LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải quan tâm tới vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong đó xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, làm cân bằng cán cân thương mại, tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế giới. Việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO lại càng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung, tăng trưởng cho kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng. Song, nền kinh tế sau hội nhập cũng đang phải gồng mình lên trước khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ chính các nước mà ta đã nghĩ rằng sẽ đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, mà sự tác động trực tiếp là đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Bong bong bất động sản có nguyên nhân sâu xa từ tín dụng dưới chuẩn tràn lan đã nổ như báo hiệu sự xuất hiện của khủng hoảng tại nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới – Hoa Kỳ. Khủng hoảng tài chính càng làm cho suy thoái kinh tế đã xuất hiện lại càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Biểu hiện mạnh mẽ của suy thoái và khủng hoảng ở các nước phát triển không cần phải đề cập đến nhiều vì đã quá rõ và đó cũng là nguyên nhân khiến cho các nền kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi bắt đầu cảm thấy sức nóng của mình. Sự ảnh hưởng lớn nhất có thể dễ dàng nhận ra đó là sự tụt dốc của ngành xuất khẩu ở các nước. Trung Quốc – quốc gia có tăng trưởng kinh tế nóng nhất thế giới có lẽ là ví dụ nổi bật nhất, hiện đang đối mặt với khó khăn trong xuất khẩu khi mới chỉ mấy tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu đã giảm 20% so với cùng kỳ năm 2008. Việt Nam cũng không nằm ngoài danh sách các nước gặp khó khăn trong vấn đề này. Các con số thống kê những tháng đầu năm 2009 quả là đáng lo ngại. Các Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang lâm vào tình cảnh khó khăn khi có quá nhiều rủi ro chờ đón phía trước. Nhu cầu tiêu dùng của người dân các nước phát triển đều giảm đi đáng kể ngay cả với hàng hóa trong nước cũng như hàng hóa nhập khẩu. Trong khi các nước đang suy thoái đó lại chiếm phần lớn trong “chiếc bánh” Xuất khẩu của Việt Nam. Chưa cần nhắc đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nước xuất khẩu với nhau thì tình hình khó khăn của các thị trường tiêu thụ cũng đủ khiến cho tình hình của các Doanh nghiệp xuất khẩu không mấy sáng sủa. Kinh tế khó khăn, đầu tư giảm sút, nhu cầu về nguyên nhiên liệu giảm cũng làm cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dầu thô khốn đốn.
Như vậy, với các rủi ro tiềm ẩn vốn có, nguồn vốn đối với ngành Xuất khẩu chưa bao giờ là đủ, thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế hiện nay khiến cho các Doanh nghiệp xuất khẩu càng điêu đứng, khó khăn. Cũng như đã đề cập đến, Xuất khẩu là một ngành quan trọng trong quá trình hội nhập thương mại toàn cầu hiện nay, nên cũng như các nước khác, chính sách tín dụng Xuất khẩu là một chính sách đang được Chính phủ quan tâm thực hiện.
May mắn được thực tập ở Ngân hàng Phát triển Việt Nam, em đã được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin cũng như các hoạt động liên quan chặt chẽ đến tình hình hỗ trợ của Chính phủ cho ngành xuất khẩu nước nhà. Từ những băn khoăn của mình về tình hình của ngành xuất khẩu Việt Nam như đã nhắc đến ở trên, em đã nghiên cứu và thực hiện chuyên đề thực tập của mình về đề tài:“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam”.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề này được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc nghiên cứu tìm hiểu và học hỏi để hoàn thành chuyên đề, nhưng chắc chắn em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô, ban lãnh đạo và các anh chị trong Ban tín dụng Xuất khẩu, Ngân hàng Phát triển Việt Nam để chuyên đề được thành công hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
99 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2649 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại ngân hàng phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất khẩu là thế mạnh, mặt khác hỗ trợ các ngành công nghệ mũi nhọn để tạo động lực kinh tế, góp phần điều chỉnh dần cơ cấu xuất khẩu phù hợp với điều kiện, tiềm năng và lợi thế của đất nước trên từng vùng, từng khu vực, đảm bảo không chệch khỏi xu hướng phát triển chung của nền kinh tế nước nhà. Trong giai đoạn vừa qua, NHPTVN đã có những hỗ trợ to lớn với các DN xuất khẩu trong khâu phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới thiết bị công nghê, nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi phí đầu vào và nâng cao khả năng cạnh tranh của họ. Một số lĩnh vực được NHPTVN đặc biệt quan tâm là những lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh như gạo, cà phê, thủy sản, đồ thủ công mỹ nghệ…
Hoạt động CVXK của NHPTVN cũng đạt được những thành công đáng kể với mức tăng trưởng doanh số và dư nợ tốt, cộng với công tác quản trị rủi ro có hiệu quả. Bằng chứng là dư nợ quá hạn và lãi treo đều ở mức có thể kiểm soát được là những chỉ tiêu có thể giúp đánh giá chất lượng các khoản CVXK đang ở tình trạng tốt.
Những hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng CVXK tại NHPTVN
Hiệu quả hoạt động tín dụng xuất khẩu ngắn hạn mặc dù khá tốt song vẫn còn nhiều dự án đến nay phát sinh nợ quá hạn và lãi treo. Mặc dù doanh số cho vay tăng cao nhưng tổng doanh số cho vay xuất khẩu ngắn hạn ở mức thấp so với tổng số cho vay đầu tư phát triển, điều này xuất phát từ thực tế khách quan là tỉ lệ dự án đầu tư vào xuất khẩu tăng nhưng quy mô dự án nhỏ. Mức vốn cho vay đối với từng dự án ở mức thấp (trung bình khoảng 2 tỉ đồng/dự án), điều này cho thấy việc cho vay đầu tư đối với các dự án xuất khẩu còn dàn trải, nhiều dự án được vay vốn nhưng ở mức thấp nên hiệu quả của việc cho vay chưa cao, chưa cho vay được các dự án đầu tư sản xuất trong khu công nghệ cao có mặt hàng công nghệ cao được nhà nước khuyến khích xuất khẩu.
Số lượng doanh nghiệp xuất khẩu được tiếp cận và hưởng ưu đãi từ tín dụng xuất khẩu của Nhà nước là không nhiều trên tổng số doanh nghiệp thuộc đối tượng vay vốn. Doanh số cho vay mặc dù tăng trưởng tốt song phân bố lại không đồng đều giữa các loại hình doanh nghiệp.
Lúng túng và thiếu kinh nghiệm trong xử lý nợ xấu: Nợ quá hạn TDXK tính đến 30/11/2008 không giảm so với với thời điểm cuối năm 2007. Trong số đó vẫn có một tỷ lệ nợ quá hạn kéo dài trên 2 năm khó thu, chưa tìm được biện pháp xử lý triệt để. Điều này thể hiện NHPTVN còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm trong xử lý khỏan nợ xấu.
Thời gian thẩm định xem xét cho vay dài, thủ tục hoàn bộ chứng từ hàng xuất khá rườm rà đặc biệt đối với phương thức cho vay từng lần nên chưa đáp ứng được tính cấp thiết của vốn vay phục vụ cho các thương vụ để chớp thời cơ kinh doanh.
Cơ chế lãi suất của NHPTVN còn cứng nhắc do vẫn phải thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính (hiện tại theo điều chỉnh mới nhất là không thấp hơn 10,8%/năm). Vì vậy, khi Bộ Tài chính chưa điều chỉnh kịp thời theo diễn biến thị trường khiến lãi suất NHPTVN thường xuyên ở mức cao hơn so với NHTM (đây là điều chưa bao giờ xẩy ra). Do vậy, về lâu dài nếu không điều chỉnh cơ chế lãi suất linh hoạt đồng thời các dịch vụ đi kèm với sản phẩm cho vay không được thực hiện tốt, phục vụ khách hàng không nhanh chóng, chuyên nghiệp thì NHPTVN đứng trước nguy cơ giảm lượng khách hàng vay vốn, đặc biệt là các khách hàng có chất lượng tín dụng tốt chuyển sang NHTM. Còn đối với những DN NV&V kinh doanh những mặt hàng có mức lợi nhuận/doanh thu mỏng, trong khi hệ thống đánh giá doanh nghiệp, thông tin trợ giúp cho nhà xuất khẩu chưa thực sự đi vào vận hành một cách có hệ thống thì NHPTVN sẽ đối mặt với rủi ro tín dụng XK lớn hơn.
Danh số cho vay tập trung quá lớn vào một số ngành hàng nhất định nên độ rủi ro khá cao và chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của Khách hàng:
Doanh số cho vay năm 2008 của NHPT có sự tăng trưởng mạnh so với năm 2007, tuy nhiên, mặc dù được ưu tiên chú trọng, vai trò tài trợ của NHPT trong những lĩnh vực trọng yếu như xuất khẩu cá tra cá basa, hỗ trợ DNV&VN... tỏ ra chưa thực sự đậm nét, chưa theo kịp nhu cầu bức xúc của các doanh nghiệp trên thực tế (chỉ đáp ứng khoảng 15% nhu cầu của thị trường). Áp lực huy động vốn cho vay TDXK trong năm 2008 là rất lớn, dẫn đến có giai đoạn NHPTVN hạn chế đẩy mạnh cho vay. Trong giai đoạn khó khăn nhất về huy động vốn NHPTVN đã phải thực hiện nhiều biện pháp linh hoạt tận dụng nguồn ngắn hạn, có thời điểm phải dùng nguồn dài hạn bổ sung cho ngắn hạn... nhưng những giải pháp này chỉ mang tính tình thế, và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Các hình thức tín dụng xuất khẩu còn đơn giản, chủ yếu là cho vay nhà xuất khẩu, chưa triển khai được nghiệp vụ cho nhà nhập khẩu vay và các hình thức bảo lãnh hay các hình thức tài trợ gián tiếp như bảo hiểm xuất khẩu theo thông lệ quốc tế. Thêm vào đó sản phẩm cho vay chưa đa dạng, việc cung cấp các dịch vụ đi kèm như thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, chuyển đổi ngoại tệ... chưa được thực hiện, doanh nghiệp phải sử dụng các dịch vụ này tại các NHTM. Hiện NHPTVN chủ yếu triển khai cho vay bằng đồng Việt Nam (việc cho vay bằng ngoại tệ mới triển khai tại Sở Giao dịch I và Quảng Ninh) nên các doanh nghiệp có nhu cầu nhập nguyên liệu chế biến và sản xuất hàng xuất phải gánh tăng chi phí và rủi ro tỉ giá khi thực hiện mua nguyên liệu nhập khẩu và khi trả nợ vì phải quy đổi các đồng tiền thu về sang VNĐ.
Công tác dự báo trong dài hạn chưa thực sự hiệu quả cao, dẫn đến trong một số trường hợp NHPT ở thế bị động trước diễn biến bất thường của thị trường.
Chương 3:GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Định hướng cho hoạt động CVXK tại NHPTVN
Chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2010,
những cơ hội và thách thức.
Quá trình phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn vừa qua và định hướng trong tương lai yêu cầu phải đổi mới hoạt động hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu nói chung và tín dụng tài trợ xuất khẩu nói riêng xuất phát từ những lý do sau:
- Nhu cầu nội tại của nền kinh tế trong nước, dự kiến tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân 17,5%, sẽ có khoảng 500.000 DN được thành lập trên phạm vi cả nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của DN, hoạt động xuất khẩu sẽ diễn ra với quy mô, hình thức và tốc độ lớn hơn. Từ đó, nhu cầu của DN được bảo vệ trước các rủi ro trong giao dịch xuất khẩu sẽ càng lớn hơn, vì vậy cần phải có sự đổi mới về cơ chế tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
- Nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu rộng hơn với kinh tế quốc tế, Sau hơn 10 năm kể từ khi bắt đầu tiến trình đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã được là thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 07/11/2006. Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc phải tuân thủ những luật chơi đã được vạch ra.
- Việt Nam đã cam kết cắt bỏ hàng loạt những hàng rào bảo hộ được thiết lập trong giai đoạn trước đây, nhiều hạng mục thuế quan đã được cắt bỏ và cam kết cắt bỏ theo lộ trình gia nhập WTO. Chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, hỗ trợ tài chính được đánh giá là không phù hợp với quy định quốc tế cũng đang được nghiên cứu để cắt bỏ dần.
- Đối với lĩnh vực ngân hàng, việc mở cửa tiếp cận với thị trường tài chính quốc tế, các Ngân hàng có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản trị, điều hành, phát triển các sản phẩm - dịch vụ mới và kỹ năng kinh doanh, nhất là về các hoạt động nghiệp vụ mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc ít có kinh nghiệm như: kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, các ngân hàng trong nước có điều kiện thuận lợi để tăng vốn, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng với sự tham gia của các đối tác chiến lược là các ngân hàng có danh tiếng trên thế giới. Song yêu cầu các Ngân hàng phải cải tiến quy trình quản trị phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, tăng tính minh bạch và việc cải thiện môi trường làm việc và văn hóa kinh doanh.
- Trong lĩnh vực xuất khẩu, nhiều chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam như thưởng xuất khẩu, trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu hay Quy chế hỗ trợ xuất khẩu 133 đã được thay thế.
- Kết hợp cả yêu cầu trong hai lĩnh vực trên, Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đã được điều chỉnh theo hướng phù hợp với quy định của WTO, theo đó điểm quan trọng nhất là việc lãi suất cho vay được nâng lên phù hợp với lãi suất thị trường; về đối tượng vay vốn trên thực tế không chịu tác động của việc gia nhập WTO nếu như lãi suất đã phù hợp với lãi suất thị trường. Như vậy, trên thực tế hoạt động TDXK của NHPTVN sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO chịu tác động chủ yếu bởi quy định tại Nghị định về tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và các tác động gián tiếp khác từ nền kinh tế nói chung.
Với những cơ hội cũng như khó khăn, thách thức khi tham gia vào nền kinh tế thế giới, cũng như tình trạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, Nhà nước vẫn chủ trương phát triển xuất khẩu với những chiến lược phát triển cụ thể như sau:
- Mục tiêu tổng quát của hoạt động xuất khẩu của nước ta trong giai đoạn 2006-2010 là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, trước hết là cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô.
- Các quan điểm chủ đạo về phát triển xuất khẩu trong giai đoạn 2006-2010 cần được thực hiện để đạt được mục tiêu trên: Tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động. Gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước, vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa quan tâm mở rộng thị trường xuất khẩu. Giữ vững các thị trường lớn, trọng điểm đồng thời đa dạng hoá hơn nữa thị trường xuất khẩu để tránh lệ thuộc, rủi ro trong xuất khẩu. Gắn thị trường xuất khẩu với thị trường nhập khẩu, thông qua đó giảm nhập siêu. Khuyến khích, tạo điều kiện khai thác tối đa tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong hoạt động xuất – nhập khẩu nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp.
- Các chỉ tiêu phát triển xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006-2010
+ Về quy mô và tốc độ tăng trưởng: dự kiến tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân là 17,5% và đạt trên 72,5 tỉ USD vào năm 2010. Trong giai đoạn này, hai khâu trọng tâm để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu là tập trung vào nhóm hàng công nghiệp để mở rộng sản xuất, khai thác thêm những mặt hàng mới, thị trường mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông sản.
+ Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu: Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỉ trọng hàng thô.
+ Về dịch vụ xuất khẩu: Với tiềm năng và thế mạnh phát triển, lĩnh vực dịch vụ được xác định là một trong những lĩnh vực xuất khẩu mũi nhọn nhằm mục tiêu đổi mới cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và góp phần tăng tốc xuất khẩu trong thời kỳ hội nhập. Một số ngành dịch vụ mới và coi đây là những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong thời gian tới, như ngành dịch vụ gia công phầm mềm, các dịch vụ phục vụ hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, các dịch vụ phục vụ hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài là một trong những lĩnh vực xuất khẩu trọng tâm của giai đoạn này.
+ Về cơ cấu thị trường xuất khẩu: Dự kiến khu vực Châu Á giảm dần tỉ trọng từ 48,8% năm 2006 xuống còn 45,5% năm 2010 song vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam, đến năm 2010 đạt khoảng 33 tỉ USD với những mặt hàng trọng tâm là hàng tiêu dùng, gạo, thực phẩm, nông sản chế biến và một số loại sản phẩm điệ, điện tử; Hàng hoá sang thị trường Châu Âu tăng nhẹ tỉ trọng từ 18,2% lến 20%, đến năm 2010 đạt khoảng 15,9 tỉ USD với những mặt hàng nông thuỷ sản chế biến, hàng công nghiệp nhẹ, sản phẩm thủ công mỹ nghệ vào EU, thị trường Nga và Đông Âu cần được đẩy mạnh và khai thác và đưa vào những mặt hàng cao su, cà phê, thực phẩm, rau quả, hoá mỹ phẩm, dệt may, giày dép; Xuất khẩu vào thị trường Châu mỹ tăng dần từ 21,5% lên 24%, đến năm 2010 đạt kim ngạch khoảng 16,7 tỉ USD với những mặt hàng như dệt may, giày dép, thuỷ sản, đồ gỗ, máy móc thiết bị, điện tử, hạt điều, cao su, đồ gốm sứ,vali, túi sách, mũ nón; Châu Phi tăng từ 2,2% lên 2,8%, kim ngạch đến năm 2010 đạt khoảng 2,8 tỉ USD với các mặt hàng thuỷ sản, đồ gỗ, hàng cơ khí, máy móc động cơ điện, hoá mỹ phẩm, cà phê, hạt tiêu; Châu Đại Dương đến năm 2010 đạt kim ngạch khoảng 5,6 tỉ USD, các mặt hàng tập trung khai thác là dệt may, giày dép, thuỷ sản, xe đạp, đồ nội thất, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, cà phê, hạt điều.
- Chiến lược xuất khẩu của nước ta trong giai đoạn này là hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, với nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của từng khu vực thị trường, đây cũng là định hướng phát triển cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này các DN đứng trước nhiều thách thức lớn khi hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh với các nước khác càng gay gắt, vừa phải giữ được thị trường trong nước vừa phải vươn ra thị trường quốc tế. Để làm được điều này Chính phủ cũng cần có những chính sách tài trợ xuất khẩu thích hợp, trong đó một chính sách đầu tư thoả đáng không chỉ làm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng nâng cao năng suất, chất lượng và hạn giá thành sản phẩm xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, DN và hàng hoá - dịch vụ Việt Nam. Nhà nước sẽ tập trung cho những khâu đòi hỏi vốn lớn có tác dụng cho nhiều DN như xây dựng hạ tầng, kho bãi, bến cảng, thành lập trung tâm thương mại và kho ngoại quan ở nước ngoài..., những khâu còn lại Nhà nước chỉ ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích DN, cá nhân chủ động đầu tư sản xuất kinh doanh, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp vốn, sử dụng các biện pháp gián tiếp như thuế, chính sách tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm, thúc đẩy xúc tiến thương mại...
3.1.2 Định hướng cho hoạt động CVXK tại NHPTVN
* Nhận định về những thách thức của năm 2009-2010 đối với công tác tín dụng xuất khẩu:
- Suy thoái kinh tế không loại trừ các ngân hàng quốc tế uy tín, nhiều ngân hàng thua lỗ nặng nề thậm chí phải đối mặt với nguy cơ phá sản (một số ngân hàng lớn của Mỹ đã phá sản trong năm 2008: Washington Mutual, Lehman Brothers ...). Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến các DN nhập khẩu nước ngoài, làm gia tăng nguy cơ đối với các DN xuất khẩu Việt Nam đồng thời tăng độ rủi ro đối với hoạt động tín dụng xuất khẩu của NHPTVN.
- Năng lực dự báo thị trường của các DN xuất khẩu cũng như của các Bộ ngành còn rất hạn chế. Thêm vào đó tập quán kinh doanh “chộp giật” của nhiều DN tiếp tục cản trở sự phát triển của xuất khẩu Việt Nam.
- Xuất khẩu sẽ khó khăn hơn dẫn đến cạnh tranh giữa các NHTM trong lĩnh vực xuất khẩu cũng gay gắt hơn;
- Một số cơ chế tín dụng xuất khẩu hiện hành chưa thực sự linh hoạt như chính sách lãi suất... làm giảm tính chủ động của NHPTVN khi đối phó với các diễn biến thị trường.
* Nhận định về những cơ hội của năm 2009-2010 đối với công tác tín dụng xuất khẩu:
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (cũng như mặt hàng chủ yếu vay vốn tín dụng xuất khẩu tại NHPTVN) là các mặt hàng thiết yếu như nông sản, khủng hoảng kinh tế có thể khiến nhu cầu đối với các mặt hàng này suy giảm nhưng không thực sự nghiêm trọng.
- Nguy cơ thiểu phát cũng có thể được xem xét trên khía cạnh tích cực, đó là giá cả đầu vào giảm, DN xuất khẩu vẫn có khả năng thu lợi nhuận mặc dù mặt bằng chung xuất khẩu giảm, đây là một động lực kích thích hoạt động xuất khẩu.
- Mở rộng thị trường để phân tán rủi ro và tìm cơ hội tăng trưởng xuất khẩu. Hiện nay thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật, châu Âu... Trong năm 2009 -2010, những thị trường ít chịu tác động của cuộc khủng hoảng như châu Phi, Nam Mỹ, Trung Đông... có thể là cơ hội cho hàng xuất khẩu Việt Nam.
* Định hướng lâu dài đối với công tác TDXK
Về định hướng lâu dài, trở thành một tổ chức tài trợ xuất khẩu chính thức mang tính chuyên nghiệp, NHPTVN phải theo hướng thích nghi với các quy định của quốc tế về lĩnh vực tín dụng xuất khẩu, đồng thời đảm bảo được tính chất hỗ trợ cho các DN trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có tính chiến lược để thực hiện các mục tiêu của Chính phủ trong phát triển kinh tế, cụ thể là:
- Phải phù hợp với chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành và các cam kết quốc tế, trong đó có việc tuân thủ các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng, không phân biệt thành phần kinh tế.
- Đối tượng vay vốn Tín dụng xuất khẩu của Nhà nước cần phải được rà soát chặt chẽ, phù hợp với khả năng nguồn lực và chiến lược dài hạn của đất nước trong từng giai đoạn đồng thời nâng cao tính ổn định của đối tượng.
- Khắc phục những tồn tại trong quá trình thực hiện thời gian qua, cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ và dịch vụ ngân hàng hiện đại vào hoạt động Tín dụng xuất khẩu, tăng cường kiểm soát tín dụng và rủi ro tín dụng, cán bộ phải được tuyển chọn kỹ, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, năng lực và được đào tạo bài bản, nâng cao khả năng làm việc và phục vụ khách hàng của các cán bộ nghiệp vụ theo hướng chuyên nghiệp.
- Tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm của các tổ chức tài trợ xuất khẩu chính thức, tiến tới đa dạng các hình thức Tín dụng xuất khẩu, tuy nhiên phải căn cứ tình hình thực tế, nhu cầu của DN và điều kiện thực hiện để có các bước triển khai phù hợp và khả thi song tựu chung ngoài hình thức tín dụng người bán phát triển thêm tín dụng người mua; Bảo lãnh xuất khẩu (bao gồm bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,v.v..) và Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
3.2 Giải pháp hoàn thiện chất lượng CVXK tại NHPTVN
Việc thành lập NHPTVN trên cơ sở kế thừa và khắc phục một số nhược điểm của Quỹ HTPT đã tạo tiền đề quan trọng để thực hiện các giải pháp phát triển tín dụng xuất khẩu và CVXK. Qua những đánh giá thực trạng hoạt động CVXK tại NHPTVN tại Chương II của chuyên đề cho thấy: việc phát triển CVXK tại NHPTVN là hết sức cần thiết song không thể thực hiện trong một sớm một chiều, mà cần phải có những bước đi thích hợp, trong từng thời kỳ theo phương châm vừa học vừa làm, trên cơ sở tận dụng kiến thức, kinh nghiệm và cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có.
Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đã được điều chỉnh theo hướng phù hợp với quy định của WTO, theo đó điểm quan trọng nhất là việc lãi suất cho vay được nâng lên phù hợp với lãi suất thị trường. Điều này sẽ làm giảm đáng kể sức hấp dẫn của tín dụng xuất khẩu cũng như CVXK, nếu không cải tiến các điều kiện, thủ tục vay vốn cho dễ dàng và linh hoạt hơn, phong cách phục vụ cũng cần nhanh chóng và chuyên nghiệp trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc hỗ trợ đúng đối tượng, tuân thủ các quy trình thực hiện và an toàn tín dụng.
3.2.1 Nâng cao chất lương thẩm định các dự án xuất khẩu
Chúng ta đều nhận rõ tầm quan trọng của công tác thẩm định, đặc biệt là công việc thẩm định ở các NHPT nơi mà hiệu quả của các thương vụ xuất khẩu ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của nhiều doanh nghiệp lớn nhỏ. Đối với mỗi quyết định cấp tín dụng, thẩm định dự án là công việc then chốt đầu tiên mà nếu xuất những sai sót thì hậu quả là rất khó lường trước.Như vậy nếu muốn nâng cao chất lượng của các khoản cho vay xuất khẩu thì công việc đầu tiên phải cải thiện chất lượng các dự án xuất khẩu trước.
Thẩm định dự án mà nhất là các thương vụ xuất khẩu là một công việc phức tạp đòi hỏi cán bộ thẩm định phải là người có năng lực chuyên môn cao, kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm..Cán bộ thẩm định cần thông thạo không chỉ các thủ tục, hồ sơ pháp lý mà cần phải khai thác được các thông tin khác liên quan đến tài chính, các yếu tố ảnh hưởng đến dự án. Chỉ những người đáp ứng đủ các phẩm chất đó mới có khả năng đánh giá được chính xác, đầy đủ năng lực tài chính của khách hang cũng như uy tín kinh doanh của họ, khả năng thu hồi và tạo lợi nhuận của các dự án, quyền sở hữu tài sản và môi trường kinh doanh của họ. Khi tiến hành thẩm định, cán bộ thẩm định cũng phải tuân theo các nguyên tắc và thủ thuật quan trọng. Đầu tiên họ cần phải nắm được các kĩ năng và nghệ thuật phỏng vấn khách hàng đề đánh gia khái quát bước đầu về mục đích vay vốn và các phương án kinh doanh và sau là khai thác các thông tin liên quan đến tình hình tài chính..Với tính chất của NHPT trong quá trình phỏng vấn các cán bộ tín dụng còn phải kiêm cả chức năng của nhà tư vấn, người hỗ trợ giải pháp và thủ tục để góp phần giúp các dự án tốt tiếp cận được nguồn vốn. Song cán bộ giỏi trong quá trình thu thập thông tin này cần phân biệt được đâu là thông tin trung thực và tiếp nhận có chọn lọc không nên bị ảnh hưởng quá nhiều từ những phán quyết ban đầu. Sau đó là quá trình tìm hiểu sâu về dự án đầu tư qua bộ hồ sơ của khách hàng, đây là lúc cán bộ phải thể hiện năng lực phán đoán và kinh nghiệm của mình đề cũng các nguồn thông tin khác đưa ra quyết định có cấp tín dụng hay không. Các nguồn thông đó có thể đến từ các doanh nghiệp khác cũng có thể đến từ các ngân hàng thương mại có quan hệ với khách hàng. Bên cạnh đó, một cán bộ giỏi cần đi sâu tìm hiểu các yêu tố của thị trường ảnh hưởng đến thành bại của dự án như thế nào cũng như dự báo được những thay đổi có thể gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng của các khoản cho vay và dự toán được những biện pháp khắc phục kịp thời khi tình huốn xấu nhất xảy ra. Ngoài ra, sau khi tiến hành cấp tín dụng cần tích cực đôn đốc kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích hay không nhằm phát hiện sớm các sai phạm mà có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng thu lại vốn cho vay của NHPT. Muốn vậy cần kết hợp đan xen công tác kiểm tra định kỳ và đột xuất để nhận định rõ các rủi ro tiềm tàng. Một công việc khác cũng rất quan trọng của cán bộ tín dụng là phải thu thập và phân tích các biến động thị trường liên quan đến lãi suất, tỷ giá, uy tín nhà nhập khẩu. Cuối cùng để phòng tránh những nguy cơ mất vốn họ cần đánh giá khả năng phát mại tài sản thế chấp và các biến động về giá bất lợi..
3.2.2 Phòng ngừa rủi ro tín dụng nhằm hạn chế nợ quá hạn.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng xuất khẩu nói riêng luôn là bạn đồng hành. Tuy nhiên không ai mong đợi rủi ro và chỉ chờ đơi. Chính vì vậy việc xây dựng một hệ thống đánh giá mức độ rủi ro và thực hiện các biện pháp phân tán, san sẻ những rủi ro đó là việc sớm muộn phải làm. Đó là một trong những khó khăn mà NHPTVN đang mắc phải. Một vài biện pháp phòng tránh rủi ro ta có thể nhắc đến như:
Khi phân tích mức độ rủi ro mà NHPTVN có thể đối mặt với các khoản cho vay xuất khẩu thì cán bộ tín dụng cần suy xét thật thận trọng về kinh nghiệm quản lý, tiềm lực tài chính, khả năng sinh lời và chính sách luân chuyển vốn cả doanh nghiệp xuất khẩu. Cán bộ tín dụng cần cân nhắc kỹ về lượng tiền cho vay, mục đích khoản vay và thời gian thu hồi được nợ..
Ngoài việc quan tâm đến khả năng trả nợ của khách hàng, cán bộ tín dụng cần đặc biệt chú ý đến năng lực pháp lý, uy tín kinh doanh và uy tín giao dịch tín dụng của họ. Đề làm được điều này cán bộ ngân hàng cần tìm hiểu các hồ sơ trong quá khứ của khách hàng như những hợp đồng vay vốn của họ với các tổ chức tín dụng khác…
Cán bộ tín dụng cần hết sức cẩn trọng trong khẩu lập hồ sơ tín dụng vì có thể những sai sót nhỏ nhất cũng biến những khoản vay tốt thành những khoản nợ trây ì. Tỷ lệ khoanh nợ lớn xảy ra phần lớn do quản lý và tổ chức sổ sách cẩu thả. Những hợp đồng thiếu sự cẩn trọng cần thiết rất dễ xảy ra tranh chấp. Khi những cán bộ mới còn chưa đủ tự tin với khả năng của mình cần tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm hơn tránh để xảy ra những sai lầm đáng tiếc.
Phân tán rủi ro tín dụng là việc làm mà mọi ngân hàng phải để ý đến. NHPT không nên tập trung quá nhiều vốn vào một khoản cho vay hay qua nhiều ưu đãi cho một số mặt hàng, lĩnh vực nhất định nếu không có chỉ thị của Chính phủ.Việc NHPTVN tập trung vốn quá nhiều vào một số ngành nghề cụ thể hơn nữa lại chủ yếu là loại hình kinh tế nhà nước là một việc làm nguy hiểm cần hết sức đề phòng.
Đẩy mạnh liên kết hợp tác với các tổ chức tín dụng khác để triệt đề khai thác thông tin khách hàng, và hơn nữa là có thể cùng nhau san sẻ những rủi ro mà nếu một mình NHPT đảm nhận thì quá sức.
NHPT cần củng cố quan hệ với khách hàng trong việc bàn bạc giải quyết các vấn đề phát sinh. Khi đã hiểu rõ doanh nghiệp đó thì sẽ dễ dàng hơn cho NHPT tìm ra những giải pháp đúng đắn để tư vấn cho họ trong những lúc khó khăn để đồng vốn không bị ứ đọng lại tại nhưng dự án trì trệ. Những trợ giúp như vậy không những giúp NHPTVN thu hồi được nợ mà còn giúp nâng cao uy tín của chính mình trong mắt các doanh nghiệp khác đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu.
Nợ quá hạn luôn là vấn đề quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng, tại NHPT thì việc hiệu quả của đồng vốn không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của riêng ngân hàng, có khi còn ảnh hưởng đến các mặt khác của đời sống kinh tế vì ngân sách nhà nước có mối liên quan đặc biệt với các khoản chênh lệch lãi suất từ NHPT. Tuy nhiên, nợ quá hạn là bạn đồng hành của mọi ngân hàng, dù có những biện pháp phòng ngừa chặt chẽ đến đâu thì nợ quá hạn cũng không thể bị triệt tiêu vì nguy cơ rủi ro luôn tiềm ẩn từ mọi phía, đặc biệt là với các nghiệp vụ cho vay xuất khẩu. Nợ quá hạn không kiểm soát được là rất nguy hiểm, nếu quá nhiều nợ quá hạn, NHPT sẽ phải tự bỏ vốn của mình đề trả ch các tổ chức gửi tiền hoặc các tổ chức mà ngân hàng đi vay và đó là việc hết sức tránh. Đề có các cách đề phòng nợ quá hạn, NHPT cần có những giải pháp như sau:
NHPT cần thường xuyên có chính sách gửi cán bộ, nhân viên đi đào tạo, tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn cho họ nhắm hạn chế tối đa các sai phạm của họ đặc biệt trong khâu đánh giá khách hàng. Làm được việc này, cán bộ nhân viên trong ngân hàng sẽ nâng cao được hiệu quả trong phân tích, đánh giá khách hàng trước và sau khi giải ngân vốn. Từ đó hiệu quả cấp tín dụng xuất khẩu tăng lên, khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả nên khả năng hoàn trả nợ đúng kì hạn cũng cao hơn tránh cho ngân hàng các khoản nợ quá hạn không mong muốn.
Cán bộ tín dụng cần phối hợp chặt chẽ hơn với phòng kế toán để theo dõi tình hình trả nợ của khách hàng đồng thời nắm được các khoản nợ đã và sắp đến hạn đề đôn đốc thông báo đến khách hàng.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng từ khi bắt dầu giải ngân đến khi trả hết nợ, không để tình trạng vốn bị sử dụng sai mục đích. Bên cạnh đó kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó để nắm rõ những khó khăn, khúc mắc mà họ gặp phải, từ đó có những tư vấn, hỗ trợ đúng lúc, kịp thời đề khách hàng có thể tiếp tục hoạt động tốt, tăng cường khả năng thu hồi nợ. Hơn nữa, thông qua việc theo dõi quá trình sử dụng vốn của khách hàng, ngân hàng có thể nắm được tình hình tài chính của họ, nếu nhận thấy những dấu hiệu bất ổn như hàng hóa ứ đọng, vay nợ chồng chất thì lập tức có những phương án thu hồi từng phần hay toàn bộ khoản nợ ngay lập tức.
Đi đôi với tăng cường doanh số cho vay là công tác thu hồi nợ, NHPT muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có sự nỗ lực của cán bộ tín dụng trong việc phân loại khách hàng, cũng cố khách hàng có truyền thống và uy tín, tích cực thông báo đôn đốc thu nợ quá hạn.. Đối với các khách hàng không thể thanh toán nợ cho ngân hàng vì nguyên nhân bất khả kháng nhưng vẫn còn khả năng sản xuất hay vẫn có những phương án kinh doanh khả thi thì cán bộ cần xem xét giữa gia hạn nợ hoặc cấp các đồng vốn tiếp theo để doanh nghiệp có những nguồn vốn cần thiết để vượt qua khó khăn.
3.2.3 Tăng cường khả năng khai thác vốn cho hoạt động cho vay xuất khẩu.
Chúng ta đều biết một ngân hàng sẽ hoạt động khó khăn như thế nào nếu thiếu một nguồn vốn dồi dào và ổn định. Những dự án xuất khẩu yêu cần vốn lớn như vậy NHPT không thể chỉ dựa vào những nguồn huy động nhỏ giọt và không ổn định. Việc làm cấp bách bây giờ là phải tìm ra con đường đa dạng hóa các hình thức huy động để tối đa được các nguồn lực trong xã hội. Tín dụng xuất khẩu có tinh chất hỗ trợ nên khi huy động vốn luôn phải tuân theo nguyên tắc tối thiểu hóa chi phí huy động. Những kinh nghiệm cho thấy từ Quỹ Hỗ trợ phát triển đến NHPT vẫn chưa thể tạo ra được sự tự chủ cần thiết đối với quá trình huy động vốn cho hoạt động tài trợ của mình. Một bài học khác là áp lực huy động vốn năm 2008 đã buộc NHPTVN hạn chế mạnh cho vay xuất khẩu và phải dùng nguồn vốn dài hạn cho vay ngắn hạn. Chính vì vậy nhưng hạn chế mắc phải trong sự chênh lệch thời hạn vay trả và lệch lãi suất và nguồn vốn không ổn định luôn đặt NHPT vào những tình huống khó khăn. Sau đây là một số kiến nghị giải pháp đề tăng cường khả năng huy động vốn của ngân hàng, đặc biệt cho hoạt động cho vay xuất khẩu:
NHPT cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn nhàn rỗi ngoài các nguồn từ ngân sách nhà nước và vốn vay ODA cho vay lại. NHPT cần xúc tiến mạnh mẽ hơn hoạt động huy động vốn bằng ngoại tệ và cho vay nhà xuất khẩu trong nhiều trường hợp bằng ngoại tệ, thúc đẩy hoạt động phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ra thị trường. Muốn phát hành thành công những công cụ tài chính này cần sự bảo lãnh mạnh mẽ từ Chính phủ (như trường hợp của NHPT Trung Quốc nhận được sự hỗ trợ rất lớn của Chính phủ, nhiều khi là một hình thức bắt buộc các ngân hàng quốc doanh hợp tác). Tuy đây là thời gian NHPTVN mới đi vào hoạt động chưa lâu và chưa tạo được tên tuổi trên trường quốc tế, song theo xu hướng của sự phát triển, tất yếu ta nên phát triển quan hệ hợp tác với các tổ chức tín dụng quốc tế để giải quyết các nhu cầu về vốn ngoại tệ khi cần thiết.
NHPT cần luôn luôn chủ động tìm kiếm những nguồn huy động vốn có tính ổn định cao trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động cho vay xuất khẩu. Vì thực tế đã kiểm nghiệm rằng với một nguồn vốn càng ổn định thì việc triển khai các kế hoạch vốn và chất lượng của công tác cho vay xuất khẩu càng được đảm bảo. Vấn đề này lại càng có ý nghĩa lớn trong thời kỳ khủng hoảng hiện nay khi cánh cửa của ta đến với các thị trường xuất khẩu truyền thống đang bị thu hẹp do ảnh hưởng của nhu cầu chi tiêu giảm. Với một nguồn vốn ổn định, ngân hàng sẽ là cánh tay hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiến hành giảm chi phí, giá thành, tăng tính cạnh tranh trên thị trường đầy khó khăn.
NHPT cần tiến hành thanh toán trực tiếp và nhận tiền gửi từ nhiều nguồn bao gồm các tổ chức kinh tế và dân cư. Đây là yêu tố then chốt giúp NHPT huy động tối đa các nguồn lực đang nhàn rỗi phục vụ cho hoạt động xuất khẩu đang khó khăn. Rất nhiều bài học từ các NHPT khác trong khu vực trong việc vận dụng thanh toán trực tiếp và huy động vốn từ nhiều nguồn trong nền kinh tế. Đó là NHPT Singapore DBS, NHPT Hàn Quốc KDB, NHPT Malaysia, NHPT Philippin DBP..
NHPT cần phải xây dựng một cơ chế quản lý lãi suất về cấp bù chênh lệch lãi suất một cách linh hoạt đề chủ động trong tổ chức huy động vốn và huy động được nhanh hơn. Trong từng thời kỳ nhất định, NHPT cần xác định một biên độ chênh lệch hợp lý cho lãi suất huy động cho hoạt động cho vay xuất khẩu. Ngoài ra việc đảm bảo công tác điều hòa vốn và công tác thu hồi nợ cũng là một khâu quan trọng đề bổ sung kịp thời nguồn vốn kinh doanh cho NHPT.
3.2.4 Từng bước đa dạng hóa các loại hình tín dụng xuất khẩu để thúc đẩy xuất khẩu
3.2.4.1 Nghiệp vụ cho vay NNK
Đây là nghiệp vụ khá mới mẻ của NHPTVN và mang tính đặc thù cao do khách hàng vay vốn là các NNK ở các quốc gia khác nhau. Tại các nước phát triển, nghiệp vụ này đang chiếm vai trò ngày càng quan trọng và dần thay thế nghiệp vụ tín dụng dành cho bên bán, tỷ trọng dư nợ tín dụng người mua trên tổng dư nợ của các Tổ chức tài trợ xuất khẩu chính thức có xu hướng tăng lên rõ rệt.
Hình thức cho vay NNK được thực hiện thông qua hai hình thức:
+ Cho vay trực tiếp NNK: nghiệp vụ này đòi hỏi rất nhiều thông tin và hệ thống quản lý tại nước NNK như: khả năng tài chính, khả năng thanh toán, mức độ tín dụng của NNK, thị trường tại nước NNK...
+ Cho vay gián tiếp (cho vay lại) đến NNK:
Thông qua Chính phủ của NNK (tương tự như hình thức tài trợ vốn ODA): đây là hình thức khá an toàn bởi người đi vay trong trường hợp này chính là chính phủ một quốc gia khác, thực chất đây cũng chỉ là một hình thức bảo lãnh mà thôi.
Thông qua một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tại nước NNK có quan hệ tốt với NHPTVN để cấp tín dụng cho NNK, nếu cho vay theo hình thức này thì ngoài các thông tin về NNK cần quan tâm đến uy tín, quy mô, hoạt động của tổ chức tài chính này.
3.2.4.2 Đa dạng hóa cho vay người bán và đẩy mạnh cho vay người mua
Đối với nghiệp vụ cho vay NXK, cùng với việc triển khai thanh toán quốc tế là khả năng đa dạng hoá tín dụng người bán như nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ (hiện nay NHPTVN có sử dụng dưới hình thức cho vay sau khi giao hàng song số lượng triển khai không nhiều do hình thức này gây bất tiện, Khách hàng vẫn phải xuất trình bộ chứng từ tại NHTM), ứng trước tiền thanh toán mà thực chất là các hình thức cho vay ngắn hạn. Tài trợ cho các khoản phải thu có tính chất trung và dài hạn khi có hình thức thanh toán trả chậm với thời gian dài trên cơ sở bộ chứng từ đã được ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán. NHPTVN hiện đã áp dụng hình thức cho vay bổ sung theo cơ chế thí điểm tín dụng xuất khẩu song hiệu quả không cao, cần tiếp tục nghiên cứu hình thức cho vay bổ sung này nhằm hỗ trợ tối đa cho DN.
Ngoài ra, trong giai đoạn này cần tăng cường hơn nữa năng lực thẩm định uy tín tín dụng của NNK với mục tiêu giảm thiểu yêu cầu về bảo đảm tiền vay đối với NXK. Tính ưu việt của CVXK của Nhà nước so với CVXK thương mại cần thể hiện rõ hơn trong khâu xử lý thông tin NNK và để làm được điều này cần có hệ thống cung cấp, xử lý thông tin là hoàn chỉnh và chính xác.
Nghiệp vụ cho vay NNK cần được hoàn chỉnh và đẩy mạnh hơn trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn giai đoạn trước đó. Cộng thêm việc nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của các NHPT tại các nước phát triển.
3.2.5. Nâng cao vai trò, vị thế của NHPTVN đối với các doanh nghiệp xuất khẩu bên cạnh đó tăng cường hoạt động trao đổi hợp tác với các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước.
Trong xu thế hoạt động mới hiện nay của NHPT, khi ưu đãi về lãi suất dần được thay bằng ưu đãi về chất lượng phục vụ thì việc NHPT phải nâng cao tầm ảnh hưởng của mình đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước là việc làm cấp bách. Công tác quảng bá hình ảnh của ngân hàng trong những năm qua không được quan tâm đúng mức nên các đối tượng khách hàng khá bó buộc. Như vậy , rõ ràng công việc gia tăng vị thế, vai trò của NHPT trong mắt các nhà xuất khẩu cần phải cải thiện đáng kể và phải được xây dựng thành những chiến lược với những mục tiêu, công cụ, phương án giải quyết cụ thể. Một trong những công việc cần làm đó là phải làm sao cho các doanh nghiệp hiểu được và tiếp cận được với NHPT. Doanh nghiệp xuất khẩu nhìn chung sẽ cần quan tâm đến chính sách của NHPT về cho vay xuất khẩu, các loại hình dịch vụ mà NHPT cung cấp, các điều kiện, cơ chế, lợi ích mang lại hay quy trình thủ tục và cách thức tiếp cận với nguồn vốn vay. Các thông tin đó cần được công bố cụ thể và rộng khắp trên các phương tiện thông tin, hay trên các diễn đàn, các hội trợ, triển lãm sản phẩm ngân hàng, các triển lãm về hàng xuất khẩu…
Một công việc khác không kém phần quan trọng trong quá trình cải thiện chất lượng hoạt động cho vay xuất khẩu tại NHPT là việc tăng cường những hợp tác sâu rộng của ngân hàng với các tổ chức tài chính,tín dụng trong nước và quốc tế. Trong giai đoạn phát triển đầu của NHPTVN, các nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu nói chung còn nghèo nàn, chưa được khai thác hết nên lượng khách hàng rất ít. Vấn đề của chúng ta là làm sao chủ động hợp tác, học hỏi kinh nghiệm của các NHPT hay các NH xuất nhập khẩu khác vì đó là các tổ chức tín dụng có những nét tương đồng ít nhiều với NHPTVN. Trong thời gian NHPTVN chưa thiết lâp được những quan hệ với các tổ chức tín dụng uy tín trên thế giới thì việc hợp tác với các NHPT khác sẽ là một phương án huy động vốn quan trọng khi khó khăn. Ngoài ra NHPT cũng cần phải mở rộng quan hệ hợp tác với các NH thương mại đa quốc gia khác, hoặc xa hơn là mở các chi nhánh NHPTVN tại nước ngoài, đó là đòi hỏi tất yếu khi hoạt động cho vay nhà nhập khẩu được quan tâm phát triển vì rằng nhu cầu về thông tin khi ấy là rất lớn và giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
3.2.6 Đào tạo nguồn nhân lực thực hiện hoạt động tín dụng xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp và từng bước nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng
Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, các nhân tố mang tính quyết định cho sự thành công của tài trợ xuất khẩu chính thức là nguồn vốn, thông tin và nguồn nhân lực. Tuy nhiên, tại các quốc gia có thị trường vốn tương đối phát triển và dồi dào thì nguồn vốn lại chỉ mang tính thứ yếu.
- Bộ máy tổ chức:
Tại Hội sở chính, trong thời gian đầu có thể tập trung vào một đầu mối là Ban Tín dụng xuất khẩu. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của mỗi hình thức TDXK nên chuyên môn hoá thành các bộ phận chức năng theo từng mảng nghiệp vụ cụ thể: Ban Tín dụng người mua, Ban tín dụng người bán, Ban bảo lãnh...
- Công tác cán bộ:
+ Tuyển dụng đầu vào: có kiến thức cơ bản về tín dụng, ngoại ngữ, vi tính và nghiệp vụ ngoại thương (Incoterm, bảo hiểm, thanh toán, vận tải,v.v..) và có chính sách ưu tiên đối với những người có kinh nghiệm thực tế;
+ Bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp lý khả năng của mỗi người, lưu ý công tác luân chuyển cán bộ để tránh rủi ro đạo đức và phát hiện bồi dưỡng cán bộ có năng lực.
+ Công tác đào tạo: thường xuyên và kết hợp nhiều hình thức. Đào tạo theo những chương trình cụ thể từ mức độ thấp đến cao và áp dụng cho các đối tượng nhân viên khác nhau để có thể đảm trách tốt công việc. Kết hợp nước ngoài thông qua các chương trình hợp tác với các NHPT, ngân hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức học tập trung theo lớp hoặc đổi chéo cán bộ.
+ Việc sử dụng cán bộ phù hợp với nhiệm vụ chuyên môn kết hợp với các biện pháp động viên khuyến khích kịp thời sẽ tạo nên sự nỗ lực trong công việc của các cán bộ.
Nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng và thông tin cảnh báo
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động CVXK nói riêng, thông tin mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu phân theo phạm vi địa lý, sẽ có 2 nhóm thông tin cần thiết cho CVXK, gồm:
- Thông tin nhóm 1: Thông tin tại nước xuất khẩu, gồm thông tin liên quan đến NXK (tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, uy tín trong quan hệ tín dụng, trình độ năng lực quản lý,..); thông tin liên quan đến mặt hàng xuất khẩu (thị trường, giá cả đầu ra, đầu vào...)
- Thông tin nhóm 2: Thông tin tại nước nhập khẩu, gồm tình hình kinh tế - chính trị-xã hội của quốc gia nhập khẩu, thông tin liên quan đến NNK, thông tin liên quan đến tiêu thụ hàng hoá tại nước nhập khẩu.
Nếu như với tín dụng trong nước, Người cho vay chỉ quan tâm đến thông tin nhóm 1 thì với CVXK, thông tin nhóm 2 lại có vai trò quan trọng không kém; đặc biệt với cho vay NNK, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, thông tin nhóm 2 đóng vai trò quan trọng hơn các thông tin nhóm 1. Điều đáng nói ở đây là những thông tin nhóm 2 thông thường lại khó thu thập hơn và khó xử lý hơn thông tin nhóm 1.
Các chủ trương, kiến nghị
Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan
- Đa dạng hóa hình thức CVXK:
Cho phép NHPTVN được tài trợ cho xuất khẩu với những nghiệp vụ rộng mở hơn thay vì cho vay trực tiếp.
- Chủ động áp dụng các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực CVXK:
Việc áp dụng các thông lệ quốc tế nhằm tránh vi phạm các nguyên tắc cơ bản của WTO thông qua việc tuân thủ các quy định tài chính của Hiệp định OECD, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (ASCM) như: lãi suất, mức cho vay, thời hạn trả nợ. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu các hình thức tài trợ phù hợp, tránh hình thức tài trợ bị cấm theo quy định, sửa đổi cơ chế lãi suất, phí phù hợp với thông lệ quốc tế vừa đảm bảo duy trì sự hỗ trợ cần thiết với các DN xuất khẩu, đảm bảo khả năng xuất khẩu được hàng hóa và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt nam trên thị trường thay vì quy định một mức lãi suất cố định như hiện nay.
- Thay đổi cơ bản cơ chế điều hành lãi suất:
Như đã phân tích ở trên việc sửa đổi chính sách lãi suất hiện nay là cần thiết không chỉ nhằm phù hợp hơn với thông lệ tín dụng, mà còn có ý nghĩa quan trọng giảm bớt gánh nặng ngân sách Nhà nước cho cấp bù chênh lệch lãi suất, góp phần giảm bội chi ngân sách Nhà nước và hơn thế nữa, nó tạo sự đồng bộ, hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa của quốc gia.
Bộ Tài chính có vai trò quan trọng là người tư vấn cho Chính phủ về mảng chính sách CVXK của Nhà nước vì vậy, NHPTVN kiến nghị Bộ Tài Chính sửa đổi quy định về lãi suất CVXK của Nhà nước như sau:
- Tăng tính chủ động của NHPTVN:
Cho phép ngân hàng được quyền quyết định lãi suất cho vay trong khung lãi suất do Bộ Tài chính quy định. Việc quyết định cho vay và các điều kiện tín dụng (trong đó có lãi suất) sẽ phải thực hiện theo thông lệ, được dựa trên sự đánh giá về mức rủi ro của Khoản vay, độ tín nhiệm của khách hàng vay vốn và khả năng vốn của ngân hàng. Việc xác định khung lãi suất rất mở và lãi suất cho vay cụ thể do cơ quan cho vay quyết định dựa theo các thông lệ tín dụng (quyết định dựa trên độ tín nhiệm, tính khả thi... của dự án) là phù hợp với quy định của WTO và theo nguyên tắc thị trường; là một minh chứng tốt cho việc thực thi đúng các cam kết gia nhập WTO.
- Cần áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt, không áp đặt cố định lãi suất cho vay từ khi ký hợp đồng tín dụng cho mọi khoản rút vốn.
- Cần bãi bỏ quy định “số lần tối đa công bố lãi suất là 2 lần/năm”:
Trên thực tế quy định này phản ánh sự cứng nhắc và thiếu linh hoạt trong điều hành lãi suất, nó không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường nhất là trong giai đoạn thị trường có nhiều biến động.
Ổn định danh mục mặt hàng thuộc đối tượng được hưởng chính sách, nâng cao công tác quy hoạch ngành vùng, minh bạch và chuẩn hóa các điều kiện được cung cấp tín dụng xuất khẩu.
- Bên cạnh những nhân tố như yêu cầu về đảm bảo tiền vay, thời hạn cho vay, sự không ổn định của danh mục mặt hàng thuộc diện được hưởng chính sách CVXK cũng là một rào cản đối với DN. Việc xác định danh mục theo thời hạn từng năm làm ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất khẩu trong thời gian dài của DN, gây ra sự bất ổn về tâm lý đối với người vay vốn tại NHPTVN.
Do vậy về lâu dài, kiến nghị Chính phủ gắn mặt hàng vay vốn CVXK phù hợp với mục tiêu chiến lược, kế hoạch xuất khẩu của Việt Nam, trong khuôn khổ kế hoạch đó Chính phủ cần có nghiên cứu ổn định danh mục mặt hàng trong thời gian từ 3 năm trở lên để đảm bảo tính ổn định của Chính sách, ổn định tâm ký và nâng cao khả năng kế hoạch hóa nguồn vốn cho các DN thuộc diện được hưởng chính sách TDXK. Ngoài ra, khi nền sản xuất phát triển nên quy định tỷ lệ nội địa hóa và giá trị hợp đồng xuất khẩu để kích thích những giao dịch lớn, tăng hàm lượng giá trị của hàng hóa Việt Nam trong giá trị hàng hóa xuất khẩu, tận dụng lợi thế trong nước. Bên cạnh đối tượng được hưởng ưu đãi là hàng hóa cần bổ sung thêm đối tượng là các dịch vụ xuất khẩu có tính mũi nhọn, có tiềm năng để khuyến khích khu vực này phát triển.
- Một trong những nguyên tắc cơ bản của hội nhập quốc tế là phải đảm bảo tính minh bạch của chính sách. Do đó, chính sách CVXK của Chính phủ cần được thiết kế một cách rõ ràng với những điều kiện, nội dung cụ thể, nâng cao khả năng thực thi của chính sách.
- Cơ chế huy động vốn cũng cần rõ ràng và tự chủ hơn trên cơ sở đảm bảo được hiệu quả của hoạt động và cho vay theo lãi suất gần với thị trường. Chính phủ cũng cần quan tâm bố trí nguồn lực thích hợp để thực hiện nhiệm vụ tín dụng xuất khẩu thông qua các hình thức như cấp vốn điều kệ từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, cho phép NHPTVN vay vốn tại các Quỹ tài chính của Chính phủ, cho phép phát hành trái phiếu chính phủ hoặc Chính phủ bảo lãnh để huy động vốn với lãi suất rẻ hơn lãi suất thị trường, từ đó giảm mức cấp bù của ngân sách nhà nước và giảm được mức vốn cho vay mà không vi phạm quy định quốc tế về lãi suất.
- Đề nghị Bộ Công Thương và các Hiệp hội ngành hàng phối hợp xây dựng hệ thống thông tin về quốc gia, dự báo về ngành hàng, mặt hàng xuất khẩu.
- Đề nghị Ngân hàng Trung ương có những hướng dẫn cụ thể về tổ chức các nghiệp vụ và đẩy nhanh tốc độ triển khai thanhtoán cho khách hàng và cung ứng dịch vụ thanh toán tại NHPTVN. Thanh toán trực tiếp sẽ tạo điều kiện thúc đẩy cho việc giải ngân vốn tín dụng nói chung trong đó có vốn CVXK, tạo chất lượng, hiệu quả cao cho hoạt động này.
Kiến nghị với các DN
Các doanh nghiệp tiến hành vay vốn tại NHPT cần chủ động tìm hiểu và áp dụng đúng các quy định về lập dự án đầu tư, tính toán các phương án tài chính, phương án trả nợ..Những nghiên cứu kỹ lưỡng đó sẽ giúp cho cả hai bên khách hàng và ngân hàng giảm thiểu được thời gian thẩm định, duyệt vay và tránh mất thời gian hoàn thiện bổ sung hồ sơ. Hơn nữa việc có được những hồ sơ chuẩn xác và tuân theo đúng các thủ tục quy định tại NHPT sẽ giúp doanh nghiệp tránh được nhiều rủi ro khi tiến hành sản xuất. Đồng thời, khi tiến hành sử dụng vốn tín dụng xuất khẩu doanh nghiệp cần cập nhật đầy đủ các sô liệu và biến động và trên cơ sở có những phối hợp chặt chẽ với NHPT để ngân hàng giải ngân đúng thời hạn và cùng nhau ngồi lại bàn bạc các biện pháp phòng chống và xử lý rủi ro. Việc thường xuyên liên lạc và có mối quan hệ tốt với ngân hàng cũng là một cách tốt để thể hiện khả năng kinh doanh và tiềm lực tài chính của mình, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cân được những đồng vốn sau và nâng cao uy tín của chính mình.
Khi có những quyết định xuất khẩu hàng hóa, doanh nghiệp xuất khẩu cần lập dự án kỹ lưỡng trên cơ sở thu thập đầy đủ thông tin về thị trường, nhu cầu của nước nhập, giá cả cạnh tranh, sự biến động của chu kỳ kinh doanh…Những nghiên cứu đó sẽ giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro ngay cả khi thâm nhập vào những thị trường mới. Còn khi không thể có những thông tin hữu ích, doanh nghiệp nên nhận những tư vấn từ các tổ chức có uy tín và kinh nghiệm.
Trong khi triển khai dự án cũng cần hết sức chú ý tới tiến độ và sự hòa hợp giữa các quá trình khác nhau của dự án tránh tình trạng lệch pha khiến năng suất của dự án không thể đạt được như mong muốn. Và cuối cùng, doanh nghiệp cần loại bỏ ngay tư tưởng nhận được vốn hỗ trợ từ NHPT như còn được bao cấp.Doanh nghiệp cần tự tạo cho mình sự tự chủ và chủ động nhất định vì theo thời gian, xu hướng phát triển của NHPT sẽ theo hướng hỗ trợ về thủ tục, thông tin tư vấn chứ không phải ưu đãi về lãi suất như hiện nay.
KẾT LUẬN
Bốn tháng thực tập tại NHPTVN là cơ hội cho em thu nhận thêm những kiến thức và kinh nghiệm cực kỳ quý báu. Với tất cả những điều đã được học từ các thầy cô giáo ở trường cùng những trải nghiệm thực tế tại một Ngân hàng lớn như NHPTVN, em đã cố gắng hết mình để hoàn thành chuyên đề này với hy vọng có thể đưa ra được những ý kiến khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động CVXK để từ đó có thể phát triển ngành xuất khẩu Việt Nam cũng như phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà. Chuyên đề đã tập trung tìm ra những kết quả đạt được và những điểm còn tồn tại của hoạt động CVXK tại NHPTVN, từ đó đề ra những giải pháp nhằm hạn chế những yếu điểm đó để hoàn thiện dần hoạt động của NHPTVN, đưa NHPTVN trở thành một NHPT hiện đại, chuyên nghiệp, có vị thế trong khu vực và trên thế giới. NHPTVN đóng vai trò rất đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân, nhất là trong giai đoạn khó khăn về kinh tế và tài chính hiện nay; chính vì thế, nâng cao chất lượng hoạt động CVXK cũng là nâng cao chất lượng hoạt động của Ngân hàng và cũng có nghĩa là phát triển nền kinh tế - xã hội.
Là một sinh viên năm cuối, tầm nhận thức của em còn chưa đủ sâu để có thể đưa ra những lý luận sâu xa và sắc sảo song em vẫn xin phép được đưa ra những ý kiến, đề xuất của mình để cải thiện những vấn đề còn tồn tại như đã phân tích ở trên. Chuyên đề được hoàn thành có sự tham khảo, sưu tầm và tổng hợp từ những nguồn tài liệu khác nhau và vì bản thân em cũng chưa có nhiều điều kiện làm việc, va vấp với thực tế nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót, nhầm lẫn trong nhận thức. Kính mong lãnh đạo NHPTVN, các anh chị trong Ban Tín dụng xuất khẩu và giáo viên hướng dẫn có những đánh giá, nhận xét và góp ý để chuyên đề được thành công hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Tên khách hàng/Client: Công ty Cà phê BH
Kỳ kế toán/Period: 2006
Người soát xét
Ngày soát xét
Tham chiếu:
T110
Công việc/Subject : Chi tiết 511
Người kiểm tra
Ngày kiểm tra
STT trang
Nội dung
1.DNTN Tân Bình
2.Cty cà phê Tây nguyên
3.Cty CP cơ khí Nha Trang
4.Cty Cà phê Thắng Lợi
5.Ng Trọng Thu
6.Bán lẻ điện năm 2006
7.Xuất hàng TP vụ 05/06 cty Thắng Lọi
8.XN CBKD Cà phê INTIMEX Buôn Ma Thuột
9.Xuất hàng cty 2/9 Hợp đồng 04/07-06
10.Xuất nhân ghi Nợ hộ nhận khoán
11.Xuất Nd 268 cty MACOFEX
Tổng
Note:
1.Caphe R1: 35.946,15 kg
R2: 59.090,15 kg
R2 (5%): 64.000kg
R2(5%): 54.000 kg
R2(5%): 72.000 kg
R2: 55.560 kg
R2: 59.940 kg
Chứng từ
02 (31/3)
03(31/3)
04(31/3)
05(31/3)
06(31/3)
52943(31/12)
52937(5/7)
08(31/3)
52936(5/7)
52941(31/12)
52904(10/2)
TK đối ứng
N138
N131
N131
N131
N131
N138
N131
N131
N131
N138
N131
Số tiền
2.159.862
972.000.000
346.400.070
1.238.400.000
18.400.000
220.672.960
2.324.307.273
1.234.800.000
1.044.528.000
883.589.985
1.101.087.000
9.386.345.750
Ghi chú:
HD,HD,Tly
Nt
HD,HD.ktly
kHDon
HD,HD,tly
NT
NT
NT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam.DOC