Đề tài Giải pháp giảm nhập siêu Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa và mở cửa hội nhập kinh tế, thâm hụt cán cân thương mại là một hiện tượng khá phổ biến vì yêu cầu nhập khẩu rất lớn trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế, do đó mức tăng trưởng xuất khẩu trong ngắn hạn không thể bù đắp thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và dai dẳng cho thấy, sự yếu kém trong điều tiết kinh tế vĩ mô và hậu quả đối với nền kinh tế rất trầm trọng. Ở Việt Nam, nhập siêu đã kéo dài liên tục từ những năm 1990 trở lại đây.Trong suốt quá trình phát triển kinh tế kéo dài hơn 20 năm, Việt Nam chỉ xuất siêu duy nhất một lần năm 1992.Việc nhập siêu liên tục trong một khoảng thời gian dài như vậy đã để lại nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, cũng như mang đến nhũng rủi ro có thể gặp phải trong tương lai. Có thể nói nhập siêu đã trở thành nút thắt của nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô hiện nay và đã thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu kinh tế và giới doanh nhân cả nước. Tuy vậy, tình hình vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Thông qua đề tài, nhóm nghiên cứu hy vọng đưa ra một bức tranh bao quát về tình hình nhập siêu của nước ta, các nguyên nhân chính dẫn đến nhập siêu, phân tích đánh giá các giải pháp kiềm chế nhập siêu của chính phủ và các chuyên gia, từ đó đưa ra kết luận và các giải pháp của nhóm. Phương pháp chủ yếu nhóm sử dụng là phương pháp phân tích, thống kê.Nghiên cứu sử dụng rất nhiều thông tin và số liệu từ các nguồn khác nhau kể cả trong nước và ngoài nước. Các số liệu dùng để phân tích tình hình nhập siêu được tổng hợp chủ yếu từ nguồn đã được Tổng cục thống kê, Bộ Công thương, Bộ Ngoại giao công bố. Bài nghiên cứu được chia làm 3 chương. Chương đầu tiên tập hợp những lý luận cơ bản về nhập siêu. Trong chương này, nhóm đưa ra định nghĩa nhập siêu, các yếu tố tác động đến nhập siêu, những hiệu quả tích cực cũng như các rủi ro nhập siêu có thể gây ra cho nền kinh tế và một số bài học kinh nghiệm giải quyết nhập siêu của các nước ASEAN. Chương thứ hai đi sâu vào tình hình xuất nhập khẩu và thực trạng nhập siêu của Việt Nam. Chương cuối cùng sưu tầm tập hợp các giải pháp kiềm chế nhập siêu của Chính phủ, các ý kiến, nhận định của chuyên gia và một số giải pháp đề xuất của nhóm. Trong phạm vi thời gian hạn hẹp, nhóm đã rất cố gắng tìm kiếm thông tin để thực hiện nghiên cứu một cách toàn diện nhất. Tuy nhiên, do giới hạn về kiến thức và phương pháp nghiên cứu nên nhóm không tránh khỏi thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được sự đóng góp của hội đồng đánh giá để đề tài này được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHẬP SIÊU 1. Nhập siêu và các khái niệm liên quan . 5 2. Các yếu tố tác động đến nhập siêu 5 2.1. Tác động của tỷ giá hối đoái 5 2.2. Tác động của việc thay đổi thu nhập ở nước xuất khẩu và nước nhập khẩu 7 2.3. Cơ cấu và chu kỳ kinh tế . 7 2.4. Sự mất cân đối giữa tổng đầu tư và tiết kiệm 8 2.5. Các biện pháp bảo hộ mậu dịch 9 3. Tác động của nhập siêu đến nền kinh tế . 9 3.1. Các tác động tích cực . 9 3.2. Những rủi ro do nhập siêu 10 4. Bài học giải quyết tình trạng nhập siêu từ các nước ASEAN . 11 CHƯƠNG 2: TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NĂM 1. TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU 13 1.1. Thực trạng nhập siêu Việt Nam giai đoạn 1990- nay 13 1.2. Mặt hàng nhập siêu 14 1.3. Thị trường nhập siêu 17 1.4. Các nhận định về nhập siêu . 19 1.4.1. Tình hình nhập siêu 19 1.4.2. Mặt hàng nhập siêu 20 1.4.3. Vấn nạn nhập siêu từ Trung Quốc 21 1.5. Nguyên nhân nhập siêu 24 1.5.1. Nhà nước 24 1.5.2. Doanh nghiệp 26 1.5.3. Người dân 28 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢM NHẬP SIÊU VIỆT NAM 1. Giải pháp Nhà nước, Bộ, Ngành năm 2011 30 2. Giải pháp, nhận định của các chuyên gia . 35 3. Các đề xuất của nhóm 42 3.1. Các giải pháp ngắn hạn. 42 3.1.1. Cơ quan nhà nước . 42 3.1.2. Doanh nghiệp . 42 3.2. Các giải pháp dài hạn 43 3.2.1. Tái cơ cấu nền kinh tế . 43 3.2.2. Tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam 44 3.2.3. Gia tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu . 45 3.2.4. Xuất khẩu bằng giá CIF, nhập khẩu bằng giá FOB 46 3.2.5. Phát triển du lịch – ngành “xuất khẩu tại chỗ” . 47 3.2.6. Thu hút kiều hối 48 3.2.7. Đẩy mạnh “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 53  Tiếng Anh . 53  Tiếng Việt . 54

pdf56 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2780 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp giảm nhập siêu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh liên kết, làm ăn manh mún Trong bài “Thiếu liên kết, doanh nghiệp khó đứng vững” đang trên báo điện tử của Đài tiếng nói nhân dân VIệt Nam (VOV news), tác giả đã chỉ ra việc thiếu tính liên kết và hợp tác của các doanh nghiệp trong nước là một điểm yếu lớn của doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước vẫn duy trì phong cách làm ăn tự cung tự cấp. Các doanh nghiệp nhỏ thì thiếu tính hợp tác, luôn có tư tưởng chụp giật, 28  triệt tiêu lẫn nhau cũng như chèn ép bạn hàng để giành ưu thế trên thị trường.Điều này không những làm giảm hiệu quả sản xuất-kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của doanh nghiệp. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), rất ít KCN, cụm công nghiêp đạt được tính liên kết cao giữa các doanh nghiệp hoạt động trên cùng địa bàn. Sự rời rạc, tách biệt trong hoạt động sản xuất - kinh doanh trong KCN, không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của nhau; sự thiếu vắng các đơn vị hoạt động chuyên nghiệp trong các dịch vụ hỗ trợ... đang là những rào cản, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, trong tình hình hội nhập kinh tế, doanh nghiệp trong nước đang vấp phải nhiều đối thủ từ nước ngoài, cạnh tranh diễn ra ở mức độ gay gắt làm cho việc liên kết, hợp tác giữa những doanh nghiệp trở nên cấp thiết. Sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp nuôi và chế biến cá basa, tôm, các doanh nghiệp trồng và chế biến chè, cafe, các doanh nghiệp dệt, may... trong việc phát triển thị trường, giải quyết tranh chấp quốc tế những năm qua là minh chứng rõ nhất về nhu cầu này. 1.5.3. Người dân  Tâm lí thích dùng hàng nước ngoài Theo bà Đinh Thị Mỹ Loan, P.Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội các nhà bán lẻ VN cho rằng: nguyên nhân là có thời gian các doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập khá trở lên. Một yếu tố nữa là tâm lý của người tiêu dùng, do các sản phẩm của chúng ta cũng không có nhiều chi phí quảng cáo, các chiêu thức khuyến mại như các sản phẩm nước ngoài cũng là một tác động đến tâm lý tiêu dùng. TS Lê Đăng Doanh bổ sung thêm hàng Việt Nam hiện nay chưa bảo vệ thích đáng được người tiêu dùng. Chính những loại hàng giả, hàng nhái trong nước đang làm hại các nhà sản xuất. 29   Thích dùng hàng hiệu Tâm lí thích dùng hàng hiệu là một thói quen khó bỏ của người Việt Nam. Thống kê đầu năm 2011 cho thấy trong số 10 tỉ USD nhập hàng xa xỉ, có tới 9 tỉ USD là nhập rượu ngoại, thuốc lá, đố trang sức, điện thoại. Theo TS Nguyễn Minh Phong, nếu so sánh với mức nhập siêu 12,6 tỉ USD, thì con số 10 tỉ USD người dân bỏ ra tiêu xài hàng ngoại vô cùng đáng lo ngại. Hàng xa xỉ đang khiến nhập siêu tăng cao và không mang lại giá trị gia tăng cho nền kinh tế cũng như làm hao tổn nguồn lực ngoại tệ của đất nước. Tâm lí thích dùng hàng hiệu, hàng mắc tiền không chỉ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của quốc gia mà còn ảnh hưởng đến chính người tiêu dùng. Do nhu cầu thể hiện bản thân cao dẫn đến nhu cầu về hàng hiệu cao, giá của các mặt hàng này càng tăng. Giá cao quá mức đã tác động xấu đến chính người mua. Tuy nhiên do tâm lí cho rằng hàng hiệu phải mắc, càng mắc mới là hàng hiệu, doanh thu các mặt hàng không những không bị ảnh hưởng mà còn tăng nhanh. Vấn đề là ta không thể cấm người dân không mua hàng hiệu vì đó là nhu cầu cá nhận. Các biện pháp hiện nay như hạn chế cấp ngoại tệ để nhập khẩu hàng xa xỉ, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, sử dụng hàng rào kỹ thuật... cũng chỉ dừng ở mức hạn chế nguồn cung và cầu.Nhưng nếu có thề giải quyết được vấn đề tâm lí này, vấn đề nhập siêu của ta có thể được cải thiện. 30  CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢM NHẬP SIÊU VIỆT NAM 1. Giải pháp Nhà nước, Bộ, Ngành năm 2011 Ngày 24 tháng 2 năm 2011 vừa qua, chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ- CP về một số giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011. Sau đây là giải pháp trong Nghị Quyết 11 nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng  Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:  Trong quý II năm 2011, ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung - cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu; tiếp tục chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh để đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ; chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước, phối hợp với Bộ Tài chính trong việc điều hành dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực; thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá. → Thúc đẩy sản xuất trong nước nhằm ổn định cung cầu, bình ổn giá khi tiến hành các biện pháp giảm nhập siêu.  Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng quy trình, nguyên tắc 31  kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước; phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước, nhất là các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập khẩu; chủ động áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng, hạn chế nhập siêu. → Mục tiêu nhập siêu không quá 16%.  Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống.  Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:  Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.  Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011. → Tạo nhiều điều kiện để giảm thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu chưa thể sản xuất được, để có lợi nhuận lớn hơn khi xuất khẩu hàng dệt may, giầy dép... 32   Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô. → Tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng thô, nhằm hạn chế xuất khẩu mặt hàng thô, tài nguyên đất nước.  Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết yếu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công Thương ban hành. → Có danh mục rõ ràng cần nhập khẩu mặt hàng nào và mặt hàng nào đã có trong nước, hạn chế nhập khẩu thêm. Từ đó, Ngân hàng có biện pháp cho vay hợp lý giữa 2 trường hợp này.  Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, tăng xuất khẩu, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, bảo đảm an ninh lương thực. → Tăng xuất khẩu hàng nông nghiệp (nhưng thực chất thì giá trị hàng nông nghiệp lại thấp).  Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ tình hình sản xuất, tiêu dùng tại địa phương, chỉ đạo sản xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt, trước hết là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu,...; tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa bàn. → Tích trữ hàng tiêu dùng thiết yếu để bình ổn giá khi áp dụng các biện pháp giảm nhập siêu.  Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản 33  phẩm hàng hoá, dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính.  Các Bộ, cơ quan, địa phương tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt, tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định về tiết kiệm, chống lãng phí; xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử dụng điện 10% theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ; đồng thời, áp dụng các biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện. Đây là các giải pháp căn bản để đảm bảo tăng trưởng bền vững năm nay và những năm tiếp theo. Đối với việc khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, Nghị quyết hướng dẫn cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ Ngành trong việc kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước, nhất là các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập khẩu; chủ động áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng, hạn chế nhập siêu. Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường. Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011. 34   Hỗ trợ xuất khẩu Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô.  Tăng xuất khẩu Đứng trước tình hình khi 4 tháng đầu năm 2011, kim ngạch nhập khẩu nước ta đạt trên 31,83 tỷ USD, tăng hơn 29% so với cùng kỳ năm ngoái. Trước tình trạng nhập siêu quá lớn từ một số thị trường nước ngoài, các chuyên gia của các tổ chức tài chính, thương mại đã tiếp tục vào cuộc đưa ra hàng loạt các giải pháp để cải thiện tình hình. Tổng cục Hải quan áp dụng các biện pháp hàng rào kỹ thuật hữu hiệu, đối với các mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu giúp đẩy cán cân thương mại Việt Nam trở nên ổn định hơn, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu nhiều hơn để bù đắp thâm hụt từ hàng nhập khẩu. Đồng thời, áp dụng biện pháp thuế song song với các giải pháp về tín dụng để hạn chế nhập hàng tiêu dùng không thiết yếu. Có giải pháp phù hợp duy trì cơ cấu nhập khẩu hàng tiêu dùng cần thiết và tiến tới hạn chế những hàng tiêu dùng không cấp thiết. Tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu không thiết yếu phục vụ sản xuất tiêu dùng, phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Cụ thể cần: Rà 35  soát lại tất cả các khoản thuế, dòng thuế đối với các hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà lộ trình đã cam kết cho phép; Nghiên cứu áp dụng các rào cản phi thuế như các rào cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc biện pháp đối kháng theo đúng các điều kiện do WTO quy định. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xuất khẩu, thay đổi cơ cấu nhập khẩu, đồng thời với thúc đẩy phát triển cả thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố đầu vào nội địa thông qua mở rộng sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ: Hướng vào xuất khẩu các hàng hóa đem lại giá trị gia tăng cao như phần mềm, linh kiện điện, điện tử...; hướng vào các dịch vụ phi hàng hóa như du lịch, xuất khẩu lao động... Đa dạng hóa thị trường, đặc biệt là các thị trường tiềm năng như châu Phi, Trung Đông để giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài nền kinh tế và cũng qua đó chia sẻ được rủi ro. Cần lập các kênh thông tin thương mại, củng cố vai trò của các đại diện thương mại ở nước ngoài, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tham gia, tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm đối tác, hỗ trợ và thúc đẩy các công ty Việt Nam tham gia vào các hội chợ quốc tế chuyên ngành Cơ cấu ngành cần cân nhắc các nhân tố lợi thế của Việt Nam để lựa chọn phát triển phù hợp, giảm việc sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu cũng như giảm áp lực lên cầu nhập khẩu... Tập trung khai thác thị trường nội địa kết hợp với thị trường xuất khẩu sẽ giảm những biến động từ tác động bên ngoài... 2. Giải pháp, nhận định của các chuyên gia Trong bài viết xuất bản ngày 13 tháng 5 năm 2011, tác giả Trần Văn Thọ (ĐH Waseda, Nhật Bản) nhận định rằng: Nút thắt của nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô hiện 36  nay là chuyện nhập siêu, sau bốn tháng đầu năm đã lên đến gần 5 tỉ đô la, trong đó nhập siêu với Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hiện nay tỷ giá đang khuyến khích cho nhập siêu. Mặc dù nhân dân tệ đang tăng giá so với đô la Mỹ, nhà nhập khẩu vẫn hưởng lợi lớn khi hàng nhập về bán bằng tiền đồng sẽ có giá tăng (do lạm phát tiền đồng) nhưng tỷ giá lại được giữ "ổn định". Tình hình này khuyến khích mọi người nhập khẩu thay vì sản xuất hàng để bán trong nước. Chuyện hàng nhập khẩu chèn lấn hàng sản xuất trong nước đang diễn ra ở khắp mọi ngành nghề chứ không chỉ là nhập máy móc, nguyên vật liệu. Các ý kiến sẽ tập trung làm rõ vấn đề nhập siêu và giải pháp để hạn chế. Ông cho rằng, đồng tiền Việt Nam phá giá liên tục nhưng nhập siêu vẫn lớn và tiếp tục tăng.Thông thường đồng tiền mất giá có tác dụng làm tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu nhưng ở Việt Nam thì không thấy hiệu quả đó, ngược lại nhập khẩu vẫn tăng. Theo ông, có hai nguyên nhân chính: một là sức cạnh tranh quá kém của hàng hóa sản xuất ở Việt Nam, hai là chính sách và quản lý nhập khẩu không hiệu quả. Bao trùm lên hai nguyên nhân này là sự thiếu vắng tinh thần trách nhiệm và năng lực quản lý của quan chức các cấp. Trong bài viết của mình ông đã đưa ra những phân tích cũng như các hướng giải quyết sau: Đối với vấn đề năng lực cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, do năng lực cạnh tranh của Việt Nam quá yếu trong cả hàng công nghiệp và nông phẩm chất lượng cao. Điều này phản ảnh trong cơ cấu xuất và nhập khẩu với việc xuất phần lớn sản phẩm nguyên liệu thô hoặc sơ chế và hàng công nghiệp chủ yếu dùng lao động giản đơn. Mặt khác, nhập khẩu tăng nhanh gây ra nhập siêu lớn vì các ngành công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển, hàm lượng nhập khẩu của hàng sản xuất cho xuất khẩu và cho tiêu dùng trong nước rất lớn. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiệu quả thấp, hoạt động của doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn nên không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Đặc biệt áp lực của hàng công nghiệp nhập khẩu từ Trung Quốc rất 37  mạnh.Tại Đông Á, Trung Quốc triển khai ngoại thương hàng ngang với các nước khác (cùng xuất và nhập hàng công nghiệp) trong khi với Việt Nam thì cơ cấu hàng dọc vẫn chưa thấy có chiều hướng thay đổi. Ông cho rằng trong lúc nhập siêu tăng đến mức làm bất ổn trầm trọng nền kinh tế mà nhập khẩu hàng tiêu dùng cao cấp vẫn tăng. Như báo chí phản ảnh, "lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu tăng đột biến trong bốn tháng đầu năm 2011", "các siêu thị tràn ngập sữa, thịt, rượu bia, thuốc lá có nguồn gốc nhập khẩu"... Hiện tượng này là do việc buông lỏng trong quản lý nhập khẩu. Ông kiến nghị: dù là thành viên của WTO, một nước đang trong tình trạng nhập siêu lớn, kinh tế đang gặp nguy cơ vẫn có thể áp dụng điều khoản tự vệ để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng nhất định trong một thời hạn nhất định. Ngoài ra, Chính phủ có thể đánh thêm thuế tiêu thụ đặc biệt (cao đủ để hạn chế được nhập khẩu) đối với các mặt hàng tiêu thụ cao cấp nói trên. Về trách nhiệm và năng lực của quan chức, ông đưa ra những hướng cải thiện như:  Đối với hàng nông phẩm, không đòi hỏi công nghệ cao cấp và vốn lớn nhưng vẫn có thể cạnh tranh được trên thị trường trong nước và nước ngoài nếu có sự quan tâm, yểm trợ của chính quyền địa phương. Muốn sản xuất lớn và cao cấp hóa nông phẩm và thực phẩm thì cần đến nỗ lực của chính quyền trung ương và địa phương hơn nữa.  Ngoài ra nhà nước cần đầu tư hạ tầng nông thôn (xây cơ sở tập trung nông phẩm, cơ sở bảo quản tồn kho, trung tâm giao dịch...), tổ chức kiểm tra nông dược tồn đọng trên sản phẩm thu hoạch, quản lý công nghệ và tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm, tổ chức hướng dẫn nông dân hoạt động sản xuất... Thêm vào đó, Chính phủ còn có vai trò tìm kiếm thị trường và tổ chức cho nông dân tiếp cận thị trường, hướng dẫn nông dân lập các khế ước dài hạn với các công ty thương mại quốc tế. 38   Về công nghiệp, nếu lãnh đạo quan tâm thực sự đến nhập siêu và năng lực cạnh tranh của Việt Nam thì đã đưa ra các biện pháp thu hút các dự án FDI trực tiếp tăng năng lực cạnh tranh, và yểm trợ hoạt động của doanh nghiệp trong nước (nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu vốn đầu tư và ít thông tin về thị trường), và nhất là không ưu tiên vốn cho các tập đoàn đầu tư vào những lĩnh vực không hoặc ít liên quan đến hiệu quả tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên trong bài viết của mình ông cũng tỏ thái độ không đồng tình khi hiện nay tin tức thời sự không cho thấy các nỗ lực nói trên, ngược lại thấy những tin như Bộ Tài chính vừa đưa ra dự thảo nâng mức giá trị xe con cho cấp bộ trưởng và thứ trưởng (theo báo Sài Gòn Tiếp Thị). Trong lúc dân chúng đang khốn khổ vì cơn bão giá này, tại sao Bộ Tài chính lại có dự thảo này? Thái độ này mâu thuẫn với quyết định hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ và do đó quyết định, chính sách đó sẽ không thể có hiệu lực. Trong nhận định của Tác giả Trần Văn Thọ, ông đã nêu lên một vấn đề tồn đọng của nền kinh tế Việt Nam đó là yếu kém về trách nhiệm và năng lực của quan chức nhà nước.Chính vì đây là một tác giả của một tổ chức nước ngoài nên về phương diện nào đó sẽ có cái nhìn khách quan hơn. Bản thân nhóm nhận định rằng, việc giải quyết những tồn động trong cơ chế quản lý, năng lực hay trách nhiệm của quan chức đòi hỏi phải có một sự quyết tâm nỗ lực của cả hệ thống chính phủ, và để thực hiện được cần phải có một kế hoạch thực hiện dài hơi. Góp phần đưa ra các giải pháp cho nhập siêu, hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI) cũng đã đề nghị một số các biện pháp như sau:  Bộ Tài chính nên làm công tác rà soát toàn diện và tăng tối đa các loại thuế với những mặt hàng nằm trong danh mục không khuyến khích nhập khẩu. 39   Ngoài thuế, cần bổ sung thêm các loại phí cao để ngăn chặn theo thông lệ quốc tế, chẳng hạn nghiên cứu ban hành loại phí mua xe mới ( theo giá trị của xe ô tô ). Dùng công cụ phí với mức từ (100% - 300%) giá trị xe có thể giảm 50% - 60% kim ngạch nhập khẩu xe ô tô.  Ngân hàng nhà nước nên xem xét việc ban hành ban hành giấy phép mua ngoại tệ hoặc hình thức tương tự ( Căn cứ theo Luật Ngân hàng ), xem xét xem có thể vận dụng được không trong 1 giai đoạn ngắn :  Doanh nghiệp nhập khẩu muốn nhập hàng tiêu dùng xa xỉ, hàng không thuộc Danh mục khuyến khích nhập khẩu cần phải xin giấy phép tại ngân hàng nhà nước.  Hoặc hàng tháng ngân hàng nhà nước xét duyệt kế hoạch bán ngoại tệ cho việc nhập khẩu những mặt hàng nhạy cảm từ hệ thống các ngân hàng thương mại.  Nếu tích cực vận dụng các biện pháp hành chính, hoặc các rào cản hợp pháp thì hàng năm có thể giảm nhập siêu với những nhóm hàng trên ở mức từ 3 tỷ - 5 tỷ USD. Nhận định: VAFI đã khá lạc quan trong việc dự báo về tình hình nhập siêu trong 10 năm tới. Thực tế khi áp dụng các biện pháp mà hiệp hội này kiến nghị sẽ có thể gặp nhiều trở ngại. Bởi vì như chúng ta đã biết, công cụ thuế và công cụ phí là những công cụ có tác dụng hai mặt, nhất là khi hiện nay chúng ta tham gia vào những tổ chức kinh tế toàn cầu thì việc áp dụng các mức thuế và phí đều phải được thưc hiện theo lộ trình đã cam kết. Vì vậy không thể vì một lý do nào đó mà muốn tăng lên bao nhiêu là có thể tăng lên, làm như thế không những vi phạm quy tắc cuộc chơi mà có thể làm cho tình hình trong nước càng trở nên khó khăn khi gặp phải sự trả đũa. “Thực tế để giải quyết triệt để vấn nạn nhập siêu hiện nay chúng ta không thể áp dụng từng biện pháp riêng lẻ mà cần có một hệ thống các giải pháp đồng bộ, hỗ trợ 40  nhau trong quá trình thực hiện.” Đó là quan điểm đã được đưa ra tại hội thảo khoa học “Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu” do trường Đại học Kinh tế TPHCM tổ chức vừa qua. “Bài toán nhập siêu” được khẳng định là cần nhiều hơn một lời giải.Hội thảo này thực sự trở thành một diễn đàn đối thoại chính sách giữa cơ quan quản lý nhà nước và các nhà nghiên cứu. Lời giải đầu tiên là phá giá đồng tiền, nhưng liệu nó có cải thiện tình trạng nhập siêu? Trong hàng loạt các ý kiến trao đổi về tỷ giá, tham luận của PGS. TS. Nguyễn Trọng Hoài và ThS. Hồ Bá Tình chỉ ra rằng hiện nay, tỷ giá hối đoái thực đa phương (MRER) năm 2000 làm năm gốc của Việt Nam đang ở mức thấp. Nói cách khác, đồng VND đang được định giá cao khoảng 10% so với rổ tiền tệ của 12 đối tác thương mại lớn nhất, gồm Singapore, Malaysia, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Đức, Pháp, Anh và Mỹ. Điều đó góp phần làm cho hàng hóa Việt Nam kém cạnh tranh trên thị trường thế giới. Xem xét tương quan giữa VND với từng đồng tiền nói trên, tỷ giá hối đoái thực song phương cho thấy tiền đồng đang được định giá thấp so với 5 đồng tiền của các nước Trung Quốc, Pháp, Đức, Thái Lan, Autralia và được định giá cao so với đồng tiền của 7 đối tác thương mại lớn còn lại. Kết quả nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng giữa tỷ giá thực và cán cân thương mại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều này có nghĩa là việc phá giá đồng tiền sẽ đóng góp vào việc cải thiện tình trạng thâm hụt thương mại.Nhận định này đã được nhiều nhà khoa học và cả đại diện Ngân hàng Nhà nước tán đồng. Tuy nhiên, ThS Hồ Bá Tình cũng nhấn mạnh: “Mặc dù tỷ giá có quan hệ khá chặt chẽ với cán cân thương mại song cán cân thương mại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Do đó, không thể giải quyết vấn đề nhập siêu chỉ bằng cách phá giá đồng nội tệ. Thêm vào đó, quyết định phá giá còn cần phải cân nhắc đến sự ảnh 41  hưởng của nhiều yếu tố khác trong nền kinh tế.Để tỷ giá hỗ trợ tốt cho xuất khẩu, trong dài hạn cần lấy tỷ giá hối đoái thực như là tỷ giá tham chiếu trong điều hành tỷ giá trên thị trường”. Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ (NHNN) cũng bày tỏ sự tâm đắc với nhận định này. Bên cạnh tỷ giá, một vấn đề thu hút đông đảo ý kiến thảo luận là hiện tượng nhập siêu từ Trung Quốc. GS. TS Võ Thanh Thu (ĐH Kinh tế TPHCM) nhận định rằng nếu giải quyết được vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc thì căn bản sẽ giải được bài toán nhập siêu hiện nay. TS. Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ chính sách Ngân hàng Nhà nước thừa nhận, dù Trung Quốc hiện là “công xưởng của thế giới”, song việc chúng ta nhập siêu mạnh từ nước này, mà chủ yếu là hàng hóa chất lượng thấp, là tín hiệu không tích cực đối với nền sản xuất nước ta. Ông Bảo cũng nhấn mạnh rằng, trong 6 tháng đầu năm 2010, tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm không chỉ 90% mà đã lên đến 99% lượng nhập siêu của toàn bộ nền kinh tế. Dù vậy, các đại biểu nhận định để thu hẹp khoảng cách thâm hụt trong cán cân thương mại, việc thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa trong nước so với hàng hóa nhập khẩu mới là những giải pháp căn cơ và bài bản chứ không phải cố gắng giảm nhập siêu từ Trung Quốc bằng những biện pháp phi thị trường. Theo GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân (ĐH Kinh tế TPHCM), việc xây dựng và tham gia vào các chuỗi cung ứng là một trong những giải pháp quan trọng giúp hoạt động xuất nhập khẩu nước ta phát triển bền vững, hiệu quả. Trung Quốc hiện là nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới, sẽ là điều không tưởng nếu Việt Nam ra sức “đối đầu” với làn sóng hàng hóa thâm nhập từ Trung Quốc. Giải pháp tối ưu hiện nay là hợp tác với Trung Quốc trong các chuỗi cung ứng toàn cầu. 42  Việt Nam có thể hợp tác, tham gia vào các chuỗi cung ứng này thông qua 2 cách: nhận “outsource” một số công đoạn/sản phẩm từ các công ty Trung Quốc, hoặc tiếp nhận các doanh nghiệp đang dần thoái vốn khỏi Trung Quốc do sự gia tăng chi phí đầu vào, điển hình như các doanh nghiệp trong ngành dệt may. 3. Các đề xuất của nhóm 3.1. Các giải pháp ngắn hạn: tăng cường công tác quản lí nhập khẩu nhằm tránh hiện tượng nhập khẩu tràn lan, nhập khẩu hàng kém chất lượng. 3.1.1. Cơ quan nhà nước Trước tình hình nhập siêu ngày càng nghiêm trọng, việc kiểm soát hàng nhập khẩu ngày càng bức thiết. Ngoại trừ các mặt hàng cần thiết như các hàng phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu…các hàng nhập khẩu kém chất lượng, không cần thiết nên được xem xét. Công tác kiểm tra, giám sát hàng nhập khẩu nên thực hiện một cách nghiêm túc nhằm tránh nhập hàng kém chất lượng, vừa gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng vừa gây lãng phí nguồn ngoại tệ quốc gia. Mặt khác, lượng nhập siêu có thể giảm nếu ta hạn chế được lượng hàng nhập dư thừa. Hàng nhập dư thừa xảy ra khi lượng hàng đó trong nước đã có hay đã dư nhưng vẫn nhập thêm. Lượng hàng nhập này rõ ràng không cần thiết. Điều này đòi hỏi nên có sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng về nhập khẩu và sản xuất trong nước.Cơ quan phụ trách sản xuất trong nước sẽ báo cho bên nhập khẩu về tình hình hàng hóa trong nước và lên danh sách các hàng trong nước dư thừa để bên nhập khẩu hạn chế. Nếu các bên làm việc ăn ý vả hiệu quả, lượng hàng nhập khẩu sẽ bớt đi và tình hình nhập siêu sẽ được cải thiện. 3.1.2. Doanh nghiệp Nhập siêu không chỉ là vấn đề của Nhà nước mà còn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhà nước sẽ tăng cường các biện pháp giảm nhập siêu nên trước mắt sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nhập khẩu. Nhưng không vì thế các doanh nghiệp 43  xuất khẩu không liên quan vì hầu hết các nguyên liệu, máy móc, phụ tùng, linh kiện ta đều phải nhập khẩu. Dù rằng các nguyên liệu đầu vào phục vụ cho xuất khẩu được hưởng các ưu đãi hơn nhưng nếu không cẩn thận, họ sẽ bị vướng vào những vấn đề không hay. Điều đầu tiên, các doanh nghiệp nên nắm vững các nghị quyết, quyết định, thông báo… mới của nhà nước để có phương án hoạt động thích hợp. Thứ hai, trong tình hình nhập khẩu bị siết chặt,các doanh nghiệp nên tìm hiểu, nắm rõ thông tin đối tác, các quy định tại nước đối tác, kiểm tra kĩ lưỡng chất lượng của hàng hóa nhằm tránh các vụ tranh chấp không cần thiết. Nếu không, có nguy cơ hàng hóa nhập khẩu không đủ chất lượng sẽ bị giữ lại, vừa tốn thời gian vừa mất tiền. 3.2. Các giải pháp dài hạn 3.2.1. Tái cơ cấu nền kinh tế Trong giai đoạn hiện nay, lượng nhập siêu nước ta đang duy trì ở mức “báo động đỏ” (GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân). Điều này cho thấy có “lỗ hổng” trong nền kinh tế nước ta khiến cho lượng nhập khẩu vượt xa lượng xuất khẩu. Nhiều chuyên gia cho rằng giải pháp lâu dài không những cho “vấn nạn” nhập siêu mà còn cho nền kinh tế chính là tái cơ cấu nền kinh tế. Tái cơ cấu nền kinh tế nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của đất nước, đem lại hiệu quả hoạt động và đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Theo nhóm, hướng tái cấu trức nền kinh tế bao gồm các bước sau: (1) chọn lựa một số ngành kinh tế chủ lực, (2) tập trung phát triển ngành chủ lực như xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ về mặt chính sách…, (3) đầu tư vào giáo dục con người. Do khả năng còn hạn hẹp về việc tái cơ cấu nền kinh tế nên nhóm xin trích ý kiến của PGS. TS Ngô Doãn Vịnh của Viện Chiến lược phát triển về tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, ông cho rằng việc tái cơ cấu nên kinh tế không nên làm tràn lan mà cần có sự chọn lọc. Một số ngành mà Việt Nam cần ưu tiên là dịch vụ, nông, lâm nghiệp, thủy sản và một số lĩnh vực Việt Nam có lợi thế như: sản xuất điện, phần mềm, luyện thép cao cấp, cơ khí chế tạo, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, sản xuất vật liệu, dược phẩm, chế biến nông lâm thủy 44  sản. Trong lĩnh vực dịch vụ thì phát triển tài chính, du lịch, vận tải quốc tế. Trong lĩnh vực nông lâm thủy sản thì phát triển trồng lúa gạo, cà phê, cao su, chè, điều, cây ăn trái, chăn nuôi lợn, cá, gà vịt…trồng rừng và nuôi trồng thủy sản với công nghệ hiện đại. Mục đích của viêc chọn các ngành này theo ông là để các ngành dịch vụ, sản xuất công nghệ cao và sản phẩm có giá trị quốc gia chiếm tỉ trọng cao hơn và tăng cường mức quan trong các ngành tư vấn, thiết kế, thông tin, đào tạo, chữa bệnh chất lượng cao. Để thực hiện điều này, cần có sự tham gia của Nhà nước và doanh nghiệp.Sự phối hợp giữa hai chủ thể này đòi hỏi cần có nguồn nhân lực giỏi và tận tụy. Nhà nước cần hoạt động hiệu quả, đội ngũ công chức, viên chức có năng lực và trách nhiệm cao. Trong cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam, cần có những doanh nghiệp mang tầm vóc quốc tế.Những đòi hỏi này nhấn mạnh đến vai trò của công tác đào tạo, giáo dục của Việt Nam phải có những bước tiến xa, đáp ứng nhu cầu đất nước. 3.2.2. Tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam Như đã phân tích trên, các doanh nghiệp Việt Nam đang dần bị lấn ép trên chính thị trường trong nước trước sự tấn công ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu.Trong một nền kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước không còn có thể dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước. Họ phải tự lực cánh sinh để tồn tại trên thương trường.Một khi doanh nghiệp trong nước đạt được sự tin tưởng của người tiêu dùng thì họ mới có thể trụ vững lâu dài được. Muốn được như vậy, các doanh nghiệp trong nước cần nâng cao năng lực quản trị để có thể lèo lái con tàu doanh nghiệp vượt qua đối thủ cạnh tranh. Như đã nói, các mặt hàng nhập khẩu không chỉ hơn hàng nội về mẫu mã mà còn về chất lượng, giá cả. Nếu chủ các doanh nghiệp tìm tòi cải tiến về công nghệ, sản xuất… thì họ mới có thể tồn tại được. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam hiện giờ rất bị động về thông tin thị trường như về đối thủ, nhu cầu của khách hàng… Do đó, các doanh nghiệp nên chủ 45  động trong vấn đề này. Họ có thể tự làm hoặc thuê các công ty nghiên cứu thị trường đề có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt nhất. Đa số các doanh nghiệp trong nước thuộc loại vừa và nhỏ. Đứng trước các đối thủ nước ngoài có nhiều kinh nghiệm đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước đoàn kết lại. Điều này cần thiết phải có Hiệp hội của từng ngành kinh doanh. Vai trò của Hiệp hội này là cung cấp thông tin về thị trường, tư vấn pháp luật và giải đáp thắc mắc cho các thành viên. Đồng thời, Hiệp hội sẽ là người đại diên doanh nghiệp nói lên nguyện vọng cuả họ cho cơ quan có thẩm quyền. 3.2.3. Gia tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước hướng về xuất khẩu với các mặt hàng xuất khẩu nổi tiếng như dệt may, gạo, cà phê… Tuy nhiên, giá trị tăng thêm khi xuất khẩu các mặt hàng này lại không cao. Có ít nhất hai nguyên nhân cho vấn đề này. Thứ nhất, cơ sở hạ tầng, công nghệ còn yếu kém, khả năng dự báo hạn chế và khâu nghiên cứu thị trường chưa được coi trọng.Điển hình cho trường hợp này là gạo Việt Nam. Dù là nước xuất khẩu gạo lớn trong khu vực, nhưng vẫn còn một số điều còn bất cập như quy mô sản xuất nhỏ lẻ, tự phát, quy trình thu mua, vận chuyển lạc hậu…gây ra thất thoát và giảm chất lượng gạo. Để có thể cải thiện tình hình, cần có chiến lược phát triển lâu dài, nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện tại và thực hiện nghiên cứu thị trường. Nguyên nhân thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam chưa thật sự tham gia vào chuỗi gia trị toàn cầu và mạng lưới phân phối toàn cầu.Theo GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân phát biểu trong hội thảo “Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu” rằng các doanh nghiệp Việt Nam (FDI) đang ở trình độ lắp ráp- công đoạn thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, để nâng cao giá trị xuất khẩu, ta cần tiến hành tham gia vào các công đoạn cao hơn, thâm nhập ngày càng sâu vào trong chuỗi giá trị. Đây là một giải pháp mới lạ và khả thi. Điều quan trọng là các doanh nghiệp cũng cần nâng cao khả năng hơn nữa về công nghệ, con người (nhân công vả quản lí), tài chính đề có thể tiến sâu vào trong chuỗi này. 46  3.2.4. Xuất khẩu bằng giá CIF, nhập khẩu bằng giá FOB Theo tính toán năm 2007 thì nếu chúng ta đã sử dụng dịch vụ Logistics và Bảo hiểm trong nước và xuất khẩu trong điều kiện CIF, chúng ta có thể tiết kiệm khoảng 3 tỷ USD, và nếu chúng ta đã nhập khẩu trong điều kiện FOB, chúng ta có thể tiết kiệm khoảng 4 tỷ Đô la Mỹ. Vì vậy, việc xuất khẩu giá FOB, nhập khẩu giá CIF đã làm cho chúng ta bị mất một số lượng lớn ngoại tệ. Hơn nữa, khi chúng ta xuất khẩu giá FOB, nhập khẩu giá CIF, chúng ta không có quyền giao hàng, từ đó không thể có những lợi ích từ việc chọn đường, hoặc phương tiện. Mặt khác, nó cũng có ảnh hưởng xấu đến ngành công nghiệp bảo hiểm trong nước. Như chúng ta đã biết, thu nhập của các công ty bảo hiểm chủ yếu xuất phát từ bảo hiểm thương mại, và nó rất có lợi cho đất nước. Nhưng khi doanh nghiệp xuất khẩu theo giá FOB và nhập khẩu giá CIF, các quyền của bảo hiểm sẽ thuộc về thương nhân nước ngoài. Chúng ta hiện đang kinh doanh một số lượng rất lớn của hàng hóa, và như vậy có nghĩa là chúng ta đang mất đi một số tiền thật lớn phí bảo hiểm khi giao dịch trong điều kiện này. Điều này làm tổn thương nền kinh tế nước nhà. Cách thức áp dụng hình thức xuất nhập khẩu này: Các doanh nghiệp nên tìm thêm thông tin về những công ty này và tạo dựng mối quan hệ tốt để so sánh và lựa chọn đối tác phù hợp nhất. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp xuất nhập khẩu phối hợp với các công ty vận tải và bảo hiểm khi xuất khẩu giá CIF, nhập khẩu giá FOB. Doanh nghiệp Việt Nam thường ít vốn, họ thường phải vay ngân hàng khi kinh doanh, vì vậy mà không đủ tiền để thuê tàu hoặc mua bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, họ có thể sử dụng thư tín dụng (L/C) để được vay ngân hàng nhiều hơn khi xuất khẩu trong điều kiện CIF. Và họ cũng phải trả ít hơn cho tài khoản ký quỹ phát hành L/C khi nhập khẩu trong điều kiện FOB. 47  Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước nhà cần đào tạo nhiều hơn về kỹ năng đàm phán cho nhân viên để có được quyền vận chuyển. Ngoài ra, một phần khiến các doanh nghiệp đang xuất FOB, nhập CIF là vì lo sợ rủi ro và trách nhiệm khi phải xuất CIF, nhập FOB, vì vậy các doanh nghiệp cũng phải nghiên cứu và cập nhật kiến thức về vận tải và bảo hiểm nhiều hơn nữa, từ đó dũng cảm sử dụng cách thức xuất nhập khẩu này vì một nguồn lợi lớn hơn cho bản thân doanh nghiệp và cả cho đất nước. Bên cạnh đó, tuy xây dựng một cơ sở hạ tầng tốt và vững chắc nhất cho xuất nhập khẩu Việt Nam là cả một quãng đường dài, một giải pháp dài hạn và gặp nhiều khó khăn, nhưng nó sẽ là tiền đề cho những lần xuất nhập khẩu sau này được dễ dàng hơn. 3.2.5. Phát triển du lịch – ngành “xuất khẩu tại chỗ” Muốn giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán do nhập siêu triền miên, đồng thời tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước, theo nhóm, phát triển du lịch là một giải pháp không quá tầm với nhưng mang lại hiệu quả nhanh hơn đầu tư vào các ngành kinh tế mà không phải thế mạnh của Việt Nam. Thứ nhất, du lịch mang lại nguồn thu ngoại tệ dồi dào cho đất nước. Thứ hai, Việt Nam có lợi thế thiên nhiên, nhiều danh lam thắng cảnh nên việc phát triển du lịch sẽ trở nên thuận lợi và dễ dàng hơn. Thứ ba, du lịch là một ngành “công nghiệp không khói”, không phải đầu tư quá nhiều với những kỹ thuật phức tạp, không hao mòn nhiều tài nguyên và sức lao động, lại nhanh chóng mang lại hiệu quả. Giải pháp để đưa du lịch Việt Nam trở thanh ngành kinh tế mũi nhọn: Trong phạm vi nghiên cứu hạn hẹp của đề tài, nhóm chỉ xin đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch Việt Nam trong thời gian tới: 48   Đặt ưu tiên phát triển ngành du lịch lên hàng đầu trong những ngành kinh tế trọng điểm. Phát huy lợi thế cảnh quan sẵn có, từ đó xây dựng những chiến lược phát triển đồng bộ theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam; nâng cao thương hiệu du lịch Việt trong mắt du khách quốc tế.  Kết hợp du lịch với các hoạt động văn hóa, ẩm thực của Việt Nam. Với các món ăn phong phú và đa dạng, Việt Nam có thể trở thành “Bếp ăn của thế giới” như lời của cha đẻ Marketing hiện đại – Philip Kotler. Việc quảng bá văn hóa ẩm thực cần được tiến hành một cách bài bản, có chiến lược cụ thể và quy hoạch dài hạn. “Bếp ăn” của thế giới có thể là một khái niệm rất rộng bắt đầu từ những món ăn truyền thống, những bí quyết và công nghệ chế biến chúng, đến các sản phẩm nông nghiệp và những chế phẩm đi kèm, đến các vật dụng phục vụ ăn uống, cách bài trí phòng ăn, các dịch vụ tư vấn về dinh dưỡng và sức khỏe... 3.2.6. Thu hút kiều hối Chúng ta đã biết, nhập siêu triền miên dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. Để giảm tình trạng này, nhà nước cần một lượng ngoại tệ đủ lớn để bù đắp thâm hụt. Thiết nghĩ, thu hút kiều hối là một giải pháp có thể thực hiện được trong ngắn hạn và hiệu quả lại cao. Ông Lê Quốc Hùng - Tổng lãnh sự Việt Nam tại thành phố San Francisco (Mỹ) nhận xét người Việt Nam dù ở đâu, sống trong hoàn cảnh nào, dù là người lao động chân tay hay trí thức, dù rời đất nước ra đi trong hoàn cảnh nào, cũng đều có chung một điểm là luôn chăm lo, giữ gìn cốt cách, bản sắc, tâm hồn Việt, vẫn đậm đà tình nghĩa với quê hương, đất nước. Hơn nữa, Việt kiều – đặc biệt là tầng lớp trí thức là những người được đào tạo ở những môi trường tiên tiến trên thế giới. Nếu tận dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao này, chúng ta sẽ có một đội ngũ phát triển những ngành sản xuất đòi hỏi 49  trình độ kỹ thuật cao mà không cần phải thuê chuyên gia, vốn hạn chế hiểu biết về văn hóa, ngôn ngữ cũng như không có tinh thần đóng góp cho đất nước như người Việt Nam. Vì vậy, chính phủ cần tận dụng nguồn lực kiều bào, trước hết là kiều hối để cải thiện cán cân thương mại, tăng nguồn ngoại tệ trong nước bằng những chính sách cụ thể. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu mà nhóm đề xuất:  Tăng lãi suất huy động đô la để thu hút nguồn ngoại tệ từ kiều bào chảy vào ngân hàng. Sở dĩ lượng kiều hối năm 2010 tăng mạnh là do chính sách kiều hối trong nước thông thoáng và lãi suất huy động ngoại tệ của các ngân hàng trong nước cao hơn ở nước ngoài, khiến Việt kiều tăng lượng tiền chuyển về.  Tạo điều kiện cho các dự án của Việt kiều tại Việt Nam có điều kiện giải ngân kịp thời, đặc biệt là các dự án mang tính hiệu quả cao và thiết thực.  Xây dựng kênh cung cấp thông tin riêng cho Kiều bào về các chính sách của nhà nước. Tại Hội nghị tổng kết năm 2010 và triển khai công tác năm 2011 của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài (UBVNVNONN) TP. Hồ Chí Minh sáng 17-3-2010,Ông Lê Hoàng Quân- Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh phát biểu:”cần chủ động thông tin tới kiều bào những vấn đề mà kiều bào quan tâm bằng những nguồn chính thống để không chỉ bà con hiểu đúng về đất nước, mà các thế hệ trẻ kiều bào ghi nhớ truyền thống của dân tộc luôn hướng về quê hương”  Đặc biệt hơn nữa là xây dựng một môi trường đầu tư lành mạn, các chính sách thông thoáng, minh bạch. Có như thế Việt kiều mới có thể an tâm chuyển vốn về nước đầu tư. 50  3.2.7. Đẩy mạnh “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” Tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2010 triển khai Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của Bộ Chính trị, Thứ trưởng Bộ Công thương Hồ Thị Kim Thoa, trưởng Ban chỉ đạo cuộc vận động (CVĐ) của Bộ Công thương đã khẳng định: “CVĐ không phải là giải pháp tình thế mà đây sẽ là chương trình không có kết thúc” để không chỉ đem thương hiệu Việt đến với người Việt mà còn để xây dựng nền tảng vững chắc cho thị trường nội địa. Theo Vietnam+, kết quả điều tra của Tập đoàn Grey Group (Mỹ), trước đây có đến 77% người tiêu dùng VN ưa chuộng các thương hiệu nước ngoài, tức chỉ có 23% người tiêu dùng ưa chuộng các thương hiệu trong nước. Nhưng theo điều tra mới nhất, sau 1 năm phát động CVĐ đã có 58% người tiêu dùng quan tâm đến hàng Việt. Cụ thể hơn, trong năm 2010, hàng Việt tiêu thụ trong hệ thống siêu thị Co.opMart tăng lên 58% so với cùng kỳ, trong khi hàng ngoại nhập chỉ tăng 22%. Tuy nhiên, để cuộc vận động thật sự trở thành một cuộc Cách mạng về thói quen tiêu dùng, cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn. Sau đây là một số đề xuất của nhóm:  Thực hiện đồng bộ và quyết liệt, tạo thành một làn sóng trong người dân.  Ưu tiên dành các kênh truyền thông cho quảng cáo hàng Việt. Một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao ý thức sử dụng hàng Việt cho người dân là khâu quảng bá, tiếp thị thì chúng ta lại làm chưa tốt. Người dân muốn mua hàng Việt nhưng họ lại không hề có thông tin gì về sản phẩm, trong khi ngày nào trên TV cũng phát những đoạn quảng cáo về những sản phẩm tương tự nhưng của nước ngoài sản xuất. Như vậy, khi cần mua sản phẩm ấy, điều đầu tiên người tiêu dùng nghĩ đến sẽ là sản phẩm mà mình đã được thông tin chứ không phải là một cái tên lạ hoắc ít khi được nhắc đến. Vì thế, các cơ 51  quan báo đài cần phải phối hợp để đưa hàng Việt lên các kênh quảng bá hiệu quả.  Nhưng trên hết vẫn phải đảm bảo và rà soát lại chất lượng của các mặt hàng Việt Nam, tránh gây mất uy tín cho người tiêu dùng.  Doanh nghiệp Việt cần nâng cao nhận thức về uy tín chất lượng, từ đó phát huy nội lực để có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài đang tràn lan tại thị trường Việt Nam.  Chính phủ nên có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước, giúp các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài. 52  KẾT LUẬN Tuy nhập siêu ít có tác dụng kích thích nền kinh tế, nhập siêu số lượng lớn kéo dài sẽ khiến cho nền kinh tế khó phát triển ổn định và là nút thắt của nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô tại Việt Nam hiện nay. Các số liệu cho thấy tình hình nhập siêu tại Việt Nam ngày càng trầm trọng. Trong năm 2010, Việt Nam là quốc gia nhập siêu đứng thứ 41 thế giới và cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam chủ yếu nhập siêu các mặt hàng có giá trị cao như máy móc, thiết bị hay hàng tiêu dùng cao cấp từ các thị trường châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Nhập siêu ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân tác động Nhập siêu không phải là một vấn đề đơn giản, và không thể được giải quyết trong ngắn hạn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta lơ là không đánh giá đúng các rủi ro nền kinh tế có thể gặp phải do nhập siêu. Thời gian qua, Nhà nước liên tục đưa ra hàng loạt các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát, chống nhập siêu, chấp nhận điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch về tăng trưởng theo hướng hạ thấp chỉ tiêu so với trước. Những giải pháp này đã bước đầu giảm lượng nhập siêu.Tuy nhiên, về lâu dài, phải có sự phối hợp giữa chính phủ, doanh nghiệp và người dân để có thể hoàn toàn xoay chuyển được tình thế của đất nước. Trong phạm vi nghiên cứu của nhóm, nhóm đề nghị về lâu dài nhà nước nên tái cấu trúc cơ cấu nên kinh tế một cách hợp lý hơn. Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên chú trọng phát triển các ngành dịch vụ như du lịch vốn là những ngành đòi hỏi ít lượng nhập khẩu nhưng lại cho hiệu quả thu ngoại tệ cao. Ngoài ra, cũng không kém phần quan trọng đó là phải tích cực nâng cao ý thức tiêu dùng hàng Việt của người dân, từ đó giảm thiểu lượng nhu cầu nhập khẩu không cần thiết.Nếu có được sự phối hợp đồng bộ giữa chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân, Việt Nam sẽ có nhiều hy vọng thoát khỏi tình trạng nhập siêu đã gây không ít khó khăn cho nền kinh tế trong thời gian qua. 53  TÀI LIỆU THAM KHẢO  Tiếng Anh 1. Alessandria, G., 2007. Trade deficits aren't as bad as you think. Business Review, (Q1), pp.1-10. 2. Anon., n.d. Balance of Trade. [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. 3. Capozzi, C., 2011. What is the Competitive Advantage of Trade Surplus and Trade Deficit? [Online] Available at: trade-surplus-trade-deficit.html [Accessed 18 May 2011]. 4. Congressional Budget Office, 2000. Causes and Consequences of the Trade Deficit: An Overview. [Online] Available at: [Accessed 18 May 2011]. 5. Elwell, C.K., 2008. The U.S. Trade Deficit: Causes, Consequences, and Cures. Congressional Research Service. 6. Harvest Investment Group, Inc., 2011. Trade Deficit. [Online] Available at: Itemid=197&lang=en [Accessed 17 May 2011]. 7. Hoffman, M.E.S., 2005. The Exchange Rate and the Trade Deficit: What's the Relationship?. 8. Lamond, E. & Cunningham, W., 1929. A Discourse of the Common Weal of this Realm of England. Cambridge University Press. 9. Liew, K., Lim, K. & Hussain, H., 2003. Exchange Rate and Trade Balance Relationship: The Experience of ASEAN Countries. International Trade 0307003, EconWPA. 10. Morici, P., 1997. The Trade Deficit: Where does it come from and What does it do? Economic Strategy Institute. 54  11. Schmidt, M., 2007. In Praise of Trade Deficits. [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. 12. Tripp, G., 2007. "Balance of Trade." Encyclopedia of Business and Finance, 2nd ed. [Online] Available at: 1552100030.html [Accessed 16 May 2011]. 13. Wang, Q., 2001. Import-Reducing Effect of Trade Barriers: A Cross-Country Investigation. IMF Working Paper. IMF.  Tiếng Việt 1. Anon., 2010. Nhập siêu kéo dài: Tỷ giá hay cơ cấu kinh tế? Thời báo Kinh tế Sài Gòn. 2. Bảo, N.T., 2010. Cách nhìn khác về nhập siêu. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online. 3. Chi, L., 2010. Vấn nạn nhập siêu từ Trung Quốc. [Online] Available at: [Accessed 16 May 2011]. 4. Chí, P.Đ., 2011. Câu chuyện nhập siêu: Hai nguyên nhân chính. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online. 5. Giang, T. & Luân, T., 2011. Tìm “chìa khóa” thoát khỏi tình trạng tăng trưởng thiếu bền vững. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. 6. Hà, N.T.T., 2011. Tiếp tục đưa cuộc vận động“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” vào chiều sâu, lan tỏa rộng. [Online] Available at: [Accessed 22 May 2011]. 7. Hangviet.vtv, 2011. Để người Việt “ưu tiên” dùng hàng Việt. [Online] Available at: e&id=867:de-nguoi-viet-uu-tien-dung-hang-viet&catid=52:giai-phap-thi- truong&Itemid=243 [Accessed 22 May 2011]. 55  8. Liêm, H., 2010. Đau đầu với nhập siêu. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. 9. Lương, P.T., 2007. Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù nâng cao sức cạnh tranh của Du lịch Việt Nam. Tạp chí Du lịch Việt Nam, (8/2007). 10. Mạnh, T. & Trang, Y., 2011. Kiến nghị giảm nhập siêu để ổn định kinh tế. Báo Pháp Luật. 11. Minh, Đ.T., 2010. Nhập siêu: đâu là nguyên nhân chính? [Online] Available at: mid=327:testset [Accessed 16 May 2011]. 12. N.M, 2007. Chúng ta nhập khẩu những gì? [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. 13. Nghĩa, N.D., 2010. 10 bất cập trong xuất khẩu. [Online] Available at: [Accessed 17 May 2011]. 14. Nghi, T.V. & Minh, L.N., 2009. Công nghiệp phụ trợ: “đứa con không chịu lớn”. [Online] Available at: %E2%80%9Cdua-con-khong-chiu-lon%E2%80%9D.html [Accessed 18 May 2011]. 15. Phương, T.A., 2007. Về một nguyên nhân gây nhập siêu cao. Bộ Tài chính. 16. Phương, T., 2010. Giải quyết nhập siêu: Phải chấm dứt “chở củi về rừng”. [Online] Available at: rung/13211 [Accessed 17 May 2011]. 17. Quân, A., 2010. "Xuất khẩu tại chỗ" chưa được quan tâm đúng mức? [Online] Available at: chua-duoc-quan-tam-dung-muc.htm [Accessed 22 May 2011]. 18. Tâm, M., 2010. Ngành dệt may: Nhập khẩu nguyên phụ liệu nhiều sẽ mất dần lợi thế. [Online] Available at: 56  [Accessed 18 May 2011]. 19. Tâm, T., 2010. Nhập siêu: Bài toán cần nhiều hơn một lời giải. [Online] Available at: hon-mot-loi-giai.aspx [Accessed 18 May 2011]. 20. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 2011. Xây dựng công nghiệp phụ trợ - thách thức lớn. [Online] Available at: nghiep-phu-tro---thach-thuc-lon.html [Accessed 18 May 2011]. 21. Tiền Phong Online, 2009. Làm gì để người Việt dùng hàng Việt? [Online] Available at: dung-hang-Viet-.html [Accessed 17 May 2011]. 22. Trí, N., 2011. Xuất khẩu 2011: Đòn bẩy từ chất lượng. [Online] Available at: [Accessed 19 May 2011]. 23. Vịnh, N.D., 2010. Bàn về cải tiến cơ cấu của nền kinh tế. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (1/2010). 24. VOVNews, 2006. Thiếu liên kết, doanh nghiệp sẽ khó đứng vững! [Online] Available at: vung/200610/44049.vov [Accessed 16 May 2011].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfGiải pháp giảm nhập siêu việt nam.pdf