Lời nói đầu
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là
một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế là một
khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu
cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với
khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những
giải pháp.
Thực hiện công cuộc đổi mới các thành phần kinh tế NQD hình thành và phát triển
góp phần quan trọng và việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, xã hội do
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, VII, VIII đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ IX đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế pháp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh
XHCN, dân chủ văn minh”. Để đạt được mục tiêu này cần phải sử dụng các giải
pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở
nước ta hiện nay. Theo xu hướng phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, nên
kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh
tế trong đó có 5 thành phần kinh tế cơ bản đựơc phân tích trong Kinh tế Chính trị
Mác- Lênin
Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của quy luật khách quan của
một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường Có thể phân
115 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2406 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác hoàn thuế của Bộ tài chính đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng chưa triển khai cần tranh thủ báo
cáo Uỷ ban Nhân dân điạ phương để Uỷ ban nhân dân chỉ đạo các ngành phối hợp
thực hiện.
2.4. Nghiên cứu cải tiến các biện pháp thu nộp thuế theo hướng gắn công tác quản
lý thuế với chính quyền cơ sở, giảm các thủ tục hành chính, tiết kiệm chi phí và tạo
thuận lợi tối đa cho người nộp thuế.
Mở rộng mô hình hoạt động của các trung tâm dịch vụ đối tượng nộp thuế để cung
cấp thông tin và hướng dẫn các cơ sở kinh doanh hiểu rõ chính sách thuế, chế độ kế
toán để họ tự giác chấp hành.
2.5. Nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cơ quan thuế và từng cán bộ thuế. Mỗi
đồng chí phụ trách cơ quan thuế, mỗi cán bộ thuế đều phải chịu trách nhiệm về kết
quả thu và kết quả triển khai các biện pháp nghiệp vụ trong phạm vi phụ trách của
mình. Gắn kết quả hoàn thành nhiệm vụ, kết quả chống thất thu với các hình thức
khen thưởng.
2.6. Trước hết để bảo đảm nhiệm vụ thu quý I cần thực hiện:
- Giao chỉ tiêu cụ thể cho từng Chi cục, từng đội thuế nhiệm vụ thu thuế môn bài
năm 2002
- Đối với hộ thuộc đối tượng khoán ổn định, phối hợp với hội đồng tư vấn tổ chức
điều tra doanh số, mức thuế và tổ chức công khai để mọi người kinh doanh biết.
Yêu cầu mức thuế mới xác định phải bảo đảm hoàn thành dự toán và tăng hơn mức
độ tăng trưởng kinh tế ở địa phương. Cục Thuế phải căn cứ vào mức độ tăng trưởng
kinh tế và mức độ thất thu giao chỉ tiêu cụ thể cho từng Chi cục, kiểm tra và đôn
đốc Chi cục thực hiện đúng chỉ tiêu đã giao. Chi cục nào thực hiện không đúng kiên
quyết yêu cầu làm lại
- Đôn đốc các doanh nghiệp, hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai nộp báo cáo
quyết toán thuế, báo cáo tạm nộp thu nhập đúng kỳ hạn.
Kiểm tra báo cáo quyết toán doanh nghiệp kê khai, nếu phát sinh thu thêm thì căn
cứ vào kê khai của doanh nghiệp ra thông báo yêu cầu nộp ngay. Kiểm tra tờ khai
nộp thuế TNDN nếu doanh nghiệp kê khai thấp hơn thu nhập thực tế của năm 2001
và mức độ tăng trưởng năm 2002 thì yêu cầu kê khai lại, trường hợp doanh nghiệp
không kê khai lại hoặc không nộp tờ khai thì căn cứ vào thu nhập năm 2001, mức
tăng trưởng kinh doanh năm 2002 để ấn định mức tạm nộp quý I.
ii. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế nqd trong thời
gian tới
1. Một số giải pháp về các chính sách thuế
1.1. Thuế môn bài
Cần xây dựng hai biều thuế để áp dụng riêng cho hai loại đối tượng, một biểu áp
dụng cho tổ chức kinh tế có mức thuế môn bài cao, một biểu áp dụng cho hộ kinh
doanh cá thể có thể chỉ duy trì hoặc điều tiết chút ít so với mức hiện hành.
1.2. Thuế GTGT
- Về đối tượng áp dụng thuế GTGT chỉ nên áp dụng với các cơ sở kinh doanh đạt
một quy mô nhất định còn các cơ sở kinh doanh có quy mô nhỏ thì áp dụng thuế
doanh thu như trước đây.
- Về thuế suất: Nên đơn giản về thuế suất chỉ nên áp dụng ba mức:
+ 0% với hàng xuất khẩu.
+ 15% hoặc 20% đối với hàng dịch vụ không khuyến khích sản xuất và tiêu dùng.
+ 5% hoặc 10% đối với hàng sản xuất và tiêu dùng.
- Về kê khai nộp thuế: Nên có sự phân biệt: Doanh nghiệp kê khai nộp thuế theo
tháng. Doanh nghiệp vừa kê khai nộp thuế 3 tháng 1 lần. Doanh nghiệp nhỏ kê khai
nộp thuế 6 tháng 1 lần.
- Về kê khai nộp thuế: Nên bỏ khấu trừ theo tỷ lệ, chỉ áp dụng khấu trừ nếu mua
hàng hóa có hoá đơn GTGT.
1.3. Thuế TNDN
Đề nghị bác bỏ thuế thu nhập bổ sung vì phân biệt lợi thế khách quan là rất phức tạp
và mang tính chủ quan, hoặc nếu áp dụng thì chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng
Nhà nước độc quyền giá cả do Nhà nước quyết định.
Về miễn thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp: đề nghị nâng mức từ 210.000
đồng đến 500.000 hoặc 700.000 đồng/ tháng. Hộ kinh doanh có thu nhập vượt quá
mức này thì chỉ tính và nộp trên phần thu nhập cao hơn.
1.4. Thuế XNK
- Cần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả, thúc đẩy mạnh mẽ sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu.
- Đưa biểu thuế xuất nhập khẩu phù hợp với những cam kết quốc tế về cắt giảm
thuế quan, sau khi Việt Nam tham gia ký kết các điều ước quốc tế.
2. Về nhận thức tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử
- Nhà nước, cơ quan thuế cần phảI đối xử bình bẳng giữa các thành phận kinh tế,
không được ưu tiên một cách bất hợp lý khi ra các chính sách thuế.
_ Khu vực này cần được thông thoáng, tạo điều kiện trong vay vốn, tham gia thị
trường,tuyển dụng lao động.
_Cần nhận thức đúng vai trò, vị trí của khu vực trong hoạch định chính sách.
3. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách thuế đối với kinh tế NQD
- Trước hết phải rà soát lại các chính sách hiện hành có nội dung liên quan đến khu
vực kinh tế NQD để sửa đổi, điều chỉnh, bổ xung một cách cơ bản nhằm tạo ra môi
trường pháp lý rõ ràng, nhất quán, ổn định và khả thi cho khu vực kinh tế NQD hoạt
động và phát triển.
- Loại bỏ ngay những quy định trong các chính sách cụ thể có tính chất phân biệt
đối xử giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế NQD, tạo sự bình đẳng giữa các cơ sở kinh
tế Nhà nước và kinh tế NQD trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực Tài
chính, Thuế, Tín dụng, đất đai...
Những quy định trong chính sách cụ thể có tính chất phân biệt đối xử nhậy cảm.
Trước đây trong chính sách thuế lợi tức có nhiều điều mang tính phân biệt đối xử
như khu vực kinh tế NQD thì phải nộp thuế lợi tức bổ xung. Tính chi phí tiền lương
theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố mà không theo thoả ước ghi
trong hợp đồng lao động giữa cơ sở sản xuất với người lao động... luôn là tiêu điểm
để các cơ sở kinh tế NQD phê phán. Nay chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đã
xoá bỏ các phân biệt trên, nhưng vẫn còn nhiều quy định ngoài luật dưới hình thức
quyết định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn riêng cho khu vực kinh tế quốc doanh mà
các cơ sở kinh tế NQD không được áp dụng như hướng dẫn về xử lý chênh lệch giá,
về trích lập quỹ đề phòng rủi ro....
Theo văn bản này thực hiện luật thuế lợi tức các doanh nghiệp Nhà nước
được chuyển lỗ 5 năm - trong khi luật thuế lợi tức quy định chỉ được chuyển lỗ 2
năm, với văn bản này lợi thế lại thuộc về doanh nghiệp Nhà nước, điều mà các cơ
sở kinh tế NQD không được hưởng.
- Đối với các chính sách mới ban hành hoặc mới được bổ sung, sửa đổi có liên quan
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế nói chung và các cơ sở
kinh tế NQD nói riêng cần được phổ biến rộng rãi cho cơ sở biết và phải quan tâm
đến khả năng thực hiện của cơ sở kinh doanh. Một chính sách mới hoặc điều mới
được sửa đổi, bổ sung có thể sẽ tạo điều kiện hoặc gây khó khăn cho doanh nghiệp
thực hiện, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đó doanh
nghiệp cần phải biết và có thời gian để điều chỉnh cho phù hợp. Đây chưa phải điều
đã được các cơ quan hoặc chính sách quan tâm.
- Các văn bản hướng dẫn dưới luật phải tuyệt đối tuân theo mục đích, nội dung đã
nêu ra trong luật, không được vì quyền lợi cục bộ mà vi phạm vào những mục đích
nội dung luật quy định. Làm cho mục tiêu xuyên suốt của luật không được thực
hiện hoặc thực hiện không đúng đắn, sai lệch.
Trong hướng dẫn chính sách thuế và tổ chức thực hiện thường mắc tồn tại này.
Thí dụ: Để khuyến khích các cơ sở kinh doanh đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất, luật
thuế thu nhập doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư đều quy đinh: cơ sở sản
xuất mới thành lập được miễn giảm thuế TNDN, thuế nhập khẩu, tiền thuê đất tuỳ
theo dự án đầu tư thuộc ngành nghề, địa bàn cần khuyến khích hay không.
Thực hiện chủ trương này thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính có quy định một
điểm không rõ ràng dẫn đến khó khăn cho thực hiện và rất dễ dẫn đến tuỳ tiện. Cụ
thể quy định là: Các cơ sở sản xuất được thành lập trên cơ sở sát nhập, chia tách,
mua lại cơ sở sản xuất cũ không thuộc đối tượng miễn giảm thuế. Thế là trong tổ
chức thực hiện luôn xảy ra: Một cơ sở sản xuất cũ làm ăn thua lỗ bán cho một người
khác, đối với người mua đây là cơ sở sản xuất mới nhưng theo quyết định trên
không được miễn giảm, nhưng nếu anh ta mua đất xây nhà xưởng, mua máy móc
thiết bị về lắp đặt thì được miễn giảm. Hoặc một cơ sở mới thành lập có đầu tư xây
dựng nhà xưởng, nhưng mua lại máy móc thiết bị của cơ sở sản xuất cùng ngành
nghề trước đó cũng được coi là chia, tách nên không được miễn giảm thuế.
Trong phát triển hàng hoá theo cơ chế thị trường sự mua đi bán lại một doanh
nghiệp, một cơ sở kinh doanh là thường xuyên xảy ra. Đối với người mua lại cơ sở
sản xuất khai cũng cần xác định đó là mới vì xét mới hay cũ phải xét trên pháp nhân
hay thể nhân, chứ không phải xét trên nhà xưởng, máy móc.
Hay theo luật thuế GTGT, cơ sở mua hàng hoá được khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ
lệ 2% tính trên giá mua. Tuy nhiên do không hướng dẫn rõ hàng hoá nông sản được
hiểu như thế nào nên thực hiện không thống nhất, như cây cà phê phá chặt bán có
phải là nông sản hay không? Có nơi cho là hàng hoá nông sản, có nơi không xác
định là hàng hoá nông sản, lập luận hàng hoá nông sản là hạt cà phê... Trong hàng
hóa nông sản thế nào là sơ chế, thế nào là chế biến cũng đang có sự hiểu không
thống nhất, mà chưa có sự giải thích cụ thể dẫn đến tình trạng cùng là mặt hàng chè
búp khô, long nhãn, mực khô có địa phương cho là đã qua chế biến nên không khấu
trừ theo tỷ lệ 2%, có nơi lại cho là nông sản chưa qua chế biến nên đượckhấu trừ
theo tỷ lệ 2%.
Trong điều kiện kinh tế thị trường có cạnh tranh việc thực hiện không thống nhất
nhiều khi vô tình tạo ra điều kiện cho cơ sở này phát triển nhưng lại đưa cơ sở khác
đến phá sản.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích luật và các chính sách để
các cơ sở kinh tế NQD nắm được các quy định của pháp luật và các văn bản hướng
dẫn dưới luật phải đồng bộ và phải có thời gian cho cơ sở kinh doanh tiếp nhận và
chuẩn bị để thi hành.
Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá X ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ xung một số điều
của luật thuế GTGT quy định Nghị quyết được thực hiện từ 1/1/2001 và giao Chính
phủ hướng dẫn thi hành. Chưa nói thời gian từ khi Quốc hội có nghị quyết đến thời
điểm thi hành là ngắn, nhưng đến 29/12/2000 Chính phủ mới có thông tư hướng dẫn
thực hiện (thực tế Nghị định của Chính phủ và thông tư của Bộ Tài chính ký sau
ngày trên). Khi các văn bản này được các cơ sở kinh tế NQD tiếp nhận sớm nhất
vào giữa tháng 2/2001. Và thực tiễn xảy ra do tháng 1/2001 các cơ sở kinh doanh
chưa tiếp nhận được văn bản hướng dẫn nên vẫn tính toán chi phí, kết quả kinh
doanh, mức thuế theo hướng dẫn trước đó, nay hướng dẫn có một số điều chỉnh làm
ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, rất nhiều doanh nghiệp đã đề nghị Bộ Tài
chính, Chính phủ phải xem xét chấp nhận thực tiễn đó, nếu không sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tương tự như vậy, mỗi khi điều chỉnh tăng thuế XNK, điều chỉnh lại khung giá tính
thuế hàng nhập khẩu thời gian thực hiện chỉ sau ngày ký khoảng 1 tháng, nhiều
trường hợp doanh nghiệp đã ký hợp đồng với khách hàng trước đó trên cơ sở tính
toán hiệu quả theo chính sách tại thời điểm, nay tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, bỏ hợp đồng sẽ bị phạt, thật là tiến thoái
lưỡng nan.
Mới đây nhất ngày 18/4/2001 Bộ Tài chính vừa có quyết định thu chênh lệch giá
đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Theo quyết định này một số mặt hàng hoá nhập
khẩu từ 1/1/2001 sẽ phải nộp chênh lệch giá, một số trường hợp từ 1/5/2001. Đối
với các trường hợp đã nhập từ 1/1 đến ngày quyết định ban hành chắc chắn doanh
nghiệp đã bán hoặc tính toán giá bán không tính đến khả năng này, còn các trường
hợp nhập từ 1/5 cũng sẽ không thể thay đổi được vì hợp đồng đã ký rồi, hàng hóa đã
xuống tàu rồi...
Kiến nghị rằng: Mỗi khi ban hành chính sách mới hoặc sửa đổi, bổ xung chính sách
cũ, nếu có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thì cho phép cơ sở kinh
doanh được tiếp tục hưởng quy định trước trong một thời gian nhất định đủ để cơ sở
kinh doanh tính toán thay đổi hoặc điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh.
4. Mở rộng hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cung cấp thông tin, tư vấn thuế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc nắm thông tin nhanh hay chậm, chính xác
hay không chính xác đều có ảnh hưởng trực tế tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh
của cơ sở. Đối với khu vực kinh NQD thường tiếp nhận thông tin và không chính
xác vì khác với doanh nghiệp Nhà nước, HTX có cơ quan quản lý chuyên ngành
cấp trên thường tổ chức phổ biến và hướng dẫn các chủ trương, chính sách mới đến
doanh nghiệp, khu vực kinh tế NQD thường phải tự tìm hiều lấy. Do đó việc mở
rộng các hoạt động cung cấp thông tin là rất quan trọng.
Khu vực kinh tế NQD cũng cần Nhà nước hỗ trợ về các mặt vì vượt quá khả năng
từng cơ sở. Các hỗ trợ đó nên tập trung vào những lĩnh vực sau:
- Hỗ trợ về mặt luật pháp, đặc biệt là luật pháp về đăng ký kinh doanh, về thuế, về
hợp đồng kinh tế.
Về thuế cần mở rộng các hoạt động dịch vụ hỗ trợ để cơ sở kinh tế NQD có thể nắm
được đầy đủ và chính xác những quy chế về thuế do vậy dịch vụ tư vấn thuế phát
triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay đang trở thành một yêu cầu bức
thiết đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ trên các mặt: thể chế hoá bằng văn bản
các dịch vụ tư vấn nói chung, tư vấn thuế nói riêng. Khuyến khích và có cơ chế ưu
đãi phát triển các tổ chức tư vấn thuế. Hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực của các
chuyên gia, cán bộ làm công tác tư vấn thuế. Cải thiện các điều kiện tiếp cận thông
tin cho các tổ chức, các nhà tư vấn. Đẩy mạnh hội nhập trong lĩnh vực tư vấn bằng
việc tạo điều kiện cho các tổ chức tư vấn trong nước thuê chuyên gia nước ngoài
vào làm việc. Tăng cường cho các doanh nghiệp sử dụng tư vấn thuế trong hoạt
động của mình như là một biện pháp minh bạch hoá tình hình tài chính doanh
nghiệp và chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với nhà nước. Dịch vụ tư vấn để họ chủ động
tính toán nghĩa vụ nộp thuế, tránh những vi phạm dẫn đến bị xử phạt, đồng thời
nắm được sự kiểm tra, xem xét của cơ quan quản lý. Việc nắm đầy đủ và chính xác
những quy định về thuế còn giúp cho cơ sở kinh tế NQD biết được những ưu đãi về
thuế mà mình được hưởng, kiểm tra lại việc tính thuế của cơ quan thuế...
- Hỗ trợ, tư vấn về thị trường và giá cả, đặc biệt là thị trường và giá cả liên quan đến
hoạt động XNK. Để các cơ sở kinh tế NQD có thể tham gia hoạt động mạnh hơn
nữa vào hoạt động XNK và tránh thua thiệt thì thông tin về giá cả thị trường quốc tế
là rất quan trọng, không ít những trường hợp do không nắm được thị trường và giá
cả đã bị khách hàng nước ngoài lừa bịp, nâng giá...
- Hỗ trợ, tư vấn về mặt công nghệ, kỹ thuật giúp các cơ sở kinh tế NQD có thể bắt
kịp đựơc những tiến bộ về khoa học và công nghệ trên thế giới để ứng dụng vào sản
xuất kinh doanh và không bị đối tác lừa gạt.
- Hỗ trợ về mặt đào tạo nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của người
lao động.
Như trình bày ở phần những tồn tại của bản thân khu vực kinh tế NQD có một tồn
tại về mặt trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, đa số những người quản lý và
người lao động ở khu vực kinh tế này đều không qua các trường lớp đào tạo, họ
thực hiện chức năng quản lý hoặc chức năng kỹ thuật chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
Việc nâng cao trình độ cho họ cần có sự hỗ trợ của Nhà nước vì bản thân mỗi cơ sở
không đủ khả năng làm được. Nhà nước cần mở rộng các hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng cho những cán bộ quản lý và người lao động ở khu vực kinh tế này.
5. Nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước, thuế
Bộ máy Nhà nước là cơ quan thể chế đường lối của Đảng thành pháp luật, chính
sách, đồng thời cũng là cơ quan quản lý và giám sát các cơ sở kinh tế NQD hoạt
động. Vì vậy chất lượng lập pháp và hành pháp phụ thuộc rất nhiều vào bộ máy Nhà
nước. Nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy Nhà nước cần tập trung vào những
việc sau đây.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, làm rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các
cơ quan quản lý Nhà nước, giảm tối đa sự chồng chéo, trùng lặp, tiến tới quy định
một vấn đề cụ thể, chỉ một cơ quan ở một cấp được phân quyền hạn giải quyết và
phải giải quyết trong thời hạn nhất định
Năm 2000 thực hiện Luật Doanh nghiệp mới, và các nghị định về đăng ký kinh
doanh mới các thủ tục hành chính đã được cải tiến đáng kể, thời gian chờ đợi đã
được giảm nhiều, chi phí cho thành lập cơ sở kinh doanh cũng giảm đáng kể.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại thực tế là nhiều quy định chưa được hoàn thiện, bổ xung
cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp mới và nghị định mới về đăng ký kinh doanh.
Thí dụ: Luật doanh nghiệp cho phép trong khi chờ đợi cấp giấy phép doanh nghiệp
có thể uỷ nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch kể cả xây dựng cơ
bản. Trong quá trình thực hiện các giao dịch đương nhiên phát sinh chi phí và thuế
GTGT đầu vào, nhưng trong thông tư hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT lại quy
định nguyên tắc: Thuế GTGT phát sinh tháng nào được kê khai khấu trừ trong tháng
đó. Các doanh nghiệp đang trong thời gian chuẩn bị và xin thành lập đã đăng ký
thuế đâu mà kê khai, thế là nhiều doanh nghiệp không được khấu trừ hoặc hoàn thuế
GTGT đầu vào trong trường hợp này.
Các cơ quan quản lý thực hiện chức năng theo quy định của Chính phủ. Mỗi vấn đề
phát sinh chỉ một cơ quan giải quyết và cơ quan đã giải quyết phải chịu trách nhiệm
về quyết định của mình. Thực hiện luật thuế, đã quy định công tác quản lý thu thuế
do hệ thống thuế đảm nhiệm, tuy nhiên trong thời gian qua không chỉ cơ quan thuế
kiểm tra, xử lý những vấn đề liên quan đến chính sách thuế mà nhiều ngành khác
như công an, quản lý thị trường, kế toán, thanh tra, viện kiểm sát... cũng kiểm tra và
yêu cầu cơ sở kinh doanh phải xuất trình tài liệu liên quan đến thực hiện chính sách
thuế và xử lý vi phạm. Ngay trong hệ thống Tài chính cũng còn sự chồng chéo giữa
cơ quan thuế với cơ quan thanh tra tài chính...
Trong công tác kiểm tra thuế cũng đang có hiện tượng chồng chéo, gây phiền hà,
lãng phí cho cơ sở kinh doanh. Nhiều trường hợp cơ sở kinh doanh phải tiếp nhiều
đoàn thanh tra thuế từ cấp quận, huyện đến cấp trung ương và mỗi cơ quan kiểm tra
lại có kết luận khác nhau, cơ sở kinh doanh không biết đâu là kết luận đúng.
Yêu cầu cải cách hành chính thuế đang là vấn đề nổi cộm. Không phủ nhận thời
gian qua các thủ tục hành chính thuế có nhiều cải tiến nhưng vãn còn gây phiền hà
cho doanh nghiệp. Hướng cải cách hành chính thuế đề nghị tập trung vào vấn các
vấn đề trọng tâm sau đây:
- Tiếp tục cải cách thủ tục về đăng ký và cấp mã số thuế theo hướng gắn việc cấp
đăng ký kinh doanh với việc cấp mã số thuế để doanh nghiệp bớt các thủ tục khai
báo và thời gian chờ đợi.
- Tiếp tục cải cách lại thủ tục hoàn thuế, miễn giảm thuế:
Theo hướng đơn giản về mặt thủ tục và nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp,
khắc phục và chấm dứt tình trạnhg “xin cho” trong việc miễn giảm thuế, hoàn thuế.
Theo hướng này đề nghị cần hướng dẫn rõ các thủ tục, hồ sơ về miễn giảm thuế, về
hoàn thuế để doanh nghiệp nắm được và thực hiên. Cơ quan thuế căn cứ vào hồ sơ
của doanh nghiệp phải hoàn thuế trong thời gian quy định mà không cần phải ra
quyết định. Các trường hợo hồ sơ không đầy đủ thì phải thông báo cho doanh
nghiệp biết.
Đối với các dự án đầu tư đã có quyết định ưu đãi đầu tư của uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố thì không cần làm thủ tục miễn giảm thuế nữa vì khi xét cấp quyết định,
doanh nghiệp đã phải lập hồ sơ và đã được uỷ ban nhân dân xem xét trước khi ra
quyết định.
- Cải tiến các thủ tục về kê khai thuế theo hướng đơn giản cả về nội dung kê khai,
và các biểu mẫu kèm theo. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thay thế việc kê
khai nộp thuế hàng tháng thành kê khai nộp thuế theo quý
Theo quy định hiện nay, việc kê khai thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải lập bảng kê
hoá đơn đầu vào, hoá đơn đầu ra kèm theo. Đối với những cơ sở kinh doanh có số
lượng hoá đơn đầu vào đầu ra lớn việc kê khai và lập bảng kê sẽ mất nhiều thời gian
vì nội dung bảng kê tương đối phức tạp, chưa nói đến việc chi phí về giấy tờ, in ấn...
- Trong quản lý và sử dụng hoá đơn cũng cần cải tiến theo hướng tìm giải pháp
khuyến khích mạnh hơn nữa doanh nghiệp tự in hoá đơn để sử dụng. Theo quyết
định hiện nay việc doanh nghiệp muốn tự in hoá đơn để sử dụng phải xin - lại xin -
và được chấp nhận của Tổng cục Thuế và phải in ở nhà in do Tổng cục Thuế chỉ
định. Các doanh nghiệp NQD thường quy mô kinh doanh không lớn muốn tự in hoá
đơn để sử dụng cho tiết kiệm nhưng thủ tục phiền hà nên đành thôi.
Trong cải cách thủ tục hành chính cần hết sức chú ý: Khi đặt ra yêu cầu quản lý
hoặc cải tiến quản lý phải tính đến những tác động đối với đối tượng quản lý và tính
hiệu quả của quản lý. Khi thực hiện luật thuế GTGT đa số các cơ sở kinh doanh đều
phàn nàn chế độ kê khai thuế GTGT quá phức tạp nên doanh nghiệp đều phải tăng
biên chế và tăng chi phí. Trước đây thực hiện luật thuế doanh thu, hàng tháng kế
toán chỉ cần khoá sổ là xác định được doanh thu, tính được thuế phải nộp và chỉ lập
duy nhất một tờ khai. Theo chế độ thuế GTGT như trình bày trên tờ khai quá phức
tạp, xác định thuế cũng phức tạp hơn thuế doanh thu do phải xác định cả đầu vào,
đầu ra...
- Nâng cao trình độ nhận thức, năng lực làm việc và đạo đức của cán bộ cơ quan
Nhà nước, đặc biệt cần giáo dục để cán bộ các ngành các cấp nhận thức và quan tâm
đúng mức đối với khu vực kinh tế NQD thực hiện nghiêm túc những chủ trương,
chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế NQD.
Cùng với sự đổi mới nhận thức về kinh tế và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, cho thấy có một bộ phận không nhỏ cán bộ các cơ quan quản lý Nhà nước
không đủ năng lực, không đủ phẩm chất chính trị đã gây cản trở cho việc phát triển
kinh tế nói chung và kinh tế NQD nói riêng. Tình trạng cán bộ các cơ quan quản lý
Nhà nước lợi dụng chức quyền gây phiền hà cho cơ sở kinh doanh thậm chí đòi hối
lộ đang diễn ra tương đối phổ biến.
Trong quản lý thu thuế nhiều cán bộ thuế không nhận thức đầy đủ mục đích
tác dụng của chính sách thuế, không nắm vững được chuyên môn nghiệp vụ thuế,
quy trình quản lý thuế, nên trong giải quyết công việc thường không đúng, nhiều
trường hợp còn giảI quyết sai gây thiệt hại cho cơ sở kinh doanh. Không ít trường
hợp lợi dụng chức quyền gây ra tiêu cực.
6. Về quản lý đối tượng nộp thuế
Phải rà soát lại cả các đối tượng có thực tế sản xuất kinh doanh trên địa bàn để đưa
vào quản lý thu thuế.
- Đối với các doanh nghiệp:
Đối chiếu số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh với số doanh nghiệp đã
được cấp mã số thuế, số doanh nghiệp kê khai nộp thuế trên cơ sở đó thống kê
những doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký thuế,
không xin cấp mã số thuế, số doanh nghiệp đã có mã số thuế nhưng từ đầu năm đến
nay không hoạt động, không kê khai nộp thuế, từ đó phối hợp với các ngành ở địa
phương và Chi cục thuế quận huyện tổ chức kiểm tra phát hiện những doanh nghiệp
có kinh doanh nhưng không xin cấp mã số, không kê khai nộp thuế. Tiến hành xử
phạt vi phạm hành chính và ấn định thuế GTGT, thuế TNDN để thu những tháng
không kê khai. Đối với những doanh nghiệp qua kiểm tra không tồn tại hoặc ngừng
hoạt động thì đề nghị sở Kế hoạch Đầu tư thông báo công khai và thực hiện thu hồi
đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp di chuyển địa điểm nhưng không
khai báo phải phạt vi phạm hành chính và ấn định số thuế những tháng không kê
khai, yêu cầu doanh nghiệp nộp ngay thuế vào ngân sách.
- Đối với hộ kinh doanh cá thể.
Đối chiếu số hộ lập bộ môn bài, số hộ lập bộ thuế GTGT, thuế TNDN với số hộ
điều tra thống kê, xác định số hộ chưa quản lý đồng thời tổ chức điều tra doanh thu,
thu nhập của những hộ này để đưa vào bộ thu thuế môn bài, thuế GTGT, thuế
TNDN nếu thu nhập kinh doanh lớn hơn thu nhập được miễn thuế.
Cục thuế chỉ đạo từng Chi cục thuế, đội Thuế phải tự kiểm tra rà soát địa bàn nào
qua kiểm tra lại vẫn còn thất thu về hộ phải kiểm điểm trách nhiệm của lãnh đạo
Chi cục, lãnh đạo đội Thuế.
7. Về quản lý doanh thu nộp thuế
7.1 Đối với doanh nghiệp NQD
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán đối với các doanh nghiệp NQD đặc
biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đảm bảo 100% doanh nghiệp đều thực
hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế theo quy định.
Kết hợp kiểm tra kê khai nộp thuế, kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra hoàn thuế với
kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ phát hiện và xử lý nghiêm
các doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ những doanh nghiệp
khai khống giá mua hàng, bán hàng không lập hoá đơn, chứng từ hoặc lập hoá đơn
nhưng ghi thấp hơn giá thực tế thanh toán nhằm mục đích trốn lậu thuế. Nếu kiểm
tra phát hiện các vi phạm trên phải kiên quyết áp dụng biện pháp ấn định giá để tính
thuế.
- Khẩn trương kiểm tra báo cáo quyết toán thuế của các doanh nghiệp, qua kiểm tra
nếu phát hiện thu thiếu thì ra thông báo yêu cầu doanh nghiệp nộp ngay số phát sinh
thêm vào ngân sách, đồng thời đối chiếu số phát sinh về thuế TNDN năm 2000 so
với kê khai tạm nộp thuế TNDN năm 2001, nếu số kê khai tạm nộp năm 2001 thấp
hơn so với doanh thu và thuế TNDN năm 2000 thì yêu cầu điều chỉnh lại cho phù
hợp với kết quả kinh doanh 6 tháng và kết quả kiểm tra quyết toán thuế.
- Qua kiểm tra quyết toán thuế và kiểm tra kê khai nộp thuế, nếu thấy doanh nghiệp
có dấu hiệu kê khai không trung thực hoặc có nghi vấn trốn lâu thuế thì báo cáo
lãnh đạo cục thuế tiến hành kiểm tra thực tế hoặc xác minh hoá đơn, nếu phát hiện
vi phạm thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử phạt vi phạm hành chính, truy thu thuế
hoặc ấn định mức thuế phải nộp cao hơn mức thuế đã kê khai.
- Đối với các doanh nghiệp Cục Thuế đã phân cấp cho Chi cục Thuế quản lý, yêu
cầu các Chi cục Thuế phải trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra doanh nghiệp thực hiện
chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ và kê khai nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
Nghiêm cấm không được áp dụng thu thuế khoán. Trường hợp doanh nghiệp vi
phạm chế độ kế toán hoá đơn chứng từ, vi phạm chế độ kê khai phải phạt vi phạm
hành chính và ấn định mức thuế phải nộp.
- Thực hiện kiểm tra hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp đã được hoàn thuế.
Trước mắt là những doanh nghiệp có số thuế đã hoàn lớn hoặc có dấu hiệu vi phạm.
7.2 Đối với hộ kinh doanh cá thể
- Đối với hộ kinh doanh lớn:
Yêu cầu Cục thuế chỉ đạo các Chi cục Thuế phải thống kê, phân loại và triển
khai chế độ kế toán bắt buộc với tất cả các hộ kinh doanh lớn theo đúng chỉ thị số
03/2000/CT-BTC ngày 10/4/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc đẩy mạnh
triển khai chế độ kế toán áp dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh công thương
nghiệp và dịch vụ NQD. Quyết định số 169/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ kế toán hộ kinh doanh và công văn số 1210
TCT/NV6 ngày 11/4/2001 của Tổng cục Thuế về tăng cường thực hiện chế độ kế
toán hộ kinh doanh. Để có căn cứ xét thành tích thi đua năm 2001, Tổng cục Thuế
giao chỉ tiêu số hộ phải triển khai cho từng địa phương.
Yêu cầu cục Thuế địa phương:
+ Căn cứ chỉ tiêu Tổng cục giao phân bổ cho các Chi cục và chỉ đạo các Chi cục
Thuế căn cứ chỉ tiêu số hộ được giao, số hộ triển khai, xác định cụ thể số hộ còn
phải thực hiện chế độ kế toán để hoàn thành chỉ tiêu. Chi cục thuế căn cứ vào chỉ
tiêu Cục giao phân cho từng đội Thuế thực hiện ngay, đồng thời chỉ đạo Chi cục
thuế, đội thuế lựa chọn xác định những hộ kinh doanh, những ngành nghề kinh
doanh thuộc diện phải mở đầy đủ hệ thống sổ sách kế toán, những hộ kinh doanh,
ngành nghề kinh doanh, trước mắt chỉ cần mở sổ nhật ký bán hàng cho phù hợp
trình độ của người kinh doanh và phù hợp yêu cầu quản lý của cơ quan Thuế. Tổ
chức xét duyệt cho hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ chặt
chẽ, tránh lợi dụng.
+ Tổ chức kiểm tra việc ghi chép sổ kế toán, phát hiện kịp thời những vướng mắc
để hướng dẫn, giúp đỡ hộ kinh doanh yên tâm thực hiện chế độ kế toán và hạch toán
trung thực. Đối với những hộ kinh doanh đã thực hiện hướng dẫn nhưng cố tình
không thực hiện hoặc cố tình hạch toán, lập hoá đơn, chứng từ không trung thực với
thực tế phát sinh nhằm trốn thuế thì phải lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính,
nếu vẫn tái phạm thì ấn định doanh thu, thuế, mức ấn định phải bằng hoặc cao hơn
so với hộ kinh doanh thực hiện không đúng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, kê
khai doanh thu hoặc kê khai thuế GTGT đầu ra, đầu vào trung thực để động viên
các hộ kinh doanh thực hiện đúng chế độ kế toán và hộ kinh doanh thấy được lợi ích
thực tế, không tái phạm.
+ Tổ chức kiểm tra chặt chẽ tờ khai nộp thuế của các hộ kinh doanh. Đối với những
hộ kinh doanh kê khai doanh thu, mức thuế thấp (nếu tính thuế theo phương pháp
trực tiếp) hoặc kê khai số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra (đối với hộ nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ) phải tổ chức kiểm tra, xác minh ngay để tính trung thực
của tờ khai, phát hiện và xử lý ngay nếu hộ kinh doanh vi phạm, không để hộ kinh
doanh lợi dụng triển khai chế độ kế toán làm thất thu thuế nhiều hơn.
+ Để thúc đẩy các Chi cục Thuế thường xuyên quan tâm triển khai kế toán hộ kinh
doanh và nâng cao trách nhiệm của cán bộ thuế, Cục thuế phải phân công cán bộ
trực tiếp theo dõi năm tình hình triển khai, phản ánh kịp thời tiến độ, kết quả triển
khai, những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai. Đồng thời định kỳ tổ
chức kiểm tra thực tế việc triển khai kế toán hộ kinh doanh tại các Chi cục thuế.
Qua kiểm tra tình hình thực tế, kết hợp ý kiến phản ánh của cán bộ được phân công
trực tiếp theo dõi tại Chi cục thuế, phát hiện nhanh những nhân tố tích cực để phổ
biến, nhân rộng và có ý kiến chỉ đạo kịp thời, khắc phục thiếu sót trong việc triển
khai kế toán hộ kinh doanh để thực hiện tốt hơn. Đối với những Chi cục thuế làm
chưa tốt cần phê bình và yêu cầu chấn chỉnh ngay trong thời gian tới.
+ Triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh nhằm đưa công tác quản lý thu thuế vào
nề nếp theo kết quả kinh doanh phản ánh trên sổ sách kế toán là công việc trọng tâm
trong công tác quản lý hộ kinh doanh cá thể năm 2001 là căn cứ để xét thi đua, khen
thưởng, vì vậy Cục thuế phải chỉ đạo từng Chi cục thuế triển khai hoàn thành chỉ
tiêu Tổng cục giao (theo biểu đính kèm).
- Đối với hộ thu khoán:
Tổng cục đã chỉ đạo các Cục thuế phải xác định lại doanh thu đối với các hộ
khoán 6 tháng cuối năm. Đề nghị cục Thuế kiểm tra ngay các Chi cục. Đối với
những Chi cục chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phải xác
định lại cho phù hợp với mức độ tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất kinh
doanh.
Quá trình điều tra, xác định lại doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán phải
làm đúng quy trình, thực hiện công khai và không được điều chỉnh đồng loạt theo
kiểu bình quân.
8. Về quy trình quản lý thu thuế
Chỉ đạo các đơn vị thu thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các biện pháp, quy trình quản
lý đã đề ra: như quy trình quản lý doanh thu đối với hộ khoán, quy trình quản lý
doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, quy trình cấp mã số thuế, quy
trình thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, các biện pháp duyệt bộ tổng hợp, chống
thất thu qua kiểm tra việc lập hoá đơn phát hiện và xử lý các trường hợp lập hoá
đơn thấp hơn giá thực tế thanh toán đối với một số ngành nghề, mặt hàng, xử phạt
các cơ sở kinh doanh vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ... quy trình thu nộp
thuế, quy trình quản lý hoá đơn chứng từ...:
Một là: phải rà soát lại các văn bản pháp luật thuế hiện hành để có những bổ sung,
điều chỉnh trong phần hướng dẫn thủ tục nộp thuế. Yêu cầu các doanh nghiệp có
trách nhiệm chủ động nộp đầy đủ số thuế phải nộp đã kê khai vào kho bạc nhà nước
trong thời hạn quy định của luật thuế, thay cho việc doanh nghiệp nộp theo thông
báo thuế của cơ quan thuế. Cơ quan thuế chỉ ra thông báo nộp thuế trong một số
trường hợp đặc iệt như: thông báo ấn định thuế, thông báo chậm nộp thuế và xử lý
nộp chậm. Để thực hiện được vấn đề như trên cần phải cải tiến lại mẫu các tờ khai
thuế. Hiện nay ở mỗi tờ khai thuế đều có phần cam kết của doanh nghiệp ở phía
dưới tờ khai: “Xin cam đoan số liệu kê khia trên là đúng, nếu sai xin chịu trách
nhiệm xử lý theo pháp luật”. Phần cam kết trên mới chỉ cam kết số liệu kê khia mà
chưa gắn việc kê khai nộp thuế của doanh nghiệp, vậy nên sửa lại là: “Xin cam đoan
số liệu kê khai trên là đúng, doanh nghiệp cam kết sẽ nộp đầy đủ, đúng hạn số thuế
kê khai trên vào kho bạc nhà nước. Nếu kê khai sai hoặc chậm nộp, xin chịu trách
nhiệm xử lý theo pháp luật”. Với dòng cam kết này, các doanh nghiệp sẽ tự ý thức
được trách nhiệm của họ trước pháp luật trong việc kê khai và nộp thuế, không
trông chờ vào thông báo nộp thuế của cơ quan thuế.
Hai là: Nên bỏ chương trình tính lại thuế trên máy vi tính như hiện nay, những sai
sót trên tờ khai thuế như: kê khai thuế chỉ tiêu, kê khai sai thuế ssuất, hoặc sai số về
tính toán số học... sẽ được phòng quản lý thu kiểm tra, kiểm soát, yêu cầu doanh
nghiệp điều chỉnh hoặc kiểm tra xử lý theo đúng trình tự của quy trình và quy định
của luật thuế. Có như vậy, mới thực sự tôn trọng số liệu tự kê khai của doanh
nghiệp.
Ba là: theo quy định hiện hành, thì chậm nhất trong vòng 60 ngày, kể từ khi kết thúc
năm tài chính, các doanh nghiệp phải lập và gửi các tờ quyết toán thuế: dẫn đến việc
lập, gửi các tờ quyết toán thuế của các doanh nghiệp đến cơ quan thuế cũng như
việc thu thập và xử lý thông tin của cơ quan thuế từ các tờ quyết toán thuế diễn ra
rất rời rạc, thiếu khoa học, thậm chí nhiều doanh nghiệp gửi các tờ quyết toán thuế
không đầy đủ, không đồng nhất. Để đơn giản trong việc lập báo cáo quyết toán
thuế, vừa để đảm bảo yêu cầu của các luật thuế, nên quy định thống nhất các doanh
nghiệp chỉ phải lập một báo cáo quyết toán thuế. Trong báo cáo quyết toán thuế
phải nêu được đầy đủ 3 nội dung: chi tiết quyết toán từng loại thuế. Tổng hợp tình
hình thanh toán với ngân sách nhà nước, phản ánh tổng hợp số thuế nộp đầu kỳ,
phát sinh trong kỳ, nộp trong kỳ, miễn giảm trong kỳ và tồn đọng cuối kỳ của tất cả
các loại thuế. Phần thuyết minh báo cáo phản ánh nguyên nhân chênh lệch giữa
tổng hợp tờ khai thuế 12 tháng với quyết toán thuế của từng loại thuế, nguyên nhân
của nợ đọng thuế.
9. Tập trung chỉ đạo khai thác các nguồn thu, những ngành nghề và lĩnh vực còn
đang thất thu nhiều
Thời gian qua, do tập trung vào triển khai các luật thuế mới, các địa phương ít quan
tâm chỉ đạo tăng cường quản lý và chống thất thu thuế đối với khu vực kinh tế
NQD. Trước mắt tập trung giải quyết nợ đọng thuế của doanh nghiệp và các hộ kinh
doanh lớn vẫn đang hoạt động. Đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn còn nợ
đọng thuế nhưng vẫn hoạt động mà cục Thuế đã đôn đốc, đã phạt nộp chậm vãn
không nộp thuế thì ra lệnh phong toả tài khoản hoặc lập hồ sơ đề nghị các ngành
chức năng can thiệp.
Đối với hộ kinh doanh vừa và nhỏ chủ yếu dùng biện pháp phối hợp hội đồng tư
vấn vận động hộ kinh doanh nộp thuế còn nợ đọng để thúc đẩy thu nhanh gọn số
thuế phát sinh. Cục thuế, Chi cục Thuế giao chỉ tiêu phấn đấu cho từng đơn vị phải
thu dóc số thuế phát sinh, không để số thuế nợ đọng phát sinh thêm.
Đồng thời Cục thuế cần quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm và kỷ luật lao động
cho cán bộ thuế, đồng thời tăng cường kiểm tra thúc đẩy các Chi cục Thuế, đội
thuế, cán bộ thuế thực hiện nghiêm túc các quy trình biện pháp nghiệp vụ và những
nội dung Tổng cục Thuế tập trung chỉ đạo.
- Đối với những hộ kinh doanh xe gắn máy, đồ điện tử, điện lạnh... tăng cường kiểm
tra xác minh đối chiếu hoá đơn, chứng từ đối với các cơ sở kinh doanh các mặt hàng
này vì đang bị lợi dụng lập hoá đơn không đúng thực tế thanh toán. Phối hợp với cơ
quan Quản lý thị trường kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, nếu
kiểm tra phát hiện thu tiền nhưng khôn lập hoá đơn hoặc lập hoá đơn khôn đúng giá
thanh toán thì căn cứ vào giá niêm yết để ấn định doanh thu, đối với những cơ sở
không niêm yết giá tuỳ theo đặc điểm cụ thể, cục Thế kết hợp với các ngành xây
dựng bảng giá tối thiểu làm căn cứ để cơ quan thuế áp giá tính thuế, áp giá tính chi
phí kiểm tra phá hiện có lợi dụng.
Qua kiểm tra xác minh, nếu phát hiện có vi phạm, lập hoá đơn khôn đúng phải kiên
quyết bác bỏ số liệu kê khai của các hộ, thực hiện ấn định thuế theo hướng dẫn tại
công văn 740 ngày 23/3/2001 của Tổng cục Thuế.
+ Đối với hoạt động vận tải: Từng đội Thuế phải phối hợp hội đồng tư vấn rà soát
tại địa bàn, đồng thời kết hợp với Cảnh sát Giao thông, Cơ quan đăng ký để rà soát
nắm số lượng phương tiện có hoạt động kinh doanh, đối chiếu với số phương tiện
đã được các cơ sở kê khai, phương tiện các chủ phươn tiện đang kinh doanh nhưng
không khai báo nộp thuế để đưa vào diện quản lý. Đối với các phương tiện vận tải
đã kinh doanh không khai nộp thuế phải xử phạt hành chính và truy thu thuế từ
tháng bắt đầu kinh doanh.
+ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải phải kiểm tra chặt chẽ phương thức
quản lý, phương thức hạch toán kế toán, kiểm tra việc đăng ký, sử dụng vé, phát
hiện và xử lý kịp thời các trường hợp thu tiền của khách hàng nhưng không xuất vé.
Đối với các HTX dịch vụ vận tải: Nếu HTX có cung ứng dịch vụ cho xã viên thì
phải kê khai nộp thuế GTGT và thuế TNDN tính trên tiền công dịch vụ HTX thu về.
Các xã viên nhận khoán phải kê khai nộp thuế trên doanh thu nhận khoán, để thuận
tiện chi cục Thuế có thể bàn với các HTX đứng ra kê khai và nộp thuế thay cho
từng xã viên.
+ Đối với các doanh nghiệp vận tải có mở các đại diện ở các địa phương khác, cần
phải phối hợp với các cơ quan Thuế nơi mở đại diện để cùng kiểm tra, giám sát tình
hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Xem xét lại doanh thu, mức thuế ấn định đối với các phương tiện vận tải tư nhân,
đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các hộ kinh doanh vận tải tư nhân với các
doanh nghiệp kinh doanh vận tải.
+ Đối với hoạt động xây dựng tư nhân: Yêu cầu đội Thuế có trách nhiệm phối hợp
hội đồng tư vấn, Thanh tra Xây dựng kiểm tra báo cáo đầy đủ các công trình đang
xây dựng trê địa bàn phường, xã để phối hợp với các Chi cục Thuế và các phòng
quản lý của cục Thuế quản lý hết các công trình xây dựng phát sinh trên địa bàn.
Đối với các công trình do doanh nghiệp ký kết hợp đồng xây dựng thi công thì
thông báo ngay cho phòng quản lý biết để kiểm tra đối chiếu, phát hiện lợi dụng.
Đối với các công trình xây dựng do tư nhân thi công thì yêu cầu người nhận thầu
phải kê khai tạm nộp thuế theo tiến độ thi công, trường hợp chủ nhà thông đồng với
chủ thi công nhận là tự xây nhà để trốn thuế thì đề nghị hội đồng tư vấn tham gia
cùng xác định có phải tự xây dựng hay không làm cơ sở để xử lý thu hay không thu.
Để phân biệt công trình xây dựng tự làm với công trình xây dựng phải thuê thi
công, căn cứ điều lệ quản lý xây dựng cơ bản Chính phủ đã ban hành đề nghị cục
Thuế phối hợp sở Xây dựng hướng dẫn cụ thể loại công trình dân tự làm để cơ quan
Thuế làm căn cứ không thu thuế. Nguyên tắc chung là mọi công trình từ cấp 1 đến
cấp 3 đều phải do tổ chức, cá nhân có nghề xây dựng thi công, chỉ có nhà cấp 4 mới
được tự tổ chức thi công.
Doanh thu tính thuế được xác định theo hợp đồng xây dựng, trường hợp không có
hợp đồng xây dựng thì căn cứ vào giá xây nhà do Nhà nước ban hành đối với từng
loại nhà để làm căn cứ ấn định giá tính thuế.
+ Đối với hoạt động khách sạn, nhà nghỉ cục Thuế phối hợp các ngành đề nghị
khách sạn, nhà nghỉ phải lập và cung cấp sơ đồ phòng nghỉ cho cơ quan Thuế, hàng
ngày khách sạn phải tự đánh dẫu phòng có khách nghỉ vào sơ đồ.
Cục thuế phối hợp với các ngành chức năng tổ chức kiểm tra khách nghỉ thực tế đối
chiếu với việc phản ánh trên sơ đồ có khớp không? Định kỳ đối chiếu số lượng
khách nghỉ với cơ quan công an để xác định tổng số khác nghỉ hàng tháng và số
lượng phòng sử dụng hàng tháng. Nếu phát hiện có gian lận thì ấn định doanh thu
tính thuế theo mức bình quân chung sử dụng phòng nghỉ và giá thuê phòng ở địa
phương.
Trường hợp kiểm tra thực tế không phát hiện nhưng nghi vấn những khách sạn, nhà
nghỉ kê khai công suất sử dụng phòng thấp, chi phí điện nước tăng thì phải cử cán
bộ thanh tra, giám sát ngay để phát hiện kịp thời.
Để chống thất thu về giá tiền phòng, cục thuế cần phối hợp các cơ quan xây dựng
bảng giá thuê phòng chuẩn để làm căn cứ kiểm tra, đối chiếu, trường hợp khách sạn,
nhà nghỉ kê khai giá thuê phòng thấp hơn giá quy định phải lập biên bản xác định
giá thực tế, đồng thời đối chiếu xác minh hoá đơn để xác định tiền thực tế thanh
toán làm cơ sở ấn định xử lý vi phạm hành chính và doanh thu tính thuế.
+ Đối với hoạt động nhà hàng, vũ trường: Phải bố trí cán bộ Thuế phối hợp hội
đồng Tư vấn kiểm tra ngoài giờ để có căn cứ xác định đúng doanh thu thực tế.
Hiện nay Bộ Văn hoá đang chỉ đạo tổ chức kiểm tra sắp xếp lại các hoạt động vũ
trường, các địa phương cần phối hợp đề nghị Uỷ ban Nhân dân ban hành quy định
cho các vũ trường phải thực hiện chế độ kế toán, lập hoá đơn chứng từ theo quy
định, đồng thời thực hiện tổ chức kiểm tra thực hiện và xử lý nghiêm minh các vũ
trường vi phạm chế độ kế toán, dùng vé tự in để thu tiền...
Đối với các nhà hàng phải nắm được số phòng, số bàn ăn, số nhân viên phục vụ cụ
thể để làm căn cứ ấn đinh doanh thu.
Đối với các vũ trường có bán vé cho người vào thì phải kiểm tra việc phát hành vé
và sử dụng vé, nếu sử dụng vé không đăng ký, chưa được sự chấp nhận của Tổng
cục Thuế thì phải sử phạt và ấn định thuế phải nộp.
10. Tăng cường sự phối kết hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan khác
Khi nói đến các giải pháp để quản lý, phát triển kinh tế NQD các cơ quan quản lý
hay né tránh nêu vấn đề làm thế nào để quản lý được qua đó để hướng sự phát triển
sao cho có lợi cho đất nước. Không thể nói một chiều phát triển ngoài tầm quản lý.
Thực tiễn vừa qua khi đánh giá 2 năm thực hiện luật doanh nghiệp mới luôn có mâu
thuẫn giữa cơ quan hoạch định chính sách phát triển (Bộ Kế hoạch Đầu tư, Viện
quản lý kinh tế, Ban đổi mới doanh nghiệp) đều cho rằng các cơ quan quản lý yếu
kém không đáp ứng được yêu cầu thông thoáng để khuyến khích phát triển. Các cơ
quan quản lý cho rằng luật sơ hở đang bị lợi dụng. ở nước ta, do trình độ dân trí còn
thấp, trình độ quản lý chưa cao, phương tiện quản lý chưa được hiện đại hoá, nếu
hoạch định chính sách vượt quá trình độ hiện tại dễ gây tác dụng xấu, ảnh hưởng
đến tình hình kinh tế, xã hội. Có quản lý được thì mới định hướng được sự phát
triển đúng hướng. Xét về mặt tài chính và thuế có quản lý được mới đảm bảo cho
tài chính doanh nghiệp lành mạnh qua đó mới đảm bảo cho sự lành mạnh của nền
Tài chính quốc gia, quản lý được mới thực hiện được việc tính đúng, tính đủ thuế
phải nộp, mới đảm bảo được sự công bằng và binh đẳng giữa các cơ sở kinh doanh
và các thành phần kinh tế, mới đảm bảo đựơc quyền lợi về tài chính của các thành
viên liên quan...
Trên tinh thần đó để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế
NQD về phía các cơ quan chức năng khác cần có các giải pháp như sau:
9.1. Kiến nghị sửa đổi và bổ sung một số điểm còn sơ hở trong các quy định của
luật doanh nghiệp đang bị một số cá nhân và doanh nghiệp lợi dụng, ảnh hưởng đến
quyền lợi của các doanh nghiệp và cá nhân liên quan ảnh hưởng đến công tác quản
lý thu thuế, gây thất thoát tiền của Ngân sách Nhà nước, cụ thể ở một số việc như
sau:
- Cần có quy định chặt chẽ hơn để kiểm soát được người điều hành hoặc người chủ
doanh nghiệp, loại trừ được những người không đủ điều kiện (nghiện hút, mới ra tù
hoặc đang trong thời kỳ bị quản chế, những người kém về sức khoẻ -bệnh thần kinh,
những người trình độ văn hoá thấp) không được thành lập doanh nghiệp vì những
người này nếu có vi phạm trốn thuế, lậu thuế cũng không xử lý được.
- Cần quy định những điều kiện về vốn và tài sản của doanh nghiệp bắt buộc phải
có để khi xảy ra các hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền, hàng hoá còn có cơ sở để
cưỡng chế đảm bảo thanh toán cho người bị hại, kể cả chiếm dụng tiền thuế, có tài
sản cưỡng chế.
- Quy định về địa diểm kinh doanh hay địa điểm đặt trụ sở cũng cần chặt chẽ hơn,
tránh tình trạng như hiện nay, doanh nghiệp không có hiện diện tại địa điểm quản lý
đăng ký kinh doanh quá nhiều, hoặc khai không đúng địa điểm kinh doanh dẫn đến
cơ quan thuế không quản lý được...
- Có những quy định chặt chẽ hơn về quản lý doanh nghiệp trong thời gian hoạt
động. Ví dụ: Trong thời gian hoạt động doanh nghiệp vi phạm các chính sách thuế
đã bị xử phạt nếu doanh nghiệp vẫn cố tình không chấp hành thì các ngành phải có
trách nhiệm cùng cơ quan Thuế đôn đốc và xử lý việc kê khai thay đổi kinh doanh...
9.2.Tăng cường việc quản lý tiền mặt, quản lý thanh toán yêu cầu tất cả các tổ chức
và cá nhân kinh doanh đều phải mở tài khoản tại Ngân hàng, thực hiện thanh toán
không dùng tiền mặt, có như vậy mới quản lý được đầy đủ doanh thu, chi phí trên
cơ sở đó mới tính đúng, tính đủ số thuế phải nộp, đảm bảo sự công bằng và bình
đẳng về thuế.
9.3.Cần có quy định cụ thể buộc các cấp các ngành liên quan như cơ quan cấp đăng
ký kinh doanh, cơ quan quản lý thị trường, công an có trách nhiệm và nghĩa vụ hỗ
trợ và giúp đỡ cơ quan thuế cung cấp những tài liệu liên quan đến quá trình hình
thành và hoạt động của doanh nghiệp để cơ quan thuế có thể kiểm soát được hoạt
động sản xuất kinh doanh của có sở kinh doanh. Giúp đỡ cơ quan thuế trong việc xử
lý các hành vi vi phạm thuế.
9.4. Sớm ban hành luật kế toán để nâng cao tính pháp lý của các đối tượng kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải chấp hành chế độ kế toán, hoá đơn chứng
từ được tốt hơn.
9.5. Đề nghị Bộ, Chính phủ trang bị đồng bộ máy vi tính và điều kiện làm việc cho
cơ quan thuế, đảm bảo cán bộ thuế có thu nhập đủ yên tâm công tác.
9.6. Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố quan tâm chỉ đạo công tác thuế
NQD, chỉ đạo các cấp, các ngành ở địa phương phối hợp và tạo điều kiện cho cơ
quan thuế triển khai các biện pháp quản lý thu, chống thất thu, chống trốn lậu thuế.
Kết luận
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới, kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần đã phát huy mạnh mẽ theo đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà
Nước. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế Nhà nước
là quan trọng nhất. Bên cạnh đó khu vực kinh tế NQD là khu vực kinh tế có tiềm
năng lớn cả về số lượng và quy mô kinh doanh, đồng thời là khu vực có đóng góp
lớn cho Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó khu vực này còn thất thu nhiều trong
công tác quản lý thu thuế, phương thức quản lý của cơ quan thuế và các cơ quan
chức năng khác còn thiếu đồng bộ, bộ máy quản lý thu thuế có trình độ chưa cao...
gây khó khăn cho công tác quản thu thuế .
Vậy các giải pháp nêu ra trong luận văn hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện công tác
quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD. Chắc chắn rằng trong thời gian tới
với các giải pháp của cơ quan thuế và các cơ quan khác khu vực kinh tế này sẽ phát
triển mạnh mẽ góp phần tích cực vào việc chống thất thu cho Ngân sách Nhà nước
thực hiện tốt các mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.
Do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên luận văn chỉ dừng lại ở phạm vi
nghiên cứu về công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD. Trên thực tế
để đạt được một vị trí vững chắc trong nền kinh tế thị trường, cần thiết phải nghiên
cứu một cách chi tiết và toàn diện đối với tất cả các nghiệp vụ thuế của Tổng Cục
Thuế.
Tài liệu tham khảo.
1. Lịch sử phát triển ngành Thuế tập 1,2.
2. Thuế công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
3. Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện nay.
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN trong thời kỳ đổi mới đất nước. NXB Quốc
gia.
5. Kinh tế Chính trị Mác - Lê nin.
6. Tạp chí Tài chính số 3+7/2000, số 5/2001, số 1+2/2002.
7. Tạp chí Kinh tế phát triển số 38/2000.
8. Tạp chí Thuế Nhà nước số 10, 11,12 năm 2001.
9. Số liệu kê khai của các cơ sở kinh tế Ngoài quốc doanh – Tổng cục Thuế.
10. Báo cáo dự toán ngân sách năm 2001- Tổng cục Thuế
11. Báo cáo Bộ về quản lý kinh tế Ngoài quốc doanh- Tổng cục Thuế
12. Báo cáo công tác quản lý thu thuế đối với khu vực công thương nghiệp
Ngoài quốc doanh- Tổng cục Thuế.
13. Báo cáo điều tra thi hành luật doanh nghiệp – Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam.
14. Báo cáo tổng kết và tài liệu lịch sử của Tổng cục Thuế.
15. Tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân của Viện
nghiên cứu Kinh tế.
16. Báo cáo tình hình quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế Tư nhân - Tổng
cục Thuế.
Lời cảm ơn
Để luận văn đạt kết quả tốt đẹp, trước hết em xin gửi tới toàn thể các thầy cô khoa
Ngân Hàng - Tài Chính lời chúc sức khoẻ, lời chào trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc
nhất.Với sự quan tâm, dạy dỗ chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cô, sự giúp đỡ nhiệt
tình của các bạn, đến nay em đã có thể hoàn thành - luận văn tốt nghiệp.
Để có được kết quả này em xin đặc biêt gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo -
TS .Nguyễn Thị Bất- đã quan tâm giúp đỡ, vạch kế hoạch hướng dẫn em hoàn thành
một cách tốt nhất luận văn tốt nghiệp trong thời gian qua.
Không thể không nhắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Quản lý thu
thuế ngoài quốc doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suất thời gian thực tập
tại Tổng Cục Thuế.
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên
thực tập nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để em có điều
kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp hoàn thiện công tác hoàn thuế của Bộ tài chính đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay.pdf