Thực hiện đúng tiến độ của Đề án 112 cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là đổi mới hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng. Khi sửa luật NHNN vào năm 2008, cần quy định chi tiết rõ ràng về quyền hạn và nhiệm vụ của Thanh tra Ngân hàng để đảm bảo Thanh tra Ngân hàng có được thực quyền lớn hơn và giảm thiểu những tác động ngược chiều của quy định dưới luật về thanh tra mà dễ làm phương hại đến tính độc lập và quyền lực của Thanh tra Ngân hàng. Thanh tra Ngân hàng cần được trao quyền lớn hơn trong việc xử lý vi phạm pháp luật. Luật NHNN cần quy định rõ Thanh tra Ngân hàng có quyền không chỉ được kết luận, kiến nghị mà trực tiếp xử lý vi phạm các chuẩn mực về an toàn và pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Về cơ cấu tổ chức Thanh tra ngân hàng, Luật NHNN không nên quy định cụ thể vấn đề này mà giao cho Chính phủ để đảm bảo tính linh hoạt phù hợp với cơ cấu tổ chức của NHNN trong tương lai. Tuy nhiên cần đảm bảo bộ máy của Thanh tra Ngân hàng được tổ chức thành hệ thống khép kín, thống nhất từ trung ương đến các chi nhánh tỉnh, thành. Thanh tra ở chi nhánh chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp từ Thanh tra Ngân hàng Trung ương. Nhiệm vụ Thanh tra ở Trung ương và Thanh tra ở chi nhánh do Thống đốc quy định.
Thanh tra Ngân hàng phải là cơ quan xây dựng, ban hành các quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động ngân hàng; điều kiện về cấp giấy phép hoạt động ngân hàng. Thanh tra Ngân hàng cần được uỷ quyền cấp và rút giấy phép hoạt động ngân hàng khi tổ chức có hoạt hoạt động ngân hàng vi phạm nghiêm trọng các quy định về bảo đảm an toàn và pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
72 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2872 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đổi mới hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hàng liên doanh; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các chi nhánh, chi nhánh phụ tại Việt Nam; ngoài ra còn tổ chức hàng chục cuộc kiểm tra theo những nội dung khác nhau tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Với trên 140 lượt cuộc thanh tra tại chỗ tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói trên, Thanh tra Ngân hàng đã phát hiện kịp thời những vi phạm của mỗi đơn vị, có trên 500 kiến nghị với ngân hàng được thanh tra và một số kiến nghị với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về cơ chế, chính sách quản lý đối với các đơn vị trong khối, đó là :
+ Trước hết, khi thanh tra tại chỗ tại đơn vị, Thanh tra N
gân hàng đặc biệt chú ý đến sự an toàn tài sản trong hoạt động như cho vay, bảo lãnh; mỗi khoản cho vay, cam kết của các ngân hàng cho khách hàng đều phải đảm bảo an toàn, ít rủi ro.
Thông qua hồ sơ vay vốn, bảo lãnh của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho khách hàng được lưu giữ tại đơn vị bị thanh tra, Thanh tra Ngân hàng tiến hành xem xét, đánh giá tính hợp lệ, hợp pháp của các hồ sơ vay vốn, bảo lãnh, chất lượng các khoản vay và bảo lãnh của khách hàng. Thực tế qua thanh tra trực tiếp các đơn vị về nghiệp vụ này, Thanh tra Ngân hàng đã có nhiều kiến nghị với những đơn vị được thanh tra từng trường hợp cụ thể và đã giúp cho các đơn vị bị thanh tra tránh được những rủi ro có thể xảy ra đối với một số khách hàng, đặc biệt đối với những khách hàng là người không cư trú. Cùng với việc đánh giá mức độ an toàn trong nghiệp vụ cho vay, Thanh tra Ngân hàng còn chú trọng đến các nghiệp vụ khác có thể gây ra rủi ro cho các ngân hàng bị thanh tra như khả năng thanh toán, huy động vốn, kinh doanh ngoại hối… và đã có những kiến nghị cụ thể đối với ngân hàng bị thanh tra, kiểm tra.
Cho đến nay, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ, nhưng hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn phát triển tương đối ổn định (riêng các Ngân hàng liên doanh có chiều hướng chững lại và giảm sút), hầu hết độ an toàn tài sản của các ngân hàng được đảm bảo. Tỷ lệ nợ quá hạn thường ở mức dưới 5% tổng dư nợ, nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài không có nợ quá hạn, cá biệt có một vài Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tỷ lệ nợ quá hạn trên 5% tổng dư nợ, nhưng không kéo dài.
Kết quả trên cho thấy, ngoài sự cố gắng của mỗi Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thì kết quả thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng qua các kiến nghị đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thanh tra đã góp phần đáng kể đảm bảo cho sự an toàn của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh.
+ Thứ hai, vấn đề cơ bản tiếp theo ngoài mức độ an toàn về tài sản của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng còn nhằm mục đích đánh giá việc chấp hành pháp luật và các quy định của Ngân hàng Nhà nước tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài; phát hiện những vi phạm tại các đơn vị này và xử lý nghiêm túc nếu đơn vị cố ý vi phạm pháp luật và quy chế của Ngân hàng Nhà nước.
- Không chỉ phát hiện vi phạm và xử lý, qua thanh tra tại chỗ Thanh tra Ngân hàng còn kiến nghị với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi phát hiện các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chấp hành pháp luật và các quy định của Ngân hàng Nhà nước chưa nghiêm túc; hoặc có sự vận dụng nhưng chưa gây hậu quả và ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng khác nói riêng và nền kinh tế nói chung. Từ năm 1995 đến hết năm 2006, thanh tra tại chỗ các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Thanh tra Ngân hàng đã có 623 kiến nghị với các ngân hàng bị thanh tra, nội dung các kiến nghị tập trung vào phải thực hiện nghiêm túc quy chế như chấp hành các quy định về cho vay; cho vay vượt vốn đầu tư, áp dụng lãi suất và phí cho vay, cho vay đúng mục đích, kiểm soát sau đối với khách hàng vay, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn, trích lập dự phòng đối với số dư nợ quá hạn, không được cho vay ngoại tệ để thanh toán trong nước… các quy định về quản lý ngoại hối như: thanh toán chuyển ngoại tệ chưa đủ chứng từ, kiểm soát chứng từ chuyển ngoại tệ thanh toán chưa chặt chẽ, áp dụng tỷ giá mua bán ngoại tệ vượt mức quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước… các quy định về hạch toán kế toán như: hạch toán theo hệ thống kế toán của Ngân hàng Nhà nước, mở sổ kế toán chi tiết… Kiến nghị với Thống đốc xử lý cảnh cáo 31 lượt chi nhánh ngân hàng nước ngoài do vi phạm quy chế, trong đó có 5 ngân hàng bị cảnh cáo 2 lần. Đồng thời, qua thanh tra tại chỗ, Thanh tra Ngân hàng đã có 16 kiến nghị với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về những vấn đề thuộc cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm nâng cao hiệu lực quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của họ như: việc gửi tiền có kỳ hạn ở nước ngoài, trích lập quỹ dự phòng, huy động tiền đồng của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cho vay ngoại tệ giải ngân bằng tiền đồng, nhận thế chấp bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất, quy định về quản lý ngoại hối thống nhất, tỷ giá mua bán ngoại tệ, mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ để hạch toán quỹ bảo lãnh.
Với nhứng quy định trong các văn bản pháp luật, thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng xem xét việc chấp hành các quy định tại các điều liên quan đến hoạt động của các tổ chức tín dụng nước ngoài như: Huy đông vốn (Mục 1, Chương III Luật các tổ chức tín dụng); Hoạt động tín dụng (Mục 2, Chương III Luật các tổ chức tín dụng); Dịch vụ thanh toán ngân quỹ; các hoạt động khác; các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (mục 3,4,5, Chương III Luật các tổ chức tín dụng) và các quy định khác trong Luật Ngân hàng Nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng và cá luật khác liên quan. Ngoài ra còn xem xét việc chấp hành các quy định trong các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng như các văn bản của Chính phủ, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, của các Bộ, Ngành khác có liên quan…
2.3. Đánh giá thực trạng thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
2.3.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua, Thanh tra NHNN luôn thực hiện công tác giám sát từ xa đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước. Qua giám sát từ xa, Thanh tra NHNN đã phát hiện và kiến nghị kịp thời những vấn đề cần quan tâm trong hoạt động tín dụng, kế toán, việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo và những vấn đề khác liên quan đến tình hình hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, Thanh tra Ngân hàng tổ chức thanh tra tại chỗ đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và áp dụng các biện pháp chấn chỉnh hoặc xử lý vi phạm hành chính (nếu có). Kết quả giám sát từ xa là tài liệu hữu ích cho lãnh đạo Thanh tra trong chỉ đạo, điều hành, giúp bộ phận thanh tra tại chỗ nắm được những nét khái quát về tình hình hoạt động của đơn vị mình sắp thanh tra để chuẩn bị cho cuộc thanh tra đạt kết quả cao nhất.
Hàng năm, trên cơ sở nguồn lực hiện có, kết quả của giám sát từ xa, thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo cấp trên theo yêu cầu quản lý, Thanh tra Ngân hàng đã tiến hành hàng trăm cuộc thanh tra trên diện rộng và thanh tra chuyên đề đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các kiến nghị trên các lĩnh vực công tác nguồn vốn, sử dụng vốn, kết quả kinh doanh và quản trị điều hành, kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Biểu đồ 2.1: Kết quả các cuộc thanh tra tại chỗ do Thanh tra Ngân hàng thực hiện đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam:
TT
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1
Số lần thanh tra
10
9
7
12
11
13
17
9
8
7
4
3
2
Tổng số kiến nghị
41
27
37
60
71
78
69
41
29
37
15
15
(Nguồn: Báo cáo công tác thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước)
Hoạt động thanh tra của Thanh tra Ngân hàng đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam với hai phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ cho đến nay đã đạt được những kết quả nhất định như đánh giá trên.
Tuy nhiên, nó cũng còn những tồn tại cần được nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm túc để hiệu quả quản lý đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đạt được cao hơn, đảm bảo sự bình đẳng trong cạnh tranh và sự chấp hành nghiêm túc Luật pháp cũng như các quy chế của Ngân hàng Nhà nước.
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
2.3.2.1. Những tồn tại trong hoạt động giám sát từ xa
+ Kết quả giám sát từ xa được thực hiện trên cơ sở số liệu hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài hàng tháng thể hiện trên báo cáo cân đối tháng do các ngân hàng truyền file qua mạng vi tính về Thanh tra Ngân hàng với thời gian nhanh, kết quả truyền chính xác. Nhưng trong thực tế kết quả giám sát còn kém; có số liệu thiếu chính xác; báo cáo giám sát còn đơn điệu và việc thông báo cho các ngân hàng còn ít, chưa kịp thời, chưa rõ ràng.
+ Việc phát hiện những vi phạm quy chế qua giám sát còn hạn chế; đặc biệt những vi phạm các quy định về an toàn tài sản trong đầu tư cho vay và bảo lãnh làm cho sự đánh giá mức độ an toàn tài sản đối với các hoạt động này từ kết quả phân tích, giám sát chưa cao.
Đối với các vi phạm hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng thông qua kết quả giám sát càng hạn chế hơn. Đó là:
- Theo Luật các tổ chức tín dụng, các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng được quy định từ Điều 77 đến Điều 82, Mục 5 Chương III Luật các Tổ chức tín dụng; thực tế kết quả giám sát hiện nay cho thấy, việc phát hiện vi phạm các hạn chế chỉ thực hiện được một số quy định trong mục này, chưa thể phát hiện hết các vi phạm và các hạn chế, ví dụ kết quả giám sát chỉ phát hiện được các vi phạm về quy định dự phòng rủi ro [Điều 82] nhưng cũng không phải hoàn toàn. Ngoài ra còn nhiều quy định khác trong Luật và các văn bản dưới luật không thể xác định được Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có vi phạm hay không qua kết quả giám sát từ xa.
- Một số chỉ tiêu giám sát như tỷ lệ khả năng chi trả ngay của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng không thể tính chính xác trên số liệu giám sát vì nó được tính trên số liệu tài khoản kế toán bậc III (cân đối kế toán các ngân hàng gửi đến Ngân hàng Nhà nước), trong khi đó việc lấy số liệu để tính chỉ tiêu này đòi hỏi chi tiết và phức tạp hơn.
+ Kết quả giám sát từ xa theo các chỉ tiêu CAMEL chưa thực sự đạt được mục tiêu đề ra là hạn chế những vi phạm pháp luật, quy chế, và rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng; mà kết quả giám sát chủ yếu chỉ sử dụng như các tài liệu để tham khảo khi xây dựng chính sách, cơ chế và phần nào hỗ trợ cho hoạt động thanh tra tại chỗ.
2.3.2.2. Những tồn tại trong hoạt động thanh tra giám sát tại chỗ
Với trên 140 cuộc thanh tra và hàng chục cuộc kiểm tra tại chỗ các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, nhưng do lực lượng mỏng, trình độ còn hạn chế và bất cập, trong khi đó các nghiệp vụ của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngày càng nhiều và được thực hiện bởi công nghệ ngân hàng hiện đại làm hạn chế không ít đến hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra tại chỗ. Mặt khác, số lượng các ngân hàng được thanh tra hàng năm còn quá ít, thời gian giữa hay kỳ thanh tra tại một ngân hàng còn quá dài, do đó những vi phạm pháp luật, quy chế và những rủi ro của các ngân hàng chậm được phát hiện, làm hạn chế rất lớn đến hiệu quả của phương thức thanh tra tại chỗ. Cụ thể hoạt động thanh tra tại chỗ của Ngân hàng Nhà nước còn một số vấn đề tồn tại đó là:
- Về tổ chức, chỉ đạo, điều hành:
+ Đối với thanh tra định kỳ, hàng năm Thanh tra Ngân hàng chưa tiến hành thanh tra hết lượt các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thường các cuộc thanh tra định kỳ được tiến hành 2 năm một lần, cá biệt có trường hợp tới 3 năm mới thực hiện thanh tra định kỳ tại một ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Điều này sẽ làm cho việc phát hiện các vi phạm pháp luật của Nhà nước, cơ chế, quy chế của Ngân hàng Nhà nước và uốn nắn, chấn chỉnh các sai phạm đó tại các tổ chức tín dụng không kịp thời.
+ Đối với kiểm tra đột xuất, Thanh tra Ngân hàng vẫn thường tổ chức kiểm tra đột xuất tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài về chấp hành quy định trong một số nghiệp vụ như tỷ giá mua bán ngoại tệ, việc áp dụng mức lãi suất và phí cho vay, bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước… đối với các vi phạm của các ngân hàng được phát hiện qua kiển tra, việc xử lý vi phạm của các ngân hàng được phát hiện qua kiểm tra, việc xử lý vi phạm có trường hợp chưa linh hoạt, còn cứng nhắc làm ảnh hưởng đến hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Thanh tra trực tiếp đối với hoạt động đầu tư cho khách hàng tập trung chủ yếu là đánh giá qua kiểm tra trực tiếp khách hàng vay hoặc nhận đầu tư còn quá ít, nên chưa toàn diện.
- Về hiệu quả, hiệu lực của thanh tra tại chỗ: Đối với những tồn tại trong việc chấp hành quy chế của các ngân hàng đã phát hiện được, việc tiếp thu và xử lý, khắc phục sau thanh tra tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn còn những hạn chế nhất định, đó là:
+Việc phát hiện những tồn tại trong quá trình thanh tra tại chỗ đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chậm được phát hiện như việc chấp hành các quy định về hạn chế đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng, bảo lãnh; rủi ro trong cho vay, bảo lãnh của ngân hàng đối với khách hàng vẫn xuất hiện; khi những tồn tại này được phát hiện thì chưa có biện pháp kiên quyết đối với các ngân hàng được thanh tra để hạn chế rủi ro.
+ Đối với các ngân hàng được thanh tra, kiểm tra, một số vấn đề về chấp hành cơ chế, quy chế bị đánh giá là tồn tại, có sai phạm nhưng chưa thực sự tiếp thu, còn quanh co, cá biệt có trường hợp đổ lỗi cho cơ chế, quy chế dẫn đến việc sửa chữa, chấn chỉnh chưa kịp thời.
+ Kết quả thanh tra chưa được thông báo tới Ngân hàng mẹ của chi nhánh tại Việt Nam từ Ngân hàng Nhà nước mà chỉ do bản thân chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại nước ta báo cáo lại cũng làm hạn chế hiệu quả thanh tra.
2.3.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại
Những tồn tại trong hoạt động thanh tra đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Thanh tra Ngân hàng trên đây là do những nguyên nhân sau:
- Lực lượng cán bộ thanh tra làm công việc giám sát, phân tích và thanh tra tại chỗ đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài vừa thiếu về số lượng lại bất cập về trình độ nghiệp vụ và lực lượng cán bộ thanh tra đa số là cán bộ trẻ, nên thiếu kinh nghiệm và chưa đủ uy tín trong quá trình thanh tra, kiểm tra các ngân hàng nói chung và Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng, kể cả với khách hàng. Mặt khác số thanh tra viên làm trưởng đoàn thanh tra không đủ, nên giám sát phân tích và thanh tra tại chỗ chưa đáp ứng được một cách đầy đủ.
- Thu nhập của cán bộ thanh tra thấp, điều kiện công tác khó khăn và thường phải đi công tác xa gia đình, trong khi đó trách nhiệm của người kiểm tra gắn liền với những vi phạm của các ngân hàng nên nhiều cán bộ thanh tra chưa yên tâm với nghề nghiệp, chưa toàn tâm toàn ý với việc phục vụ công tác thanh tra, làm cho hiệu quả công tác giám sát, thanh tra của Thanh tra Ngân hàng bị hạn chế.
- Có rất nhiều văn bản điều chỉnh hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, từ Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng và các Luật khác liên quan; các văn bản dưới luật như Nghị định của Chính Phủ, các văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan. Trong đó, các văn bản dưới Luật của Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan còn nhiều trường hợp chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ làm cho việc áp dụng của các ngân hàng không đồng nhất; căn cứ để các đoàn thanh tra kết luận vi phạm của ngân hàng không đầy đủ, chặt chẽ, làm cho hiệu lực thanh tra bị hạn chế.
Ví dụ: Trường hợp thế chấp tài sản là bất động sản và quyền sử dụng đất đối với ngân hàng liên doanh, trong khi theo luật định thì ngân hàng liên doanh là một pháp nhân Việt Nam, nhưng lại bị điều chỉnh như một chi nhánh ngân hàng nước ngoài không phải là một pháp nhân Việt Nam, hoặc các quy định về lãi suất, phí cho vay bảo lãnh, các quy định về quản lý ngoại hối…
Đối với thẩm quyền của Thanh tra Ngân hàng trong việc xử lý các vi phạm hành chính đối với lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng chậm được ban hành. Do đó hạn chế quyền năng của Thanh tra Ngân hàng trong khâu xử lý, khi phát hiện các vi phạm; việc xử lý các vi phạm của các tổ chức tín dụng thường bị chậm và hạn chế tác dụng, làm cho hiệu lực của hoạt động thanh tra không phát huy được.
- Các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm túc các quy định về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; hoạt động kiểm soát nội bộ quá yếu; không đủ sức thực hiện nhiệm vụ, có nơi bị phụ thuộc vào người điều hành, do đó không phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong kiểm tra, kiểm soát; có tư tưởng trông chờ vào Thanh tra ngân hàng, nên việc khắc phục chậm và không kiên quyết.
Tóm lại, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 cùng một loạt luật liên quan khác và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của các cơ quan quản lý chức năng là những căn cứ pháp lý cao nhất tạo điều kiện cho hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại nói chung và các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài bên cạnh những mặt làm được, thì vẫn còn những tồn tại và hạn chế nhất định. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng này; các giải pháp cần tập trung vào là nội dung, phương pháp giám sát và thanh tra đối với các ngân hàng này sao cho các ngân hàng này vừa bảo đảm thực hiện tốt các quy định quản lý của Nhà nước Việt Nam, vừa hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Chương 3
GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH, CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu của việc tăng cường quản lý và thanh tra đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Các ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo pháp luật của nước chính quốc, do đó các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác nhau được điều chỉnh bởi các hệ thống pháp luật của các nước khác nhau. Các quy định về vốn, quy chế an toàn trong hoạt động, các giới hạn rủi ro, các quy định về tổ chức đối với mỗi ngân hàng ở các nước cũng không hoàn toàn giống nhau; Tuy vậy các quy định này đều đảm bảo một mục tiêu chung cho tất cả các ngân hàng là hoạt động an toàn, hiệu quả và đảm bảo tuân thủ nước sở tại.
Đối với các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta, hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước phải đánh giá được ngân hàng nào tuân thủ tốt, ngân hàng nào tuân thủ chưa tốt luật pháp để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, nghiêm túc. Mặt khác phát hiện những vấn đề còn thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ trong các văn bản quản lý để điều chỉnh, bổ sung sao cho các quy định trong văn bản quản lý của Nhà nước vừa chặt chẽ, đồng bộ để việc quản lý đối với các ngân hàng tốt hơn.
Sự phát triển của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đang đặt ra những yêu cầu mới đối với Ngân hàng Nhà nước. Bởi vì: Mở rộng hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam vừa có yếu tố chủ quan, vừa có yếu tố khách quan. Và, khi hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam phát triển, đương nhiên đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước nói chung và Ngân hàng Nhà nước nói riêng đối với nó ngày càng cao hơn, từ đó đặt ra những yêu cầu mới đối với Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Về chủ quan: Bản thân các ngân hàng nước ngoài khi đầu tư (dưới hình thức liên doanh hay 100% vốn nước ngoài) vào một nước nào đó, thì mục tiêu trước hết là lợi nhuận. Để có lợi nhuận thì Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở một nước nào đó đều phải tích cực mở rộng hoạt động trên cơ sở chấp hành nghiêm túc luật pháp của nước sở tại và các quy định của Ngân hàng Trung ương tại nước nguyên xứ.
Sự phát triển nhanh chóng của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta trong những năm qua, vừa góp phần tạo ra vốn, vừa thúc đẩy sự phát triển công nghệ ngân hàng, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các ngân hàng thương mại trong nước. Trong điều kiện lợi thế về vốn, công nghệ, khách hàng (thường là những khách hàng lớn) làm cho các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường chiếm ưu thế hơn trong cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong nước. Do đó để tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các ngân hàng thương mại trong nước trong điều kiện lợi thế thường thuộc về Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước phải có những quy định về quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Về khách quan: Trong điều kiện chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ nền sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, do đó hai nhân tố quan trọng là vốn và công nghệ là yêu cầu bức xúc đối với nền kinh tế nước ta. Để giải quyết vấn đề này, vào những năm đầu thập kỷ 90 Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế với các nước trên thế giới để tranh thủ về vốn và công nghệ.
Trong thời đại hiện nay, hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng không chỉ là nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và kinh doanh ngoại hối. Với điều kiện thị trường tài chính tiền tệ phát triển thì hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại còn bao gồm nhiều hoạt động khác mà mức độ rủi ro còn có thể lớn hơn rủi ro của nghiệp vụ cho vay như nghiệp vụ đầu tư kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế mở thì các hoạt động nghiệp vụ của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài bên ngoài lãnh thổ Việt Nam càng lớn dẫn đến rủi ro sẽ cao hơn. Điều này đòi hỏi việc quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam càng phải chặt chẽ hơn mà trước hết, thông qua hệ thống giám sát, thanh tra để có thể kịp thời phát hiện những bất ổn trong hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài để hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro trong hoạt động của chúng, làm cho hoạt động tài chính tiền tệ trong nước ổn định.
Mặt khác, đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước còn nhằm mục đích ngăn ngừa sự bành trướng trong hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và lợi dụng sơ hở trong quản lý để hướng nền kinh tế nước ta xa dời mục tiêu.
Dù khách quan hay chủ quan, nhu cầu phát triển của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã đặt ra yêu cầu quản lý mới của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm mục đích giữ vững đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước; vừa bảo vệ sự phát triển của các ngân hàng trong nước, vừa đảm bảo sự an toàn cho các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động tài chính tiền tệ của các ngân hàng thương mại trong nước nói chung và các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nói riêng.
Theo lý luận và thực tế, sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không chỉ được thực hiện bởi một cơ quan quản lý chức năng nào tại Ngân hàng Nhà nước mà nó được thực hiện bởi nhiều cơ quan như đã nêu trên đây. Với chức năng được quy định, mỗi đơn vị thực hiện việc quản lý kiểm soát dưới các góc độ khác nhau trên cơ sở thông tin tài liệu, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài gửi tới Ngân hàng Nhà nước, hoặc từ những nguồn thông tin khác có liên quan đến các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta.
Như vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Nhà nước nước ngoài tại Việt Nam là việc làm cần thiết, cấp bách của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, trong đó Thanh tra Ngân hàng là cơ quan giám sát và kiểm tra thường xuyên.
Việc tăng cường quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được thể hiện trước hết là ở chỗ phải kiện toàn, củng cố bộ máy tổ chức Thanh tra Ngân hàng và các Vụ, Cục chức năng của Ngân hàng Nhà nước nói chung và bộ phận giám sát thanh tra đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nói riêng. Việc kiện toàn, củng cố về tổ chức nhằm tạo ra đội ngũ thanh tra viên và cán bộ Thanh tra có đủ năng lực, trình độ và kinh nghiệm để có thể làm tốt chức năng quản lý và kiểm soát hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước phải thường xuyên xem xét, sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế đối với hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nhằm thu hút hơn nữa vốn đầu tư của nước ngoài, và quan trọng hơn là làm cho sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam chặt chẽ hơn, đảm bảo tính tuân thủ và tránh sự cạnh tranh không bình đẳng của các ngân hàng này đối với các ngân hàng thương mại trong nước.
3.2. Giải pháp đổi mới hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
3.2.1. Sắp xếp lại tổ chức và chú trọng đào tạo cán bộ làm công tác thanh tra đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- Cần kiện toàn lại đội ngũ cán bộ thanh tra thực hiện giám sát, thanh tra các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, bổ sung đủ cán bộ thanh tra thực hiện giám sát, thanh tra các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài yêu cầu về nghiệp vụ và kinh nghiệm thanh tra, cần chú trọng về trình độ ngoại ngữ và khả năng giao tiếp tốt.
- Thường xuyên tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ giám sát, thanh tra các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó cần tạo điều kiện để họ được tham dự các cuộc hội thảo về thanh tra do các tổ chức quốc tế hoặc các hiệp định song phương tổ chức; bố trí, sắp xếp để một số cán bộ có kinh nghiệm được đi khảo sát, học tập kinh nghiệm giám sát, thanh tra của các nước có công nghệ ngân hàng tiên tiến, hiện đại.
3.2.2. Tiến hành phân cấp quản lý đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- Tiến hành phân loại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài để có thể từng bước phân quyền quản lý một số Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố có Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đóng trụ sở trên địa bàn tỉnh, thành phố đó.
- Để chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố có thể thực hiện tốt việc giám sát, thanh tra đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cần tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ hiện có, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ và những điểm đặc thù của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho cán bộ thanh tra và thanh tra viên được phân công giám sát, thanh tra các ngân hàng này; trước mắt, thường xuyên trưng tập một số cán bộ tham gia các đoàn thanh tra trực tiếp các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài để học hỏi và tích lũy kinh nghiệm.
3.2.3. Phối hợp với Thanh tra Ngân hàng các nước và các ngân hàng tại nước ngoài nguyên xứ có chi nhánh hoạt động tại Việt Nam để tăng cường giám sát và thanh tra hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
- Yêu cầu ngân hàng mẹ của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam gửi báo cáo kiểm soát của ngân hàng mẹ đối với chi nhánh tại Việt Nam hàng năm và các thông tin khác để phục vụ giám sát và thanh tra của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Khi kết thúc các cuộc thanh tra định kỳ, kết luận thanh tra phải được gửi cho ngân hàng mẹ của chi nhánh ngân hàng nước ngoài Việt Nam từ Ngân hàng Nhà nước để ngân hàng mẹ phối hợp kiểm soát hoạt động của chi nhánh.
- Thường xuyên phối hợp, trao đổi với Thanh tra Ngân hàng các nước có chi nhánh tại Việt Nam để có đầy đủ thông tin về ngân hàng mẹ của chi nhánh tại Việt Nam và của bản thân chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, từ đó thực hiện giám sát, thanh tra hoạt động của các ngân hàng chặt chẽ hơn.
3.2.4. Tiếp tục hoàn thiện các phương thức thanh tra
Mục đích cao nhất trong công tác quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là: Bằng quyền năng và thông qua các công cụ quản lý của mình, Ngân hàng Nhà nước giám sát tình hình hoạt động, việc tuân thủ luật pháp và các định chế tài chính của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm buộc các ngân hàng này phải tuân thủ đầy đủ luật pháp, hoạt động an toàn, có hiệu quả và đảm bảo quyền lợi cho những người gửi tiền. Một trong các công cụ chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là Thanh tra Ngân hàng.
Như trên đã phân tích, với hai phương thức thanh tra đang được áp dụng hiện nay, phương thức giám sát từ xa thì mới được thực hiện và đang trong thời kỳ thực nghiệm, chỉnh sửa chương trình, phương thức thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền thống và đang là phương thức chủ yếu trong hoạt động thanh tra Ngân hàng, nhưng do khâu tổ chức, do trình độ cán bộ thanh tra, do thiếu đồng bộ của các văn bản pháp luật, pháp quy... nên hiệu quả thanh tra còn thấp. Do đó cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa và thanh tra trực tiếp Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Thanh tra Ngân hàng với các cơ quan quản lý chức năng của Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, để thường xuyên cập nhật các thông tin về ngân hàng nước ngoài; đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện các phương thức thanh tra hiện có nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước và giám sát chặt chẽ hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
3.2.4.1. Đổi mới và hoàn thiện phương thức giám sát từ xa
Là một trong hai phương thức thanh tra đang được Thanh tra ngân hàng áp dụng trong hoạt động của mình để thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại.
Mặc dù mới được áp dụng từ năm 1993, nhưng nó đặc biệt có ý nghĩa thiết thực trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ và ngân hàng. Trong xu thế toàn cầu hoá hoạt động tài chính tiền tệ, các tổ chức trong lĩnh vực này đã được thừa nhận những chuẩn mực chung, phải được đảm bảo trong giới hạn cho phép của một tổ chức tài chính tiền tệ. Thông qua những chuẩn mực này đã hình thành một quy chế giám sát từ xa hoạt động đối với các ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý. Mặt khác hoạt động giám sát đã được khẳng định là một phương thức quản lý thiết yếu trong nhiều lĩnh vực hoạt động của con người và không bị giới hạn trong phạm vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ, mà nó trở thành phương thức quản lý có tính hiệu quả cao.
Thiết lập hệ thống chỉ tiêu giám sát có hiệu quả theo chuẩn mực quốc tế. Các tiêu chí giám sát phải bao quát đồng bộ, phù hợp với thực tiễn Việt Nam song không xa rời các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Trong quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát nên chú ý tham khảo ý kiến rộng rãi của đối tượng bị giám sát, tránh tình trạng các tiêu chí phi thực tế, thiên về lợi ích của người quản lý mà mà làm thiệt hại lợi ích của các đối tượng được giám sát nói chung hay các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng. Các tiêu chí giám sát không dừng lại ở phản ánh hiện trạng, mức độ tuân thủ pháp luật tài chính hiện hành mà còn phải là chứng cứ, tài liệu quan trọng để điều chỉnh các cơ chế, chính sách cho phù hợp, đồng thời giúp cho việc phân tích dự báo những rủi ro, sẵn sàng ngăn chặn các nguy cơ khủng hoảng tài chính- tiền tệ. Trong khi chưa có được kho dữ liệu chung cần tiếp tục cải thiện chế độ thông tin báo cáo trên phương diện hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu báo cáo thống kê, báo cáo tài chính cũng như hệ thống mạng hiện đại phục vụ cho việc giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Tiếp tục bổ sung, xây dựng một số chỉ tiêu giám sát phù hợp với thực tế hoạt động các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hiện nay. Ban hành quy chế mới đánh giá, xếp hạng các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Phải được xây dựng quy trình giám sát phù hợp với chế độ hoạch toán hiện hành trong ngân hàng:
+ Sát với thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng: Trong điều kiện mở cửa nền kinh tế, hoạt động ngân hàng của mỗi quốc gia gắn chặt với hoạt động ngân hàng của quốc gia khác và tuân theo thông lệ quốc tế nhất định. Vì vậy, khi xây dựng quy trình giám sát phải xem xét đến những thông lệ quốc tế về hoạt động tài chính - ngân hàng.
Đối vơí các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, điều này càng thể hiện rõ nét hơn vì các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam chỉ là một bộ phận ( chi nhánh) của ngân hàng mẹ và hoạt động của nó gắn chặt với hoạt động của ngân hàng mẹ cũng như các chi nhánh của ngân hàng mẹ tại các quốc gia khác.
Ngoài những nguyên tắc trên, khi xây dựng quy trình giám sát cũng cần tuân thủ những nguyên tắc như: Xây dựng quy trình toàn diện, áp dụng từng bước; chế độ thông tin báo cáo hợp lý; tạo được thuận lợi cho việc lập trình trên máy điện toán ngân hàng.
Đáp ứng các điều kiện để phương thức giám sát từ xa được thực hiện tốt:
+ Phải quy định chế độ thông tin báo cáo rõ ràng, đầy đủ và Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện nghiêm túc.
+ Cán bộ thanh tra làm nhiệm vụ giám sát có kĩ năng phân tích cân đối kế toán và các chỉ tiêu thống kê để đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Phải thực hiện phân tích bằng điện toán các chỉ tiêu giám sát trên cơ sở hệ thống máy tính và công nghệ tiên tiến nhằm đảm bảo nhanh, chính xác và khách quan.
+ Các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải hạch toán chính xác, báo cáo kế toán phải được kiểm toán để đảm bảo tính chính xác của số liệu.
Hoàn thiện quy trình giám sát từ xa:
Với ý nghĩa, mục tiêu và điều kiện của phương thức giám sát từ xa trên đây. Ngân hàng Nhà nước nói chung và Thanh tra Ngân hàng nói riêng phải tiếp tục hoàn thiện nội dung và quy trình giám sát từ xa. Trước hết, căn cứ vào các yếu tố quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ - tín dụng - ngân hàng và nội dung quy trình giám sát đã có, tiếp tục nâng cao theo mục tiêu và nguyên tắc đã phân tích trên đây để hoạt động giám sát từ xa đạt hiệu quả cao hơn. Việc này đòi hỏi không chỉ đối với Thanh tra Ngân hàng trong việc tiếp tục cải tiến, nâng cao chương trình giám sát, mà còn đòi hỏi các vụ, cục chức năng của Ngân hàng Nhà nước khi xây dựng các văn bản pháp quy, các quy chế và các văn bản hướng dẫn phải tạo điều kiện để có thể thực hiện quản lý các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngay từ kết quả giám sát từ xa.
Thứ hai, việc giám sát từ xa đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài Việt Nam, được thực hiện tại Thanh tra ngân hàng Trung ương. Các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài hàng tháng truyền file báo cáo cân đối kế toán và các báo cáo khác về Thanh tra Ngân hàng qua các Chi nhánh ngân hàng Nhà nước và Trung tâm tin học. Do đó phải tiếp tục tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ thanh tra làm công việc giám sát, phân tích đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Ngân hàng Trung ương vừa giỏi nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt là nghiệp vụ kế toán; vừa có trình độ sử dụng các phần mềm vi tính để thực hiện giám sát trên máy vi tính tốt và có thể phát hiện kịp thời những vi phạm của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài qua báo cáo, cân đối kế toán của họ được truyền file về Ngân hàng Nhà nước và kết quả giám sát từ xa được chạy từ máy tính ra.
Thứ ba, phải xử lý nghiêm khắc các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài để họ phải gửi báo cáo đúng thời gian quy định, đảm bảo kết quả giám sát được kịp thời, phát huy tác dụng tốt.
3.2.4.2. Hoàn thiện phương thức thanh toán tại chỗ
Các mục tiêu thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng nêu Mục 3 Chương 1 của đề tài này khác với thanh tra tại chỗ của cơ quan chuyên ngành khác chủ yếu chỉ giải quyết vụ việc, phát hiện và sử lý những tiêu cực trong tổ chức điều hành và quản lý kinh tế, do đó chúng ta phải:
- Nâng cao chất lượng thanh tra tại chỗ, góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam ngày càng phát triển, các nghiệp vụ ngày càng đa dạng hơn và mức độ rủi ro trong hoạt động cũng sẽ lớn hơn. Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải có hơn nữa công tác quản lý đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là phải nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, sự cám dỗ vật chất và các biểu hiện tiêu cực không ngừng len lỏi, thâm nhập vào cá nhân mỗi con người ở mọi cương vị công tác, thì đòi hỏi của việc nâng cao chất lượng thanh tra tại chỗ càng bức bách hơn. Việc nâng cao chất lượng thanh tra tại chỗ trước hết là việc tổ chức và đào tạo một đội ngũ thanh tra viên có đủ trình độ, năng lực và hiểu biết kinh tế, xã hội để thực thi công việc được giao khi tiến hành các cuộc thanh tra tại chỗ đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đồng thời mỗi thanh tra viên phải tự mình đấu tranh với những cám dỗ vật chất và được đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần tối thiểu để có thể tránh được những cạm bẫy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra.
Cùng với việc giải quyết các nội dung trên, việc xác định những yêu cầu về nội dung thanh tra tại chỗ; phương pháp và tổ chức cuộc thanh tra; những giải pháp bỗ trợ để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra tại trỗ là việc cần thiết phải được nghiên cứu làm cơ sở để các đoàn thanh tra tại chỗ là việc cần thiết phải được nghiên cứu làm cơ sở để các Đoàn thanh tra và Thanh tra viên của Thanh tra Ngân hàng thực hiện.
- Hoàn thiện nội dung và quy trình thanh tra tại chỗ đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đối với hoạt động thanh tra trực tiếp các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, yêu cầu trước tiên đối với cán bộ thanh tra thực hiện thanh tra tại chỗ các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải có trình độ ngoại ngữ (thường là Tiếng anh) ở mức độ có thể hiểu được khi giao tiếp và đặc biệt là khi tra cứu các tài liệu của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Yêu cầu của hoạt động thanh tra tại chỗ là phát hiện và xử lý sai phạm từ đó hạn chế vi phạm của các ngân hàng. Để đạt được yêu cầu này, hoạt động thanh tra tại chỗ phải có nội dung sát thực và phải được thực hiện theo một trình tự khoa học. Do đó, Thanh tra Ngân hàng phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao nội dung, quy trình thanh tra tại chỗ với các ngân hàng.
Hiện nay, nội dung và quy trình thanh tra tại chỗ Thanh tra Ngân hàng đang áp dụng tuy đã phát huy được tác dụng nhất định trong việc hạn chế, ngăn ngừa rủi ro, và những vi phạm của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra tại chỗ nói riêng còn bị hạn chế nhiều, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nội dung và quy trình thanh tra.
+ Về nội dung thanh tra, Thanh tra Ngân hàng phải xây dựng "Sổ tay Thanh tra Ngân hàng " trong đó có cách thức tiến hành thanh tra đối với từng nghiệp vụ Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang và sẽ thực hiện; phương pháp phát hiện những sai phạm các ngân hàng thường mắc phải trong hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Trong sổ tay cũng cần đưa ra những kinh nghiệm khi thực hiện thanh tra tại chỗ để hoạt động thanh tra tại chỗ đạt hiệu quả cao nhất, thể hiện được hiệu lực của cơ quan quản lý nhà nước.
+ Quy trình thanh tra là việc xác định những công việc khi tiến hành thanh tra tại chỗ một ngân hàng, nó bao gồm:
- Thu thập thông tin về ngân hàng mà Thanh tra Ngân hàng sẽ tiến hành thanh tra.
- Xác định các bước của cuộc thanh tra và làm tốt từng bước như: xây dựng đề cương, ra quyết định thanh tra, phân công thành viên đoàn thanh tra, thông báo cho ngân hàng bị thanh tra v.v...
- Tiến hành thanh tra tại ngân hàng bị thanh tra.
- Kết thúc thanh tra, hoàn thiện hồ sơ thanh tra và tiến hành xử lý sau thanh tra.
Để thanh tra tại chỗ đạt hiệu quả cao, khi thực hiện cần chú ý một số vấn đề:
- Đoàn thanh tra phải được tổ chức chặt chẽ, đúng quy định có mục đích và nội dung thanh tra cụ thể (xây dựng đề cương thanh tra đối với từng chi nhánh tổ chức tín dụng nước ngoài); tổ chức thu thập thông tin đầy đủ; thực hiện các bước kiểm tra, kết luận phải chính xác; kiến nghị phải rõ ràng, cụ thể; phải xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và kiến nghị biện pháp xử lý.
- Sau khi kết thúc thanh tra, phải tổ chức theo dõi việc thực hiện các kiến nghị thanh tra của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thanh tra một cách chặt chẽ, buộc các ngân hàng này phải thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của thanh tra, bởi vì đây chính là sự thể hiện hiệu lực của công tác thanh tra.
3.2.5. Giải pháp bổ trợ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Ngoài việc hoàn thiện và nâng cao nội quy quy trình giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ. Để nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cần một số giải pháp bổ trợ đó là:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Ngân hàng Nhà Nước, Luật Các tổ chức tín dụng đặc biệt là các quy định điều chỉnh hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Các quy định này phải cụ thể, đồng bộ phù hợp với hiện tại và tương lai gần ; đồng thời có sự thống nhất giữa các văn bản, tạo điều kiện để các Thanh tra ngân hàng có cơ sở pháp lý chắc chắn khi kết luận và xử lý đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có vi phạm. Những quy chế cần được chú trọng là quy chế về trích dự phòng rủi ro ban hành kèm theo Quyết định số 48/1999/ QĐ - NHNN5 ngày 8/2/1999; việc tính số dư nợ cho vay trung; dài hạn để so sánh với 25% vốn huy động ngắn hạn theo quyết định số 297/1999/ QĐ - NHNN5 ngày 25/8/1999 của Thống đốc Ngân hàng, đặc biệt là sớm có hướng dẫn thực hiện Nghị định của chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng làm cơ sở để cán bộ thanh tra, thanh tra viên và các trưởng đoàn thanh tra có căn cứ xử lý khi các ngân hàng có vi phạm.
- Cần có cơ chế chính sách đãi ngộ với cán bộ Ngân hàng Nhà nước nói chung và cán bộ Thanh tra Ngân hàng nói riêng để giữ được các cán bộ quản lý giỏi như: chế độ thâm niên, phụ cấp công tác vv... có chế độ thưởng phạt rõ ràng để gắn trách nhiệm với từng công việc của cán bộ.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thực hiện đúng tiến độ của Đề án 112 cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là đổi mới hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng. Khi sửa luật NHNN vào năm 2008, cần quy định chi tiết rõ ràng về quyền hạn và nhiệm vụ của Thanh tra Ngân hàng để đảm bảo Thanh tra Ngân hàng có được thực quyền lớn hơn và giảm thiểu những tác động ngược chiều của quy định dưới luật về thanh tra mà dễ làm phương hại đến tính độc lập và quyền lực của Thanh tra Ngân hàng. Thanh tra Ngân hàng cần được trao quyền lớn hơn trong việc xử lý vi phạm pháp luật. Luật NHNN cần quy định rõ Thanh tra Ngân hàng có quyền không chỉ được kết luận, kiến nghị mà trực tiếp xử lý vi phạm các chuẩn mực về an toàn và pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Về cơ cấu tổ chức Thanh tra ngân hàng, Luật NHNN không nên quy định cụ thể vấn đề này mà giao cho Chính phủ để đảm bảo tính linh hoạt phù hợp với cơ cấu tổ chức của NHNN trong tương lai. Tuy nhiên cần đảm bảo bộ máy của Thanh tra Ngân hàng được tổ chức thành hệ thống khép kín, thống nhất từ trung ương đến các chi nhánh tỉnh, thành. Thanh tra ở chi nhánh chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp từ Thanh tra Ngân hàng Trung ương. Nhiệm vụ Thanh tra ở Trung ương và Thanh tra ở chi nhánh do Thống đốc quy định.
Thanh tra Ngân hàng phải là cơ quan xây dựng, ban hành các quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động ngân hàng; điều kiện về cấp giấy phép hoạt động ngân hàng. Thanh tra Ngân hàng cần được uỷ quyền cấp và rút giấy phép hoạt động ngân hàng khi tổ chức có hoạt hoạt động ngân hàng vi phạm nghiêm trọng các quy định về bảo đảm an toàn và pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Cần phân định, phân cấp uỷ quyền trách nhiệm cụ thể giữa Trung ương và địa phương trong việc thanh tra, kiểm tra và xử lý sau thanh tra đối với các TCTD nói chung và các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng. Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương trong công tác thanh tra.
Sửa đổi, ban hành các quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong một khía cạnh nào đó phải coi hệ thống kiểm soát nội bộ của TCTD là một chốt kiểm soát của Thanh tra Ngân hàng, do đó cần phải quy định rõ mối quan hệ của tổ chức này với Thanh tra Ngân hàng ở các địa phương và Trung ương. Đặc biệt là trong việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo, cơ chế phối hợp về nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát vì mục tiêu chung là an toàn hệ thống, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người gửi tiền.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Vụ, Cục tiếp tục hoàn chỉnh bộ mã chỉ tiêu thống kê và chương trình giám sát từ xa để Thanh tra Ngân hàng, nhất là Thanh tra chi nhánh, có thể khai thác được các thông tin từ chế độ báo cáo thống kê. (Hệ thống báo cáo thống kê 1747 hiện đang rất đồ sộ và tốn kém, nhưng đối với các chi nhánh NHNN hầu như chỉ phục vụ phòng Tổng hợp và Quản lý các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
3.3.2. Với Chính phủ và Thanh tra Nhà nước
Nghiên cứu sửa đổi Nghị định 244-HĐBT ngày 30/6/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) theo hướng xác định rõ các vấn đề có tính nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ, Ngành. Cần phân định rành mạch, rõ ràng về nội dung và đối tượng quản lý của Thanh tra Bộ, Ngành.
Quy định rõ Thanh tra Ngân hàng là cơ quan duy nhất thực hiện việc thanh tra, giám sát chuyên ngành ngân hàng và thanh tra Nhà nước đối với các hoạt động tiền tệ- ngân hàng của TCTD nói chung, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Việc quy định này là cần thiết để phát huy tính tập trung quyền lực và tính chuyên nghiệp của Thanh tra Ngân hàng và tránh tình trạng Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải chịu thanh tra từ nhiều cơ quan khác nhau, các cơ quan thanh tra khác có thể đưa ra ý kiến ngược với ý kiến của Thanh tra Ngân hàng mà có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của TCTD.
3.3.3. Với các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.
Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải có biện pháp nâng cao năng lực quản trị, điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro (thiết lập và vận hành chương trình quản trị rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ; hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống thông tin quản lý…). Đặc biệt là Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải khẩn trương tổ chức thực hiện Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 của Thống đốc NHNN và Quy chế kiểm toán nội bộ của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 của Thống đốc NHNN.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TCTD: Tổ chức tín dụng
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
VF1: Công ty quản lý quỹ
VND: Việt Nam đồng
USD: Đô la Mỹ
L/C: Thư tín dụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp đổi mới hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.docx