Những năm gần đây, dệt may luôn được coi là ngành công nghiệp mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Nhiều năm liền, ngành dệt may đứng thứ hai trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo thêm việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, chất lượng các sản phẩm dệt may Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường thế giới.
Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt trên 11 tỷ USD, đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong 26 mặt hàng chính của cả nước. Có sự tăng trưởng liên tục và vững chắc như vậy là nhờ đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, sự nỗ lực của nhiều cấp, nhiều ngành trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường và sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Hiện nay, thị trường Châu Âu (EU) đang được đánh giá là thị trường rất có triển vọng cho các sản phẩm dệt may của các quốc gia trên thế giới. Đó là thị trường rộng lớn, có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định, là thị trường có nhiều tiềm năng cần khai thác.
Tuy nhiên khi thâm nhập vào thị trường EU, chúng ta phải đối đầu với rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh, có lợi thế hơn hẳn ta về thị trường, chi phí sản xuất và sự đa dạng của sản phẩm như Trung Quốc, Thái Lan Điều này đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, kiểu cách Có như vậy ta mới có thể đứng vững và cạnh tranh được với hàng dệt may nước bạn. Chính vì thế mà em chọn đề tài “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty May 10 sang Châu Âu” để nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào EU.
LỜI MỞ ĐẦU .1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY MAY 10 .3
1.1 Qúa trình phát triển .3
1.2 Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty .6
1.2.1 Cơ cấu bộ máy 6 Chức năng của các phòng ban 8
1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh 11
1.3.1 Cơ cấu hàng xuất khẩu .11
1.3.2 Thị trường xuất khẩu chính 12
1.3.3 Tăng trưởng kinh doanh hàng năm 12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA TỔNG CÔNG TY MAY 10 SANG EU 14
2.1 Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu .14
2.1.1 Chuẩn bị hàng xuất khẩu và kiểm tra hàng hoá .14
2.1.2 Làm thủ tục thông quan và giao hàng cho người vận tải 15
2.1.3 Làm thủ tục thanh toán hợp đồng 16
2.2 Đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty sang EU 17
2.2.2 Thành quả .18
2.2.3 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế .19
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TỔNG CÔNG TY MAY 10 ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀO EU 21
3.1 Triển vọng để Tổng công ty May 10 xuất khẩu hàng dệt may vào EU .21
3.1.1 Cơ hội .21
3.1.2 Thách thức . 21
3.2 Một số giải pháp để Tổng công ty May 10 đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào EU .23
3.2.1 Đầu tư vào nguồn nhân lực . 23
3.2.2 Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng về mẫu mã .24
3.2.3 Tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may Asean .25
3.2.4 Đầu tư thích đáng cho hoạt động nghiên cứu mở rộng thị trường .26
3.2.5 Đẩy mạnh công tác Marketing quốc tế 26
3.2.6 Thiết lập và quản lý quan hệ cá nhân .27
3.2.7 Cần tìm hiểu và nắm chắc các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 29
3.2.8 Nắm chắc thông tin về những biện pháp bảo hộ mới .31
KẾT LUẬN .32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2701 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty May 10 sang Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong các thầy, cô chỉ bảo giúp em để đề tài hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình và tạo điều kiện thuận lợi của các thầy, cô trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế (Đại học Ngoại thương), đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của Thạc sĩ Phan Thu Hiền đã dành cho em trong suốt quá trình nghiên cứu để em hoàn thành đề tài này!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hường
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY MAY 10
Qúa trình phát triển của Tổng công ty
Tiền thân của Tổng công ty May 10 ngày nay là các xưởng may quân trang thuộc ngành quân nhu được thành lập từ năm 1946 ở các chiến khu trên toàn quốc để phục vụ bộ đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp bảo vệ Tổ quốc. Sau cách mạng tháng Tám 1945, Pháp trở lại xâm lược nước ta, việc may quân trang cho bộ đội trở thành công tác quan trọng, nhiều cơ sở may được hình thành.
Sau ngày 19/12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, một số công xưởng, nhà máy của ta ở Hà Nội dời lên núi rừng Việt Bắc tổ chức thành hai hệ thống sản xuất trong đó may quân trang là hệ chủ lực và hệ bán công xưởng.
Từ năm 1947 đến 1949, việc may quân trang không chỉ tiến hành ở Việt Bắc mà còn ở nhiều nơi khác như Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Đông… Để giữ bí mật, các cơ sở sản xuất này được đặt tên theo bí số của quân đội như: X1, X30, hay AM1… đây chính là những đơn vị tiền thân của xưởng May 10 sau này.
Đến năm 1952, xưởng May 1 (X1) ở Việt Bắc được đổi tên thành xưởng May 10 với bí số là X10 và đóng ở Tây Cốc (Phú Thọ). Đến năm 1953, xưởng May 10, với quy mô lớn hơn, chuyển về Bộc Nhiêu (Định Hóa – Thái Nguyên). Tại đây, May 10 đã ngày đêm miệt mài sản xuất trên 10 triệu sản phẩm quân trang, quân dụng các loại phục vụ kháng chiến.
Năm 1954, kháng chiến thắng lợi, xưởng May 10 được chuyển về Hà Nội. Cùng thời gian đó, xưởng May X40 ở Thanh Hóa cũng được chuyển về Hà Nội, sáp nhập với xưởng May 10, lấy Hội Xá thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ, nay là Phường Sài Đồng, quận Long Biên, Hà Nội để làm địa điểm sản xuất chính.
Đến tháng 10 năm 1955, Tổng cục Hậu cần tiến hành biên chế cho xưởng May 10.564 cán bộ, công nhân viên. Cuối năm 1956 đầu năm 1957, xưởng May 10 đã được mở rộng thêm, máy móc cũng được trang bị thêm, và có tất cả là 253 chiếc máy may, trong đó có 236 chiếc chạy bằng điện. Nhiệm vụ của xưởng May 10 lúc này vẫn là may quân trang cho quân đội là chủ yếu.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng đất nước khi miền Bắc đi lên CNXH, tháng 2 năm 1961, xưởng May 10 được chuyển sang Bộ Công nghiệp nhẹ quản lý và đổi tên thành Xí nghiệp May 10, từ đó nhiệm vụ của nhà máy là sản xuất theo kế hoạch của Bộ Công nghiệp nhẹ giao hàng năm tính theo giá trị tổng sản lượng. Sau 4 năm, xí nghiệp May 10 từ một nhà máy sản xuất theo chế độ bao cấp may quân trang phục vụ cho quân đội lâu năm chuyển sang tự hạch toán phải thích ứng với thị trường nên xí nghiệp đã gặp không ít khó khăn về tổ chức và tư tưởng. Tuy nhiên, bằng cách chấn chỉnh và tăng cường bộ máy chỉ đạo quản lý, giáo dục tư tưởng, xí nghiệp đã dần vượt qua những khó khăn đó và luôn hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước giao, năm sau cao hơn năm trước.
Năm 1965, giặc Mỹ đánh phá miền Bắc lần thứ nhất, xí nghiệp May 10 đứng trước nguy cơ bị bắn phá. Trước tình hình mới, xí nghiệp đã tổ chức, đôn đốc việc sơ tán, mặt khác tiến hành giáo dục tư tưởng không ngại khó, ngại khổ, phát huy tinh thần trách nhiệm của Đảng viên và quần chúng hoàn thành nhiệm vụ sản xuất.
Đến cuối năm 1968, chiến tranh phá hoại lần 1 kết thúc, các phân xưởng lần lượt trở về. Trong 2 năm 1968 – 1969, xí nghiệp May 10 tuyển thêm công nhân và mở thêm phân xưởng 4 và phân xưởng 5.
Đến đầu năm 1972, giặc Mỹ đánh phá miền Bắc lần 2, xí nghiệp lại một lần nữa phải tiến hành sơ tán. Mặc dầu phải sơ tán hai đợt và bị địch tàn phá nặng nề nhưng xí nghiệp May 10 đã thực hiện tốt công tác phòng tránh địch tàn phá, không có người chết, người bị thương và bảo vệ được toàn bộ máy móc thiết bị.
Từ năm 1973 đến 1975, để phục vụ cho giai đoạn nước rút trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cán bộ, công nhân viên xí nghiệp May 10 đã được cấp trên giao nhiệm vụ sản xuất thật nhiều quân trang và đều hoàn thành xuất sắc.
Sau năm 1975, xí nghiệp May 10 chuyển sang sản xuất và gia công hàng xuất khẩu, thị trường chủ yếu lúc này là Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu thường qua các hợp đồng mà Chính phủ Việt Nam ký với các nước này. Trong giai đoạn này, hàng năm xí nghiệp May 10 xuất sang thị trường các quốc gia trên từ 4 đến 5 triệu áo sơ-mi.
Kể từ Đại hội VI năm 1986, Đảng đã đề ra đường lối Đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nắm bắt được tinh thần của đường lối đổi mới, xí nghiệp May 10 đã từng bước có những đổi mới trong tư duy kinh tế và đường hướng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ 1986 đến 1990, thị trường chính của xí nghiệp May 10 vẫn là thị trường khu vực I (Liên Xô, Đông Âu), và hàng năm xuất khẩu vào các thị trường này từ 4 đến 5 triệu sản phẩm áo sơ-mi theo nội dung các Nghị định thư hàng hóa ký kết giữa Việt Nam và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV).
Đến những năm 1990 – 1991, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã làm các mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp bị mất thị trường. Trước tình hình đó, xí nghiệp May 10 đã mạnh dạn chuyển sang thị trường Khu vực II như Đức, Bỉ, Nhật…. Cùng với sự nỗ lực trong cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng, thay đổi mẫu mã, xí nghiệp đã thành công trong việc thâm nhập những thị trường đó.
Tháng 11 năm 1992, Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định chuyển xí nghiệp May 10 thành Công ty May 10 với tên giao dịch quốc tế là “GARCO10”. Kể từ đó, công ty đã mạnh dạn đầu tư, trang bị thêm kỹ thuật, công nghệ mới, đào tạo công nhân và cán bộ quản lý, cải tạo và xây dựng mới nhà xưởng, cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân, mở rộng thị trường quốc tế và coi trọng thị trường trong nước …
Đến năm 2005, theo Quyết định của Bộ Công nghiệp, công ty May 10 được chuyển thành Tổng công ty May 10, trực thuộc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), với số vốn điều lệ là 54 tỷ đồng; tên giao dịch quốc tế viết tắt là GARCO 10; có trụ sở chính tại phường Sài Đồng, quận Long Biên, Hà Nội.
Sau hơn 60 năm thành lập, Tổng công ty May 10 trải qua nhiều giai đoạn phát triển thăng trầm cùng với tiến trình của lịch sử, đến nay đã trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng may mặc.
Năm 1998, Tổng công ty được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động và năm 2005 được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.
Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty May 10
1.2.1 Cơ cấu bộ máy
* Tổng công ty May 10 có các đơn vị sản xuất chính bao gồm 11 xí nghiệp thành viên, trong đó có 5 xí nghiệp tại May 10, 6 xí nghiệp tại các địa phương, và 2 công ty liên doanh, cùng 3 phân xưởng phụ trợ.
* Sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị của Tổng công ty May 10:
ĐDLĐ VỀ MT
GĐ ĐIỀU HÀNH
ĐDLĐ VỀ AT
PHÓ TỔNG GĐ
ĐDLĐ VỀ CL
GĐ ĐIỀU HÀNH
P.TCKT
Ban đầu tư
Văn phòng
P.Kế hoạch
XN may 1, 2, 5
P.Kinh doanh
P.QA
P.Kỹ thuật
XN veston 1, 2
XN địa phương
P.Kho vận
Trường ĐT
Trưởng ca A
Tổ hòm hộp
Tổ quản trị
Tổ kiểm hóa
Trưởng ca B
Các tổ may
Tổ cắt A
Tổ là A
Các tổ may
Tổ cắt B
Tổ là B
GĐ ĐIỀU HÀNH
TỔNG GIÁM ĐỐC
Các PX phụ trợ
(Nguồn: Văn phòng Tổng công ty May 10)
Bảng 1.1: Các đơn vị sản xuất chính của Tổng công ty May 10.
Đơn vị
Diện tích (m2)
Địa điểm
Lao động
Năng lực sản xuất
Sản phẩm
chính
Thị trường
May 1
2.000
Hà Nội
750
2.200.000
Sơmi các loại
Nhật, Mỹ, EU
May 2
2.000
Hà Nội
750
2.300.000
Sơmi các loại
Hung, Mỹ, EU
May 5
2.000
Hà Nội
750
2.000.000
Sơmi các loại
Mỹ, EU
Veston 1
2.000
Hà Nội
600
500.000
Veston
Mỹ, EU
Veston 2
2.000
Hà Nội
500
200.000
Veston
Nhật Bản.
Vị Hoàng
1.560
Nam Định
350
700.000
Quần, Jacket
Mỹ, EU
Đông Hưng
800
Thái Bình
350
700.000
Quần, Jacket
Mỹ, EU
Hưng Hà
9.500
Thái Bình
1.200
2.000.000
Quần, Jacket
Mỹ, EU
Thái Hà
1.800
Thái Bình
800
2.000.000
Sơmi, Jacket
Mỹ, EU
Bỉm Sơm
2.300
Thanh Hóa
800
1.000.000
Quần, Jacket
Mỹ, EU
Hà Quảng
4.500
Quảng Bình
600
1.600.000
Sơmi, Jacket
Mỹ, EU
Liên doanh Phù Đổng
850
Hà Nội
300
1.000.000
Sơmi, Jacket
Mỹ, EU
Liên doanh Thiên Nam
6.500
Hải Phòng
600
500.000
Veston
Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật
(Nguồn: Văn phòng Tổng công ty May 10)
Chức năng của các phòng ban
* Qua “sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị của Tổng công ty May 10” ở trên, ta thấy, bộ máy quản trị của Tổng công ty là mô hình theo kiểu trực tuyến – chức năng. Các phòng ban trong công ty không trực tiếp ra các quyết định quản lý, mà chỉ thực hiện các công việc chuyên môn của mình, tiến hành nghiên cứu, hỗ trợ, đôn đốc các đơn vị, xí nghiệp sản xuất, nhằm tham mưu cho Tổng giám đốc, phó Tổng giám đốc và các giám đốc điều hành. Đồng thời các quyết định quản lý được truyền xuống theo tuyến dọc.
* Tồng giám đốc: Là người chỉ huy cao nhất trong Tổng công ty, có nhiệm vụ quản lý toàn diện các vấn đề của công ty. Xây dựng các chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn và kế hoạch hàng năm, các dự án đầu tư và hợp tác của công ty. Tổ chức bộ máy quản lý để điều hành công ty, bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh, khen thưởng, kỷ luật tùy theo mức độ mà Hội đồng khen thưởng kỷ luật công ty xem xét thông qua.
* Phó tổng giám đốc: Là người giúp việc cho Tổng giám đốc trong việc quản lý Tổng công ty, và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về các quyết định của mình. Được ủy quyền đàm phán và ký kết một số hợp đồng kinh tế với các khách hàng trong và ngoài nước. Trực tiếp phụ trách 3 xí nghiệp may 1, 2, 5, và các phòng Kế hoạch, phòng Kinh doanh, phòng QA (phòng chất lượng).
* Các giám đốc điều hành: Là người giúp việc Tổng giám đốc trong việc quản lý Tổng công ty, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về các quyết định của mình. Trực tiếp phụ trách 2 xí nghiệp veston 1, 2, các xí nghiệp may thành viên địa phương, các phân xưởng phụ trợ, các phòng Kỹ thuật, phòng Kho vận và Văn phòng.
* Các phòng, ban chức năng:
- Phòng kế hoạch: Quản lý công tác kế hoạch và hoạt động xuất nhập khẩu, công tác cung ứng vật tư phục vụ sản xuất, soạn thảo và thanh toán các hợp đồng. Xây dựng và đôn đốc thực hiện kế hoạch sản xuất của các đơn vị để đảm bảo hoàn thành kế hoạch của Tổng công ty. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu.
- Phòng kinh doanh: Tổ chức kinh doanh sản phẩm may mặc phục vụ thị trường trong nước, đồng thời thực hiện công tác cung cấp vật tư, trang thiết bị theo yêu cầu đầu tư phát triển và phục vụ sản xuất kịp thời. Nghiên cứu sản phẩm chào hàng, tổ chức quảng cáo giới thiệu sản phẩm.
Phòng kinh doanh còn làm nhiệm vụ đàm phán và ký kết hợp đồng tiêu thụ với khách hàng trong nước, đặt hàng với phòng kế hoạch. Tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm may mặc và các hàng hóa khác theo quy định của công ty tại thị trường trong nước nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của Tổng công ty đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Phòng kỹ thuật: Quản lý công tác kỹ thuật công nghệ, cơ điện, tổ chức sản xuất, nghiên cứu ứng dụng các thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến nhằm phục vụ sản xuất. Nghiên cứu đổi mới máy móc, thiết bị theo yêu cầu của công ty nhằm đáp ứng sự phát triển của sản xuất kinh doanh của Tổng công ty.
- Phòng tài chính – kế toán: Quản lý công tác kế toán tài chính của Tổng công ty nhằm sử dụng đồng tiền và đồng vốn đúng mục đích, đúng chế độ, chính sách, hợp lý và phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Phòng QA (phòng chất lượng): Kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối cùng nhằm đảm bảo sản phẩm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu kỹ thuật theo quy định.
Ngoài ra, phòng QA cũng quản lý toàn bộ hệ thống chất lượng của công ty theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, duy trì và đảm bảo hệ thống chất lượng hoạt động có hiệu quả
- Văn phòng Tổng công ty: Đây là đơn vị tổng hợp vừa có chức năng giải quyết về nghiệp vụ quản lý sản xuất kinh doanh, vừa làm nhiệm vụ về hành chính và xã hội. Quản lý công tác cán bộ, lao động, tiền lương, hành chính, y tế, nhà trẻ, bảo vệ quân sự cùng các hoạt động xã hội theo chính sách và luật pháp hiện hành.
- Ban đầu tư phát triển: Quản lý công tác quy hoạch, đầu tư phát triển công ty: lập dự án đầu tư, tổ chức thiết kế, thi công và giám sát thi công các công trình xây dựng cơ bản, đồng thời bảo dưỡng, bảo trì các công trình xây dựng và kiến trúc của Tổng công ty.
- Trường công nhân kỹ thuật may và thời trang: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, điều hành, cán bộ nghiệp vụ và công nhân kỹ thuật phục vụ cho quy hoạch cán bộ, sản xuất kinh doanh và theo yêu cầu của các tổ chức kinh doanh. Đồng thời, thực hiện công tác xuất khẩu lao động, đưa công nhân viên, học sinh đi học tập, tu nghiệp ở nước ngoài.
* Ngoài ra, Tổng công ty còn có các phân xưởng sản xuất phụ bao gồm 3 phân xưởng:
- Phân xưởng thêu in giặt: Có trách nhiệm thêu in các họa tiết vào các chi tiết sản phẩm theo đúng hình dáng, vị trí, nội dung quy định. Đồng thời tiến hành giặt sản phẩm trước khi đưa vào đóng gói nếu được quy định trong hợp đồng.
- Phân xưởng cơ điện: Có trách nhiệm phụ trợ, duy trì nguồn điện cho sản xuất, đồng thời bảo dướng và sửa chữa máy móc thiết bị khi có sự cố xảy ra.
- Phân xưởng bao bì: Có trách nhiệm cung cấp các loại bao bì carton và một phần phụ liệu (bìa lưng, khoang cổ giấy) phục vụ cho đóng gói sản phẩm.
1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của Tổng công ty
Cơ cấu hàng xuất khẩu
Với 8000 lao động, mỗi năm Tổng công ty May 10 sản xuất trên 20 triệu sản phẩm chất lượng cao các loại. Hàng năm, bình quân lượng sản phẩm may mặc tiêu thụ của Tổng công ty ở thị trường nước ngoài là rất lớn, khoảng trên 10 triệu chiếc. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu bao gồm áo sơ-mi, quần, áo Jacket, comple, veston, và váy. Trong đó, mặt hàng chủ lực là áo sơ-mi, luôn chiếm trên 70% và hiện có xu hướng giảm nhẹ. Thay vào đó là sự tăng lên của những mặt hàng khác như quần và áo Jacket.
Có thể thấy rằng, những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Tổng công ty là những sản phẩm đã có thương hiệu và uy tín lớn trên thị trường, đó đều là những sản phẩm mang tính thời trang cao, mà không có sự xuất hiện của những sản phẩm như quần áo bảo hộ lao động, tất hay caravat… vốn không phải là thế mạnh của Tổng công ty trên thị trường quốc tế.
1.3.2 Thị trường xuất khẩu chính
* Với sự nỗ lực không ngừng trong những năm qua, Tổng công ty May 10 đã khẳng định được sự vượt trội của mình và hiện nay đang là đối tác chiến lược của các đối tác có tên tuổi trên thế giới như:
- Ở Thị trường EU: Miles; Handelsgesellschaft; International MHB; New M; Seidensticker; Target; K - Mart Supreme
- Ở Thị trường Mỹ: Prominent Apparent Ltd; Seidensticker; Supreme; Target; Li & Fung; May Dept; Fishman and Tobin; JC Penney; New M; K-Mart; Mast; Mangharam; Resourses Vietnam
- Ở Thị trường Nhật Bản: Itochu Corp
1.3.3 Tăng trưởng kinh doanh hàng năm
Trong những năm qua, bằng sự nỗ lực của cả tập thể cán bộ công nhân viên, Tổng công ty May 10 đã và đang vượt qua những khó khăn thách thức trong hoạt động sản xuất kinh doanh và ngày càng phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp của Tổng công ty May 10 năm 2008 là 228 tỷ 591 triệu đồng, tăng 19,62% so với năm 2007; Tổng doanh thu đạt 619 tỷ 575 triệu đồng, tăng 25,64% so với năm trước; Lợi nhuận 16 tỷ 679 triệu đồng, tăng 0,33% so với cùng kỳ; Trong năm 2008, thu nhập bình quân người lao động đạt 2,16 triệu đồng/người/tháng; Chia cổ tức 12%/năm.
Năm 2009 tình kinh tế thế giới còn bị ảnh hưởng trầm trọng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế Mỹ bị khủng hoảng, sức mua giảm mạnh, nhiều ngân hàng, tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới bị phá sản ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, với sự đồng thuận và nỗ lực không ngừng, May 10 đã hoàn thành các chỉ tiêu chính và đều tăng so với thực hiện của năm 2009, như: Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 251 tỷ 896 triệu đồng, tăng 10,19%; Tổng doanh thu đạt 650 tỷ đồng, tăng 4,91%; Lợi nhuận khoảng 17 tỷ đồng, tăng gần 2% và Thu nhập bình quân người lao động 2,214 triệu đồng/người/tháng, tăng 2,5 %; Chia cổ tức trên 12%/năm.
Bước sang năm 2010, Tổng công ty tiếp tục đạt doanh thu cao với 810 tỷ đồng, lợi nhuận 18 tỷ đồng; Lao động bình quân khoảng 7.300 người với thu nhập bình quân đạt 2,4 triệu đồng/người/tháng; Chia cổ tức 13%/năm.
Ngoài những sản phẩm xuất khẩu thì Tổng Công ty May 10 cũng là một trong những doanh nghiệp đầu tiên của ngành dệt may Việt Nam quan tâm phát triển thương hiệu tại thị trường trong nước, thông qua việc mở rộng kênh phân phối, đa dạng hóa mẫu mã, sản phẩm. Các sản phẩm mang thương hiệu May 10 hiện có mặt ở tất cả các kênh phân phối hiện đại với thiết kế thống nhất để người tiêu dùng dễ dàng nhận diện. Hiện nay, ngoài 150 cửa hàng, đại lý bán, giới thiệu sản phẩm trong cả nước, May 10 đang tiếp tục phát triển hệ thống phân phối và thực hiện chương trình đưa hàng về nông thôn. Để tiếp tục mở rộng thị trường, doanh nghiệp đã thành lập trung tâm kinh doanh thương mại, phát triển mô hình chuỗi siêu thị bán lẻ, nhằm chủ động đưa sản phẩm của doanh nghiệp đến với người tiêu dùng cả nước, cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu và đạt doanh thu nội địa 150 tỷ đồng trong năm 2010.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA TỔNG CÔNG TY MAY 10 SANG EU
2.1 Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
2.1.1 Chuẩn bị hàng xuất khẩu và kiểm tra hàng hoá
Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, Tổng công ty phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu và kiểm tra hàng hoá trước khi xuất kho, thông qua các bước sau:
- Lập kế hoạch sản xuất: Căn cứ yêu cầu tiến độ của đơn hàng, lên kế hoạch đưa hàng vào sản xuất, đôn đốc các bộ phận liên quan chuẩn bị tốt các điều kiện cho sản xuất và làm các thủ tục xuất hàng khi sản xuất xong.
- Chuẩn bị sản xuất: Căn cứ kế hoạch sản xuất, tiến hành chế thử sản phẩm, nghiên cứu xây dựng quy trình, hướng dẫn, tiêu chuẩn kỹ thuật. Chuẩn bị máy móc thiết bị mẫu dưỡng, các tài liệu liên quan, và nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất.
- Công đoạn cắt: Chịu trách nhiệm cắt các loại nguyên liệu theo mẫu của bộ phận chuẩn bị sản xuất. Ép mếc vào các chi tiết theo quy định.
- Công đoạn thêu, in: Chịu trách nhiệm thêu, in các họa tiết vào chi tiết trên sản phẩm, hình dáng, vị trí, nội dung các họa tiết theo quy định.
- Công đoạn may: Chịu trách nhiệm lắp ráp các chi tiết để tạo thành sản phẩm, thùa khuyết, đính cúc, phụ liệu trang trí theo quy định cụ thể của từng đơn hàng.
- Công đoạn giặt (chỉ áp dụng cho các đơn hàng yêu cầu giặt): Chịu trách nhiệm giặt sản phẩm hoàn thành theo yêu cầu cụ thể của từng đơn hàng.
- Công đoạn là, gấp: Chịu trách nhiệm là, ép và gấp các loại sản phẩm cùng với các loại phụ liệu là gấp theo quy định.
- Công đoạn đóng gói: Chịu trách nhiệm bao gói và đóng gói sản phẩm vào thùng carton theo tỷ lệ và số lượng quy định cụ thể của từng đơn hàng.
Việc kiểm tra chất lượng được thực hiện ở cuối mỗi công đoạn sản xuất, nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời hiện tượng sai hỏng hàng loạt, loại bỏ những sản phẩm và bán thành phẩm không đạt yêu cầu trước khi chuyển sang công đoạn sau.
Sản phẩm, thành phẩm kiểm tra đạt yêu cầu được chuyển vào kho và sắp xếp theo từng khách hàng, địa chỉ giao, có phân biệt màu sắc, cỡ vóc theo từng lô hàng. Gần đến ngày giao hàng thì sẽ đóng hàng vào container.
2.1.2 Làm thủ tục thông quan và giao hàng cho người vận tải
* Sau khi hàng hoá xuất khẩu đã được chuẩn bị, đảm bảo yêu cầu chất lượng và được chuyển vào kho thì Phòng Kế hoạch sẽ làm tiếp nhiệm vụ làm thủ tục thông quan theo các bước:
- Khai báo hải quan: Nhân viên Phòng Kế hoạch sẽ làm thủ tục mở tờ khai hải quan. Ghi tên đầy đủ và địa chỉ của doanh nghiệp xuất khẩu, kể cả số điện thoại và fax. Ghi mã số đăng ký của doanh nghiệp xuất khẩu (Tổng công ty May 10) do Cục hải quan TP.Hà Nội cấp.
Cơ quan hải quan sẽ tiếp nhận hồ sơ; kiểm tra điều kiện và đăng ký tờ khai hải quan. Khi đó có hai trường hợp sẽ xảy ra:
+ Trường hợp thứ nhất: Cơ quan hải quan sẽ kiểm tra hồ sơ và thông quan đối với lô hàng miễn kiểm tra thực tế hàng hoá. Sau đó, chi cục hải quan sẽ xác nhận công ty đã làm thủ tục hải quan và thu thuế, lệ phí hải quan; đóng dấu "Đã làm thủ tục hải quan"; trả tờ khai cho người khai hải quan đối với hồ sơ được miễn kiểm tra thực tế hàng hoá.
+ Trường hợp thứ 2: Cơ quan hải quan sẽ kiểm tra thực tế hàng hóa đối với lô hàng phải kiểm tra thực tế, theo các bước sau: Đề xuất xử lý việc khai bổ sung khi người khai hải quan có yêu cầu trước thời điểm kiểm tra thực tế hàng hoá; Kiểm tra thực tế hàng hóa; Ghi kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá và kết luận kiểm tra; Xử lý kết quả kiểm tra; Xác nhận đã làm thủ tục hải quan. Sau khi đã thực hiện xong các bước theo quy trình trên thì cơ quan hải quan sẽ tiến hành thu thuế, lệ phí hải quan; đóng dấu "Đã làm thủ tục hải quan"; trả tờ khai cho người khai hải quan. Tuy nhiên, trên thực tế của công ty thì trường hợp thứ 2 này không thường xuyên xảy ra.
* Hiện nay, Tổng công ty May 10 đang thực hiện theo quy định mới của Tổng cục Hải quan là áp dụng hình thức khai báo hải quan điện tử. Nghĩa là nhân viên của Phòng Kế hoạch chỉ cần nhập và gửi số liệu vào hệ thống phần mềm điện tử của hải quan được cài đặt sẵn trong máy tính tại Tổng công ty và chờ cơ quan hải quan tiếp nhận thông tin và xác nhận thông quan của hải quan. Như vậy, sẽ tiết kiệm được chi phí đi lại và thời gian cho doanh nghiệp.
- Khi tờ khai hải quan được mở, Tổng công ty sẽ giao hàng cho bên vận tải (là bên thứ 3 do người mua chỉ định), tờ khai đó sẽ phải xuất trình tại cảng, trước khi hàng lên tàu rời khỏi cảng. Toàn bộ quá trình bên xuất khẩu giao hàng cho bên vận tải sẽ diễn ra dưới sự giám sát của nhân viên hải quan quản lý cảng biển đó (ở đây là cảng Hải Phòng).
- Hiện nay Tổng công ty May 10 chủ yếu xuất khẩu hàng may mặc theo điều kiện FOB. Vì vậy, bên nhập khẩu có trách nhiệm thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm hang hoá.
2.1.3 Làm thủ tục thanh toán hợp đồng
Hiện nay, đối với các hợp đồng xuất khẩu hàng dệt may sang EU, Tổng công ty May 10 đang áp dụng hình thức thanh toán chủ yếu là bằng thư tín dụng. Bởi vì đây là hình thức thanh toán hợp đồng xuất khẩu phổ biến hiện nay, đó là hình thức mà Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) thay mặt người nhập khẩu cam kết với người xuất khẩu hoặc người cung cấp hàng hoá (ở đây là Tổng công ty May 10) sẽ trả tiền trong thời gian qui định khi người xuất khẩu hoặc người cung cấp hàng hoá xuất trình những chứng từ phù hợp với qui định trong L/C đã được Ngân hàng ngoại thương Hà Nội (chi nhánh Long Biên) mở theo yêu cầu của người nhập khẩu (Mẫu mở L/C được in sẵn do Ngân hàng ngoại thương Hà Nội - chi nhánh Long Biên cấp). Trước khi mở L/C, bên nhập khẩu thỏa thuận cụ thể với Tổng công ty May 10 về các khoản thanh toán, lịch giao hàng, phương tiện giao hàng, và các chứng từ cần xuất trình.
Sau khi hàng đã được chuyển lên tàu, nhân viên của Tổng công ty sẽ chuẩn bị tất cả những chứng từ đã yêu cầu trong L/C để xuất trình tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội – chi nhánh Long Biên và các thủ tục cần thiết để thanh toán hợp đồng.
2.2 Đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty sang EU
2.2.1 Thành quả
Với sự cố gắng nỗ lực không ngừng của lãnh đạo và tập thể Tổng công ty May 10, trong những năm gần đây, Tổng công ty đã đạt được một số thành quả sau:
* Thứ nhất, Tổng công ty May 10 đã lựa chọn cho mình một hướng đi đúng trong những năm qua, đó là, một mặt thúc đẩy thị trường xuất khẩu, trong đó tìm cách tăng sản lượng xuất khẩu theo hình thức FOB (bên bán giao hàng cho bên mua đã qua lan can tàu tại cảng bốc hàng qui định - ở đây là cảng Hải Phòng), giảm tỷ trọng gia công xuất khẩu, mặt khác, không ngừng phát triển thị trường trong nước, nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận, đồng thời giảm sự phụ thuộc vào thị trường nước ngoài.
* Thứ hai, Tổng công ty cũng đã tập trung phát triển vào những mặt hàng khác như quần âu, áo Jacket…, bên cạnh sản phẩm chủ lực là áo sơ-mi. Sự đa dạng hóa mặt hàng cho phép Tổng công ty tăng doanh thu, tìm kiếm thêm được những đối tác mới ở những mặt hàng đó. Sản phẩm của Tổng công ty ngày càng phong phú về chất lượng, kiểu dáng, màu sắc, giá cả…được người tiêu dùng châu Âu ưa chuộng.
* Thứ ba, đối với thị trường xuất khẩu, công ty cũng tìm kiếm những thị trường mới, bên cạnh 3 thị trường truyền thống là Mỹ, EU, Nhật Bản. Một mặt công ty vẫn tiếp tục khai thác thị trường Mỹ, mặt khác, tìm kiếm thị trường mới và khai thác mạnh hơn thị trường Nhật Bản và EU.
* Thứ tư, Tổng công ty đã và đang áp dụng những hệ thống tiên tiến nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh, đó là hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000:2002, hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000. Đồng thời, Tổng công ty cũng không ngừng đầu tư trang thiết bị, máy móc, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, và mở rộng nhà xưởng.
Tổng công ty May 10 hiện nay đã có cơ sở vật chất khang trang, công nhân chỉ còn làm việc trong một ca như giờ hành chính, không phải làm ca đêm, ca ba như trước. Nhờ vậy đã nâng cao được năng suất lao động, ổn định chất lượng sản phẩm, đáp ứng các yêu cầu của đối tác nước ngoài về chất lượng, số lượng và tiến độ giao hàng.
Có thể nói, Tổng công ty May 10 đã biết kết hợp các thế mạnh của mình với nhu cầu và đặc điểm thị trường EU trong từng giai đoạn để đạt được những thành công nhất định trong sản xuất kinh doanh.
2.2.2 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế
Ngoài những thành quả mà Tổng công ty May 10 đã đạt được trong quá trình xuất khẩu vào EU trong thời gian qua thì cũng không thể tránh khỏi những hạn chế cả về mặt chủ quan và khách quan, khiến Tổng công ty chưa thể khai thác hết tiềm năng xuất khẩu hàng may mặc vào EU:
* Thứ nhất, việc Tổng công ty mua nguyên phụ liệu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu theo hình thức FOB còn phụ thuộc nhiều vào nguồn cung ứng bên ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc và các nước Asean nên chưa thể chủ động được nguồn hàng lớn trong khoảng thời gian ngắn khi có nhu cầu.
* Thứ hai, hoạt động Marketing quốc tế của Tổng công ty còn yếu, công tác thị trường tại EU còn sơ sài, chưa coi quảng cáo là một công cụ cạnh tranh thực sự.
* Thứ ba, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU phải cạnh tranh gay gắt với hàng dệt may từ Trung Quốc do chế độ hạn ngạch mà EU áp dụng đối với hàng dệt may Trung Quốc đã được xóa bỏ. So với Việt Nam, hàng dệt may Trung Quốc có năng lực cạnh tranh lớn do chủ động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại chủng loại hàng hoá.
* Thứ tư, bất chấp hệ thống điều hoà EU, có thể tạo điều kiện cho thương mại tự do giữa các nước thành viên trong EU, mỗi thị trường thành viên có những yêu cầu khác nhau liên quan đến vấn đề chất lượng, loại vải, sợi, các tiêu chuẩn, kích cỡ, màu sắc. Không có tiêu chuẩn chung của EU cho các sản phẩm may mặc. Đa số các nhà nhập khẩu, đặc biệt là các tổ chức bán lẻ, làm việc trên cơ sở một số các yêu cầu tối thiểu. Trên khía cạnh này, nhà nhập khẩu đã hình thành và đưa ra những yêu cầu chất lượng tối thiểu liên quan đến cả vật liệu và sản xuất. Các khía cạnh về môi trường cũng đóng một vai trò trong nhóm sản phẩm thường phục, khi chuẩn bị xuất khẩu vào thị trường Châu âu. Các khía cạnh môi trường của sản phẩm được coi là vấn đề chính hiện nay. Bên cạnh các quy định của chính phủ, có một sự nhận thức mạnh mẽ của người tiêu dùng đặc biệt là các quốc gia phía bắc EU (các quốc gia Scandinavia , Đức, Hà Lan). Hiện nay khía cạnh về môi trường của sản phẩm trở thành một vấn đề lớn nhất quyết định sự thành công trong thị trường EU.
Bên cạnh luật pháp, một trong những công cụ chính của EU trong việc xúc tiến các sản phẩm môi trường là hình thức thưởng ưu đãi giảm trên “thuế môi trường” trên sản phẩm. Ví dụ các hệ thống ưu đãi thường là những trợ giá thông thường và hỗ trợ kế hoạch tổ chức, tuy nhiên các hệ thống thuế này cũng hỗ trợ hệ thống GSP xanh. Hệ thống GSP hoạt động trên cơ sở giả định rằng những ưu đãi tăng thêm có thể được thưởng cho doanh nghiệp, cho những nhà sản xuất cam kết vấn đề môi trường và cho những công ty nghiên cứu các kỹ thuật sản xuất sạch hơn. Ngoài ra nguyên tắc “tiền phạt đối với những người làm ô nhiễm” trở nên hiển nhiên tại EU, các chi phí ngăn ngừa và dọn dẹp ô nhiễm được quy trách nhiệm cho người gây ô nhiễm. Vì vậy, đây cũng là một yêu cầu mới mà văn hoá doanh nghiệp dệt may của Việt Nam chưa quen, do đó chưa thể tận dụng được hết cơ hội tăng doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp khi xuất khẩu vào EU.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TỔNG CÔNG TY MAY 10 ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀO EU
3.1 Triển vọng để Tổng công ty xuất khẩu hàng dệt may vào EU
3.1.1 Cơ hội
Là thị trường có 500 triệu khách hàng, với sức mua theo đầu người khoảng 32.700 USD/năm, EU được xem là thị trường tiềm năng và truyền thống của hàng dệt may Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may những năm gần đây của EU vào khoảng 180 tỷ USD. Đặc điểm của thị trường này với nhiều thị trường ngách, nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao. Do đó, thị trường EU rất phù hợp năng lực sản xuất và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam nói chung và của Tổng công ty May 10 nói riêng.
Thách thức
Thị trường EU là một thị trường đa dạng, năng động và đầy tính cạnh tranh nên các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển sẽ không có cơ hội thâm nhập thị trương nếu thiếu sự chuẩn bị. Các nhà xuất khẩu không nên vồ vập với mọi bản chào mua của các doanh nhân EU và cố khai thác mọi cơ hội kinh doanh có vẻ hấp dẫn. Tỷ lệ xác suất mà các nhà xuất khẩu thiếu kinh nghiệm gặp may mắn trong cuộc chơi hay bị thất bại ngay từ đầu là khá lớn. Rủi ro có khả năng xảy ra và thực sự sẽ xảy ra.
Các nhà xuất khẩu luôn được khuyến cáo nên chủ động và làm chủ tình hình, để tự đưa ra được định hướng. Điều này chỉ thực hiện được khi đã có sự chuẩn bị kỹ càng, đánh giá mục tiêu, đánh giá phương hướng, phương tiện và có lập kế hoạch từng bước một cách cẩn thận. Nói cách khác, các nhà xuất khẩu muốn xâm nhập thị trường EU trước tiên nên nghiên cứu đánh giá một số thị trường mục tiêu ở EU, các kênh thương mại và phân phối, đánh giá khả năng tận dụng cơ hội và đối phó với nguy cơ, lựa chọn chiến lược và chuẩn bị đương đầu với môi trường cạnh tranh.
Như vậy, nhìn từ tình hình thực tế và theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Công Thương, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU) đang gặp phải nhiều khó khăn và không dễ khắc phục ngay. Bởi lẽ, dệt may thuộc số các ngành công nghiệp sử dụng nhiều hoá chất. Các loại sợi, vải, quần áo và các phụ kiện dệt may đều có chứa nhiều loại hoá chất khác nhau như thuốc nhuộm, thuốc tẩy...
Vì vậy, các nhà sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và kinh doanh hàng dệt may có hàng bán tại EU đều phải xem xét và tuân thủ Quy định Reach. Một khó khăn nữa của các doanh nghiệp dệt may trong nước nói chung và của Tổng công ty May 10 trong việc kiểm tra chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào nhằm giảm thiểu những rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu là thiếu vốn để đầu tư các trang thiết bị kiểm tra hiện đại. Bên cạnh đó, việc cập nhật các thông tin của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế cũng làm tăng nguy cơ gặp phải rủi ro trong xuất khẩu.
Ngoài ra, cũng phải kể đến việc EU vẫn đang tìm mọi cách để duy trì chính sách bảo hộ sản xuất nội khối. Việc tăng trưởng xuất khẩu quá nhanh đối với mặt hàng nào vào EU cũng có thể đưa đến những hậu quả không mong muốn là EU sẽ tiến hành các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá. Đây cũng là một trong những khó khăn, thách thức lớn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam, bởi doanh nghiệp vừa phải tìm cách tăng cường thâm nhập thị trường, vừa phải tính toán ở mức độ thế nào cho hợp lý để không phải là đối tượng của các biện pháp bảo hộ.
Ngành may mặc là câu chuyện thành công chính của Việt Nam, và ngành mang lại doanh thu xuất khẩu lớn thứ hai của cả nước. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của ngành may mặc Việt Nam nói chung và Tổng công ty May 10 nói riêng vẫn còn chủ yếu dựa trên cho phí lao động thấp, và để nâng cao lợi nhuận và khả năng cạnh tranh, Việt Nam cần phát triển lên nấc cao hơn của chuỗi giá trị.
Nguồn vốn FDI tăng với chất lượng cao hơn sẽ hỗ trợ để ngành may mặc đạt được mục đích và sẽ giải quyết những yếu kém còn tồn động trong một số mảng như marketing, thiết kế, nguồn nguyên vật liệu, vốn và đào tạo. Tuy vậy, vẫn tồn tại những rào cản về mặt hành chính trong những lĩnh vực như thủ tục hải quan, cấp phép và kho bãi, gây cản trở cho thu hút FDI mới. Sự phát triển của ngành đòi hỏi phải hội nhập hoàn toàn vào mạng sản xuất khu vực. Hội nhập ASEAN và ASEAN cộng sẽ khuyến khích cơ cấu lại ngành dệt may, thuế MFN đối với ngành dệt may sẽ giảm dần theo thời gian khi thực hiện cơ cấu lại ngành này. Cải thiện hoạt động hậu cần và thuận lợi hóa thương mại sẽ góp phần đáng kể vào cải thiện khả năng cạnh tranh của ngành.
3.2 Một số giải pháp để Tổng công ty May 10 đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào EU
3.2.1 Đầu tư vào nguồn nhân lực
Đào tạo giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lực lượng lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự chuyển dịch sản xuất dệt may từ các nước công nghiệp đến Việt Nam kéo theo yêu cầu mạnh mẽ nguồn lực lượng lao động công nghiệp. Bên cạnh các yếu tố vốn, công nghệ thì chất lượng nhân lực đóng vai trò rất quan trọng, là yêu cầu cấp bách quyết định mục tiêu nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của Tổng công ty May 10 nói riêng và của ngành dệt may Việt Nam nói chung, đưa công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành mắt xích của hệ thống chuỗi kinh doanh và sản xuất hàng dệt may toàn cầu.
Việc đào tạo và quản lý cán bộ quản trị doanh nghiệp cấp cao được coi là khâu quan trọng. Tổng công ty May 10 cần chú trọng đến việc tổ chức định kỳ đào tạo nâng cao, cập nhật kiến thức, đào tạo bổ sung cho các cán bộ quản lý từ cấp trung trở lên, chuyên gia bán hàng, cán bộ kỹ thuật bằng các khoá ngắn hạn, thiết thực, gắn chặt với nội dung công việc cần làm.
Hàng năm,Tổng công ty phải tổ chức đánh giá, bố trí lại công việc phù hợp với chuyên môn, năng lực và kinh nghiệm của từng người. Đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kế cận trẻ, đào tạo cơ bản, sớm đáp ứng các yêu cầu của hội nhập. Cần tập trung phát triển nhân lực công nhân có kỹ năng cao (đa kỹ năng), kỷ luật và ý thức tác phong công nghiệp tốt, tạo ra năng suất lao động ngày càng cao hơn, biến năng suất lao động thành lợi thế cạnh tranh cơ bản của Tổng công ty.
Nhằm phục vụ cho công tác đào tạo, Tổng công ty May 10 cần bố trí chi phí đào tạo thích đáng trong cơ cấu chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần dành tối thiểu 0,5 – 1% giá thành sản phẩm cho hoạt động đào tạo.
Tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng về mẫu mã
Để chắc chắn rằng các nhà cung cấp hàng dệt may có khả năng cung cấp sản phẩm đạt một mức chất lượng nhất định, các khách hàng EU thường đòi hỏi nhà xuất khẩu phải đạt được những chứng chỉ tiêu chuẩn chất lượng nào đó. Hệ thống quản lý chất lượng được phổ biến nhất hiện nay là hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001:2000.
Hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đưa ra khuôn khổ tiêu chuẩn hoá các thủ tục và phương pháp làm việc, không chỉ liên quan tới hoạt động kiểm soát chất lượng mà còn liên quan tới toàn bộ khâu tổ chức: từ việc thu mua tới chế biến, kiểm soát chất lượng, bán hàng và quản trị hành chính. Hệ thống tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đòi hỏi nhà sản xuất phải miêu tả chi tiết các quy trình (hoặc hoạt động) của mình, xây dựng các thủ tục theo những quy trình hoặc hoạt động cần thiết đó, và phải áp dụng trong hoạt động kinh doanh hàng ngày.
Quy trình tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đảm bảo nhà sản xuất luôn tuân thủ theo một phương thức hoạt động và sản xuất ra những sản phẩm đạt chất lượng ổn định. Vì vậy, Tổng công ty nên tích cực thực hiện theo tiêu chuẩn này để làm tăng mức hài lòng của khách hàng EU khi nhập khẩu hàng dệt may tại Việt Nam.
Hơn nữa, so với khách hàng Hoa Kỳ, các khách hàng EU thường đặt mua hàng may mặc có kiểu dáng phức tạp hơn và có số lượng nhỏ hơn. Do đó, doanh nghiệp phải luôn chú trọng cải thiện chất lượng sản phẩm và thiết kế đa dạng về mẫu mã để có thể đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.
Tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may Asean
Chuỗi cung ứng dệt may ASEAN (SAFSA) được hình thành trên cơ sở liên kết các nhà máy dệt và nhà máy may của khu vực thành một nhóm để nâng cao chất lượng và uy tín các sản phẩm của ngành dệt may toàn khu vực khi gia nhập vào thị trường dệt may hiện đại của thế giới. Với chuỗi cung ứng này, cả bên cung cấp và khách hàng đều có lợi. Các nhà cung cấp sẽ chuyển dần từ gia công sản phẩm đơn thuần sang sản xuất dịch vụ trọn gói, nắm bắt chính xác thị hiếu của khách hàng, chủ động về thời gian, có quyền chọn khách hàng phù hợp với dịch vụ mình cung cấp nhất… Trong khi đó, khách hàng sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức, có nhiều sự lựa chọn về các nhà cung ứng dịch vụ hơn. Tham gia vào Chuỗi cung ứng dệt may ASEAN, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ cao hơn rất nhiều so với những doanh nghiệp “đơn thương độc mã” trên thị trường rộng lớn của thế giới.
Như vậy, đã đến lúc, ngành dệt may Việt Nam nói chung và Tổng công ty May 10 nói riêng cần tham gia vào Chuỗi cung ứng dệt may ASEAN nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu cũng như tăng tính cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, đưa dệt may Việt Nam lên một tầm cao mới.
Tuy nhiên, một vấn đề mà doanh nghiệp còn băn khoăn là chi phí để có thể tham gia vào Chuỗi cung ứng dệt may ASEAN không hề nhỏ với chi phí ban đầu đánh giá chất lượng là 1.750 USD cho một lần Đánh giá tiêu chuẩn chất lượng SAFSA, 1.500 USD cho một lần đánh giá việc Tuân thủ bộ Quy tắc ứng xử SAFSA, và chi phí hội viên 500 USD/tháng. Nhưng nếu so với lợi ích mà việc tham gia vào Chuỗi cung ứng dệt may ASEAN mang lại cho doanh nghiệp thì có lẽ chi phí như vậy không phải là quá cao.
Đầu tư thích đáng cho hoạt động nghiên cứu mở rộng thị trường
Tổng công ty nên có sự đầu tư thích đáng cho hoạt nghiên cứu thị trường nhằm có thể nắm vững những biến động về nhu cầu, thị hiếu, giá cả… của thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là những thị trường khó tính như EU nhưng tiềm năng xuất khẩu vào đó lớn. Từ đó, thực hiện công tác khách hàng để chuyển nhanh hình thức sản xuất từ gia công xuất khẩu sang sản xuất xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
Đẩy mạnh công tác Marketing quốc tế
Thực tế cho thấy, ngày nay người tiêu dùng đứng trước tình trạng mọi chủng loại sản phẩm đều có nhãn hiệu. Các khách hàng lại có những yêu cầu rất khác nhau về sản phẩm, dịch vụ và giá cả, họ có những đòi hỏi ngày càng cao. Đứng trước sự lựa chọn vô cùng phong phú như vậy, khách hàng cũng sẽ bị hấp dẫn bởi những thứ hàng hoá nào đáp ứng tốt nhất nhu cầu và mong đợi cá nhân của họ. Họ sẽ mua hàng căn cứ vào nhận thức của mình. Vì thế không lấy gì làm lạ là ngày nay những doanh nghiệp chiến thắng là những doanh nghiệp làm thoả mãn đầy đủ nhất và thực sự làm hài lòng khách hàng mục tiêu của mình. Họ lấy thị trường làm trung tâm và hướng theo khách hàng, chứ không phải là lấy sản phẩm làm trung tâm và hướng theo chi phí. Hay nói theo cách khác là chúng ta bán cái thị trường cần chứ không phải là bán cái chúng ta có.
Những người làm Marketing trong doanh nghiệp, sau khi phát hiện ra nhu cầu của thị trường, họ sẽ phải tham gia vào thiết kế sản phẩm. Những thu thập được của người làm marketing sẽ ảnh hưởng tới việc định giá sản phẩm và hình ảnh của Tổng công ty, đồng thời theo dõi sự hài lòng của khách hàng, hoàn thiện sản phẩm và thành tích của doanh nghiệp thông qua những thông tin phản hồi từ thị trường, có như vậy doanh nghiệp mới có thể tin tưởng rằng, sản phẩm dệt may của mình “sống” trên thị trường với vòng đời sản phẩm lâu dài.
Tóm lại, để tự nâng cao chất lượng sản phẩm trước yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường EU, doanh nghiệp cần có cán bộ thông tin chuyên nghiệp nắm bắt, cập nhật thông tin quy định mới của thị trường này; doanh nghiệp cần thích ứng với thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng nội khối; không nên kinh doanh theo hướng ngắn hạn, gian lận, chiếm lĩnh thị phần bằng việc hạ giá mà nên hướng đến mục tiêu bảo vệ lợi ích lâu dài. Tổng công ty cần thành lập văn phòng đại diện kinh doanh tại nước ngoài, thường xuyên cập nhật thông tin các cổng thông tin điện tử hỗ trợ xuất khẩu của phía EU và của Bộ Công thương về thị trường nước ngoài.
3.2.6 Thiết lập và quản lý quan hệ cá nhân
* Gửi thư và bản chào hàng trực tiếp: Khi đã tuân thủ kế hoạch xuất khẩu một cách có hệ thống và đã chọn lựa được thị trường mục tiêu và các đối tác tiềm năng thì Tổng công ty phải thiết lập quan hệ trực tiếp với đối tác. Trong phần lớn các trường hợp, điều này có nghĩa là phải gửi thư trực tiếp cho các đại lý, nhà nhập khẩu bán buôn hoặc người mua trong ngành hàng. Cơ sỏ dữ liệu với địa chỉ liên hệ của các đối tác tiềm năng có thể được tìm thấy trên Internet, danh bạ công ty, hoặc do các tổ chức xúc tiến thương mại cung cấp, hoặc các đại sứ quán. Không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của thư tín. Đó là cách giới thiệu doanh nghiệp và nên được trình bày đúng ý, chính xác và chỉnh chu. Tài liệu về doanh nghiệp và sản phẩm tương ứng và tài liệu về quy cách kỹ thuật và chứng chỉ tiêu chuẩn nên được trình bày bằng tiếng Anh một cách chi tiết. Cũng nên nhớ là hiệu quả tức thì của thư tín trực tiếp có xu hướng bị hạn chế. Doanh nhân ở EU khó nhớ ngày tháng vì liên tục nhận được thư tín trực tiếp. Vì vậy bất kỳ một chiến dịch gửi thư trực tiếp nào cũng nên được tiếp nối bằng cuộc gọi điện thoại hoặc viếng thăm trực tiếp. Bên cạnh đó nên hết sức chú ý đến các cơ sở dữ liệu về địa chỉ. Các cơ sở dữ liệu này trở nên lạc hậu rất nhanh.
Khi Tổng công ty cung cấp thông tin về giá cả và các bản chào hàng, không nên chào cố định cho một khoảng thời gian dài, mà nên chào mức giá theo thời điểm và tỷ giá ngoại hối. Điều này sẽ giúp tránh những vấn đề phát sinh do biến động của tỷ giá. Hơn nữa, các bản chào phải được ràng buộc với điều kiện được xác nhận bằng văn bản. Tốt nhất là nên chào giá theo Incoterm 2000, bằng USD hay Euro, nhưng phải nhớ là tỷ giá giữa USD và Euro có thay đổi. Khi giao dịch với các bạn hàng ở các nước ngoài khu vực có đồng Euro, ví dụ như Anh, Hy Lạp, Đan Mạch, Thuỵ Điển, thì bản chào bằng USD hay tiền bản địa của nước đó sẽ thích hợp hơn. Chúng ta không nên nghĩ về EU như một thị trường có thể đem lại lợi nhuận ngay. Vì tính cạnh tranh cao nên độ chênh giá rất nhỏ. Chính vì vậy nên chào sát giá.
* Nếu Tổng công ty nhận được phản hồi đầy triển vọng của các đối tác EU, có thể tiến hành bước tiếp theo là tổ chức một chuyến đi công tác. Chuyến đi cho phép chúng ta thiết lập mối quan hệ trực tiếp với đối tác ở mức cá nhân. Đồng thời có thể lấy được mẫu sản phẩm tương tự (hàng thay thế) hiện có trên thị trường mục tiêu, để so sánh giá, chất lượng, thiết kế. Điều này rất quan trọng vì trong phần lớn các trường hợp, sản phẩm xuất khẩu tiềm năng phải được địa phương hoá trước khi tung ra một cách thành công trên thị trường. Chuyến thăm định hướng đến các triển lãm thương mại kết hợp đến thăm một số doanh nghiệp có thể là sự kết hợp rất hiệu quả.
3.2.7 Cần tìm hiểu và nắm chắc các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường trong nước cho hàng hóa nước ngoài, chủ yếu thông qua cắt giảm thuế nhập khẩu. Vì vậy, các doanh nghiệp cầm phải nắm vững những cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để vượt qua các thách thức, tận dụng các cơ hội do việc gia nhập WTO và các cam kết tự do hóa thương mại đem lại, biến những tiềm năng đó thành lợi ích kinh tế.
Cụ thể, Việt Nam cam kết về cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may (từng nhóm sản phẩm và trong so sánh với cam kết cắt giảm thuế quan đối với tất cả các mặt hàng) được tóm tắt trong Bảng sau đây:
Bảng 3.1: Cam kết của Việt Nam trong WTO về cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may nhập khẩu
Stt
Chỉ tiêu
Thuế suất MFN trước gia nhập (%)
Thuế suất cam kết trong WTO
Khi gia nhập
Cuối cùng
Thời hạn thực hiện (kể từ khi gia nhập)
1
Thuế suất bình quân cả Biểu thuế
17,4%
17,2%
13,4%
Cơ bản sau 3-5 năm
2
Thuế suất bình quân sản phẩm công nghiệp
16,7%
16,2%
12,4%
Cơ bản sau 3-5 năm
2
Thuế suất bình quân ngành dệt may
37,3%
13,7%
13,7%
Ngay khi gia nhập WTO
3
Vải
40%
12%
12%
Ngay khi gia nhập WTO
4
Quần áo
50%
20%
20%
Ngay khi gia nhập WTO
5
Sợi
20%
5%
5%
Ngay khi gia nhập WTO
(Nguồn: Văn phòng Tập đoàn Dệt may Việt Nam)
Nhìn vào Biểu cam kết thuế quan đối với sản phẩm dệt may, chúng ta có thể thấy một số điểm quan trọng sau đây:
- Không có lộ trình cho việc cắt giảm: Việt Nam phải cắt giảm thuế đối với hàng dệt may xuống mức cuối cùng ngay khi Việt Nam gia nhập WTO (ngày 11/1/2007) trong khi lộ trình cắt giảm thuế đối với các hàng hóa khác thường là từ 5-7 năm. Do đó ngành dệt may sẽ không có thời gian chuẩn bị mà phải lập tức cạnh tranh ngay với hàng nhập khẩu được cắt giảm thuế quan kể từ 11/1/2007.
- Mức cắt giảm thuế cao: Hàng dệt may có mức cắt giảm thuế nhập khẩu cao nhất trong toàn bộ Biểu cam kết cắt giảm về thuế quan đối với tất cả các loại hàng hóa, trong đó nhóm hàng giảm thuế nhiều nhất là xơ, sợi, vải, quần áo, đồ may sẵn.
Mặc dù vậy, mức cam kết này vẫn là thấp so với các cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng dệt may trong các cam kết tự do hóa thương mại mà Việt Nam đã ký kết và đã thực hiện theo lộ trình (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc ACFTA; và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc AKFTA). Ngoài ra, Việt Nam cũng đang đàm phán các hiệp định về Khu vực mậu dịch tự do giữa Việt Nam và Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và New Zealand. Như vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt nhiều hơn với hàng dệt may từ các nước ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc hay các nước có cam kết tự do hóa thương mại với Việt Nam so với hàng dệt may đến từ các nước thành viên WTO khác.
Nắm chắc thông tin về những biện pháp bảo hộ mới
Các biện pháp bảo hộ mới của EU thực chất là những rào cản kỹ thuật, là những hành vi bảo hộ thương mại mà các nước này dựng lên một cách tinh vi, nhằm hạn chế nguồn hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường nước họ, nhằm bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội địa. Do khủng hoảng kinh tế, rào cản thương mại đang được dựng lên ở khắp nơi trên thế giới và ngày thêm dày đặc.
Theo Báo cáo của WTO công bố mới đây, các quốc gia trên thế giới đang liên tục áp đặt các rào cản thương mại, bất chấp những cam kết tại Hội nghị G20 cũng như các diễn đàn chống bảo hộ thương mại. WTO tổng kết trong những tháng giữa năm 2009 đã có 83 biện pháp thắt chặt thương mại được áp dụng tại 24 quốc gia và con số này gấp hơn hai lần số lượng các biện pháp tự do hóa thương mại mà EU áp dụng trong cùng kỳ năm 2008. Từ thực tế này, WTO đã đưa ra cảnh báo về sự gia tăng các cuộc điều tra chống bán phá giá mới. Trong số những mặt hàng được bảo hộ bằng rào cản có nhiều mặt hàng là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như hàng dệt may.
Thực tế các rào cản thương mại do các nước dựng lên đều hết sức ngặt nghèo với mục đích hạn chế nhập khẩu và áp dụng cho các nước xuất khẩu. Chúng ta là cần phải nhanh chóng tổ chức lại sản xuất và kinh doanh theo yêu cầu của nước nhập khẩu tại EU. Để chủ động, điều đầu tiên là Tổng công ty May 10 cần phải nắm thật chắc các quy định và phải tuân thủ nghiêm ngặt. Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp dệt may chỉ biết và thực hiện các quy định mới khi đối tác yêu cầu mà không có một đầu mối quản lý một cách hệ thống và cập nhật các yêu cầu mang tính quy chuẩn tại thị trường nhập khẩu. Vẫn biết để thực hiện được những quy định mới này từ các nước nhập khẩu, ban đầu chúng ta phải tăng thêm chi phí và về lâu dài phải tốn thêm tiền đầu tư vào hạ tầng nhà xưởng… Nếu không đáp ứng được những yêu cầu này thì hàng xuất sang có thể bị trả về hoặc bị phạt rất nặng. Như vậy, nguy cơ bị mất đơn hàng, hoặc có thêm những vụ kiện mới là rất lớn, khi đó thiệt hại sẽ là không nhỏ!
KẾT LUẬN
Trong cơ chế thị trường, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều phải cạnh tranh, đều có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Qua thời gian thực tập tìm hiểu tại Tổng công ty May 10 một cách toàn diện về các mặt, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty, cũng như điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp, em đã hoàn thành bản thu hoạch thực tập tốt nghiệp này. Do còn yếu về kinh nghiệm thực tế, cũng như kiến thức còn hạn chế, nên sự nghiên cứu, tìm hiểu, đáng giá của em về Tổng công ty May 10 không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Song với sự nỗ lực của bản thân, em đã trình bày những suy nghĩ và quan điểm của mình với mong muốn học hỏi nhiều hơn nữa nhằm nâng cao kiến thức.
Hy vọng rằng Tổng công ty may 10 với bề dày hơn 60 năm hình thành và phát triển, trải qua biết bao giai đoạn thăng trầm cùng với tiến trình của lịch sử nước nhà, sẽ tiếp tục không ngừng nỗ lực, phấn đấu, vượt qua khó khăn, thử thách để phát triển và luôn là một trong những con chim đầu đàn của ngành dệt may Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
“Lao động và phát triển nguồn nhân lực”, của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam 2007
“Doanh nghiệp Việt Nam 2008”, của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
“Tổng công ty May 10 – 60 năm hình thành và phát triển”, của văn phòng Tổng công ty May 10
“Giáo trình kinh doanh quốc tế”, của NXB Lao động - Xã hội, XB 2002
“Những điều nên biết khi xuất khẩu vào Châu Âu”, của Viện nghiên cứu Thuơng mại (Bộ Công Thương)
“Những rào cản kỹ thuật mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đối mặt khi xuất khẩu vào EU”, PGS.TS Phạm Tất Thắng, Nghiên cứu viên cao cấp của Bộ Công Thương
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam”, tài liệu của Vụ Thị trường Châu Âu, Bộ Công Thuơng
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2010 của Tổng công ty May 10
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2010 của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex)
Các trang web:
www.vietnameconomy.net
www.vneconomy.vn
www.hatrade.com
….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty May 10 sang Châu Âu.doc