tin dựa trên việc lưu trữ lại trên hệ thống cơ sở dữ
liệu e-ATM sẽ giúp công việc trở nên nhanh chóng và giảm thiểu chi phí hơn
nhiều. Đây sẽ được coi là tài sản vô cùng lớn của e-ATM nói riêng và cả hệ
thống ngân hàng nói chung, chưa kể nó cũng đóng góp tích cực trong việc
giám sát của ngân hàng Trung ương đối với các cá nhân và tổ chức trong nền
kinh tế.
3.3 Hiệu quả dự kiến của việc ứng dụng e- ATM trong thanh toán
trong nƣớc
3.3.1 Hiệu quả vi mô
a. Hiệu quả đối với người sử dụng:
Thực tế đối với người tiêu dùng Việt Nam thì đối với người tiêu dùng
Việt Nam thì thực hiện giao dịch điện tử chưa phải là thói quen thường xuyên,
nhưng với sự phát triển của xã hội thì việc sử dụng những tiện ích này là tất
yếu phải xảy ra. Bất kì một sự thay đổi luôn cần có thêm thời gian, để mọi
người thích ứng và tạo thói quen. Mặt khác việc này sẽ không khó khăn nhiều
do dân số nước ta chủ yếu là dân số trẻ, nên vì thế chúng tôi tin tưởng rằng
42
42
việc phát triển thanh toán điện tử sẽ tự nó làm thay đổi thói quen tiêu dùng
của người Việt Nam
Một điều quan trọng nữa là khi phát triển thanh toán điện tử thành công,
người tiêu dùng có thể chọn lựa cho mình những hàng hóa, dịch vụ tốt nhất,
phù hợp với nhu cầu và túi tiền của mình, họ không còn phải tốn nhiều thời
gian với việc mua sắm mà dành nhiều thời gian hơn cho công việc.
b. Hiệu quả đối với nhà cung cấp
Trước tiên ta sẽ xem xét những chi phí khi xây dựng hệ thống e-ATM
Bankcore 95 tỷ đồng (5 triệu $)
Chi phí dành cho quảng cáo ban đầu 5 tỷ đồng
Lưong nhân viên điều hành bankcore 100 triệu/tháng
Lương nhân viên lập trình paygate 100 triệu/tháng
Chi phí duy trì hệ thống mạng, website,
liên kết banknetvn và smarlink 20% doanh thu
Hình 5.Bảng chi phí vận hành hệ thốnge-ATM
Như bạn thấy trên hình trên thì chi phí ban đầu của hệ thống sẽ tăng lên
rất nhiều nếu nhà cung cấp mua mới một hệ thống bankcore mới, vì vậy sẽ là
một lợi thế không nhỏ nếu các tổ chức cung cấp có trong tay một hệ thống
bankcore có sẵn. Những tổ chức này thường là ngân hàng, công ty chứng
khoán, các tổ chức tài chính lớn. Vì thế chúng tôi nghĩ rằng hệ thống e-ATM
chỉ có thể được phát triển bởi một ngân hàng thương mại bán lẻ có hệ thống
bankcore đủ mạnh như Đông Á, ACB hay Techcombank…. Mặt khác vì hệ
thống này có thể phủ nên toàn bộ hệ thống ngân hàng nên đôi khi ngân hàng
nhà nước cũng có thể trực tiếp hay gián tiếp đầu tư vì mục đích quản lí.
Nhưng có thể chúng ta sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ nếu cho các ngân hàng
bán lẻ nước ngoài gia nhập và hệ thống chẳng hạn như citi bank. Chúng tôi
dám chắc rằng với hệ thống bankcore mạnh kèm theo dịch vụ tài chính hoàn
43
43
thiện nếu không có những biện pháp hạn chế bước đầu, thì không khó để citi
bank có thể kiểm soát và chiếm lĩnh và giành quyền kiểm soát thị trường
thanh toán điện tử tại Việt Nam.
Đối với những hệ thống thanh toán thì việc có được hệ thống bankcore
tốt thường phải kèm theo những kĩ thuật viên máy tính ở trình độ cao mới có
khả năng điều khiển. Nhưng việc có được những kĩ thuật viên như vậy không
phải dễ dàng tìm kiếm, nó khó hơn rất nhiều việc bỏ tiền để mua một hệ thống
bankcore, vì thế việc đặt một mức lương cao đối với các kĩ thuật viên này
không ngoài mục đích nào khác là nhằm giữ họ lại, những người như là
xương sống của cả bộ máy làm việc.
Tiếp theo chúng tôi xin trình bày về khả năng sinh lợi và thu hồi vốn của
tổ chức cung cấp hệ thống bankcore. Theo như phân tích ở trên thì chúng ta sẽ
có 2 trường hợp xảy ra là: các tổ chức tài chính sẽ tham gia cung cấp để giảm
việc tìm kiếm nhân viên, chi phí mua bankcore mới và trường hợp không phải
là tổ chức có sẵn hệ thống bankcore, nhân viên điều hành bankcore. Để tiện
cho công việc đầu tư và thể hiện tính độc lập của dự án, chúng tôi sẽ trình bày
đối với một tổ chức tài chính không có bankcore khi cung cấp dịch vụ e-
ATM.
Trước tiên đó chính là kế hoạch marketting cho hệ thống thanh toán thẻ
e-ATM. Giống như các dịch vụ khác thì việc đầu tiên là xác định khách hàng
mục tiêu thông qua việc đặc điểm giao dịch và số lượng giao dịch. Với hơn 20
triệu người sử dụng internet và cũng gần 20 triệu người có tài khoản ATM thì
chúng tôi xác định số lượng tài khoản đăng kí sử dụng khi đi vào hoạt động là
3 triệu người. Trong số này thì số khách hàng thường xuyên sử dụng hàng
tháng là 1 triệu người trong đó số lượng giao dịch tính 1 chiều là 1 triệu đồng/
giao dịch. Số khách hàng mà chúng tôi tập trung vào khi tính toán chính là 1,4
triệu cán bộ công, nhân viên ngoại tỉnh làm hành chính tại các thành phố và 5
triệu sinh viên các trường cao đẳng và đại học trên toàn quốc. Đây là 2 tầng
lớp trong xã hội thường xuyên sử dụng mạng internet và có nhu cầu sử dụng
dịch vụ trong thanh toán. Đối với khách hàng là cán bộ công nhân viên thì đây
44
44
là bộ phận chính mang lại doanh thu cho hệ thống e-ATM trong thời gian đầu
phát triển, còn đối với tầng lớp sinh viên sẽ là tầng lớp làm thay đổi thói quen
tiêu dùng của người Việt Nam. Thực tế thì không phải sinh viên không có nhu
cầu sử dụng các dịch vụ thanh toán thường xuyên, ví dụ như các sinh viên
ngoại tỉnh hay nhận tiền chuyển từ gia đình lên vào mỗi tháng trung bình từ 1-
2 triệu đồng. Đây cũng là số tiền mà các công nhân viên ngoại tỉnh gửi về quê
cho gia đình, vì thế chúng ta thấy sự cân bằng giữa 2 lớp khách hàng mục tiêu
này.
Tiếp theo đây chúng ta sẽ trình bày về các sản phẩm dịch vụ kèm theo
của hệ thống thanh toán e-ATM. Ngoài mục tiêu ban đầu là chức năng thanh
toán cho người bán hàng, chúng tôi sẽ kèm theo chức năng gửi tiền với tài
khoản trong hệ thống e-ATM, tài khoản ngân hàng, thanh toán hóa đơn, nạp
tiền vào các dịch vụ khác. Điều này thể hiện tính linh hoạt của hệ thống e-
ATM có thể dễ dàng chuyển khoản một cách nhanh chóng phục vụ nhu cầu
của khách hàng.
Bước cuối cùng là tính toán số khách hàng và doanh thu trong từng năm,
với sự tăng trưởng khách hàng trong 3 năm đầu lần lượt là 300 nghìn tài
khoản, 700 nghìn tài khoản, và 1,5 triệu tài khoản, các năm tiếp theo duy trì
lượng khách hàng là 3 triệu tài khoản sử dụng, trong đó số tài khoản sử dụng
thường xuyên là 1 triệu tài khoản. Với mỗi tài khoản thường xuyên giao dịch
khoảng 12 triệu đồng hằng năm, thì một năm chúng ta có doanh thu lên đến
300 tỷ đồng. Nếu tính tỷ lệ khách hàng thường xuyên trên khách hàng đăng kí
các năm là như nhau thì doanh thu các năm 1, năm 2, năm 3 lần lượt là 30 tỷ
đồng, 70 tỷ đồng, 150 tỷ đồng. Sau đây ta có bảng dòng tiền các năm với mức
thuế doanh nghiêp là 25%, hao mòn được tính đều trong 5 năm, tỉ suất hoàn
vốn nội bộ 12%.
45
45
Năm 0 Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5
Doanh thu 30 70 150 300 300
Tài sản cố định -95
Chi phí nhân viên -2.4 -2.4 -2.4 -2.4 -2.4
Chi phí duy trì hệ thống mạng,
website, liên kết banknetvn và
smarlink -6 -14 -30 -60 -60
Khấu hao 19 19 19 19 19
Lợi nhuân trước thuế 40,6 53,6 117,6 237,6 237,6
Thuế -10.15 -13.4 -29.4 -59.4 -59.4
Quảng cáo -5
CF -100 30,45 59,2 107,2 197,2 197,2
Hình6.Bảng lưu chuyển dòng tiền qua các năm
Theo bảng số liệu trên ta tính các chỉ số của dự án đầu tư được như
sau:
NPV: 346,34 tỷ đồng
IRR: 69%
Với những chỉ số khả quan, chúng ta có thể thấy được tiềm năng lợi
nhuận là rất lớn đối với các nhà cung cấp dịch vụ khi cung ứng hệ thống thẻ
ATM.
3.3.2 Hiệu quả vĩ mô
Đây sẽ thức sự là một công cụ thanh toán mạnh và phổ biến đối với thị
trường thanh toán điện tử trong nước khi hệ thống thẻ e-ATM được đi vào
hoạt động. Điều đầu tiên mà hệ thống thẻ e-ATM mang lại cho xã hội chính là
bước phát triển vượt bậc của thương mại điện tử. Tiếp theo là việc giải quyết
khó khăn trong thanh toán điện tử ở Việt hoà nhập với thế giới, khi mà hệ
thống thanh toán điện tử của thế giới đặt Việt Nam vào nhóm các nước trong
danh sách đen. Thương mại điện tử sẽ tự cởi trói mình với những sản phẩm
mới tạo nên những dịch vụ nhanh gọn dễ dàng hơn. Khi đó sẽ giúp phát triển
không những về thương mại nói riêng mà còn giúp xã hội từng bước phát
triển cao hơn. Chẳng hạn như việc hệ thống thông tin khách hàng thông qua
hệ thống sẽ cung cấp cho chính phủ một lượng lớn thông tin của các doanh
46
46
nghiệp và người tiêu dùng, qua đó họ có thể kiểm tra độ nhạy bén của các
chính sách thông qua việc thống kê dữ liệu. Không những thế mức độ thương
mại điện tử càng cao thì việc ban hành cũng như tiếp cận các chính sách sử
dụng chính phủ điện tử cũng phát triển cao hơn.
47
47
Kết luận
Thanh toán điện tử trên thế giới nói chung và thanh toán điện tử Việt
Nam nói riêng đang có những bước phát triển mới. Thực tế cho thấy việc đưa
ra một loại hình thanh toán điện tử chung, được ứng dụng và được chấp nhận
rộng rãi trên toàn thế giới là không khả thi. Vì vậy tùy vào sự phát triển của
mỗi quốc gia mà họ có một hình thức thanh toán điện tử riêng phù hợp. Đối
với Việt Nam, người dân khó có thể sử dụng các công cụ thanh toán phổ biến
trên thế giới do gặp phải những khó khăn do thói quen trong thanh toán, cũng
như sự giới hạn từ phía nhà cung cấp nước ngoài do lịch sử các giao dịch xấu
của Việt Nam từ trước đến nay. Còn đối với các công cụ thanh toán điện tử do
các nhà cung cấp trong nước thì cũng còn nhiều hạn chế về chức năng và sự
phổ biến. Do đó với đề tài này của mình, chúng tôi đã giải quyết một mắt xích
quan trọng trong sự phát triền và mở rộng của thương mại điện tử Việt Nam
thông qua việc xây dựng một công cụ thanh toán mới là e- ATM trên nền tảng
công cụ thanh toán phổ biến tại Việt Nam là ATM. Chúng tôi tin tưởng rằng,
khi được đưa vào áp dụng thực tế, đề tài của chúng tôi sẽ mang lại những
chuyển biến tích cực đối với thanh toán điện tử Việt Nam nói riêng và thương
mại điện tử Việt Nam nói chung.
Đề tài không thể tránh được thiếu sót nên chúng tôi rất mong nhận được
góp ý của hội đồng giám khảo để đề tài được hoàn thiện hơn.
48
48
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo về tổng quan thương mại điện tử 2008, 2009
2. Giáo trình thương mại điện tử ĐH Ngoại Thương- 9/2008
3. Comptroller’s handbook, Comptroller of currency- Administrator of
national banks, 10/1999
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14. Paypal và cuộc chiến với ebay và mafia.
Ý kiến của người hướng dẫn Người thực hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E-ATM Giải pháp cho công cụ thanh toán mạnh và phổ biến trong thanh toán điện tử tại Việt Nam.pdf