MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Nội dung bài viết:
Phần I : Lý luận chung về tín dụng ngân hàng thương mại.
I - Tín dụng và các loại tín dụng.
1 - Khái niệm
2 - Đặc điểm
3 - Sự cần thiết khách quan của quan hệ tín dụng.
4 - Chức năng và vai trò của tín dụng.
5 - Các loại tín dụng.
II - Ngân hàng thương mại và vai trò của tín dụng.
1 - Ngân hàng thương mại
2 - Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng .
3 - Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTM .
Phần II : Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
I - Tổng quan về hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
II - Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
1 - Thực trạng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
1.1- Quy mô và cơ cấu tín dụng.
1.2- Chất lượng hoạt động tín dụng.
2 - Những vấn đề tồn tại cần khắc phục.
Phần III : Một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
I - Giải mở rộng hoạt động tín dụng.
II - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng.
III - Những kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan hữu quan.
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo.
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2341 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tích luỹ của doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng chưa dùng đến.
b) Từ nguồn tiền nhàn rỗi thu được dưới dạng tiền gửi tiết kiệm của mọi tầng lớp trong xã hội.
Nguồn tiền nhàn rỗi này hình thành từ khoản tiết kiệm được trích ra từ thu nhập của người dân và được xem là bộ phận quan trọng nhất trong vốn tín dụng của một quốc gia.
Trong hai nguồn vốn cung trên thì nguồn vốn từ sản xuất kinh doanh thường tạo ra cung vốn ngắn hạn. Còn vốn từ tiết kiệm tạo ra cung vốn dài hạn cho nền kinh tế.
4 . Chức năng và vai trò của tín dụng.
4.1. Chức năng
Tín dụng có ba chức năng cơ bản sau:
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả.
Tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung và cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng này tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn vốn tạm thời thừa từ các cá nhân, các tổ chức kinh tế để bổ sung kịp thời cho những doanh nghiệp, Nhà nước hay cá nhân đang gặp thiếu hụt về vốn.
Ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội.
Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các doanh nghiệp, các cá nhân và cả của ngân sách quốc gia.
Trong nền kinh tế, phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín dụng được thực hiện bằng hai cách: phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp là là phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời nhàn rỗi, chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Còn phân phối gián tiếp là việc phân phối vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian.
Chức năng tiết kiệm tiền mặt.
Qua hình thức tín dụng, những khoản vốn đang tạm thời nhàn rỗi sẽ được đưa vào chu chuyển, nghĩa là tín dụng đã làm tăng nhịp độ quay của đồng tiền, giảm lượng tiền cần thiết cho lưu thông.
Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển đã thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này làm giảm khối lượng giấy bạc trong lưu thông cũng như các chi phí lưu thông giấy bạc ngân hàng như chi phí in giấy bạc, chi phí bảo quản tiền, chi phí vận chuyển . . .
Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Thông qua quá trình tập trung và phân phối vốn, tín dụng góp phần phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt như : khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ… từ đó giúp ta có cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối trong nền kinh tế, ví dụ quan hệ giữa tiết kiêm và tiêu dùng.
Qua việc cho vay của ngân hàng, ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước.
Ngoài ra, qua việc thanh toán không dùng tiền mặt còn tạo điều kiện để kiểm soát bằng tiền đối với các đơn vị kinh tế, ngân hàng sẽ có cái nhìn tổng quát về cấu trúc tài chính của các đơn vị.
4.2 . Vai trò.
Tín dụng thể hiện vai trò tích cực của nó trong đời sống kinh tế – xã hội. Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Trước hết, tín dụng góp phần thúc đẩy việc tập trung và tích tụ vốn. Hai là, tín dụng góp phần điều phối lại vốn trong phạm vi xã hội. Ba là, giải quyết mâu thuẫn giữa việc tự do di chuyển vốn giữa các ngành với việc vốn sản xuất gắn chặt với hình thái tự nhiên đã định sẵn cho nó và giữa quy mô đầu tư với tính giới hạn của vốn cá nhân.
5 . Các loại tín dụng.
5.1 .Tín dụng nặng lãi.
Tín dụng nặng lãi là hình thức tín dụng tiêu dùng mà lãi suất rất cao, có thể lên tới 50%, 100% . . . và thông thường không có giới hạn lãi suất cho loại tín dụng này. Hình thức này ra đời trong nền sản xuất thấp kém, những người gặp khó khăn thường đi vay để giải quyết nhu cầu trước mắt của cuộc sống như mua lương thực, thuốc men,đóng thuế . . .
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, tín dụng nặng lãi tuy bị đẩy lùi những không hề bị thủ tiêu. Nó vẫn tồn tại ở hàng thứ yếu và hoạt động trong lĩnh vực mà người đi vay không vì mục đích sản xuất.
5.2 . Tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá với nhau thông qua thương phiếu thương mại.
Sự tồn tại tín dụng thương mại là yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hoá phát triển. Sự tách biệt giữa thời gian tiêu thụ và thời gian sản xuất thường xảy ra trong nền kinh tế làm cho có doanh nghiệp có hàng muốn bán những chưa cần tiền ngay trong khi có doanh nghiệp cần hàng những chưa tiêu thụ được sản phẩm của mình để có tiền mua. Quan hệ mua bán chịu giải quyết được mâu thuẫn này và thoả mãn nhu cầu về cả hai phía.
Tín dụng thương mại có ưu thế là tiết kiệm được tiền mặt và chi phí lưu thông tiền mặt nhưng cũng có những hạn chế xuất phát từ bản chất tín dụng trực tiếp bằng hàng hoá :
- Thứ nhất là hạn chế về quy mô tín dụng : quy mô tín dụng phụ thuộc vào lượng hàng hoá bán chịu, lượng hàng hoá này lại phụ thuộc vào quy mô sản xuất của doanh nghiệp, hơn nữa doanh nghiệp chỉ có thể bán chịu trong phạm vi số vốn nhàn rỗi, do đó khi nhu cầu mua chịu cao hơn lượng hàng hoá có thể bán chịu thì tín dụng thương mại không thể thực hiện được.
- Thứ hai là hạn chế về thời hạn cho vay : tín dụng thương mại chỉ có thể thực hiện được khi thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp và thời hạn mà người đi vay có nhu cầu phù hợp nhau.
- Thứ ba là hạn chế về phương thức hoạt động : chiều vận động của thương phiếu do chiều vận động của giá trị sử dụng của hàng hoá quyết định vì vậy nó ấp ủ mầm mống khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa do tạo ra cầu giả tạo (do người tiêu dùng có xu hướng mua nhiều hơn để tích luỹ).
- Thứ tư là nó loại bỏ khả năng kiểm soát : qua tín dụng thương mại người ta có thể rửa tiền.
5.3 . Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa một bên là các ngân hàng với một bên là các chủ thể khác của nền kinh tế. Đây là hình thức hiện đại và có nhiều ưu điểm như về đối tượng cho vay, phạm vi cho vay, khả năng cho vay lớn do đó nó có vai trò hết sức quan trọng.
Giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Hoạt động tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở cung cấp tín dụng ngân hàng, thể hiện ở việc cấp tín dụng ngân hàng trên cơ sở thương phiếu của tín dụng thương mại. Ngược lại, hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương mại, tạo điều kiện để tín dụng thương mại phát triển.
5.4 . Tín dụng Nhà nước.
Tín dụng Nhà nước là hình thức tín dụng giữa Nhà nước với các thành phần khác trong nền kinh tế hay giữa các Nhà nước với nhau.
Mục đích tín dụng Nhà nước là bù đắp thâm hụt ngân sách, phân phối lại vốn, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực trọng điểm và các vùng kinh tế còn yếu kém, đồng thời là công cụ tài chính để Nhà nước điều tiết vĩ mô, mở rộng kinh tế đối ngoại.
5.5 .Tín dụng thuê mua.
Là quan hệ tín dụng giữa các công ty tài chính với người sản xuất kinh doanh hàng hoá dưới hình thức cho thuê tài sản cố định như máy móc, thiết bị, văn phòng . . .
Đặc điểm của tín dụng thuê mua là ban đầu là cho thuê, sau chuyển giao quyền sở hữu.
II – NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1 . Ngân hàng thương mại.
. Khái niệm.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động thường xuyên và chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư cho nền kinh tế.
Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại bao gồm:
+ Nghiệp vụ huy động vốn (nghiệp vụ nợ).
+ Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ có).
+ Nghiệp vụ trung gian.
. Chức năng.
Ngân hàng thương mại có các chức năng cơ bản sau:
Ngân hàng thương mại là thủ quỹ của doanh nghiệp làm chức năng thu hộ và thanh toán hộ doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại là nơi đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng: nó đứng giữa người đi vay và cho vay. Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của khách hàng rồi cho cho vay, đầu tư cho nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại cũng là trung gian tài chính : cung cấp các dịch vụ tài chính ở những mức độ khác nhau như thanh toán, tư vấn đầu tư, bảo quản hộ tài sản có giá, thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác.
. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ huy động vốn (Nghiệp vụ nợ)
Các NHTM muốn hoạt động kinh doanh cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong khi vốn tự có của ngân hàng thì lại rất hạn chế, do đó các ngân hàng phải tiến hành huy động vốn từ đó hình thành nguồn vốn và đồng thời hình thành nghĩa vụ tài chính (Tài sản nợ).
Vốn kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có thể được hình thành từ các nguồn sau:
- Tiền gửi không kỳ hạn: loại này không phải trả lãi, nhưng khách hàng có thể tiêu dùng bất kỳ lúc nào. Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn, và là đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng. Tuy vậy tính chất vận động rất phức tạp, dễ rủi ro mất khả năng thanh toán.
- Tiền tiết kiệm: chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng tính chất vận động ổn định
- Đi vay: các ngân hàng có thể vay lẫn nhau hoặc vay của ngân hàng Nhà nước (vay tái chiết khấu).
- Phát hành tín phiếu và kỳ phiếu.
- Vốn tự có: đây là lượng vốn thuộc sở hữu của ngân hàng.
- Tài sản nợ khác (nguồn vốn khác): loại này lúc có lúc không, ngân hàng này có ngân hàng khác có thể không có.
Bằng hoạt động huy động vốn, ngân hàng đã nắm trong tay phần lớn của cải xã hội về mặt giá trị
Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Nghiệp vụ kho quỹ: đây là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên cho khách hàng. Để đảm bảo chi trả cho khách hàng khi có một luồng tiền rút ra ngân hàng phải thực hiện dự trữ bao gồm dự trữ bắt buộc (gửi tại ngân hàng trung ương), và dự trữ vượt quá (tồn quỹ nghiệp vụ ngân hàng).
- Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động cơ bản và chủ yếu của bất kỳ NHTM nào. Đại bộ phận số tiền đi vay hay huy động được là để cho vay nền kinh tế. Khoản mục này có tích luỹ kém nhất, độ rủi ro vỡ nợ cao, do đó ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ các khoản cho vay, chiếm 2/3 thu nhập của các NHTM.
- Đầu tư: các ngân hàng có thể đầu tư vào các dự án, đầu tư vào chứng khoán.
- Tài sản có khác: đây là hoạt động sử dụng vốn mang tính chất không thường xuyên như tài trợ, quảng cáo, các vốn hiện vật như các toà nhà ngân hàng, các trang thiết bị. . .
Nghiệp vụ trung gian.
Ngoài các hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, Ngân hàng thương mại còn đứng giữa các khách hàng thực hiện các dịch vụ hoặc thực hiện “lệnh” của các khách hàng:
- Chuyển tiền: theo lệnh của khách hàng chuyển tiền cho người thứ ba ở một địa phương nào đó.
- Thanh toán không dùng tiền mặt: qua các hình thức như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng L/C, séc. . .
- Cung cấp các dịch vụ tài chính: mua bán hộ tài sản, quản lý danh mục đầu tư. . .
2 . Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng.
2.1 . Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng quan hệ tín dụng giữa một bên là các ngân hàng với một bên là các chủ thể khác của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ, bao gồmtiền mặt và bút tệ. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, với tư cách vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
2.2 . Vai trò của tín dụng ngân hàng.
2.2.1 - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, có vai trò hết sức quan trọng trong việc tập trung, điều hoà lượng cung - cầu về vốn cho nền kinh tế. Hoạt động của tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ các người tiết kiệm sang những nhà đầu tư, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.
Hoạt động tín dụng giúp tận dụng những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đưa vào sản xuất kinh doanh do đó nó góp phần thúc đẩy quá trình chu chuyển tiền tệ, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn là công cụ chhủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực then chốt, các vùng kinh tế kém phát triển. Đồng thời nó tạo lượng tiền cung ứng, phát triển kinh tế đối ngoại, góp phần bình ổn giá cả và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế.
2.2.2 - Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động của NHTM.
Đối với các Ngân hàng thương mại, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vì thế cần phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, đa dạng hoá hoạt động cho vay, đầu tư, đa dạng hoá khách hàng và thời hạn vay để ngân hàng có thể đứng vững trong cơ chế thị trường.
3 . Hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM.
3.1 . Hiệu quả hoạt động tín dụng.
Theo các nhà Ngân hàng thì hoạt động tín dụng được coi là có hiệu quả khi đảm bảo ba yếu tố: khả năng sinh lợi, khả năng thu hồi nợ đúng hạn và khả năng thanh khoản từ phía nguồn. Điều này có nghĩa là các ngân hàng khi tiến hành cho vay thì khoản vay đó phải mang lại thu nhập cho ngân hàng, bảo đảm trang trải được chi phí trả lãi huy động hoặc đi vay, chi phí ngân hàng và rủi ro, cùng với khả năng trả nợ của khách hàng và sự cân xứng từ phía nguồn. Hiệu quả hoạt động tín dụng được đánh giá thông qua:
- Quy mô tín dụng :
+ Doanh số cho vay.
+ Dư nợ tín dụng.
- Chất lượng tín dụng :
+ Nợ quá hạn / Tổng dư nợ.
+ Tổng dư nợ / Nguồn vốn huy động.
3.2 . Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM.
Chất lượng của công tác thẩm định dự án.
Trước khi tiến hành cho vay đối với một dự án, việc đầu tiên rất quan trọng là phải tiến hành thẩm định dự án. Qua đó ngân hàng mới có thể đánh giá được tính khả thi và hiệu quả của dự án, tránh những rủi ro, tổn thất cho ngân hàng.
Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án để quyết định xem có đầu tư hay không. Do vậy, phải vận dụng tổng hợp những hiểu biết về KHTN, KHXH, công nghệ ngân hàng và đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước để xem xét đánh giá, phân tích về quy mô, thiết bị, quy trình công nghệ, và hiệu quả kinh tế xã hội.
Thẩm định dự án còn là cơ sở để ngân hàng xác định số tiền cho vay, lãi suất, thời gian cho vay, mức thu hồi nợ hợp lý tạo điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả tối ưu.
Lãi suất tín dụng.
Lái suất tín dụng là giá cả của tín dụng hay giá phải trả cho quyền sử dụng vốn. Lãi suất tín dụng đóng vai trò đòn bẩy kinh tế nhạy bén đối với doanh nghiệp, cá nhân và ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược, hoạt động của họ. Trong hoạt động tín dụng lãi suất quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng tới hoạt động của khách hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Lái suất cho vay của NHTM thường được tính dựa trên cơ sở lãi suất đầu vào cộng với một tỷ lệ nhất định đủ để trang trải chi phí hoạt động và đảm bảo cho ngân hàng có lãi. NHTM huy động vốn tự nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn đều có mức lãi suất nhất định.
Ảnh hưởng của yếu tố rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là hiện tượng bên vay vốn không trả được nợ khi đến hạn. Có rất nhiều nguyên nhân khiến khách hàng không trả được nợ:
- Nguyên nhân khách quan: do thiên tai, do biến động của thị trường, do sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá. . . Rủi ro thiên tai là rủi ro bất khả kháng đối với người vay, làm người vay thiệt hại nặng không trả được nợ. Rủi ro do biến động của thị trường, biến động lãi suất hay tỷ giá là do biến động tình hình kinh tế, chính trị do thay đổi chính sách kinh tế của Nhà nước dẫn đến những biến động gây bất lợi cho khách hàng.
- Nguyên nhân chủ quan: là những nguyên nhân từ phía ngân hàng hay do khách hàng gây ra. Do việc sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng, ngoài ra còn do sự quản lý yếu kém đối với vốn vay quản lý kinh doanh kém cũng là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán, không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Về phía ngân hàng, do việc thẩm định dự án không chính xác, không phát hiện ra sai lầm của khách hàng trong việc tìm hiểu thị trường để tư vấn cho khách hàng, hoặc do cán bộ tín dụng cố tình hay thiếu kinh nghiệm nên khó tránh khỏi rủi ro khi cho vay.
Nói chung, rủi ro là điều mà bất kỳ ngân hàng nào cũng có thể gặp phải, nhưng nếu hiểu rõ nguyên nhân gây rủi ro thì ta có thể có biện pháp hạn chế và tìm cách xử lý thích hợp.
Ảnh hưởng của các chính sách kinh tế.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, nó chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài luật doanh nghiệp, luật ngân hàng thì trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quy định của Nhà nước về tỷ giá hối đoái, quy trình nghiệp vụ, lãi suất.
Ngoài ra ngân hàng còn chịu ảnh hưởng gián tiếp từ các chính sách, quy chế, quy định điều chỉnh hoạt động của khách hàng vay vốn như chính sách thuế, chính sách XNK, chế độ kế toán, kiểm toán… Các chính sách này tác động đến kết quả kinh doanh của khách hàng từ đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng.
PHẦN II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.
I. TỔNG QUAN HỆ THỐNG NHTM Ở VIỆT NAM.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, ngành ngân hàng có vai trò quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Sau gần nửa thế kỷ hoạt động, trong đó có thời gian dài hoạt động dưới chế độ tập trung với nhiệm vụ phục vụ xây dựng miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước và phát triển kinh tế xã hội sau chiến tranh. Đầu thập kỷ 90, khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ngnàh ngân hàng sớm đổi mới hoạt động từ một cấp sang hai cấp với sự ra đời của hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính tín dụng khác. Trong đó các NHTM đã thực sự trở thành một hệ thống, tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng hoạt động đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Hiện nay hệ thống NHTM ở Việt Nam đã có hàng trăm ngân hàng thuộc đủ các thể loại như NHTM quốc doanh (NHNN & PTNT, NHĐT & PT, NHCT, …), ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam.
Nước ta, do thị trường chứng khoán mới ra đời, phát triển chưa mạnh, chưa phát huy hết hiệu quả nên hệ thống NHTM vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu, có vai trò tập trung, điều hòa vốn, đáp ứng phần lớn nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân và cả Nhà nước. Trong quá trình hoạt động, mặc dù các NHTM đã gặt hái được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn những tồn tại cần được nhanh chóng khắc phục.
II - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM Ở VIỆT NAM
1 . Thực trạng hoạt động tín dụng NHTM ở Việt Nam.
. Quy mô, cơ cấu huy động và cho vay.
Về khả năng tạo lập vốn:
Ngay từ khi Pháp lệnh ngân hàng ra đời các NHTM đã chú trọng việc ổn định và ngày càng tăng trưởng nguồn vốn, coi đó là mục tiêu chiến lược của ngân hàng. Các NHTM một mặt có các giải pháp đa dạng hoá hình thức huy động vốn, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, cạnh tranh; mặt khác áp dụng chính sách bảo vệ khách hàng, dịch vụ trọn gói : nhận tiền gửi, cấp tín dụng, mua bán ngoại tệ, thực hiện dịch vụ thanh toán… đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm tạo ra các giải pháp huy động vốn có hiệu quả.
Nhìn chung, tổng nguồn vốn NHTM trong mấy năm qua tương đối ổn định và có chiều hướng tăng, trong đó vốn của các NHTMQD chiếm phần lớn. Tốc độ tăng trưởng bình quân 20 – 30% năm và đến những năm gần đây tốc độ này đã giảm do biến động chung của tình hình kinh tế khu vực và thế giới.
Về tình hình cho vay vốn:
Từ khi hình thành tới nay, các NHTM đã không ngừng tăng dư nợ cho vay nền kinh tế, nhằm đảm bảo vốn cho sản xuất, tiêu dùng của xã hội. Cơ cấu cho vay cũng có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tỷ lệ vốn trung và dài hạn. Năm 1990, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm 19% tổng dư nợ tín dụng nhưng đến năm 1996 đã tăng lên 48%. Nguyên nhân là do trước đây, khi mới chuyển đổi cơ chế số doanh nghiệp, hộ kinh doanh ngoài quốc doanh còn ít nên tỷ lệ cho vay thành phần này còn thấp. Đến nay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không ngừng tăng lên về quy mô cũng như số lượng nên đã nâng dần tỷ trọng vay vốn ngân hàng.
Bảng 2: Tình hình dư nợ tín dụng qua một số năm
Các chỉ tiêu
đơn vị
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Cho vay DNQD
%
81
90
81
65
64
57
52
Cho vay ngoài quyết định
%
19
1
19
35
36
43
48
Cho vay ngắn hạn
%
95
85
83
77
67
69
62
Cho vay trung hạn
%
5
2
4
14
18
24
25
Cho vay dài hạn
%
0
13
13
9
15
7
13
(Nguồn: Thị trường tài chính tiền tệ 5 - 1997)
Một điểm mới trong việc nới lỏng tín dụng là các NHTM mở rộng cho vay tiêu dùng và mua bán bất động sản. Hàng chục nghìn gia đình giáo viên, cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang được vay khoảng gần 10.000 tỷ đồng cho các nhu cầu xây dựng mới và sửa chữa nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng đắt tiền… Ngành ngân hàng cũng mở ra một lĩnh vực mới đó là cho vay tiền người đi xuất khẩu lao động.
Các NHTM đã cung cấp phần lớn vốn cho đầu tư phát triển các lĩnh vực then chốt, đòi hỏi nhiều vốn theo kế hoạch của Nhà nước. Các NHTM đã cho vay những khoản hợp vốn bằng ngoại tệ cho những dự án lớn: Nhà nước khí điện đạm Cà Mau có tổng số vốn đầu tư trên 5700 tỷ VND, nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ. 6 NHTM đồng tài trợ 230 triệu USD cho dự án phân đạm Phú Mỹ. 3 TCTD đồng tài trợ 30 triệu USD cho Petro Việt Nam mua tàu chở dầu thô; 4 NHTMQD đồng tài trợ 95 triệu USD cho Dự án xi măng sông Gianh; dự án mỏ khí Lan Tây, Lan Đỏ và đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn được tài trợ 50 triệu USD… và hàng loạt dự án lớn khác thuộc lĩnh vực dầu khí, hàng không, điện lực, bưu chính viễn thông, đóng tàu… tổng cộng vốn tín dụng trị giá trên 1 tỷ USD.
Về tốc độ cho vay vốn:
Trong mấy năm qua tốc độ cho vay của các NHTM còn thấp, chỉ chiếm khoảng 70% tổng dư nợ tín dụng (1997 là 73,15%; 1998 là 71,2%); lượng vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng còn lớn, do vậy ngân hàng phải trả một khoản chi phí lớn chi lãi huy động trong khi không thu được lợi nhuận. Cho đến năm 1999 do tác động của giảm phát các ngân hàng đã hạ thấp lãi suất huy động vốn, áp dụng nhiều biện pháp nhằm khơi thông nguồn vốn trong hệ thống NHTM, nhưng tốc độ cho vay tăng rất chậm.
Tốc độ huy động và cho vay của hệ thống NHTM năm 1999.
QuýI
QuýII
Quý III
Quý IV
Huy động
--------
9,3
19,3
--------
Cho vay
âm
6
8,5
10
(Nguồn : Chuyên san TBKT Việt Nam 98’ - 99’)
Như vậy, tốc độ cho vay tăng chậm trong khi lượng tiền gửi vào ngân hàng vẫn tăng, mà chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên ngân hàng không thể cho vay để giải toả vốn. Điều này là giảm thu nhập và gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Có rất nhiều nguyên nhân gây đọng vốn tại ngân hàng nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chính sau:
Một là, do sự hạn chế của đầu ra. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước có vốn tự có rất nhỏ so với quy mô hoạt động của nó, trong khi muốn vay vốn ngân hàng thì phải có các điều kiện về thủ tục, tài sản thế chấp, cầm cố, vì vậy các doanh nghiệp có vốn tự có nhỏ thì khả năng vay vốn bị hạn chế. Mặt khác, do thị trường tiêu thụ hàng hoá ở nước ta đã bão hoà mà các doanh nghiệp chưa có các biện pháp mở rộng thị trường mới. Trong khi đó, hàng hoá nước ngoài xâm nhập cạnh tranh quá khốc liệt trên thị trường nội địa làm cho các doanh nghiệp trong nước không thể mở rộng sản xuất vì thế không thể vay thêm vốn ngân hàng.
Hai là, do các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước mà ở đây là chính sách tiền tệ. Hiện nay chúng ta đang giảm lãi suất và quy định mức chênh lệch lãi suất là 0,3%. Lãi suất cho vay giảm liên tục, khoảng cách giữa hai lần điều chỉnh quá ngắn, làm cho các NHTM luôn luôn bị động, vốn huy động vào với lãi suất cao chưa kịp cho vay ra đã phải cho vay theo lãi suất giảm, dẫn tới bị thua lỗ.
Nhà nước thay đổi lãi suất buộc các Ngân hàng thương mại phải thay đổi kế hoạch kinh doanh, phải tính toán lại mức lãi suất cho phù hợp quy định Nhà nước. Và có thể các NHTM phải tìm một đầu ra thích hợp hơn là cho vay để khỏi bị hạn chế trần lãi suất. Đó cũng là nguyên nhân làm hẹp đầu ra của các Ngân hàng thương mại.
.Chất lượng hoạt động tín dụng.
Những năm qua, hệ thống NHTM ở Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể, doanh số Cho vay và tổng dư nợ liên tục tăng. Tuy nhiên để xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng thì ta cần xem xét chất lượng các khoản vay đó.
Hiện nay, bên cạnh các mặt đã làm được, hoạt động của hệ thống NHTM còn nhiều vấn đề bất cập làm cho quá trình kinh doanh gặp nhiều thách thức mới. Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là mức dư nợ quá hạn rất lớn. Chất lượng tín dụng của các khoản vay rất thấp, nhất là các NHTM cổ phần đô thị, sau đó là các NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần nông thôn. Tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam được công bố vào cuối năm 1998 là 13,6% tương ứng với khoảng 14.000 tỷ đồng tăng gấp đôi so với tỷ lệ một năm trước đó và cuối năm 2000 con số này là 9,2%.
Nếu xét riêng từng loại ngân hàng thương mại năm 1998 ta thấy:
Các NHTM cổ phần đô thị có dư nợ quá hạn chiếm khoảng 20% và nợ khó đòi vào khoảng 10 % so với tổng dư nợ.
Các NHTM quốc doanh có mức dư nợ quá hạn chiếmkhoảng 11% và nợ khó đòi khoảng 8% so với tổng dư nợ.
Các NHTM cổ phần nông thôn mức dư nợ quá hạn chiếm khoảng 5,6% và nợ khó đòi là 0,7% so với tổng dư nợ.
Với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh có các tỷ lệ rất thấp, nợ quá hạn chiếm khoảng 2,3%, còn nợ khó đòi chỉ khoảng 1,2% so với tổng dư nợ. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng trong nước là trên 15%, gấp 3 lần mức được coi là nguy hiểm.
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng NQH/VTC
88,1
95,5
85
61,9
75,7
62,3
46
Tổng NQH/Tổng dư nợ
13,7
11,1
6,0
7,8
9,3
9,5
10
Tổng NQH/ Tổng TS Có
6,0
6,6
5,5
4,4
5,5
5,4
5,5
Vốn tự có/ Tổng TS
6,8
6,9
6,9
7,1
7,2
7,9
11,8
(Nguồn : Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề 12 - 1998).
Một câu hỏi được đặt ra là trong những năm gần đây, ngành ngân hàng tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thấp nợ quá hạn, nhưng tại sao nợ quá hạn không giảm mà lại còn tăng?
Trước hết, ngành ngân hàng tập trung tiến hành thanh tra kiểm soát, đối chiếu các khế ước vay vốn và hồ sơ vay vốn… nên nhiều khoản cho vay trước đây đảo nợ, làm các thủ thuật che giấu nợ quá hạn, nay phải báo cáo thật, thực trạng tín dụng được bộc lộ rõ, nợ quá hạn gia tăng.
Thứ hai là, tình trạng ngân sách các cấp nợ vốn đầu tư các côngtrình ngày càng lớn, bên A không có tiền thanh toán cho bên B, còn bên B trước đó phải vay ngân hàng. Các khoản vay đó cũng lần lượt được chuyển thành nợ quá hạn.
Thứ ba là, lãi suất cho vay của ngân hàng giảm ở mức thấp, mức bình quân là 1,2%/tháng, thấp hơn so với vay ngoài hay vay quỹ TDND, nên người vay có tâm lý là thà để nợ quá hạn, với lãi suất phạt nợ quá hạn 150% thì vẫn thấp hơn vay ngoài.
Thứ tư là, thị trường bất động sản trì trệ, hàng loạt khách sạn, nhà hàng, khu căn hộ cho thuê, ế ẩm, không có khách, kéo theo nợ đọng vốn trong ngân hàng.
Cuối cùng là, hàng đống tài sản thế chấp liên quan đến các khoản nợ vay quá hạn ngân hàng không xử lý được. Ước tính trị giá tài sản thế chấp của các khoản nợ quá hạn cần được giải toả lên tới khoảng 10.000 tỷ đổng, trong đó riêng vụ Epco – Minh Phụng đã gần 7.000 tỷ đồng. Tài sản thế chấp không giải toả được để thu tiền về cho ngân hàng, nợ bị đóng băng.
2 . Những vấn đề tồn tại cần khắc phục.
Trong thời gian qua, các NHTM đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động, hội nhập dần vào thị trường quốc tế… Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại một số mặt yếu kém cần khắc phục:
Một là, về nguồn vốn cho vay và sử dụng vốn : các NHTM trong nhiều năm qua đã có nhiều chính sách, giải pháp linh hoạt nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế. Nhưng tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn trong tổng nguồn vốn huy động còn thấp (khoảng 30 - 40%). Đây là một khó khăn của các ngân hàng khi muốn mở rộng quy mô cho vay dài hạn. Mặt khác, các ngân hàng vẫn chưa sử dụng hết lượng vốn đã huy động được, hệ số sử dụng vốn còn thấp. Trong mấy năm gần đây, lượng vốn được sử dụng cho vay, đầu tư chỉ chiếm khoảng 40 - 50%. Đó là biểu hiện không tốt đối vớiht NHTM bởi lẽ khi ngân hàng không cho vay vốn huy động thì vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền và lãi tiền vay, trong khi không thu được lãi cho vay nên khó có thể bù đắp nổi chi phí gây ra tình trạng thua lỗ, thậm chí dẫn đến phá sản ngân hàng.
Hai là, vấn đề nợ quá hạn và tài sản xiết nợ. Hiện tại hệ thống NHTM ở Việt Nam có mức dư nợ quá hạn quá lớn. Chất lượng các khoản vay của các NHTM thấp đặc biệt là các NHTM cổ phần. Dư nợ quá hạn khoảng 10% (1998), thêm vào đó việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Thời gian qua, việc xử lý tài sản thu hồi vốn được thực hiện rất chậm, kết quả không cao do nhiều vướng mắc về thủ tục kê biên phát mại, đánh giá giá trị tài sản. Đồng thời, các tài sản thế chấp lại khó chuyển nhượng, thanh lý vì thị trường bất động sản chưa phát triển. Do vậy, lượng vốn đọng trong các tài sản này khó có thể thu hồi ngay, làm cho các khoản nợ khó đòi không thể xử lý được.
Ba là, về đối tượng cho vay: Những năm qua khách hàng của các NHTM chủ yếu là các DNNN. Do có quyền được cấp tín dụng nên mặc dù làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nhưng ngân hàng vẫn phải cho vay. Trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được quan tâm nhiều, vốn cho vay cá thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tới 50% dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng.
Bốn là, về công tác thẩm định đánh giá: để có thể bảo toàn vốn vay cho khách hàng thì việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng. Muốn vậy, các khoản vay mới phải được thẩm định kỹ càng trước khi quyết định chuo vay cũng như phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Hiện nay, các cán bộ tín dụng không có điều kiện để thu thập thông tin về khách hàng, vì vậy chỉ dựa vào những số liệu do khách hàng cung cấp hoặc trên các phương tiện thông tin. Nhưng các thông tin này không đảm bảo tính chính xác cao dẫn đến sự đánh giá của ngân hàng sai lệch đi, gây khó khăn cho việc nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Hơn nữa, trình độ kỹ thuật của một số cán bộ tín dụng còn hạn chế, ngân hàng chưa có nhiều chuyên gia về các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật để giúp cho việc đánh giá dự án nên kết quả thẩm định thiếu chính xác. Đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhiều khi cán bộ tín dụng quá dè dặt làm mất đi một mảng khách hàng lớn, làm hạn chế khả năng cho vay, giải toả vốn của ngân hàng.
Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, do môi trường kinh tế không ổn định, cơ chế quản lý vỹ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, hoàn thiện. Các doanh nghiệp chuyển hướng vào điều chỉnh kế hoạch kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của chính sách và cơ chế của Nhà nước. Vì vậy, một số doanh nghiệp gặp khó khăn như áp dụng hàng hoá, chi phí, doanh thu không bù đắp được do chi phí bỏ ra dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán phát sinh nợ quá hạn cho ngân hàng.
Hai là, hệ thống văn bản pháp luật liên quan tuy đã cải thiện nhiều nhưng chưa thực sự khoa học, đồng bộ, chưa phù hợp với một trường cạnh tranh của cơ chế thị trường, đặc biệt là các quy định liên quan tới tài sản thế chấp, cầm cố, thủ tục, điều kiện cho vay rườm rà, phức tạp đã khiến cho ngân hàng phải từ chối những khoản cho vay vì không đáp ứng được điều kiện cho vay vốn.
Hơn nữa, các quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp chưa khoa học, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế và cho ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp được đầu tư sản xuất kinh doanh chủ yếu từ vốn vay của ngân hàng nhưng khi doanh nghiệp bị giải thể thì chủ thể đầu tiên được thanh toán nợ từ nguồn thanh lý tài sản của doanh nghiệp không phải là ngân hàng cho vay dẫn đến việc mất vốn của ngân hàng.
Bên cạnh đó, các pháp lệnh về kế toán, thống kê chưa đủ, chưa hiệu lực để bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán chính xác, kịp thời. Các số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp không phản ánh đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính thực tế của đơn vị.
Nguyên nhân từ bản thân các doanh nghiệp vay vốn:
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, kể cả các doanh nghiệp quốc doanh lẫn doanh nghiệp ngoài quốc doanh vốn tự có ít ỏi. Để hoạt động được các nhà kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay của ngân hàng, vì vậy một biến động nhỏ của thị trường, của lãi suất cũng đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính. Vốn đã ít ỏi lại thêm tình trạng lạc hậu của máy móc, thiết bị khiến cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, cạnh tranh diễn ra gay gắt. Vì vậy sản phẩm sản xuất ra không liên tục được, thua lỗ trở thành hiện tượng phổ biến của các doanh nghiệp, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Mặt khác, trình độ và năng lực điều hành, kinh nghiệm quản lý của một số doanh nghiệp còn hạn chế dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao; một số doanh nghiệp khi vay họ lập phương án kinh doanh rất hiệu quả, chứng minh đầu vào, đầu ra rất khả thi nhưng do không tính toán hết những biến động của thị trường nên bị thua lỗ. Trong những món vay trung và dài hạn để nhập máy móc và thiết bị do không phát huy được tác dụng gây thiệt hại lớn, không thể hoàn trả tiền vay cho ngân hàng. Hoặc một số trường hợp nhà doanh nghiệp tuy được cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh nhưng thiếu vốn hoạt động dẫn đến hiện tượng các doanh nghiệp cố tình chiếm dụng vốn của nhau, thậm chí còn lừa đảo, bỏ trốn làm cho các doanh nghiệp vay vốn của các Ngân hàng thương mại không trả được nợ.
Nguyên nhân từ phía các Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng chưa chấp hành đúng quy định, chế độ, thể lệ:
Qua công tác kiểm tra tín dụng vừa qua, các ngân hàng và chi nhánh đã chú ý tới thủ tục, hồ sơ cho vay nhưng vẫn còn nhiều hồ sơ cho vay, thế chấp, cầm cố tài sản chưa đủ các chứng từ pháp lý, việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay chưa được coi trọng đúng mức, đặc biệt là khâu kiểm soát trong và sau khi rút tiền vay còn nhiều lúng túng dẫn đến các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, dùng vốn ngắn hạn đầu tư trung và dài hạn, hoặc bán hàng không trả nợ ngay mà quay vòng vốn dẫn đến không trả nợ đúng hạn hoặc bị mất vốn.
Nguyên nhân này, về khách quan do chế độ, thể lệ chưa hoàn chỉnh, chưa có tài liệu pháp lý nào hướng dẫn đầy đủ rõ ràng về các bước tiến hành, kiểm tra trước, trong và sau khi vay, về chủ quan, cán bộ tín dụng coi nhẹ việc thẩm định, giám sát, thậm chí cấu kết để làm ăn phi pháp.
- Trình độ nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường, đặc biệt một số chi nhánh mới thành lập, cán bộ tín dụng chưa được đào tạo cơ bản, chưa đủ khả năng phân tích, đánh giá tình hình thực tế tài chính của các doanh nghiệp, thiếu kinh nghiệm thẩm định đánh giá đúng đắn hiệu quả và mức độ rủi ro của dự án, phân tích kỳ hạn nợ không hợp với vòng luân chuyển của vốn, dẫn đến cho vay các dự án không có hiệu quả kinh tế hoặc phải gia hạn nợ.
- Kiểm tra, kiểm soát chưa kịp thời và thường xuyên. Việc kiểm tra, kiểm soát trước đây nói chung chưa chủ động vì thường chỉ khi nào có phát sinh vụ việc lúc đó các NHTM mới cử cán bộ xuống chi nhánh để kiểm tra, do vậy chức năng ngăn ngừa chưa thực hiện được. Hơn nữa, những bài học kinh nghiệm trong việc kiểm tra chưa phát huy được tác dụng.
- Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng giữa NHNN và các NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu, sự hợp tác trao đổi thông tin giữa các NHTM còn hạn chế. Việc xét duyệt cho vay và quản lý vốn ở nhiều ngân hàng thực hiện chưa tốt, thiếu các thông tin cần thiết trung thực về hiện trạng dư nợ, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng nên không tránh được rủi ro, chưa có phòng chuyên trách thông tin về rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng nên chưa tạo ra một công cụ tốt để ngăn ngừa rủi ro, tiêu cực trong hoạt động của ngân hàng.
PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.
I . GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG.
. Mở rộng nguồn vốn đầu tư.
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã dần đi vào ổn định, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được cải thiện đáng kể và phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Song trên thực tế nguồn vốn huy động và cho vay vẫn còn hạn chế nhất là vốn trung và dài hạn, điều này có thể gây khó khăn cho các ngân hàng về khả năng thanh toán hay về lãi suất. Vì thế, ngân hàng cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn, đa dạng các kỳ hạn gửi tiền với nhiều mức lãi suất, hình thức trả lãi, thu hút vốn từ bên ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi tiết kiệm dài hạn, thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động tín dụng quốc tế. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần đôn đốc, đẩy mạnh việc thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ tồn đọng, nếu được thì đây sẽ là nguồn vốn đáng kể để cho vay.
. Đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư.
Giải pháp này nhằm mở rộng tín dụng, sử dụng triệt để nguồn vốn huy động được, nâng cao hệ số sử dụng vốn của các NHTM.
Mở rộng tín dụng cần đi kèm với mở rộng lĩnh vực đầu tư, hướng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt, có lợi nhuận cao cũng như các chương trình dự án kinh tế lớn của Nhà nước như : điện, dầu khí, khu công nghiệp … Hiện nay khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của các ngành này là rất lớn, đặc biệt là các ngành tiểu thủ công nghiệp , điện, nước, xây dựng .. Do đó, chúng ta phải vừa đảm bảo lượng vốn trung và dài hạn để đầu tư cho các dự án lớn, vừa cung cấp lượng vốn lưu động cho sản xuất, cung cấp vốn cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy có thể san sẻ rủi ro, bảo đảm an toàn cho các hoạt động của ngân hàng.
. Đẩy mạnh cho vay vốn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các ngân hàng cần tiếp tục điều cỉnh cơ cấu cho vay và đầu tư phù hợp với cơ cấu của các thành phần kinh tế. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng để phân chia rõ ràng và điều quan trọng là không phân biệt thành phần kinh tế, thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt để cho vay.
Hiện nay, tỷ trọng cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh còn quá nhỏ bé và tăng rất chậm. Do vậy các NHTM cần phải làm tốt hơn nữa quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, lấy khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để hướng tới. Muốn vậy, trước hết phải tạo sự bình đẳng giữa các khách hàng. Muốn mở rộng thị trường đầu ra, các NHTM phải có chính sách thể lệ rõ ràng nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng. Khi cho vay, các ngân hàng phải thực sự linh hoạt, nhạy bén, nhận biết đâu là khách hàng đáng tin cậy đồng thời phải phân tích, thẩm định khả năng trả nợ của khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời.
. Đẩy mạnh công tác Marketing ngân hàng.
Công tác Marketing ngân hàng là một hoạt động hết sức quan trọng, qua đó ngân hàng có thể giữ được khách hàng truyền thống và thu hút được khách hàng mới. Càng nhiều khách hàng biết đến ngân hàng thì sẽ có nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng hoạt động tín dụng hơn. Vì vậy, trong thời gian tới các ngân hàng cần tiếp tục đầu tư cho công tác khách hàng, tổ chức dịch vụ khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, tuyên truyền sâu rộng về ngân hàng mình và các lợi ích của khách hàng khi đến vay vốn hay gửi tiền tại ngân hàng. Đối với những khách hàng lớn có tình hình tài chính vững mạnh, trước hết là dầu khí, điện lực, bưu điện thì ngân hàng phải có chính sách ưu đãi về lãi suất, phí dịch vụ thấp cho các khách hàng thực hiện trọn gói từ khâu vay vốn đến các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng cần chủ động đến đặt quan hệ tín dụng với những đơn vị làm ăn có hiệu quả và có uy tín chứ không thể ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay vốn, nếu không sẽ bỏ lỡ mất nhiều cơ hội cho vay. Đồng thời phải thay đổi chính sách giao tiếp để gây thiện cảm và tạo sự tin cậy đối với khách hàng.
. Đơn giản hoá thủ tục cho vay.
Một khách hàng đi vay vốn ngại những thủ tục rườm rà nên thủ tục càng đơn giản thì càng tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại cho khách hàng, tránh cho khách hàng những khó khăn, phức tạp trong việc giải trình. Do đó, sẽ tạo được tâm lý thoải mái cho khách hàng ngay từ buổi đầu giao dịch làm cho khách hàng không ngần ngại khi đặt quan hệ vay vốn với ngân hàng. Mặt khác, đơn giản thủ tục cho vay sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng điều tra có trọng điểm và dễ dàng. Đồng thời phải bảo đảm giữ bí mật thông tin cho khách hàng, bỏ bớt các thủ tục không cần thiết, trùng lặp. Nhưng cũng phải bảo đảm đầy đủ những thủ tục cơ bản để có đầy đủ thông tin chính xác trong công tác thẩm định, giám sát cho vay.
II . Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
2.1 . Củng cố và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tín dụng.
Các ngân hàng phải thường xuyên tập huấn đào tạo nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt chú trọng về khả năng phân tích, thẩm đinh dự án, đánh giá kết quả kinh doanh và tình hình sử dụng vốn vay. Tổ chức các cuộc hội đàm, rút kinh nghiệm để phát huy năng lực của cán bộ tín dụng. Ngoài ra, người cán bộ ngân hàng phải am hiểu pháp luật, ngoại ngữ để phục vụ tốt công việc ngân hàng.
Đồng thời các ngân hàng cần củng cố và hoàn thiện tổ chức tín dụng từ TƯ tới địa phương để phân công mỗi cán bộ quản lý một số khách hàng, một số vốn vay nhất định phù hợp với năng lực, trình độ, kinh nghiệm của mỗi cán bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý. Cần phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm cũng như chế độ thưởng phạt cụ thể đối với cán bộ tín dụng, coi trọng đạo đức cán bộ ngân hàng. Điều này khuyến khích, động viên họ hăng say, tích cực lao động, mặt khác hạn chế tiêu cực, cửa quyền, lợi dụng chức quyền để vi phạm pháp luật.
2.2 - Đổi mới quy trình tín dụng, chú trọng công tác thẩm định.
Để hạn chế tối đa các yếu tố chủ quan và tiêu cực trong việc thẩm định, xét duyệt cho vay, kịp thời nắm bắt thông tin về khách hàng, dự án cho vay… các NHTM cần cải tiến, đổi mới quy trình thẩm định xét duyệt cho vay và kiểm tra giám sát tình hình luân chuyển vốn vay. Một số hồ sơ cho vay, trước khi đưa trình lãnh đạo ký duyệt cần phải kiểm tra xem xét, kiểm duyệt toàn diện và khách quan những thông tin xung quanh dự án đó. Do vậy, các cán bộ tín dụng nên tiếp cận doanh nghiệp, kiểm tra, theo dõi tình hình sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn để có biện pháp xử lý khó khăn. Trong các dự án thuộc lĩnh vực chuyên môn hẹp ngân hàng phải có các chuyên gia về lĩnh vực này để giúp công tác thâmở rộng định được đúng đắn chính xác và nhanh chóng. Có như vậy mới có thể thực hiện tốt quy trình tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng.
2.3 Lập phòng chuyên trách quản lý rủi ro tại ngân hàng.
Rủi ro là yếu tố luôn đe doạ hoạt động của ngân hàng nhất là hoạt động tín dụng. Đó là rủi ro về lãi suất, tỷ giá, khả năng thanh toán hay những rủi ro từ phía khách hàng, từ sự thay đổi chính sách của chính phủ… Vì vậy, biện pháp dự báo, phòng ngừa rủi ro là cần thiết, đảm bảo có hiệu quả cho hoạt động tín dụng. Hiện nay, các NHTM đã trích quỹ dự phòng rủi ro nhưng chưa có phòng ban chuyên trách về việc nghiên cứu dự báo rủi ro. Do vậy, muốn có thông tin, dự báo về rủi ro có thể xảy ra thì rất cần thành lập một phòng ban chuyên trách quản lý về rủi ro. Bộ phận có nhiệm vụ thu thập thông tin, phân tích và dự báo các rủi ro có thể xảy ra thường xuyên nắm bắt tình hình thị trường, tình hình hoạt động để đưa ra kết luận phục vụ cho công tác tín dụng của ngân hàng. Như vậy, sẽ giúp cho các cán bộ trong quá trình điều tra, thu thập thông tin, thẩm định dự án được nhanh chóng và chính xác.
2.4 . Biện pháp giải quyết đối với nợ quá hạn.
Hiện nay, nợ quá hạn của hệ thống NHTM là rất lớn, lên đến hàng ngàn tỷ đồng, trong đó có nhiều khoản không có khả năng trả nợ. Do vậy, các ngân hàng phải căn cứ tình hình cụ thể để có biện pháp xử lý kịp thời :
Trước nhất, nếu tình hình khách hàng còn có khả năng duy trì, phát triển kinh doanh và thái độ trách nhiệm trả nợ của khách không chần chừ thì ngân hàng nên xem xét để có thể giúp đỡ doanh nghiệp thu hồi các khoản nợ, tăng thêm vốn, cố vấn cho khách hàng hoặc cũng có thể thêm vật thế chấp, bảo lãnh chứ không nên “giết con nợ, đẩy con nợ tới chỗ phá sản”.
Ngược lại, trong trường hợp nhận thấy khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời, gia hạn hợp đồng cho vay là mạo hiểm thì ngân hàng phải xử lý các tài sản xiết nợ. Đó là việc tiến hành đánh giá giá trị tài sản để thanh lý thu hồi vốn cho vay của ngân hàng hoặc có biện pháp khai thác hợp lý đối với tài sản không bán được ngay như cho thuê, làm văn phòng. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của các công ty thuê mua đầu tư để khai thác có hiệu quả tài sản trên.
III . Những kiến nghị với phía Nhà nước và các cơ quan hữu quan.
Ngoài những giải pháp của ngân hàng và khách hàng đề nghị, Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ giúp đỡ các ngân hàng hoạt động có hiệu quả:
Một là, Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý, môi trường hoạt động cho các NHTM và các doanh nghiệp nên xem xét lại một cách toàn diện mối quan hệ luật ngân hàng, luật doanh nghiệp…trước khi cụ thể hoá các văn bản hướng dẫn thực thi luật ngân hàng, trên cơ sở đó có quy định phù hợp, thống nhất tạo hành lang pháp luật thuận lợi cho các NHTM hoạt động trong khuôn khổ luật pháp quy định, tránh tình trạng có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn như hiện nay.
Hai là, phải có sự phối hợp giữa các ban ngành có chức năng, tạo điều kiện giúp các ngân hàng thực hiện tốt các công tác thẩm định dự án cho vay và xử lý tài sản thế chấp, thu hồi các khoản nợ quá hạn (do các cơ quan chu quản đứng ra bảo lãnh) tạo nguồn vốn phục vụ đổi mới nền kinh tế. Đồng thời, các cấp các ngành đánh giá đúng vai trò của ngành ngân hàng, tăng cường các biện pháp quản lý các hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp theo đúng chức năng, quy mô vốn, trình độ quản lý, thực hiện công tác kiểm toán nhằm xác lập sự lành mạnh của doanh nghiệp.
Ba là, có chính sách khuyến khích đối với hệ thống ngân hàng trong nước về thuế, vốn điều lệ, để về lâu dài đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nước ngoài và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ thống NHTM quốc doanh đối với nền kinh tế.
Bốn là, không nên hình sự hoá hoạt động ngân hàng, những cá nhân, cán bộ ngân hàng tham nhũng, tiêu cực cần xử lý thích đáng, nghiêm minh theo pháp luật. Nhưng đối với các rủi ro trong kinh doanh thì các ngành chức năng cần tạo điều kiện cho ngân hàng thu hồi nợ, xử lý tài sản xiết nợ.
Năm là, Nhà nước cần tổ chức sắp xếp lại các DNNN, chỉ để lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, rà soát lại tình hình vốn của doanh nghiệp, tăng quy mô vốn điều lệ. Cần giải thể những doanh nghiệp đến nay không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn, thúc đẩy cổ phần hoá các DNNN để tăng thêm năng lực lãnh đạo và trách nhiệm với doanh nghiệp.
Sáu là, Cần nhanh chóng hoàn thiện và phát triển hơn nữa thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Bởi thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn nhanh chóng và có hiệu quả nhất, nhưng thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn quá yếu và thiếu hàng hoá nên chưa phát huy tốt chức năng và vai trò của mình.
Bẩy là, thành lập và hoàn thiện cơ chế hoạt động và bảo hiểm của các cơ quan hoạt động tín dụng; ở nước ta hiện nay chưa có công ty bảo hiểm tín dụng tiền cho vay, do vậy phải xúc tiến thành lập, tăng cường hoạt động của loại công ty này để góp phần hạn chế thiệt hại khi ngân hàng cho vay gặp rủi ro, hạn chế rủi ro phá sản ngân hàng.
Tám là, tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô: chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, quản lý ngoại hối, chính sách điều hành tỷ giá… để ổn định nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động có hiệu quả đáp ứng được nguồn vốn lớn cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Chín là, nhanh chóng tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng, cơ cấu lại các NHTM quốc doanh và các NHTM cổ phần. Củng cố khuôn khổ pháp luật và quy chế giám sát, tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng, thúc đẩy nhanh việc hành lập các công ty quản lý tài sản (ACM), tái cấp vốn định kỳ cho các NHTMQD để đảm bảo vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đồng thời xúc tiến thành lập cơ quan quản lý tài sản, các công ty kinh doanh nợ và bất động sản, mở rộng thị trường bất động sản.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam, ta thấy sự đi lên đúng hướng của các ngân hàng trong công cuộc đổi mới của đất nước theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hoạt động tín dụng góp phần cung ứng vốn, giúp doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc thiết bị cũng như nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời trên cơ sở đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững.
Trong quá trình hoạt động, các Ngân hàng thương mại đã có rất nhiều thành tựu, nhưng nó cũng không tránh khỏi một số hạn chế nhất định về chất lượng tín dụng đã làm giảm hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Để vững bước đi lên hơn nữa nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của Nhà nước đòi hỏi ngân hàng phải có những nỗ lực rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn phải là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó, cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành có liên quan để tạo ra một hành lang vững chắc cho ngân hàng phát huy hiệu quả.
Qua bài viết này, tôi mong muốn đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình vào viêc mở rộng và hoàn thiện tín dụng của các NHTM để ngân hàng ngày càng phát triển, phục vụ tốt cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S . Mishkin
Ngân hàng thương mại – Edward Ư . Reed and Edward K . Grill
Tiền tệ tín dụng ngân hàng - Lê Văn Tư
Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng – Học viện ngân hàng
Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
Tạp chí Kinh tế phát triển
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp mở rộng & nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.doc