Đề tài Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam (VN), hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước.Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, bắt đầu từ sự sụp đổ của chương trình cho vay thứ cấp của một số ngân hàng, kéo theo hàng loạt các ngân hàng khác. Điển hình là Ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ sau 158 năm tồn tại, Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm, America Internationnal Group (viết tắt là AIG) tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan đến nợ cầm cố. Hậu quả là ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế thế giới [11]. Sau khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới – Word Trade Oganization (viết tắt là WTO), Việt Nam đã và đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, thì việc bị ảnh hưởng là điều tất yếu. Hội nhập quốc tế đã đưa Việt Nam đến gần với thế giới hơn và ngày càng có chỗ đứng trên trường quốc tế, nền kinh tế của Việt Nam đã có được sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực nhưng bên cạnh đó cũng đem đến nhiều khó khăn và thách thức cho nền kinh tế nước ta. Chính quá trình đó đã gây áp lực đối với các doanh nghiệp cần phải củng cố tiềm lực, tìm kiếm một chỗ đứng vững chắc trên thương trường để chuẩn bị bước vào một cuộc cạnh tranh mới [12], đặt ra cho các doanh nghiệp VN, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt cơ hội đòi hỏi các NHTMVN phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển phù hợp với xu thế trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia và doanh nghiệp.[11] Sau nhiều năm cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Nhu cầu về nguồn vốn luôn luôn là một yếu tố hết sức cần thiết và quyết định cho sự phát triển hay thụt lùi của các doanh nghiệp nói chung hay các Ngân hàng thương mại nói riêng. Vốn chính là tiềm lực tài chính, là yếu tố căn bản đảm bảo khả năng hoạt động và khả năng thanh khoản của các Ngân hàng. Do đó, việc sử dụng nguồn vốn bằng phương thức cho vay hay cấp tín dụng một cách có hiệu quả là vấn đề rất quan trọng đối với các Ngân hàng. Thêm vào đó, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng trên thị trường cung cấp vốn đang ngày càng quyết liệt. Vì thế để có thể đứng vững và phát triển trước xu hướng cạnh tranh gay gắt như hiện nay đòi hỏi các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á nói riêng phải luôn đổi mới, tìm ra các giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng theo tiêu chí chất lượng cao, vững chắc, an toàn và hiệu quả trên cơ sở các nội dung chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009. Quyết định số 342/QĐ- NHNN của Thống đốc NHNN về việc ban hành kế hoạch hành động của NHNN Việt Nam đề triển khai thực hiện các giải pháp tiền tệ, tín dụng và ngân hàng theo Nghị quyết số 01/QĐ-CP ngày 09/01/22009, Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008, Nghị quyết 30a/2008/QĐ-CP ngày 27/12/2008, Quyết định số 167/2008/QĐ-TT ngày 12/12/2008. Công văn số 9776/NHNN-CSTT ngày 03/11/2008 về thực hiện một số biện pháp về tín dụng và lãi suất.[16] Từ nhận định trên, em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” để làm nội dung cho báo cáo nghiên cứu khoa học của mình

doc85 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2344 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hàng cải thiện và có các biện pháp khắc phục để hiệu quả hoạt động kinh doanh được nâng cao đạt được như kế hoạch đã đề ra. 2.3.4. Tình hình nợ quá hạn tại Chi nhánh: Tình hình nợ quá hạn tại Chi nhánh trong hai năm 2007 – 2008 như sau: Bảng 2.6. Tình hình nợ quá hạn của Chi nhánh năm 2007 – 2008 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Giá trị Tỷ trọng Nợ nhóm 2 252,753 398,569 145,816 57,69% Nợ nhóm 3 89,878 56,536 -33,341 -37,10% Nợ nhóm 4 94,662 402,365 307,703 325,05% Nợ nhóm 5 0 0 ( Nguồn: Phòng QHKH, Ngân hàng Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh)[1] Biểu đồ 2.7. Tình hình nợ xấu tại Chi nhánh năm 2007 - 2008 ( Nguồn: Phòng QHKH, Ngân hàng Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh)[1] Qua bảng số liệu trên ta thấy nợ quá hạn thuộc nhóm 2 của chi nhánh trong năm 2007 là gần 253 triệu đồng, sang năm 2008 nợ xấu là gần 399 triệu đồng, tức là tăng khoảng 57,69% tương đương với gần 146 triệu đồng. Trong khi đó, nợ xấu thuộc nhóm 3 chiếm tỷ trọng ít hơn, năm 2007 nợ nhóm 3 là khoảng 90 triệu đồng, sang năm 2008 lại giảm xuống chỉ còn khoảng 57 triệu, tức là giảm khoảng 37,10% tương đương với 33 triệu đồng. Đáng chú ý nhất là nợ xấu thuộc nhóm 4, năm 2007 nhóm nợ này là khoảng 95 triệu nhưng sang năm 2008 đã tăng vọt lên khoảng 402 triệu đồng, tăng 325,05% tương đương với 308 triệu đồng. Trong khi đó không có trường hợp nợ quá hạn nào thuộc vào nhóm 5. Trong hai năm vừa qua Ngân hàng đã rất cố gắng trong công tác xử lý, thu hồi các khoản nợ xấu, giao trách nhiệm thu hồi nợ xấu đến từng cán bộ tín dụng, chỉ đạo cán bộ tín dụng luôn bám sát khách hàng, bám sát địa bàn do mình quản lý để sớm phát hiện kịp thời cũng như kiên quyết xử lý, thu hồi nợ, phối hợp với các tổ chức trên địa bàn vận động khách hàng trả nợ, cố gắng không để nợ tồn đọng quá lâu ảnh hưởng đến chất lượng và uy tín của Ngân hàng. Tuy nhiên trong năm 2008, do tình hình kinh tế trong nước có nhiều sự thay đổi do bị ảnh hưởng theo sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp giảm sút, lợi nhuận ít, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của Ngân hàng nhất là thành phần nợ nhóm 4 tăng lên hơn nhiều so với năm trước. Theo NHNN thì nguyên nhân của việc nợ xấu tăng cao là do chủ trương thắt chặt tín dụng chống lạm phát, các ngân hàng đã cắt giảm hạn mức tín dụng. Đồng thời lãi suất tín dụng tăng cao, tình hình vay vốn của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn dẫn tới chi phí giá thành sản phẩm cao, lợi nhuận giảm, kèm theo đó là năng lực tài chính suy giảm, vốn luân chuyển chậm, không thực hiện đúng kế hoạch trả nợ ngân hàng dẫn tới nợ quá hạn tăng đột biến. Các doanh nghiệp khó khăn về tài chính đều gặp phải trở ngại trong việc thanh toán tiền hàng, việc thu tiền bán hàng chậm, doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn dẫn đến các ngân hàng phải điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ và chuyển nợ quá hạn vào các nhóm nợ thích hợp. Một số tổ chức tín dụng cho vay chưa khảo sát kỹ khách hàng, phương án khả thi, cho vay vốn sai mục đích, khách hàng kinh doanh không hiệu quả, có nguy cơ phá sản, ngân hàng khó thu hồi hoặc không thể thu hồi được vốn và lãi vay. Do đó, để giảm bớt khả năng phát sinh nợ quá hạn thì ngoài việc ngân hàng tiến hành thẩm định đúng và đầy đủ các thủ tục trước khi cấp tín dụng còn phải kiểm soát chặt chẽ khách hàng trong quá trình sử dụng vốn, quản lý tốt công tác thu nợ. Tất cả các công việc này cần được thực hiện chặt chẽ trong suốt thời gian vay vốn của khách hàng. [12] 2.4. NHẬN XÉT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI Á – CHI NHÁNH QUANG VINH. 2.4.1. Những mặt tích cực: - Trong năm 2008, nền kinh tế trong nước bị ảnh hưởng do nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, các nhân tố về giá cả thị trường như chỉ số giá tiêu dùng CPI, giá vàng,…liên tục thay đổi song nhờ chủ động có nhiều hình thức huy động vốn kết hợp với công tác tuyên truyền, tiếp thị, quảng cáo và công tác chăm sóc sóc khách hàng tốt nên nguồn vốn huy động tại chỗ của Ngân hàng vẫn tăng trưởng qua các năm, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn. - Đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngoài các dịch vụ hiện có, Ngân hàng sẽ có xu hướng phát triển mở rộng và áp dụng trong thời gian tới. - Ngân hàng đã tích cực đầu tư tín dụng tập trung mở rộng thị phần vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Kiên quyết xử lý các trường hợp nợ xấu, ngăn ngừa nợ xấu phát sinh mới và tích cực đốc thu các nợ đang có. - Ý thức chấp hành kỷ cương được củng cố nâng cao, đoàn kết nội bộ, luôn có ý thức học tập nâng cao nghiệp vụ, chất lượng hiệu quả công việc, cùng nhau bàn bạc, tháo gỡ khó khăn, quyết tâm thực hiện mục tiêu của kế hoạch thường niên đề ra. 2.4.2. Những mặt hạn chế còn tồn tại trong hoạt động của Ngân hàng: Qua kết quả thực tế hoạt động kinh doanh năm 2008, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế cần rút ra bài học kinh nghiệm sau: - Một là, về công tác phát triển mạng lưới, Ngân hàng chưa xây dựng tiêu chí phát triển các điểm giao dịch từ Chi nhánh cho tới Phòng giao dịch từ đó làm chậm tiến độ khai trương hoạt động, ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của Ngân hàng. Đồng thời chưa chủ động tạo nguồn nhân lực phục vụ cho việc phát triển mạng lưới, nhất là các cấp quản lý. - Hai là, chưa thành lập được các phòng chuyên trách như: phòng đầu tư, phòng kinh doanh tiền tệ,…từ đó các công việc còn trùng lắp thiếu tính chuyên nghiệp, làm hạn chế đến kết quả hoạt động kinh doanh. - Ba là, còn thụ động trong việc nghiên cứu, phân tích thị trường, dự báo, phân tích đối với những chuyển biến trên thị trường còn hạn chế, từ đó việc ban hành chính sách còn chậm trễ, dẫn đến các hoạt động của Ngân hàng bị động trước những thay đổi của thị trường, nhất là công tác huy động và cho vay. - Bốn là, công tác tiếp thị, PR cho hình ảnh, thương hiệu của Đại Á chưa được đẩy mạnh và còn nhiều hạn chế. - Năm là, do Chi Nhánh không nằm trên địa bàn gần các Khu Công nghiệp nên việc huy động nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế, các doanh nghiêp, công ty vẫn còn nhiều hạn chế. - Sáu là, do Ngân hàng là Chi Nhánh trực thuộc NH TMCP Đại Á nên mọi cơ chế điều hành đều do NH TMCP Đại Á quyết định, nên đôi khi Chi Nhánh vẫn còn bị động trong hoạt động kinh doanh. - Bảy là, cán bộ chủ chốt, tác nghiệp ở ngân hàng phần lớn còn trẻ nên thiếu kinh nghiệm thực tế, thiếu ổn định. Năng lực dự báo, đánh giá, phân tích và xử lý hoạt động còn nhiều yếu kém, chủ quan, thiếu tầm nhìn chiến lược. TÓM TẮT CHƯƠNG 2 Trên cơ sở những lý luận chung về tín dụng Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ở chương 1, tác giả đã tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh ở chương 2 với các nội dung chính sau đây: đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai năm 2008, quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh, thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh. Từ đó tác giả đưa ra những nhận xét chung về hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh. Qua việc phân tích “thực trạng hoạt động tín dụng tại NH Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh” đó cho thấy bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn hạn chế tồn tại trong hoạt động tín dụng tại đơn vị. Vì thế để tạo chỗ đứng quan trọng trên thương trường và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh cần đưa ra những giải pháp và chính sách phù hợp, bên cạnh đó tham khảo những kinh nghiệm của các đơn vị có hoạt động tín dụng tương tự, nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại đơn vị . Sau đây là chương 3 sẽ đưa ra các “giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NH TMCP Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh” CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẠI Á – CN QUANG VINH. 3.1. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA: 3.1.1. Đảng và Nhà nước: Năm 2008, khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu gây nhiều khó khăn thách thức cho nền kinh tế nước ta, tuy nhiên chúng ta vẫn có thể khai thác không ít những thuận lợi, cơ hội cho phát triển. Bước sang năm 2009, để thực hiên nghiêm túc, toàn diện và có hiệu quả các mục tiêu và nhiệm vụ mà Quốc hội đã đề ra, Chính phủ đã tập trung thảo luận và chỉ đạo năm nhóm giải pháp, trong đó giải pháp thứ tư là: “Thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài chính tích cực, hiệu quả” Trong điều kiện sản xuất kinh doanh bị suy giảm, đình trệ, thu nhập sụt giảm thì cạnh tranh về giá là yếu tố quan trọng để giữ vững và mở rộng thị trường. Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, áp dụng nhiều chính sách miễn giảm, hoãn thời gian nộp thuế, hướng vào các doanh nghiệp sản xuất, sử dụng nhiều lao động, tạo ra nhiều việc làm; hỗ trợ lãi suất và thực hiện bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm lãi suất thỏa thuận đối với những dự án đầu tư, kinh doanh có hiệu quả.[10] NHNN Việt Nam vừa ban hành Kế hoạch hành động để triển khai giải pháp về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng theo chỉ đạo của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Một trong những nhóm giải pháp hàng đầu mà NHNN đã khẳng định trong bản kế hoạch này là mở rộng tín dụng và áp dụng lãi suất hợp lý.[11] Kế hoạch hành động Ngân hàng Nhà nước được xây dựng trên cơ sở các nội dung chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009.[16] Theo Kế hoạch hành động này, Thống đốc yêu cầu các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả 9 nhóm giải pháp, trong đó, giải pháp đầu tiên là “Mở rộng tín dụng có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, áp dụng lãi suất hợp lý, xử lý các vướng mắc về trả nợ vay và tiếp cận tín dụng ngân hàng của tổ chức, cá nhân”. Đây là giải pháp đúng đắn và cấp bách lúc này. Triển khai thực hiện nhóm giải pháp trên, NHNN đang khẩn trương rà soát, đề xuất việc sửa đổi các cơ chế cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh toán, ủy thác và các cơ chế cấp tín dụng khác để tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.[16] 3.1.2. Mục tiêu phát triển của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á: - Tiếp tục đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. - Tổ chức lại cơ chế điều hành trên cơ sở phân cấp, phân quyền, phân nhiệm vụ giữa các khối chức năng từ Hội sở đến Chi nhánh. - Đẩy mạnh tăng cường các mặt hoạt động, chú trọng hướng tới các sản phẩm dịch vụ mang tính ngân hàng điện tử. - Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tăng vốn điều lệ theo đúng lộ trình của Nhà Nước quy định. - Toàn Ngân hàng phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu cơ bản trong năm 2009 như sau: + Tổng tài sản: 11.000 tỷ đồng đạt khoảng 319% so với năm 2008 + Vốn huy động: 8.000 tỷ đồng đạt khoảng 388 % so với năm 2008 + Dư nợ tín dụng: 7.000 tỷ đồng đạt khoảng 326% so với năm 2008 + Lợi nhuận trước thuế: 260 tỷ đồng đạt khoảng 379% so với năm 2008 + Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ: dưới 2% + Phát triển mạng lưới: tối thiểu 25 điểm giao dịch + Số lượng thẻ ATM phát hành: tối thiểu 80.000 thẻ.[1] 3.1.3. Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh: - Đa dạng hóa hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro, tìm kiếm cơ hội đầu tư mới, tạo ra những sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường đặc biệt đối với đối tượng khách hàng chiến lược là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Tăng cường tiếp thị và chủ động đầu tư tín dụng vào các dự án có hiệu quả, các khách hàng có năng lực tài chính. Chú ý mở rộng đối tượng khách hàng ở các Khu công nghiệp. - Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đảm bảo an toàn vốn cho vay đồng thời xử lý các khoản nợ còn tồn đọng. - Mở rộng thêm mạng lưới phòng giao dịch. - Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn với lãi suất linh hoạt và kết hợp với công tác tuyên truyền, quảng cáo thương hiệu. - Xây dựng Chi nhánh Quang Vinh - Đại Á Ngân hàng trở thành một Ngân hàng hiện đại đáp ứng được toàn diện các nhu cầu về sản phẩm - dịch vụ, hỗ trợ tốt nhất cho khách hàng khi đến giao dịch tại Ngân hàng. Quản lý có hiệu quả và phát triển bền vững, quyết tâm giữ vững thành tích “ Huân chương Lao động hạng III” do Chủ Tịch nước trao tặng. [1] 3.2. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI Á – CHI NHÁNH QUANG VINH. 3.2.1. Đối với giải pháp mở rộng quy mô tín dụng: Tăng cường công tác huy động vốn Để hoạt động cho vay tốt đòi hỏi ngân hàng phải có nguồn vốn đủ mạnh. Nhưng nếu chỉ dựa vào vốn tự có thì chắc chắn sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu vốn vay ngày càng tăng của các thành phần kinh tế, còn nếu vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác thì lãi suất sẽ cao và không như mong muốn, do vậy chỉ có vốn huy động là yếu tố rất cần thiết đối với các Ngân hàng. Nếu Ngân hàng tổ chức thực hiện tốt công tác huy động vốn không những mở rộng được công tác cho vay, tăng thêm vốn đầu tư cho nền kinh tế mà còn mang đến cho Ngân hàng ngày càng nhiều lợi nhuận. Để tăng cường công tác huy động vốn cần thực hiện các biện pháp như: - Về lãi suất: lãi suất huy động và cho vay cần phải linh hoạt, có nghĩa là tuỳ theo từng thời kỳ, thời điểm nhất định mà đưa ra lãi suất huy động và cho vay cho phù hợp. Để thu hút được lượng tiền gửi trong dân cư thì lãi suất phải đủ hấp dẫn, tuy nhiên cần chú ý không nên để tình trạng chênh lệch quá lớn với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Thường xuyên theo dõi biến động lãi suất để đề ra các mức lãi suất tiết kiệm cho phù hợp với biến động của thị trường nhằm thu hút các tầng lớp dân cư có nguồn tiền nhàn rỗi lớn, có nguồn tiền gửi ổn định. - Không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu tiện ích ngày càng cao của khách hàng; cung cấp cho họ những phương tiện thanh toán thuận lợi, nhanh, an toàn và chính xác; hoàn thiện hệ thống mạng vi tính để phục vụ nhu cầu rút và gởi tiền ở bất cứ chi nhánh, phòng giao dịch nào. - Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn để thu hút khách hàng đến gởi tiền. Phát triển các dịch vụ mới như: phát hành thẻ thanh toán, trang bị máy rút tiền tự động Automatic Teller Machine ( viết tắt là ATM) …Đẩy mạnh các tính năng của thẻ “ Chìa khóa đa năng” , tận dụng các nguồn lực từ sự liên kết các liên minh trong thẻ trong nước và các tập đoàn thẻ quốc tế. Hướng tới triển khai các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng điện tử. - Cần nâng cao cơ sở vật chất cho ngân hàng: một điều kiện người gửi tiền cân nhắc để quyết định gởi tiền ở đâu cho an toàn, đó là cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của ngân hàng vì thế ngân hàng cần tăng cường nâng cấp trang thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất cần khang trang, hiện đại để tạo niềm tin, sự thoái mái cho khách hàng khi đến giao dịch đồng thời có đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. - Trụ sở làm việc phải ở vị trí thuận lợi, thuận tiện cho việc đi lại của khách hàng. Mở rộng địa bàn, mạng lưới, đối tượng hoạt động kinh doanh Ngân hàng cần khảo sát xây dựng thêm các phòng giao dịch ở các huyện, các địa bàn có tiềm lực phát triển công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, khu vực dân cư để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quan hệ giao dịch. Khi phát triển mạng lưới hoạt động, các ngân hàng phải đảm bảo điều kiện mở, tính toán kỹ hiệu quả hoạt động và khả năng quản lý khi mở rộng mạng lưới phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm. Mở rộng mạng lưới thu và chi tiền tại nhà, chi trả lương công ty, xí nghiệp, chuyển tiền nhanh theo yêu cầu của khách hàng để vận động thu hút tiền gửi. Mở rộng thêm đối tượng tham gia các dịch vụ của Ngân hàng như sinh viên, giới công chức bằng các hình thức như: mở tài khoản thanh toán, tài khoản tiền gửi… Đẩy mạnh công tác tiếp thị, Marketing tìm kiếm khách hàng: Thực tế là khi các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn sẽ tự động tìm đến Ngân hàng để xin vay, đây là điều tất yếu. Tuy nhiên, để thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng thêm nhiều đối tượng vay vốn thì công tác tiếp thị, marketing là một yếu tố rất cần thiết. Đó là một chiến lược kinh doanh phối hợp với những kỹ năng giao tiếp để đạt được hai mục đích là lợi nhuận của Ngân hàng và sự hài lòng của khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng cần xây dựng một chiến lược phát triển sản phẩm dịch vụ mới, có chiến lược marketing phù hợp thông qua các kênh quảng cáo cụ thể: - Muốn đẩy mạnh phát triển tín dụng thì vấn đề chính yếu là phải có khách hàng và thu hút được khách hàng. Việc này đòi hỏi nhân viên chuyên trách Ngân hàng nghiên cứu nền kinh tế của tỉnh, chuyên sâu vào các xí nghiệp, công ty, khu sản xuất, cá nhân sản xuất,…. để nắm bắt được các thành phần có nhu cầu mở rộng, cải tiến, phát triển doanh nghiệp mình. Từ đó cung ứng tín dụng, tạo điều kiện cho các tổ chức phát triển đồng thời đầu tư vào các nghành, các dự án có tính khả thi cao. Khi nắm bắt được tình hình điều kiện kinh tế của các tổ chức có nhu cầu từ đó Ngân hàng có yêu cầu hỗ trợ. Ngoài ra, Ngân hàng nên liên kết, tham mưu cho cấp uỷ chính quyền vừa nắm bắt chủ trương, định hướng, vừa phối hợp giúp tỉnh kêu gọi vốn liên doanh, liên kết cùng nhau hỗ trợ cho các công trình lớn, dự án lớn cần nhiều vốn. - Tăng cường hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm dịch vụ ngân hàng để tạo điều kiện cho khách hàng làm quen và nhận thức được tiện ích của các sản phẩm cung cấp. Công khai các thông tin tài chính để người dân tiếp cận, nắm bắt thông tin để hạn chế những rủi ro về thông tin. - Thực hiện tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị dưới nhiều hình thức như quảng cáo trên truyền thanh, truyền hình, báo, áp phích về các thể thức huy động vốn, các sản phẩm tín dụng tới mọi đối tượng khách hàng trong tỉnh. Phát triển mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng truyền thống, những đơn vị có lượng tiền nhàn rỗi, thanh toán lớn thông qua cải tiến và nâng cao hiệu quả công tác thanh toán hoặc có chính sách về ưu đãi phí dịch vụ, lãi suất tiền gửi, tiền vay đối với các đơn vị này, đồng thời phải mở rộng quan hệ với khách hàng mới nhằm huy động nguồn vốn từ các tổ chức này. Ngân hàng cần quan tâm hơn đáp ứng các tiện ích của khách hàng, đặc biệt là thái độ phục vụ, thanh toán nhanh chóng. Ngoài ra yếu tố tinh thần cũng cần được thường xuyên quan tâm như động viên, thăm hỏi và chú ý đến các ngày lễ, các dịch vụ khuyến mãi, tặng quà nhân dịp kỷ niệm, các ngày lễ, Tết… - Thường xuyên tổ chức các cuộc hội nghị khách hàng nhằm nắm bắt được những nhu cầu vốn, những định hướng trong tương lai để chi nhánh có kế hoạch kịp thời hoặc có những sản phẩm, dịch vụ đón đầu đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nền kinh tế hiện nay. Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng nhằm phân tán rủi ro Ngân hàng cần tránh tập trung đầu tư quá nhiều vốn vào một số khách hàng hoặc một ngành kinh tế nào đó mà phải phân tán cho nhiều ngành nghề, nhiều đối tượng khác nhau nhằm giảm thiểu rủi ro. Vì nếu khách hàng hoặc ngành kinh tế đó gặp rủi ro, khủng hoảng, không thu hồi được vốn thì Ngân hàng sẽ gặp những khó khăn rất lớn. Do đó, Ngân hàng cần phải thường xuyên nghiên cứu, đánh giá thị trường, thị phần và xu hướng biến động của từng ngành kinh tế Việt Nam để có thể định hướng cho vay phù hợp trong từng thời kỳ. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cung cấp trên thị trường theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phát triển các dịch vụ mới. Đối với các dịch vụ truyền thống (như dịch vụ tín dụng, dịch vụ thanh toán…) đây là yếu tố nền tảng không chỉ có ý nghĩa duy trì khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, mà còn tạo ra thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Vì vậy, NHTM cần phải duy trì và nâng cao chất lượng theo hướng: Hoàn thiện quá trình cung cấp dịch vụ, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đơn giản thủ tục làm cho dịch vụ dễ tiếp cận và hấp dẫn khách hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng gắn với tăng trưởng tín dụng; xoá bỏ những ưu đãi trong cơ chế tín dụng nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng; hoàn thiện cơ chế huy động tiết kiệm bằng VND và ngoại tệ với lãi suất phù hợp để huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong xã hội vào ngân hàng; nghiên cứu áp dụng cách phân loại nợ dựa trên cơ sở rủi ro và trích dự phòng rủi ro theo các chuẩn mực quốc tế để nâng cao uy tín của ngân hàng. Đơn giản hóa các thủ tục và giải quyết cho vay một cách nhanh chóng Sự phức tạp trong các thủ tục cho vay và việc phải mất thời gian chờ đợi được xét duyệt hồ sơ là những nguyên nhân khiến khách hàng phần nào e ngại khi quyết định đến Ngân hàng giao dịch tín dụng, do đó việc đơn giản hóa các thủ tục cho vay là một vấn đề cần thiết. Để hạn chế được điều này, Ngân hàng cần phải thực hiện các biện pháp sau: - Cán bộ tín dụng phải hướng dẫn rõ ràng và tận tình về tất cả các giấy tờ, thủ tục cần thiết để hoàn thành đầy đủ một bộ hồ sơ cho khách hàng nắm rõ. Tránh tối đa tình trạng khách hàng phải đi lại nhiều lần để bổ sung hồ sơ. Điều này gây cho khách hàng một tâm lý không thoải mái vì cảm thấy thủ tục vay quá rườm rà. - Việc giải ngân chỉ được tiến hành sau khi hồ sơ đã được đưa ra công chứng và hoàn tất các thủ tục đăng ký giao dịch đảm bảo. Điều này đã kéo dài thời gian giải quyết cho vay đặc biệt là đối với các trường hợp hồ sơ phải đăng ký giao dịch đảm bảo tại Sở tài nguyên môi trường. Vì vậy, để giảm bớt rắc rối cho khách hàng và rút ngắn thời gian giải quyết cho vay, Chi nhánh nên có một bộ phận về pháp lý hỗ trợ, chuyên thực hiện việc công chứng, chứng thực việc giao dịch đảm bảo cho khách hàng. Có chính sách ưu đãi về lãi suất Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, một chính sách về lãi suất cho tối ưu sẽ đóng vai trò quyết định hiệu quả hoạt động của Chi nhánh. Lãi suất tối ưu ở đây liên quan đến vấn đề xác định mức lãi suất cho vay thích hợp cho từng thời kỳ và từng nhóm khách hàng cụ thể: Trong năm 2009 này, các tổ chức, cá nhân vay vốn sản xuất kinh doanh sẽ được ngân hàng trừ 4% lãi vay. Đây là một phần trong kế hoạch kích cầu 1 tỷ USD vừa được Chính phủ phê duyệt nhằm hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh suy thoái đang lan rộng trên thế giới. Quyết định 131 về hỗ trợ lãi suất được Thủ tướng ký ban hành và có hiệu lực từ ngày 23/1, áp dụng cho các khoản vay bằng đồng Việt Nam có thời hạn tối đa 8 tháng. Mức lãi suất hỗ trợ khách hàng vay là 4%, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế, nằm trong khoảng thời gian từ 1/2 đến 31/12. Ngoại trừ 13 đối tượng không thuộc diện hỗ trợ lãi suất, tất cả các cá nhân, doanh nghiệp, hộ gia đình, hợp tác xã vay vốn lưu động để sản xuất kinh doanh đều được ngân hàng giảm lãi suất theo quyết định của Thủ tướng. Tham gia chương trình này là các thương mại quốc doanh, cổ phần, liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Ngay trong 10 ngày đầu tháng 2, các ngân hàng sẽ gửi giấy đăng ký và kế hoạch hỗ trợ lãi suất cho Ngân hàng Nhà nước và thực hiện ngay việc hỗ trợ lãi suất cho khách hàng. Khi thu lãi vay, các ngân hàng giảm trừ số tiền lãi phải trả cho khách hàng, không được từ chối giảm lãi suất nếu khoản vay thuộc đối tượng được hỗ trợ. Ngân hàng được hoàn trả số tiền lãi giảm trừ từ Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở báo cáo định kỳ hằng quý Trong chương trình kích cầu bằng lãi suất này, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là đối tượng được quan tâm nhiều nhất. Chính phủ kỳ vọng hỗ trợ giảm lãi suất sẽ giúp giảm giá thành sản phẩm hàng hóa, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm trong điều kiện nền kinh tế chịu tác động của khoảng hoảng tài chính và suy thoái trên thế giới. Nhưng cần phải xác định khoản vay và đối tượng được thụ hưởng phần lãi suất này, nếu không sẽ gia tăng nợ xấu. Theo Quyết định 131 ngày 23.1.2009 của Thủ tướng Chính phủ, đối tượng áp dụng hỗ trợ lãi suất là các khoản vay ngắn hạn ngân hàng bằng tiền đồng theo các hợp đồng tín dụng được ký và giải ngân trong năm 2009 của các tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình...), cá nhân để làm vốn lưu động sản xuất kinh doanh.... Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng đối với các hợp đồng vay được ký, giải ngân từ ngày 01/02 đến ngày 31/12/2009. Các ngành, lĩnh vực không thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất vay gồm: Khai thác mỏ; hoạt động tài chính; Quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng, Đảng, đoàn thể, bảo đảm xã hội bắt buộc; Giáo dục và đào tạo; Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội; Hoạt động văn hóa, thể thao; Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn (trừ đầu tư xây dựng nhà thu nhập thấp); Hoạt động phục vụ cá nhân và công cộng; Dịch vụ tại hộ gia đình; Hoạt động các tổ chức quốc tế; Nhập khẩu hàng tiêu dùng; Đầu tư và kinh doanh chứng khoán; Kinh doanh bất động sản dưới hình thức mua, bán quyền sử dụng đất. 3.2.2. Đối với giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng: Xây dựng đội ngũ nhân sự vững mạnh Con người là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực nói chung. Trong lĩnh vực Ngân hàng cũng vậy, cán bộ tín dụng chính là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đối với khối lượng và hiệu quả công tác tín dụng. Có được một đội ngũ nhân viên vững mạnh là mong ước của tất cả các nhà quản lý. Nhưng không phải nhà quản lý nào cũng nhanh chóng xây dựng được một đội ngũ vững mạnh cho riêng mình. Nhiệm vụ quan trọng là phải tạo được quan hệ vững chắc trong nhóm, đề ra được mục tiêu chung, thiết lập những quy trình làm việc rõ ràng, giao tiếp hiệu quả, ra quyết định đúng và cải thiện hiệu quả làm việc của nhóm. Tạo dựng được một đội ngũ nhân viên lớn mạnh, cùng nghĩ, cùng làm là một lợi ích rất lớn cho Ngân hàng. Khi đó, chúng ta sẽ tạo được ra một trí tuệ tập thể và một phong cách làm việc nhóm hiệu quả. Sự cộng hưởng ý tưởng khi mọi người cùng suy nghĩ mang lại giá trị lớn hơn nhiều việc chỉ đơn thuần chia sẻ công việc với nhà quản lý. Vì thế xây dựng một đội ngũ nhân sự vững mạnh là một vấn đề rất cấp bách đối với Ngân hàng Đại Á – CN Quang Vinh trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này, Ngân hàng cần làm những việc sau: - Các ngân hàng cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài, có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo cán bộ ngân hàng có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Có chính sách hợp lý và xây dựng môi trường văn hoá làm việc phù hợp để ổn định và khai thác được các ưu thế tối đa của nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có tính dài hạn thông qua hình thức đào tạo tại nước ngoài. Tham gia các chương trình đào tạo do các tổ chức quốc tế tổ chức tại Việt Nam, học tập kinh nghiệm quản lý điều hành thông qua các cổ đông nước ngoài. - Đào tạo mới và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại; tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ngân hàng gắn liền với thu nhập; tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ, có trình độ cao, có chính sách sử dụng và khuyến khích thoả đáng nguồn nhân lực có trình độ về làm việc tại các ngân hàng. - Phân công nhiệm vụ và trách nhiệm công việc một cách rõ ràng dựa trên khả năng và mong muốn của các nhân viên. Phân công và phát huy tối đa khả năng của các nhân viên thông qua việc xếp đúng người, đúng việc. - Các cán bộ tín dụng phải nắm vững mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, NHTW, các chính sách tín dụng, thành thạo các chuyên môn nghiệp vụ tín dụng. Cần có những kiến thức, hiểu biết tổng quát về các lĩnh vực, nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin về kinh tế thị trường, am hiểu về pháp luật để phục vụ tốt cho công tác tín dụng. - Có các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học hàng năm cho tất cả các cán bộ tín dụng, tổ chức các đợt thi nghiệp vụ để qua đó có chế độ khen thưởng, đề bạt kịp thời và chính xác nhằm khuyến khích các cán bộ tín dụng trau dồi nghiệp vụ, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn. Khen thưởng đối với những cán bộ có thành tích tốt trong công việc, xử phạt đối với các cán bộ không hoàn thành các chỉ tiêu được giao, gây thất thoát vốn của Ngân hàng. - Ngân hàng cần có những chính sách đãi ngộ tốt về tiền lương, chế độ khen thưởng...để giữ chân được những cán bộ tín dụng ưu tú, có năng lực, làm việc có hiệu quả, tránh tình trạng họ “nhảy việc” gây thất thoát về nhân sự. - Khuyến khích sự tương trợ lẫn nhau giữa các nhân viên để xúc tiến trong công việc một cách có hiệu quả, tăng sự đoàn kết nội bộ, tạo môi trường làm việc thoải mái giảm bớt áp lực công việc. - Đổi mới lại cung cách phục vụ phong cách giao tiếp, phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình để tranh thủ thiện cảm của khách hàng. Đây là biện pháp cũng không kém phần quan trọng để khách hàng luôn luôn gắn bó với Ngân hàng. - Chú trọng đến công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng, nêu cao tinh thần trách nhiệm với công việc, tránh những việc làm sai trái trong quan hệ với khách hàng. - Cán bộ tín dụng cần thường xuyên bám sát cơ sở, tiếp cận khách hàng để nắm vững kịp thời những biến động của khách hàng, từ đó có những phương thức xử lý phù hợp. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định Thẩm định là khâu quan trọng để giúp ngân hàng đưa ra các quyết định đầu tư một cách chuẩn xác, từ đó nâng cao được chất lượng của các khoản vay, hạn chế nợ quá hạn phát sinh, bảo đảm hiệu quả tín dụng vững chắc. Tùy thuộc vào điều kiện thực tế ở địa bàn, từng loại khách hàng và dự án, phương án mà khi thẩm định các dự án, phương án cụ thể, cán bộ tín dụng cần vận dụng, xem xét linh hoạt các quy định trong quy trình thẩm định nhưng phải tuân thủ đầy đủ và chặt chẽ các vấn đề thuộc về nguyên tắc; tránh thẩm định tuỳ tiện, sơ sài hoặc không chính xác, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thẩm định, tái thẩm định. Cụ thể: - Thường xuyên cập nhật các thông tin về kinh tế - kỹ thuật, các thông tin dự báo phát triển của các ngành, giá cả trên thị trường, tỷ suất lợi nhuận bình quân của một ngành, của các loại sản phẩm, v.v.... để phục vụ cho công tác thẩm định và ra quyết định cho vay. - Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thêm về nghiệp vụ và kinh nghiệm thẩm định, cho vay cho cán bộ tín dụng. - Nên có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng và hợp lý hơn: nên tách biệt bộ phận quan hệ, cho vay khách hàng với bộ phận quản lý rủi to tín dụng để phần nào hạn chế của việc quá tải của cán bộ, đồng thời cũng tạo điều kiện khách quan hơn trong công tác thẩm định - quyết định cho vay - thu hồi nợ.. - Quyết định cho vay theo hướng ngày càng mang tính chuyên nghiệp hóa cao. Tại Ngân hàng Đại Á đã xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng để xếp hạng đối với khách hàng. Kết quả xếp hạng sẽ được sử dụng để xác định giới hạn tín dụng cho cho khách hàng, xác định mức độ rủi ro để có mức trích lập dự phòng hợp lý. Ngoài ra, đối với các dự án lớn, phức tạp thì Ngân hàng Đại Á sẽ xem xét tập trung thông qua một hội đồng thẩm định (hội đồng tín dụng) gồm các cán bộ có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm thực tế để bảo đảm năng lực xem xét đánh giá tương đối chuẩn xác về các mặt nội dung của các dự án. - Trong công tác thẩm định cần chú trọng hơn nữa công tác thẩm định phi tài chính. Chúng ta hiểu rằng, ngay cả những bản nghiên cứu dự án được lập hoàn hảo nhất cũng không thể bảo đảm sự thành công cho dự án nếu không có được khả năng quản lý thành thạo của người chủ dự án. Sự khác biệt, một cách cơ bản, giữa thất bại và thành công của một dự án chính là kỹ năng quản lý của người chủ dự án trong việc hoạch định, thực hiện, kiểm soát và theo dõi mọi mặt của dự án. Do đó, chúng ta cần phải đánh giá một cách thích đáng và đưa ra nhận xét về khả năng quản lý, uy tín, tư cách, tính trung thực và ý thức trả nợ của bên vay, của người chủ dự án. Thực trạng hiện nay, đa số cán bộ tín dụng chỉ chú trọng thực hiện đúng qui trình tín dụng, thẩm định kỹ và có những nhận xét thích đáng về các báo cáo tài chính, tài sản bảo đảm rồi quyết định cho vay hay không cho vay. Điều này là cần thiết nhưng chưa đủ vì nếu chỉ như thế thì cán bộ tín dụng chỉ mới bảo vệ được con người khi có rủi ro xảy ra chứ chưa bảo vệ được tài sản cho ngân hàng. Do đó, vấn đề đánh giá, thẩm định về uy tín, năng lực quản lý của chủ dự án, thiện chí trả nợ của người vay là việc mà mỗi tổ chức tín dụng, mỗi ngân hàng, mỗi cán bộ tín dụng cần phải quan tâm nhiều hơn nữa. Thực hiện đầy đủ quy trình tín dụng Thực hiện đầy đủ quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế sai sót, hạn chế khả năng rủi ro và nâng cao chất lượng của từng khoản vay. Tại các NHTM trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, các quy trình tín dụng đã được ban hành tương đối chặt chẽ và cụ thể hoá theo từng loại tín dụng. Tuy nhiên cần phải chi tiết hơn với từng loại cho vay, từng loại khách hàng, cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết về hướng dẫn lập tờ trình, hướng dẫn phân tích bảng lưu chuyển tiền tệ, v.v.... đồng thời phải ngăn chặn việc làm sai, làm không đầy đủ,... gây hậu quả xấu. Trong quá trình thực hiện quy trình tính dụng nên chú ý các vấn đề sau: - Bám sát các cơ chế về tín dụng và những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng của Nhà nước, nên thường xuyên có sự kiểm tra lẫn nhau trong việc thực hiện quy trình tín dụng. - Nên có những quy định rõ nội dung của từng khâu công việc, trách nhiệm cụ thể của các cán bộ liên quan trong những khâu thẩm định, kiểm soát và xét duyệt cho vay. Tùy theo tình hình, đặc điểm hoạt động của mỗi ngân hàng mà việc phân cấp này phải bảo đảm tính hợp lý, linh hoạt trên cơ sở: Phù hợp với mạng lưới hoạt động, trình độ quản lý, quy mô và chất lượng tín dụng của mỗi ngân hàng; đặc điểm, tính chất phức tạp của từng loại khách hàng; bảo đảm cho vay nhanh, chính xác, phát huy tính chủ động cho mỗi cán bộ tín dụng. - Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, làm sai quy trình; nên tránh xu hướng buông lỏng các điều kiện tín dụng trong cạnh tranh để nhằm lôi kéo, thu hút khách hàng có thể dẫn tới không bảo đảm chất lượng tín dụng, tăng nguy cơ rủi ro. Thực hiện tốt công tác đảm bảo tín dụng - Bảo đảm tiền vay là cần thiết trong một hợp đồng tín dụng. Bảo đảm tiền vay sẽ làm giảm bớt tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng vì lý do nào đó không thanh toán được nợ cho ngân hàng, nó là động lực thúc đẩy khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên cán bộ tín dụng cần nên nhớ là bảo đảm tiền vay không thể thay thế cho khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Do đó đừng bao giờ chấp thuận một khoản vay mà lại mong đợi nguồn trả nợ cuối cùng là việc thanh lý bắt buộc một tài sản nào đó hay là trái quyền (quyền đòi tiền) đối với một bảo lãnh mà đã chấp nhận như một việc bảo đảm cho món vay. - Để thực hiện tốt vấn đề bảo đảm tiền vay, ngân hàng nên lựa chọn để áp dụng các hình thức bảo đảm thích hợp đối với từng loại cho vay, từng loại khách hàng và phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình dựa vào các văn bản pháp qui của ngân hàng cấp trên, của NHNN qui định. Có thể chú ý một số vấn đề sau: + Phân loại kỹ về khách hàng và loại tài sản bảo đảm để quy định mức bảo đảm, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng, vừa bảo đảm an toàn. Đối với khách hàng có tín nhiệm mới có thể xem xét cho vay không có bảo đảm, hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đối với tài sản, cần xem xét khả năng phát mại, xử lý, mức độ rủi ro,... để quy định mức cho vay tối đa. Khi tiến hành xếp hạng nhất thiết Nhân viên phải dựa vào: Tính cách, trách nhiệm và độ tin cậy của người đứng vay. Lịch sử nợ vay của người đi vay. Mức độ rủi ro nghành nghề kinh doanh mà khách hàng đang thực hiện. Những biến động trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Chất lượng của các chiến lược kinh doanh. Tài sản đảm bảo. Sau khi đánh giá như thế Nhân viên cần đánh giá thêm tính chất hợp pháp, giá trị tài sản thế chấp, cũng như người bảo lãnh,…những công việc này sẽ giúp hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động tín dụng. + Về thủ tục trong bảo đảm tiền vay: nên lập hợp đồng rõ ràng, đầy đủ, đồng thời phải xác định rõ về việc xử lý tài sản. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi ký kết hợp đồng bảo đảm, cần có sự tham gia đầy đủ, chính xác của các chủ sở hữu tài sản và những người thừa kế, đồng sở hữu tài sản. Tăng cường công tác phòng ngừa và xử lý nhanh chóng nợ quá hạn Nợ quá hạn là một vấn đề luôn làm các nhà quản lý Ngân hàng quan tâm. Bất cứ ngân hàng thương mại nào dù có quản lý tài chính chặt chẽ đến đâu thì vẫn không thể triệt tiêu hết nợ quá hạn, bởi vì nguy cơ rủi ro tiềm ẩn từ mọi nơi, mọi phía, mọi đối tượng khách hàng. Do đó quản lý hạn chế rủi ro là nhiệm vụ hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Bởi vì bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất sở hữu những khoản vay là thuộc quyền sở hữu của những người gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy, nếu một khoản vay nào bị thất thoát không thu hồi được thì ngân hàng sẽ phải sử dụng nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Để làm tốt công tác này cần có những chính sách cụ thể như: - Ngân hàng thường xuyên có chính sách gửi cán bộ, nhân viên đi đào tạo huấn luyện để nâng cao thêm trình độ chuyên môn cho họ. Nhằm hạn chế đến mức tối đa những sai phạm của cán bộ, nhân viên trong hoạt động của mình cũng như phân tích đánh giá sai khách hàng. Làm việc này, cán bộ nhân viên chi nhánh sẽ nâng cao được hiệu quả trong phân tích, đánh giá đúng đắn đối tượng khách hàng trước, trong và sau khi vay vốn. Từ đó hiệu quả cấp tín dụng được nâng cao, khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả nên hoàn trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và giảm được nợ quá hạn. - Cán bộ tín dụng cần phối hợp với phòng kế toán nhiều hơn để theo dõi tình hình trả nợ và lãi của khách hàng đồng thời nắm được nợ đến hạn của khách hàng mà thông báo đôn đốc khách hàng trả nợ. - Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng từ khi vay đến khi thu được nợ, không để xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng từ đó ngân hàng mới nắm được những khó khăn mà khách hàng đang gặp phải để biện pháp tư vấn hỗ trợ giúp khách hàng vượt qua khó khăn. Thông qua việc theo dõi quá trình sử dụng vốn của khách hàng, ngân hàng có thể nắm được tình hình tài chính của khách hàng, nếu thấy khách hàng có dấu hiệu không an toàn vốn vay như sản xuất kinh doanh không ổn định, thua lỗ, hàng hoá ứ đọng khó tiêu thụ, vay nợ ngân hàng nhiều hay vay nhiều ngân hàng thì ngân hàng cần rút từng phần hoặc toàn bộ dư nợ đối với khách hàng này. - Đi đôi với việc tăng cường doanh số cho vay là công tác thu nợ, ngân hàng muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có sự nổ lực của cán bộ tín dụng trong việc phân loại khách hàng, củng cố khách hàng truyền thống có uy tín đối với ngân hàng, tích cực thông báo đôn đốc thu nợ đến hạn và quá hạn của khách hàng. Đối với những khách hàng không thanh toán được nợ cho ngân hàng vì nguyên nhân bất khả kháng nhưng vẫn còn khả năng sản xuất hay phương án kinh doanh có hiệu quả để khắc phục thì cán bộ tín dụng nên đề nghị xem xét cho gia hạn nợ hoặc có thể cho vay vốn tiếp để tăng cường sức mạnh tài chính cho khách hàng để họ khôi phục sản xuất và ngân hàng phải giám sát chặt chẽ những khách hàng này cho đến khi thu hồi được nợ. Nếu thấy không có khả năng thu hồi nợ thì sẽ tiến hành thủ tục khởi kiện để phát mãi tài sản thế chấp để thu nợ giúp ngân hàng bảo toàn nguồn vốn hoạt động. 3.3. KIẾN NGHỊ: Qua gần 04 tháng thực tập tại Ngân hàng TMCP Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh, tôi luôn nhận thấy sự tất bật làm việc nhiệt tình, tận tụy trong công việc của toàn thể nhân viên ngân hàng. Trong thời gian tới, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính, là nghiệp vụ chủ yếu mang lại thu nhập cho hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng TMCP Đại Á nói riêng. Do đó công tác nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro càng phải được thắt chặt hơn nữa trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để các giải pháp được thực thi một cách có hiệu quả, tôi có một số kiến nghị như sau: 3.3.1. Đối với Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan: Nhà nước cần bảo đảm môi trường kinh tế ổn định - Nhanh chóng hoàn chỉnh và ổn định chính sách vĩ mô góp phần làm thông thoáng nền kinh tế tạo cơ sở cho sự ổn định và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. - Tiếp tục lộ trình sắp xếp, cải cách mạnh mẽ lại các DNNN để có thể phân loại, đánh giá chính xác về năng lực quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp. - Cơ chế, chính sách của Nhà nước phải được đổi mới theo hướng cho phép các tổ chức tín dụng áp dụng các thông lệ quốc tế trong việc xác định trước và trích lập dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro hiện được trích theo nợ “trong hạn” và “quá hạn” là không hợp lý mà cần phải được tính toán theo mức độ rủi ro của khoản vay. - Cần tổ chức thiết lập hệ thống các tiêu chuẩn để đánh giá về hiệu quả kinh tế của các ngành kinh tế, tạo cơ sở thuận lợi cho ngân hàng thẩm định, đánh giá khách hàng, chu trình đầu tư,.... một cách thích đáng. - Các ngành chức năng cần tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng thu hồi nợ, nếu có xảy ra tranh chấp thì sử dụng luật dân sự, không nên hình sự hoá các quan hệ tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng là hành lang pháp lý cao nhất buộc các tổ chức tín dụng phải tuân thủ, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức tín dụng theo đúng pháp luật. Nhà nước cần có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với các doanh nghiệp Trong hoạt động tín dụng, thông tin về khách hàng là một căn cứ quan trọng đối với các quyết định mà Ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo an toàn vốn vay. Thực trạng hiện nay trong hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rắc rối ở khâu báo cáo tài chính. Thông thường, doanh nghiệp nhỏ và vừa có hai hệ thống báo cáo tài chính riêng biệt. Một là báo cáo thuế và một là báo cáo tình hình sản xuất thực tế của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này thường làm báo cáo tài chính thấp hơn tình hình sản xuất thực tế với mục đích được giãm hoặc để trốn thuế. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đa số xuất thân nhỏ từ hộ gia đình phát triển lên, do đó sổ sách không chuẩn. Hoặc khi làm hồ sơ để vay vốn, doanh nghiệp cố tình “khai khống” số liệu nhiều hơn doanh số của doanh nghiệp mình có với hy vọng sẽ được các tổ chức tín dụng dễ dàng thông qua để được vay vốn. Hiện nay trong rất nhiều hồ sơ tham gia vay vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa thì chỉ có rất ít bộ hồ sơ là đáp ứng được yêu cầu. Đây cũng là vướng mắc chung của doanh nghiệp, của các tổ chức tín dụng và của các quỹ bảo lãnh trong quá trình thẩm định giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn. Trước thực trạng này, đứng trên góc độ của Ngân hàng thì họ cũng là một doanh nghiệp. Do đó, họ không thể dễ dàng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa muốn vay thế nào cũng được. Tình trạng không chấp hành đúng chế độ kế toán, một phần là do Pháp lệnh kế toán chưa đầy đủ hiệu lực, một phần là do hệ thống kế toán - kiểm toán của nước ta còn mỏng và yếu, chưa phát triển, chưa có những biện pháp kinh tế và hành chính xử lý các vi phạm một cách thích đáng. Do đó, trước tiên các doanh nghiệp cần phải minh bạch trong vấn đề tài chính thì các Ngân hàng, quỹ bảo lãnh mới có thể xem xét để giúp doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn hỗ trợ. Thứ hai, trước khi cho vay Ngân hàng cần phải thẩm định rõ ràng, theo Quỹ Bão lãnh tín dụng các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì tờ khai thuế của tất cả các doanh nghiệp đều được đưa lên sổ bộ quốc gia. Do đó, khi thẩm định hồ sơ vay vốn các tổ chức tín dụng và các quỹ bảo lãnh sẽ đối chiếu tờ khai thuế này với các số liệu mà doanh nghiệp cung cấp. Nếu số liệu không khớp với số bộ chứng tỏ doanh nghiệp đó đã khai gian thuế. Thứ ba, Bộ tài chính cùng các ban ngành chức năng phải phối hợp với nhau trong hoạt động công tác thanh tra, kiểm soát các doanh nghiệp để hướng họ thực hiện theo các Pháp lệnh về kế toán thống kê một cách trung thực và đầy đủ.[11] 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý - Hoàn thiện môi trường pháp luật theo hướng minh bạch, thông thoáng, ổn định đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho các chủ thể tham gia thị trường hoạt động có hiệu quả. Chỉnh sửa kịp thời những bất cập trong các văn bản hiện hành. Tiếp tục xây dựng những văn bản pháp luật điều chỉnh các dịch vụ mới như: bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, bao thanh toán… theo chuẩn mực quốc tế. - NHNN cần rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao. - Xây dựng hành lang pháp lý vững chắc trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tránh trường hợp ban hành một chính sách mới để sữa đổi, bổ sung vào chính sách cũ sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc thích ứng dẫn đến thiệt hại là điều khó tránh khỏi. Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Thông tin tín dụng là một nhân tố rất quan trọng trong quản lý tín dụng, nhờ có những thông tin chính xác mà Ngân hàng mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn và kịp thời liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tài sản vay. Vì vậy trung tâm này cần phải hoạt động thường xuyên và cập nhật nhiều thông tin hơn nữa để Ngân hàng có thể nắm bắt thông tin nhanh chóng và kịp thời hơn từ đó tránh được rủi ro cho Ngân hàng. 3.3.3. Đối với Ngân hàng TMCP Đại Á - Ngân hàng nên tổ chức, củng cố lại bộ phận phòng tín dụng theo hướng dần dần chuyên môn hóa bộ phận tiếp xúc khách hàng và bộ phận quản lý khoản vay, nhằm tăng cường quản trị rủi ro tín dụng trong khi phải phát triển tín dụng; thực hiện việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng. - Tổ chức xét phân loại khách hàng; xác định hạn mức tín dụng cho từng khách hàng; chọn lựa giao dịch với khách hàng có uy tín, kinh doanh có hiệu quả. - Tăng thu dịch vụ: nâng cao trình độ, năng lực nhận thức của cán bộ về nghiệp vụ, công nghệ và kỹ năng chăm sóc khách hàng. - Tích cực thu hồi nợ tồn đọng làm giảm bớt áp lực tăng thu, bù chi. - Đa dạng hóa danh mục đầu tư, đa dạng hóa khách hàng. Không tập trung cho vay một loại khách hàng, một ngành hàng mà cần mở rộng đối tượng khách hàng, mở rộng đối tượng cho vay, mở rộng cho vay tiêu dùng, đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho vay phát triển kinh tế tư nhân, cho vay nông nghiệp, nông thôn.... - Hợp tác và cạnh tranh hợp pháp là một điều khoản quan trọng trong luật các tổ chức tín dụng mà các NHTM phải quan tâm, phối hợp thực hiện với các hình thức đồng tài trợ nhằm tăng năng lực thẩm định, tăng khả năng cung ứng vốn, tăng khả năng giám sát vốn vay và có thể phân tán được rủi ro khi có mất mát xảy ra. TÓM TẮT CHƯƠNG 3 Trên cơ sở lý luận chung về tín dụng Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh, tác giả đã đưa ra những mục tiêu và định hướng phát triển tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh, bên cạnh đó là những kiến nghị để các giải pháp đưa ra được thực thi một cách có hiệu quả. Qua các “giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh” đó tác giả đã giải quyết được những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á – Chi nhánh Quang Vinh. -----—&–----- Q ua phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh Quang Vinh - Đại Á Ngân hàng cho thấy hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng rất cao trong hoạt động của ngân hàng. Nó đã góp phần vào việc cung cấp nguồn vốn, bổ sung cũng như hỗ trợ vốn cho dân cư, các đơn vị kinh tế, đồng thời nó cũng tác động tích cực đến việc khai thác thế mạnh tiềm năng trong tỉnh, thúc đẩy khả năng phát triển kinh tế, đưa kinh tế địa phương phát triển theo xu hướng chung của cả nước. Trong năm 2008 vừa qua nền kinh tế trên thế giới bị khủng hoảng, nước ta cũng bị ảnh hưởng, thêm vào đó là sự đồng thời xuất hiện nhiều Ngân hàng thương mại và các quỹ tín dụng trên cùng địa bàn đã đặt ngân hàng vào thế phải cạnh tranh gay gắt. Bên cạnh những doanh nghiệp thành đạt vẫn còn nhiều doanh nghiệp làm ăn chưa hiệu quả điều này đã gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thẩm định phân tích cho vay cũng như mở rộng tín dụng của ngân hàng. Nhưng nhìn chung dư nợ vẫn tăng trưởng khá qua từng năm. Việc thực hiện chính sách tín dụng có chọn lọc trong những năm qua nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của Ngân hàng. Ngân hàng phân loại đối tượng đầu tư, có sự sàng lọc khách hàng loại dần những khách hàng yếu kém về tài chính từ đó mà Ngân hàng đã đầu tư vốn đúng đối tượng, các đơn vị vay vốn sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả nên có khả năng trả nợ và lãi kịp thời ít có nợ quá hạn. Từ những thành quả đã đạt được làm cho lợi nhuận của Ngân hàng luôn đạt ở mức cao và cũng có tăng trưởng. Điều này cho thấy hiệu quả hoạt động của Ngân hàng mà đặc biệt là hoạt động cấp tín dụng ngày càng tiến triển tốt đẹp mặc dù gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh những mặt tích cực của nghiệp vụ tín dụng mang lại, Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến công tác huy động vốn nhằm tạo nên sự cân đối giữa đầu vào và đầu ra để có thể chủ động hơn về nguồn vốn trong việc cấp tín dụng của ngân hàng, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa công tác thu nợ giảm thiểu nợ quá hạn. Có được kết quả này là nhờ sự nổ lực rất lớn của toàn thể cán bộ công nhân viên và sự lãnh đạo chặt chẽ của Ban Giám đốc Chi nhánh Quang Vinh – NH Đại Á trong quá trình thực hiện chức năng của mình, và đang ngày càng tạo được chỗ đứng trong hệ thống Ngân hàng đại Á nói riêng và toàn hệ thống Ngân hàng nói chung. --------------------------------------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.DOC
Luận văn liên quan