LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, ngành thuế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Thuế thực sự là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, góp phần thực hiện các mục đích khác như định hướng sản xuất, tiêu dùng; điều tiết thu nhập Hệ thống chính sách thuế dần được hoàn thiện, cơ chế quản lý thuế đang được từng bước được cải cách cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và thông lệ quốc tế.
Hiện nay, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời qui mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng và phức tạp hơn. Do đó cơ chế quản lý cũ đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế quản lý mới, tiên tiến hơn mà đa số các nước trên thế giới đã áp dụng, đó là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế.
Để thực hiện mô hình quản lý theo chức năng thì nhiệm vụ hỗ trợ, tuyên truyền chính sách thuế cho người nộp thuế là một trong những công tác được coi là chìa khoá tăng thu. Trong quá trình kiện toàn tổ chức ngành Thuế, Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế luôn xác định công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý và thu thuế của ngành thuế trong giai đoạn hiện nay và những năm tới.
Việc tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế đã có những bước phát triển nhất định, thu được một số kết quả khả quan và có tác dụng tích cực đối với cơ chế quản lý thuế hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó thì vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, từ đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp ” làm đề tài luận văn của mình.
2 . Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp.
- Đề tài đánh giá thực trạng của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT ở Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế ở Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu :
Đề tài được giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu về công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp, đưa ra những giải pháp khả thi để nâng cao hiệu quả thu thuế, sao cho thu đúng thu đủ số thuế cần thu, đồng thời đảm bảo công bằng giữa NNT.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận và những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm phát triển kinh tế của Đảng, kết hợp vận dụng với các biện pháp như tổng hợp về lý luận, phân tích thực trạng nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn đề tài nghiên cứu
Những nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện những lý luận chung, những khó khăn thử thách trong công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT. Từ đó, giúp cán bộ thuế biết rõ những vấn đề mà doanh nghiệp thường gặp phải cần được hỗ trợ từ cơ quan thuế. Đồng thời, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT hiện nay .
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kiến thức của bản thân còn hạn chế nên đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy, cô cùng toàn thể các bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao hiểu biết, nhằm phục vụ cho công tác của mình sau này. Em xin trân trọng cảm ơn!
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục viết tắt, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp
Chương 2: Thực trạng công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại chi cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trên địa bàn Quận Hà Đông trong thời gian tới
80 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8971 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
011 tất cả các doanh nghiệp phải kê khai thuế qua mạng, tất cả doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chuyển sang mẫu hóa đơn mới: Hóa đơn tự in, hóa đơn đặt in, sử dụng hóa đơn điện tử, dù dự kiến là như vậy, nhưng vấn đề đó vẫn còn nhiều bất cập, đòi hỏi sự quyết tâm từ toàn ngành thuế, các cán bộ thuế nói chung và cán bộ Đội tuyên truyền, hỗ trợ nói riêng, cùng sự đồng lòng, đồng sức của doanh nghiệp.
Quả thật, vấn đề HTNNT đã có những bước phát triển vượt bậc. Các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT được tổ chức ngày càng thường xuyên, bằng tất cả các hình thức, trên phạm vi rộng. Hoạt động HTNNT ngày càng được mở rộng, từ chỗ chỉ là những hoạt động đơn lẻ, chưa có kế hoạch đã đi dần vào tổ chức, hoạt động một cách quy củ và chuyên nghiệp hơn.
Hai là, Triển khai bộ phận một cửa để tạo điều kiện cho NNT thực hiện các thủ tục về thuế
Năm 2010 công tác cải cách hành chính thuế tại Chi cục tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện phục vụ người nộp thuế ngày càng tốt hơn. Cụ thể: Chi cục quán triệt cán bộ công chức khi giải quyết công việc phải đảm bảo đúng thời gian theo quy trình của ngành, các trường hợp vướng mắc phải xin ý kiến ngay để giải quyết kịp thời cho người nộp thuế, không được gây phiền hà, giải quyết thủ tục chậm, cán bộ đã được yêu cầu làm bản giải trình và đã được xem xét đánh giá kết quả công tác tháng có liên quan đến thu nhập.
Chẳng hạn:
+ Đối với yêu cầu hướng dẫn, giải đáp của người nộp thuế trực tiếp đến cơ quan thuế hoặc qua điện thoại là ngay khi nhận được yêu cầu.
+ Nhưng đối với các yêu cầu hướng dẫn, giải đáp bằng văn bản của NNT đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về thuế nhưng chưa cụ thể, chưa rõ trong trường hợp của NNT là 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của NNT có đầy đủ thông tin, tài liệu liên quan đến các vấn đề cần được hướng dẫn, giải đáp…..
Xác định NNT là bạn đồng hành trong quá trình thực hiện các luật thuế, Chi Cục thuế Hà Đông thực hiện đúng quy trình của cấp trên đề ra, triển khai hàng loạt biện pháp hỗ trợ NNT như: Thực hiện bộ phận “một cửa” tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả các thủ tục hành chính (TTHC) giúp cho NNT thuận lợi giao dịch với cơ quan thuế; NNT được hướng dẫn cung cấp nhiều dịch vụ miễn phí về thuế như nhận: tờ rơi, sử dụng máy tính; cung cấp phần mềm kê khai và tư vấn miễn phí. Bộ phận một cửa được tổ chức tại Chi cục thuế Quận Hà Đông do Đội tuyên truyền, hỗ trợ NNT làm nòng cốt có sự kết hợp của Đội Kê khai-kế toán thuế và tin học, Đội hành chính-ấn chỉ và các Đội liên quan thực hiện theo chức năng gồm có 7 đồng chí là những cán bộ có trình độ chuyên môn, có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt.
Sơ đồ 2.5: Quy trình hỗ trợ NNT theo cơ chế một cửa:
Người nộp thuế gửi yêu cầu
Cơ quan thuế
Tiếp nhận yêu cầu
Hướng dẫn, giải đáp vướng mắc theo yêu cầu
Trả kết quả giải đáp yêu cầu
Chi cục đã xây dựng quy chế tạm thời về việc tiếp nhận giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ thuế tại bộ phận một cửa, với 11 nội dung công việc được giải quyết tại bộ phận một cửa đó là:
Giải đáp, hướng dẫn về chính sách, thủ tục hành chính thuế.
Đăng ký cấp mã số thuế đối với hộ kinh doanh.
Thay đổi thông tin người nộp thuế.
Nộp hồ sơ khai thuế và báo cáo thuế.
Đề nghị gia hạn nộp hồ sơ khai thuế.
Đề nghị gia hạn nộp thuế.
Đề nghị miễn, giảm thuế.
Đề nghị hoàn thuế.
Thu thuế hoạt động không thường xuyên và cấp hoá đơn lẻ.
Đề nghị cơ quan thuế xác nhận số nộp ngân sách.
Tiếp nhận công văn của người nộp thuế.
Có 6 công việc được giải quyết ngay tại bộ phận một cửa, về khối lượng công việc chiếm 85% công việc giao dịch và phân công rõ công việc đối với từng cán bộ thực hiện phụ trách từng phần việc. Đội cũng đã tích cực làm việc và có ca trực vào thứ 7, chủ nhật để đáp ứng tốt những thắc mắc và kiến nghị của doanh nghiệp, giải đáp kịp thời những vướng mắc mà doanh nghiệp gặp phải.
Thực hiện rà soát, công khai hướng dẫn hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính thuế tại bộ phận một cửa.
Chi cục đã bố trí địa điểm thuận lợi nhất, trang thiết bị hiện đại.
Trong thời gian qua, bộ phận một cửa đã đạt kết quả tốt giải quyết kịp thời, đúng hạn quy định các yêu cầu của người nộp thuế một cách thuận lợi nhất, giảm bớt phiền hà, hạn chế tối đa tiêu cực và tạo mối quan hệ tốt giữa cơ quan thuế với người nộp thuế thực sự là người bạn đồng hành.
Ba là, Xây dựng bộ tài liệu hỗ trợ, hướng dẫn cho NNT
Công tác hỗ trợ NNT của Chi Cục thuế Quận Hà Đông vừa qua đã được chú trọng và đẩy mạnh dưới nhiều hình thức.
Tại trụ sở Cơ quan thuế đều niêm yết công khai hướng dẫn chính sách, chế độ thuế, các quy trình giải quyết TTHC thuế; xây dựng tủ sách miễn phí; thiết kế hộp thư thoại tự động; chương trình giải đáp về thuế qua mạng; quy chế định kỳ tập huấn chính sách thuế miễn phí và đối thoại, hướng tới nâng cao chất lượng cho NNT. Phát triển, nâng cấp hệ thống thông tin phần mềm quản lý, mở rộng việc truy cập, nối mạng toàn ngành giữa cơ quan thuế, Kho bạc và Hải quan.
Bốn là, Đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác hỗ trợ NNT
Tại Đội tuyên truyền, hỗ trợ, NNT có thể đưa ra mọi vướng mắc của mình với cán bộ thuế và sẽ nhận được những câu trả lời thích đáng. Hoạt động hỗ trợ đã hạn chế được tình trạng cán bộ thuế trả lời thắc mắc của NNT một cách tuỳ tiện hoặc tự đặt ra yêu cầu NNT thực hiện theo ý mình, không được Nhà nước quy định. Vì vậy chức năng hướng dẫn thực hiện các chế độ chính sách thuế được chủ động, đảm bảo nắm sát được các chính sách về các loại thuế, phí, lệ phí, các khoản thu khác cũng như các quy trình thủ tục quản lý thuế để đảm bảo giải thích được các vướng mắc một cách nhanh chóng và chính xác nhất.
Mặt khác, qua đó thúc đẩy cán bộ thuế tăng cường học tập, nghiên cứu các chế độ chính sách cặn kẽ hơn để tránh sai sót trong công tác quản lý của mình.
Đồng thời Cơ quan thuế đào tạo kiến thức pháp luật chuyên sâu, nâng cao chất lượng trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ thuế. Với mục tiêu cải cách TTHC thuế theo hướng phục vụ, tạo thuận lợi cho NNT, được người dân và NNT đồng tình ủng hộ, góp phần nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, hạn chế tình trạng quan liêu, sách nhiễu của công chức thuế, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành.
Năm là, Một số kết quả khác
Trong khuôn khổ dự án Xây dựng và triển khai hệ thống nộp tờ khai thuế qua mạng, Tổng Cục thuế cũng đã xây dựng cổng thông tin điện tử để hỗ trợ người nộp thuế thực hiện kê khai và gửi tờ khai điện tử (có sử dụng chữ ký điện tử) tới cơ quan thuế.
Được sự hướng dẫn của cấp trên, Chi Cục thuế Hà Đông nói chung và Đội tuyên truyền, hỗ trợ nói riêng đã tích cực triển khai hình thức khai thuế qua mạng. Hệ thống kê khai thuế qua mạng đã tạo thuận lợi cho DN thực hiện nghĩa vụ kê khai thuế, giảm chi phí, thời gian và nhân lực. Bên cạnh đó, cơ quan thuế giảm thời gian tiếp nhận tờ khai, xử lý tờ khai nhanh hơn, chính xác hơn, giảm chi phí, nhân lực lưu trữ, tra cứu tờ khai.
Tháng 8/2009 Chi Cục thuế Quận Hà Đông đã tổ chức hội nghị triển khai khai thuế qua mạng đến các doanh nghiệp trên địa bàn Quận, đồng thời giải đáp những thắc mắc liên quan đến việc khai thuế qua mạng. Theo đó, doanh nghiệp được hướng dẫn những quy định cũng như quy trình nộp hồ sơ khai thuế qua mạng; hướng dẫn sử dụng tờ khai thuế qua mạng và những vướng mắc thường gặp…
Kê khai thuế qua mạng, hiện đại hóa cách thu là chủ trương lớn của ngành Tài chính nhằm mục tiêu cải cách hành chính. Năm 2009 tại Quận Hà Đông, khai thuế qua mạng đã được ứng dụng chính thức cho 500 doanh nghiệp. Thông qua hình thức sử dụng chứng thư số, doanh nghiệp tự kê khai thuế và gửi thông tin đến cơ quan thuế thông qua mạng internet, tiết kiệm thời gian, chi phí mà được bảo mật về thông tin. Chi Cục thuế cho biết, qua thực tế triển khai, chưa xảy ra tình trạng nghẽn mạch hay trục trặc kỹ thuật nào đáng kể. Trong năm 2010, chương trình sẽ mở rộng thêm cho khoảng 1000 doanh nghiệp trên địa bàn Quận. Dự kiến, hết năm 2011, hầu hết doanh nghiệp trên địa bàn Quận sẽ được ứng dụng chương trình này.
Trong năm 2009, để đẩy nhanh tiến độ và phấn đấu hoàn thành cấp MST cá nhân, đến ngày 31/12/2009 các đơn vị đã cơ bản hoàn thành việc đăng ký mã số thuế TNCN với tổng số 1.821 đơn vị với số cá nhân đăng ký 24.840 người, Chi Cục đã in và trả mã số thuế: 1.731 đơn vị với 18.315 mã số thuế.
Các cán bộ cơ quan thuế trực tiếp liên quan của Chi Cục đã đi tập huấn về các bước thực hiện và vận hành hệ thống ứng dụng, tập huấn về hướng dẫn sử dụng công cụ phần mềm đăng ký thuế TNCN. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền về việc cấp MST TNCN đã được các cơ quan thông tin đại chúng vào cuộc hỗ trợ tích cực cơ quan thuế.
Nguyên nhân:
Để đạt được những kết quả trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, Về cơ sở hạ tầng
- Sự phát triển của công nghệ thông tin tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công tác hỗ trợ NNT. Thông qua các kênh thông tin liên lạc, cơ quan thuế thực hiện cung cấp các giải đáp vướng mắc cho NNT khi có yêu cầu, chẳng hạn như giải đáp qua email, qua trang wed của Chi Cục thuế, qua thư điện tử...
- Các hình thức hỗ trợ NNT rất phong phú và đa dạng, có thể giải đáp qua điện thoại, văn bản, các cuộc tư vấn trực tiếp tại đội tuyên truyền và hỗ trợ... Chính vì hiểu rõ điều đó mà Chi cục luôn tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, hệ thống máy móc đảm bảo đầy đủ, hiện đại. Đặc biệt Đội tuyên truyền, hỗ trợ của Chi Cục nằm ngay ở tầng 1, khi NNT đến hỏi đáp hay nộp tờ khai, thì rất dễ nhận ra, tránh lãng phí thời gian, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho NNT đến giao dịch.
- Chi cục được cấp kinh phí từ cấp trên, vì vậy số lượng và chất lượng công tác hỗ trợ được nâng cao rõ rệt. Đảm bảo các hình thức hỗ trợ đa dạng, phong phú, đáp ứng mọi nhu cầu của từng tầng lớp nhân dân. Chẳng hạn :
+ Giải đáp qua điện thoại có thuận lợi là đáp ứng ngay tức thì nhu cầu tư vấn của NNT đối với từng trường hợp cụ thể, từng nhu cầu cụ thể.
+ Tư vấn mặt đối mặt, hình thức này giúp người nộp thuế có thể hỏi nhiều vấn đề một lúc, có thể được hướng dẫn cách thực hành cụ thể, khi chưa hiểu cặn kẽ họ có thể hỏi lại để thực sự nắm chắc vấn đề cần biết.
+ Trả lời qua thư, việc trả lời này mặc dù thường không nhanh, không kịp thời nhưng vẫn được nhiều người nộp thuế ưa thích vì nó giúp họ lưu lại bằng chứng pháp lý về ý kiến của cơ quan thuế trong việc giải quyết những tình huống cụ thể trong kê khai thuế, tính thuế mà pháp luật thường là chưa có quy định cụ thể.....
Thứ hai, Về phía cán bộ thuế
Cán bộ chủ chốt của đội là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ rất vững, có tinh thần nhiệt huyết với công việc, năng động sáng tạo tiếp cận nhanh với những vấn đề mới.
Được sự chỉ đạo từ cấp trên và ưu ái từ phía lãnh đạo Chi cục, cán bộ Đội tuyên truyền, hỗ trợ thường xuyên được đi tập huấn các văn bản, luật, nghị định mới khi có yêu cầu. Ngoài ra cán bộ tư vấn là những người luôn phải tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp, hiểu rõ được những công việc đó, cán bộ Đội tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông luôn nỗ lực phấn đấu, học hỏi thêm kinh nghiệm thực tế, không những giỏi về chuyên môn mà còn hiểu biết về kiến thức kế toán áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt các nghiệp vụ kế toán liên quan đến thuế, tìm hiểu các kiến thức cơ bản về tài chính, pháp luật liên quan. Trau dồi thêm kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tư duy ... để đảm bảo những vấn đề mà cán bộ thuế tư vấn luôn chính xác.
Thứ ba, Về phía người nộp thuế
Trình độ hiểu biết của NNT ngày càng cao nên việc nắm bắt những nội dung mà cán bộ tuyên truyền, hỗ trợ giải đáp, tư vấn một cách nhanh chóng dễ dàng hơn. Ý thức chấp hành pháp luật thuế cũng như ý thức tự giác tìm hiểu các vấn đề về thuế tăng.
Mặt khác, hiện nay trang thiết bị, cơ sở vật chất của các doanh nghiệp rất hiện đại, rất dễ dàng kết nối với cơ quan thuế. Doanh nghiệp có thể tiếp cận được với hầu hết các hình thức hỗ trợ như qua mạng internet, qua báo chí, qua đài, tivi....Sự tiếp cận đó giúp doanh nghiệp càng hiểu rõ hơn luật thuế, bộ máy và quy trình làm việc của cơ quan thuế, từ đó doanh nghiệp có ý thức hơn trong công tác khai và nộp thuế.
Hiện nay ý thức doanh nghiệp rất cao, họ tự động tìm đến cơ quan thuế để thắc mắc và nhờ tư vấn, giải đáp, chính điều đó giúp cho cán bộ thuế giảm thiểu chi phí và thời gian phải xuống hướng dẫn cho doanh nghiệp tại nơi họ làm việc, thời gian hướng dẫn sửa lỗi sai và làm lại hạn chế.
2.3.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân trong công tác hỗ trợ NNT
Hạn chế trong công tác hỗ trợ NNT
Dù công tác hỗ trợ người nộp thuế càng ngày càng đi vào hiện đại, song vấn đề đó còn tồn tại một số bất cập sau:
- Một số thắc mắc của doanh nghiệp, cán bộ thuế không thể giải đáp kịp thời, còn để doanh nghiệp chờ đợi và mất nhiều thời gian. Thái độ của cán bộ tư vấn thuế nhiều lúc chưa tốt, làm mất lòng tin với doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng công tác tư vấn, hỗ trợ NNT.
- Bộ phận làm nhiệm vụ hỗ trợ chưa chủ động tìm hiểu NNT để xem họ cần những gì, họ thường mắc phải những sai phạm nào về thuế; phân loại NNT theo những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh để tìm hiểu xem trong ngành nghề, lĩnh vực nào NNT có nhiều vướng mắc để từ đó đưa ra những điểm cần chú ý trong việc kê khai, tính và nộp thuế của từng ngành nghề, từng lĩnh vực.
- Hơn nữa, trong cơ cấu tổ chức của Đội chưa phân rõ nhiệm vụ của từng cán bộ do vậy một số người lợi dụng ỷ lại, đùn đẩy công tác tư vấn, cho một số cán bộ chủ chốt.
- Các hình thức hỗ trợ NNT vẫn còn thiếu như: Hộp thư thoại trả lời tự động (hình thức được cơ quan thuế các nước sử dụng khá phổ biến) nên vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu tìm hiểu về pháp luật thuế của NNT và khó tổng hợp nhu cầu tư vấn thường xuất hiện nhất.
- Có nhiều NNT tìm đến dịch vụ tư vấn thuế không chỉ đơn thuần hỏi về chính sách thuế mà còn nhiều vấn đề liên quan đến các lĩnh vực khác như: Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Luật dân sự, Luật hình sự là những nội dung không thuộc trách nhiệm của cán bộ tư vấn thuế. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần tư vấn trên lĩnh vực thuế mà không xem xét tới các khía cạnh có liên quan thì sẽ tạo nên sự phiến diện trong cách nhìn nhận vấn đề. Trong số các cán bộ làm công tác tuyên truyền, tư vấn thuế thì chỉ có số ít cán bộ có kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến thuế đặc biệt là lĩnh vực kế toán bởi thuế và kế toán là hai lĩnh vực có mối quan hệ khăng khít với nhau.
- Công tác hỗ trợ chưa đạt được kết quả mong muốn. Biểu hiện ở một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh thực tế có kinh doanh nhưng chưa kê khai, nộp thuế; một số doanh nghiệp có kê khai nhưng kê khai không đúng hoặc nộp không đủ số thuế phải nộp. Thậm chí còn một bộ phận doanh nghiệp trốn thuế, lậu thuế gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Làm cho cán bộ thuế rất áp lực và mệt mỏi khi doanh nghiệp cái gì cũng cần tư vấn mà không chịu tìm hiểu.
Chẳng hạn: Tại Hội thảo vào đầu tháng 8/ 2009: “Áp dụng thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng vào thực tiễn doanh nghiệp” có rất nhiều câu hỏi liên quan đến thuế thu nhập cá nhân đã được các kế toán trưởng, đại diện của các công ty nêu ra. Điều đó cho thấy, dù đã được triển khai nữa năm, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn còn “mơ hồ” với các loại thuế này. Trong đó, bảy tháng đầu năm 2009 có 70% thắc mắc của doanh nghiệp gửi đến chi cục thuế là về thuế thu nhập cá nhân, các vấn đề chính đó là giảm trừ gia cảnh và số người phụ thuộc, căn cứ để loại trừ tính thuế.
- Chi cục và Cục thuế Hà Nội cũng đã tổ chức rất nhiều buổi tập huấn cho doanh nghiệp về các luật thuế trên, nhưng thường tiến hành theo kiểu phổ biến đại trà. Chẳng hạn, trong đợt tập huấn do một số lý do như lượng khách tham dự quá đông, Ban tổ chức chỉ có thể tiến hành tập huấn theo cách “đọc câu hỏi rồi trả lời”.
Nguyên nhân
Còn những mặt tồn tại trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, Về phía cơ quan thuế
- Dù được hỗ trợ từ cấp trên và sự quan tâm của lãnh đạo Chi Cục nhưng công tác hỗ trợ còn gặp nhiều khó khăn, về cơ sở hạ tầng còn thiếu các thiết bị như: Máy tính xách tay, điện thoại sử dụng hộp thư thoại trả lời tự động... Ngoài ra tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông có các phòng ban đã được xây lại mới, tuy nhiên vẫn chưa có thể đáp ứng được số lượng lớn các doanh nghiệp đến tập huấn, khi đến nộp tờ khai vẫn có tình trạng chen lấn nhau. Mặt khác, lý do này còn gây áp lực cho các cán bộ tuyên truyền và hỗ trợ, họ phải làm việc căng thẳng, từ đó làm giảm hiệu quả công việc.
- Nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo và công chức về công tác tư vấn, hỗ trợ NNT chưa đúng với tầm quan trọng của nó. Khi hướng dẫn cho nhiều đối tượng, một số cán bộ vẫn thể hiện sự nóng nảy và không muốn giải thích vì doanh nghiệp quá đông, lại toàn hỏi về những vấn đề lặp đi lặp lại mà các đối tượng khác đã hỏi, từ đó gây mất sự tin tưởng của doanh nghiệp, nên vấn đề hỗ trợ tư vấn vẫn chưa đạt kết quả như mong đợi.
- Bên cạnh đó, việc đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp cho các cán bộ này chưa được tổ chức thường xuyên cũng là nguyên nhân làm giảm chất lượng cán bộ. Khi cán bộ tuyên truyền và hỗ trợ không đảm bảo yêu cầu về số lượng, chất lượng tất yếu sẽ dẫn đến hiệu quả công tác HTNNT không cao.
- Trình độ của nhiều cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT còn chưa bao quát hết được các chính sách thuế, hạn chế trong việc phát huy năng lực tổng hợp cả về chuyên môn lẫn hướng dẫn để phục vụ NNT.
- Công việc của cán bộ thuế là phải kiểm tra việc kê khai, tính thuế; phổ biến, hướng dẫn chính sách thuế…Với tương quan về số lượng NNT và số lượng cán bộ thuế thì khối lượng công việc là quá nhiều, khó lòng đảm bảo chất lượng được.
Thứ hai, Về phía người nộp thuế
Ý thức của NNT chưa cao, thường không cập nhật thông tin mà luôn trông chờ vào sự tư vấn trực tiếp của cán bộ thuế, vì vậy vẫn còn tình trạng kê khai sai, nợ đọng thuế .....
Thứ ba, Một số nguyên nhân khách quan khác
- Hệ thống pháp luật thuế còn một số vấn đề bất cập và là vấn đề luôn phải bàn cãi, vì luật mới đưa ra, doanh nghiệp chưa kịp tìm hiểu và tiếp thu thì đã phải bổ sung, sửa đổi. Pháp luật thuế chưa thực sự bao quát hết tất cả các vấn đề liên quan đến thuế, vẫn còn tồn tại tình huống chưa được đề cập trong pháp luật. Vì vậy rất khó cho cán bộ thuế và doanh nghiệp áp dụng.
- Các chính sách, chế độ quy định về thuế còn khá phức tạp so với trình độ hiểu biết Pháp luật thuế của phần lớn doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, và quá trình sửa đổi, bổ sung thường xảy ra, nhất là chế độ hoá đơn, chứng từ, chế độ khấu trừ và hoàn thuế GTGT, miễn giảm thuế, chế độ quản lý thu thuế trong lĩnh vực đất đai. Ví dụ gần đây nhất là sự ra đời của Luật thuế TNCN, nghị định 51/2010/NĐ-CP, TT 153 của bộ tài chính và một số nghị định, công văn khác..., dẫn đến tình trạng doanh nghiệp chưa kịp hiểu, áp dụng cái cũ thì cái mới đã ra đời.
- Quận Hà Đông không còn lợi thế là thủ phủ của tỉnh Hà Tây(cũ), một số nguồn thu giảm, Quận mới gia nhập vào thủ đô, đó là một lợi thế nhưng cũng là một khó khăn cho một Quận đang trong thời kỳ đô thị hóa.
- Về phía các cơ quan, tổ chức khác chưa lên án kịp thời, mạnh mẽ các hành vi vi phạm thuế, chưa hỗ trợ tích cực với cơ quan thuế để cung cấp thông tin và phối hợp thu thuế.
Chương 3:
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trên địa bàn Quận Hà Đông trong thời gian tới
3.1 Yêu cầu, mục tiêu của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT
3.1.1 Yêu cầu
3.1.1.1 Đáp ứng yêu cầu của chương trình cải cách quản lý thuế
Mục tiêu của cải cách quản lý thuế đổi mới và từng bước hiện đại hoá công tác quản lý thuế, nâng cao hiệu quả và hiệu lực của ngành thuế trong việc thực hiện quản lý thuế, thực thi pháp luật thuế, trên cơ sở ngày càng nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự giác của mọi tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách thuế, giảm bớt thủ tục hành chính gây phiền hà đối với người nộp thuế, phù hợp với quy trình tự tính, tự khai, tự nộp.
Để đạt được mục tiêu trên thì công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế và hỗ trợ, tư vấn NNT phải tăng cường cả về năng lực (tăng số lượng và trình độ cán bộ) và phương tiện kỹ thuật hiện đại với nhiều hình thức phong phú.
Trước hết, công tác tuyên truyền và hướng dẫn, tư vấn cho người nộp thuế phải được mở rộng và nâng cao chất lượng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế để NNT nâng cao ý thức tự giác, chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế và ngân sách Nhà nước. Hướng dẫn, tư vấn kịp thời, đầy đủ để NNT nắm được nội dung và thực hiện chính sách thuế, các thủ tục kê khai, tính thuế, xin miễn, giảm thuế… theo đúng pháp luật.
Đồng thời hướng dẫn NNT thực hiện tốt công tác kế toán, quản lý hoá đơn, chứng từ để hạch toán đúng kết quả kinh doanh, xác định đúng nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
Công tác HTNNT phải thúc đẩy quá trình cải cách hành chính thuế, thực hiện có hiệu quả cơ chế quản lý mới: NNT tự kê khai, tự nộp thuế vào ngân sách Nhà nước. Có yêu cầu này là do một trong những điều kiện để thực hiện được cơ chế quản lý mới là NNT phải hiểu nghĩa vụ thuế của mình. Họ phải nhận được thông tin một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời về chính sách thuế, các thủ tục về thuế…Họ cần được tạo điều kiện để dễ dàng tiếp cận với dịch vụ tư vấn, giải đáp về thuế và kế toán. Đó là nhiệm vụ của công tác tuyên truyền và HTNNT.
3.1.1.2 Đảm bảo cho NNT hiểu rõ pháp luật thuế và các nghĩa vụ phải làm đồng thời nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thuế
Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế cho toàn dân và công tác hỗ trợ cho NNT đã được ngành thuế từ trung ương đến địa phương chú trọng. Tuy nhiên, để pháp luật đi vào cuộc sống, thì công tác tuyên truyền phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, có quy mô, có hệ thống hơn nữa, nhằm đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, tuyên truyền cho NNT hiểu đúng và làm đúng quy định của Luật thuế.
Thứ hai, làm cho toàn dân nhận thức đầy đủ về bản chất tốt đẹp của thuế, ý nghĩa của việc nộp thuế, tác dụng tiền nộp thuế đối với lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng trong đó có quyền được thụ hưởng của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân. Từ đó, mọi người tự giác tìm hiểu pháp luật thuế và tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế. Mọi tổ chức, cơ quan đoàn thể, từng thành viên trong xã hội có trách nhiệm giám sát việc thực thi chính sách thuế của đối tượng khác.
Thứ ba, làm cho mọi người dân đều có ý thức giải thích, vận động thành viên trong gia đình và những người xung quanh cùng chấp hành pháp luật thuế.
3.1.1.3 Yêu cầu về cán bộ làm công tác tuyên truyền và HTNNT
Tuyên truyền và hỗ trợ NNT không đơn thuần như thực hiện nghiệp vụ thuế mà còn phải tiếp xúc với công luận, với nhiều loại đối tượng. Do đó, cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT không chỉ nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ mà còn đáp ứng những tiêu chuẩn về đạo đức, tác phong, cách giao tiếp ứng xử…
Trước hết, về chuyên môn nghiệp vụ: cán bộ thuế cần nắm vững các kiến thức thuế nói chung và nội dung từng sắc thuế nói riêng; nắm vững các quy trình, thủ tục đăng ký, kê khai, nộp thuế; kiến thức về kế toán, đặc biệt là kế toán thuế. Bên cạnh đó, người cán bộ thuế cũng cần phải biết các kiến thức cơ bản về kinh tế tài chính, về pháp luật có liên quan. Hơn nữa, trong thời đại phát triển của công nghệ và hội nhập quốc tế thì cán bộ thuế còn phải sử dụng thành thạo các phương tiện làm việc hiện đại như máy vi tính, internet…để nâng cao hiệu quả công việc, phải có trình độ ngoại ngữ tốt để nghiên cứu tài liệu và giao tiếp với đối tượng là người nước ngoài.
Cùng với kiến thức thì đạo đức, tác phong, thái độ cũng đóng vai trò quan trọng đối với cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Cán bộ thuế phải có quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa bản thân mình và người nộp thuế, không được coi NNT là đối tượng bị quản lý mà phải coi NNT như khách hàng. Từ đó mà có tác phong lịch thiệp, thái độ đúng mực, hướng dẫn tận tình, chu đáo.
3.1.2 Mục tiêu
Dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế được cung cấp nhằm các mục tiêu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về thuế, làm tăng tính tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Công tác tuyên truyền, giáo dục về thuế và dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế một mặt phải giúp cho mỗi người dân nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ đối với Nhà nước, tự nguyện chấp hành pháp luật thuế, đồng thời phối hợp, hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế trong việc tuyên truyền, phổ biến về thuế. Mặt khác những thông tin do cơ quan thuế cung cấp thông qua dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế còn phải mang tính cảnh báo để giảm thiểu rủi ro cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của người nộp thuế và đồng thời cũng thể hiện quan điểm khuyến cáo, răn đe đối với các trường hợp cố tình vi phạm pháp luật thông qua tuyên truyền các chế tài xử phạt, từ đó làm tăng tính tuân thủ của người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình
Thứ hai, Dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế nhằm làm giảm gánh nặng cho việc thực hiện các luật thuế của người nộp thuế.
Gánh nặng của người nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế không chỉ là những khoản thuế phải nộp mà còn bao gồm cả những chi phí về thời gian và tiền của mà người nộp thuế có thể phải bỏ ra để thực hiện nghĩa vụ của mình. Để thực hiện mục tiêu này, dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế phải cung cấp thông tin về chính sách thuế, các dịch vụ tư vấn, giải đáp vướng mắc về thuế để cải thiện tính chính xác của việc kê khai thuế, từ đó góp phần làm tăng tính tuân thủ của người nộp thuế. Bên cạnh đó, các dịch vụ tiện ích như thuế điện tử, các dịch vụ bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế phải được cung cấp một cách đầy đủ, đa dạng để người nộp thuế có thể lựa chọn được biện pháp thuận tiện nhất, tiết kiệm được chi phí về thời gian và tiền của cho việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
Như vậy dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế phải nhằm tạo điều kiện cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế một cách đơn giản và thuận lợi nhất nhằm giảm gánh nặng cho việc thực hiện các luật thuế, giúp người nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, làm tăng tính hiệu quả của quản lý thuế.
Thứ ba, Dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế còn nhằm làm tăng sự tin tưởng của người nộp thuế vào hệ thống thuế và do đó làm tăng sự tin tưởng vào chính phủ.
Có rất nhiều yếu tố tạo ra mức độ tin tưởng của người nộp thuế vào hệ thống thuế như :
- Tính công bằng của luật thuế đối với dân chúng. Bao gồm cả công bằng trong việc điều tiết thuế và xử phạt các hành vi trốn thuế
- Tính đơn giản của hệ thống thuế
- Tính khách quan và công bằng trong việc bảo vệ các quyền lợi chính đáng của người nộp thuế
- Tính hiệu quả của các hoạt động tuyên truyền pháp luật thuế và hỗ trợ người nộp thuế
Mỗi yếu tố trên có thể có những ảnh hưởng nhất định đến mức độ tin tưởng của người nộp thuế vào hệ thống thuế. Sự công bằng trong điều tiết và xử phạt các hành vi trốn thuế sẽ làm tăng sự tin tưởng của người nộp thuế vào hệ thống thuế. Một hệ thống thuế với những luật thuế phức tạp sẽ dẫn đến việc người nộp thuế khó có thể hiểu được nghĩa vụ của mình và do đó, sự tin tưởng vào hệ thống thuế có thể sẽ giảm sút. Bên cạnh đó, việc giải quyết các khiếu nại của người nộp thuế được thực hiện khách quan, công bằng sẽ làm tăng sự tin tưởng của người nộp thuế vào hệ thống thuế và ngược lại. Thái độ và năng lực của cán bộ thuế khi thực hiện tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế cũng là nhân tố quyết định sự tin tưởng của người nộp thuế vào hệ thống thuế và sự quản lý của cơ quan thuế.
Bên cạnh đó, thái độ nhã nhặn của các cán bộ thực hiện việc tuyên truyền, hỗ trợ NNT; năng lực của họ trong việc giải quyết các vấn đề của người nộp thuế giúp người nộp thuế có thể thực hiện nghĩa vụ thuế dễ dàng hơn, tự giác hơn. Đây chính là những yếu tố rất lớn tạo nên sự tin tưởng của NNT vào bản chất tốt đẹp của thuế và vì vậy, sự tin tưởng của chính phủ cũng được gia tăng.
Như vậy, dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế và tuyên truyền pháp luật thuế không đơn thuần là nhằm tăng tính hiệu quả của quản lý thuế mà còn phải nhằm tới mục tiêu cao hơn, đó là có thể làm tăng sự ủng hộ của dân chúng đối với Chính phủ, thuận lợi hơn cho Chính phủ trong điều hành và quản lý.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trên địa bàn Quận Hà Đông trong thời gian tới
Năm 2011 là năm chịu nhiều ảnh hưởng từ việc thay đổi hàng loạt các nghị định, thông tư mới của các năm trước đó, đặc biệt từ năm 2011, tất cả các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chuyển sang sử dụng mẫu hóa đơn mới. Năm 2011 là năm đang tập trung và chỉ đạo quyết liệt về quy trình khai thuế qua mạng và gửi tờ khai qua mạng. Vì vậy công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT càng ngày càng phải được đề cao và chỉ đạo tập trung một cách mạnh mẽ, hướng tới những thay đổi và dự kiến của ngành thuế sẽ đạt được.
3.2.1 Xây dựng kế hoạch tuyên truyền, hỗ trợ trong từng giai đoạn
Công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT cũng như tất cả các công việc khác, muốn thu được hiệu quả cao nhất thì ngành thuế phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, khoa học, thiết thực cho từng giai đoạn nhất định.
KÕ ho¹ch tuyªn truyÒn, hç trî NNT n¨m ®îc x©y dùng trªn c¬ së ®¸nh gi¸ ph©n tÝch t×nh h×nh c«ng t¸c tuyªn truyÒn, hç trî n¨m tríc, nhu cÇu cña NNT vµ yªu cÇu c«ng t¸c tuyªn truyÒn, hç trî NNT cña ngµnh. Kế hoạch được xây dựng phải đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả và có khả năng thực hiện cao. Khách thể của hoạt động tuyên truyền và hỗ trợ thuế là NNT và các tầng lớp dân cư. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch tuyền truyền, hỗ trợ thì phải bắt nguồn từ đặc điểm, nhu cầu của các đối tượng. Nội dung, hình thức, thời điểm tuyên truyền, hỗ trợ phải phù hợp với từng nhóm.
Có thể phân loại NNT theo mức độ tuân thủ chính sách thuế để xác định được mức độ trọng tâm của từng hoạt động HTNNT đối với từng nhóm:
- Đối với các đối tượng thường xuyên chấp hành tốt, ví dụ: doanh nghiệp Nhà nước, các công ty lớn…nên chú trọng tư vấn hơn là tuyên truyền, hỗ trợ, vì họ đã có ý thức và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình.
- Đối với nhóm đối tượng vi phạm pháp luật thuế do vô ý: đặt trọng tâm vào hoạt động hướng dẫn, để giúp họ biết cách thực hiện đúng chính sách thuế.
- Đối với nhóm đối tượng vi phạm pháp luật thuế do cố ý: trước hết phải tuyên truyền cho họ hiểu chức năng, ý nghĩa, bản chất của thuế để tăng ý thức về thuế của họ, sau đó mới là các hoạt động hướng dẫn, tư vấn.
Khi cơ quan thuế tổ chức các buổi hướng dẫn, đối thoại với doanh nghiệp thì nên phân nhóm theo ngành nghề hoặc địa bàn, vì NNT này thường có cùng lỗi sai, vướng mắc. Trên cơ sở đó, bố trí cán bộ thuế, chuyên gia kế toán cho thích hợp.
Cơ quan thuế có thể tổng hợp nhu cầu của NNT bằng cách phát phiếu thăm dò thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn, gửi thư hoặc từ các nguồn thông tin khác (từ kinh nghiệm quản lý, thanh tra, kiểm tra…). Dựa vào đó, cơ quan thuế phân tích thông tin để lựa chọn hình thức, thời gian tuyên truyền thích hợp, thu hút sự chú ý của NNT. Hình thức được lựa chọn phải phù hợp với nhiều NNT và hiệu quả nhất. Ví dụ: cuối tháng 3 doanh nghiệp phải nộp tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp năm, thời gian để hướng dẫn thuế thu nhập doanh nghiệp nên vào khoảng tháng 2…
Đồng thời, cơ quan thuế phải phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng xây dựng kế hoạch cụ thể cho công tác tuyên truyền. Tổ chức định kỳ các cuộc thi tìm hiểu pháp luật thuế trên một số báo, đài với từng loại đối tượng dự thi: thiếu niên, học sinh, sinh viên, các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Phối hợp với các tổ chức, cá nhân khác trong toàn xã hội nhằm thực hiện tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Phối hợp và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân phát triển các hình thức dịch vụ tư vấn, kế toán thuế, đại lý kê khai thuế.
Phối hợp với các ngành và các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức xã hội... tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế. Rà soát, đánh giá hiệu quả các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ trong từng giai đoạn, nắm bắt tình hình và đề ra các biện pháp để hoàn thiện hơn công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT.
Thường xuyên cập nhật, nghiên cứu các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ được áp dụng trên thế giới. Đánh giá và đề xuất phương án áp dụng các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ mới, củng cố, hoàn thiện các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ hiện hành. Lập kế hoạch phát triển các hình thức, nội dung tập trung tuyên truyền, hỗ trợ NNT theo nhu cầu của NNT.
Xây dựng và triển khai hình thức trao đổi thông tin trực tuyến và thư điện tử với NNT thông qua hệ thống mạng ngành thuế, đánh giá, hoàn thiện, mở rộng và tiếp tục áp dụng trên phạm vi toàn quốc một cách khoa học và hiệu quả.
Tiếp tục tổ chức cơ chế đối thoại trực tiếp với NNT tại hội nghị, hội thảo nhằm giải đáp trực tiếp các vướng mắc của NNT. Xây dựng và triển khai hệ thống trả lời điện thoại tự động và vận hành duy trì hệ thống.
Xây dựng mô hình và thực hiện triển khai các điểm hỗ trợ trực tiếp NNT theo chuẩn quốc tế tại một số thành phố lớn ( Hà Nội, TP.HCM ) để đánh giá và chuẩn bị phương án triển khai tiếp theo. Xây dựng và triển khai chương trình, nội dung giáo dục về thuế bắt buộc ở các cấp đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc gia. Lập kế hoạch, phạm vi, giải pháp thực hiện.
3.2.2 Chuẩn hóa các nội dung tuyên truyền, hỗ trợ NNT
Từng bước hoàn thiện các nội dung tuyên truyền hỗ trợ và thống nhất triển khai toàn quốc. Rà soát toàn bộ nội dung của hệ thống tài liệu tuyên truyền, hỗ trợ NNT, bao gồm: các thông tin trên cơ sở dữ liệu của ngành thuế, tài liệu hướng dẫn kê khai thuế, các văn bản pháp luật về thuế, các ấn phẩm tuyên truyền về thuế, các bảng áp phích, pa nô... trên phạm vi toàn quốc.
Xây dựng yêu cầu và kế hoạch chuyển đổi, bổ sung trên phạm vi toàn quốc. Chuẩn hoá tài liệu theo quy định tại các VBPL về thuế đã sửa đổi, bổ sung, mới ban hành.
Xây dựng, cập nhật CSDL về hệ thống văn bản hướng dẫn về thuế để cung cấp trên trang Internet của ngành thuế.
Xây dựng các tài liệu hỗ trợ hướng dẫn kê khai, nộp thuế theo sắc thuế, theo ngành, nhóm NNT. Thực hiện cung cấp cho NNT trên phạm vi toàn quốc.
3.2.3 Hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế
Hành lang pháp lý đóng vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, điều đó còn có ý nghĩa quan trọng hơn trong lĩnh vực thuế - lĩnh vực đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm minh pháp luật Nhà nước.
Chính sách thuế càng rõ ràng, minh bạch sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hỗ trợ NNT, đảm bảo chất lượng của thông tin cung cấp, nâng cao tính hiệu quả loại hình hỗ trợ mới mẻ này.
Để công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT đạt hiệu quả, Pháp luật thuế cần có quy định mang tính pháp lý đối với hoạt động này như: quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người làm công tác tư vấn, qua đó ràng buộc trách nhiệm về độ tin cậy của thông tin tư vấn, hỗ trợ trong lĩnh vực thuế. Căn cứ để xác định độ tin cậy của thông tin là các Luật, Nghị định, Pháp lệnh, Thông tư và các văn bản đã được ban hành trong lĩnh vực thuế và các lĩnh vực có liên quan. Có như vậy, chất lượng cả công tác hỗ trợ trong lĩnh vực thuế mới được đảm bảo.
Bên cạnh đó cũng cần quy định chế tài xử lý trong trường hợp người làm công tác hỗ trợ, tư vấn thuế cung cấp thông tin sai. Bởi việc cung cấp thông tin không đúng có thể làm cho NNT mắc phải những sai phạm. Đặc biệt, cán bộ tư vấn, hỗ trợ lại tư vấn cho NNT để trốn thuế thì việc xử lý phải thật nghiêm minh.
Song song với việc ban hành và sửa đổi các luật thuế, thì luật thuế cũng cần có sự thống nhất với các bộ luật liên quan như: Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Kế toán, Luật kiểm toán, Luật Hải quan...
3.2.4 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT
Trong hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT thì yếu tố con người luôn giữ vai trò then chốt và có ý nghĩa quyết định. Với vai trò làm đại diện cho Nhà nước, làm cầu nối giữa Nhà nước với NNT. Mối quan hệ giữa cán bộ thuế và người nộp thuế là mối quan hệ diễn ra trong lĩnh vực thuế, giải quyết các vấn đề liên quan đến thuế theo pháp luật. Cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT phải là những người có năng lực thật sự, được đào tạo chính quy và đáp ứng đủ các yêu cầu:
- Về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ.
Cán bộ làm việc trong Đội tuyên truyền và hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ được giao để hoàn thành nhiệm vụ chung của Đội, để thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ này cán bộ thuế cần:
+ Nắm vững các kiến thức về tổ chức ngành và phân cấp quản lý của ngành.
+ Nắm rõ các kiến thức thuế nói chung và từng sắc thuế nói riêng.
+ Quy trình, thủ tục đăng ký, kê khai, tính thuế và nộp thuế, các quy định và quy trình sử dụng biên lai, ấn chỉ thuế.
+ Có hiểu biết về kiến thức kế toán áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt các nghiệp vụ kế toán có liên quan đến thuế.
+ Các kiến thức cơ bản về kinh tế tài chính và pháp luật có liên quan.
+ Các kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế.
- Một số kiến thức khác:
+ Biết sử dụng thành thạo các phương tiện làm việc hiện đại như máy vi tính...
+ Có trình độ ngoại ngữ tốt để nghiên cứu tài liệu và giao tiếp với NNT là người nước ngoài.
+ Có kinh nghiệm thực tế.
+ Nắm vững và vận dụng thành thạo các kỹ năng và nguyên tắc giao tiếp ứng xử với NNT.
- Ngoài những kiến thức phục vụ cho công việc, cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT phải là những người có đạo đức, tác phong.
+ Có tư cách đạo đức tốt.
+ Triệt để tuân thủ pháp luật, tuân thủ các quy định của Nhà nước, của ngành trong công việc và ngay cả khi phát ngôn.
+ Có quan niệm đúng đắn về vị trí của NNT và cán bộ thuế, xác định rõ quyền hạn của bản thân khi thi hành nhiệm vụ từ đó có thái độ giao tiếp đúng mực với NNT.
+ Chân thành, thông cảm, nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ NNT thực hiện đúng pháp luật và chính sách của Nhà nước về thuế.
+ Hành động, lời nói, văn phạm phải giản dị, phổ thông đại chúng, đúng yêu cầu, đúng quy chế với công cụ.
+ Ăn mặc, trang phục đúng quy cách của ngành.
+ Qua giao tiếp ứng xử phải được các đồng nghiệp, cấp trên, cấp dưới và nhân dân ủng hộ.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, hỗ trợ NNT, cán bộ thuế phải tiếp xúc với rất nhiều đối tượng liên quan đến nhiều khía cạnh trong lĩnh vực thuế. Trong khi đó chính sách thuế ở nước ta lại thường xuyên thay đổi, bổ sung vì vậy trong khi thực hiện nhiệm vụ tư vấn cán bộ thuế phải:
Thường xuyên củng cố và bổ sung kiến thức cần thiết và những kỹ năng giao tiếp cơ bản để làm tốt công việc được giao. Cần nhận thức rõ ràng rằng NNT không còn là đối tượng bị cơ quan thuế quản lý mà đã trở thành khách hàng quan trọng, là người kết hợp cùng cán bộ thuế và cơ quan thuế hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước
Cán bộ thuế trong khi trả lời cần đảm bảo tính chính xác của thông tin cung cấp. Muốn vậy cần nắm vững các cơ sở pháp lý của những vấn đề đưa ra trả lời. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nó tạo uy tín của cán bộ thuế, của cơ quan thuế đối với NNT, khách hàng của cơ quan thuế.
Cung cấp những thông tin chất lượng cho NNT là yêu cầu cơ bản của bộ phận hỗ trợ NNT. Kiểm tra chất lượng thông tin trước khi cung cấp cho khách hàng là nhiệm vụ quan trọng; bên cạnh đó cán bộ thuế làm công tác này cũng cần nắm bắt thái độ tiếp nhận của khách hàng đối với các thông tin được đưa ra; khách hàng có thoả mãn với những thông tin đã nhận được hay không, mức độ thoả mãn như thế nào... Trên cơ sở các thông tin phản hồi này, cán bộ thuế nói riêng và Đội tuyên truyền hỗ trợ nói chung phải điều chỉnh, bổ sung và cập nhật các thông tin cần thiết để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của NNT.
Để đáp ứng yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ thì cán bộ thuế phải được đào tạo một cách cơ bản, có hệ thống. Muốn vậy, trước hết ngành thuế cần phối hợp chặt chẽ hơn với ngành giáo dục, đặc biệt là bậc đại học, để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành thuế trong tương lai.
Việc tuyển chọn cán bộ làm ở bộ phận tuyên truyền, tư vấn thuế phải thông qua các cuộc thi do Tổng cục thuế hoặc Cục thuế Hà Nội tổ chức. Các nội dung thi bao gồm: chính sách thuế, nghiệp vụ kế toán, kỹ năng thuyết trình,.. chứ không phải bằng các hình thức thi như hiện nay. Cũng có thể tuyển chọn những cán bộ thuế có kinh nghiệm, công tác trong ngành thuế từ 10 năm trở lên không phải thi. Để giải quyết vấn đề thiếu hụt đội ngũ cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, có thể ngành thuế sẽ phải điều chuyển số cán bộ, công chức hiện đang làm việc ở bộ phận khác trong nội bộ cơ quan thuế (ở Tổng cục, Cục và Chi cục) về bộ phận tuyên truyền - hỗ trợ NNT theo cơ cấu chức năng, nhiệm vụ mới.
3.2.5 Hoàn thiện cơ sở, vật chất ngành thuế, tạo điều kiện phát triển công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của doanh nghiệp thì cần tăng cường đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Muốn công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT phát triển mở rộng thì cần phải có một hệ thống cơ sở vật chất đủ mạnh cho nó. Theo tình hình thực tế ở Chi cục thuế Quận Hà Đông hiện nay, thì Chi cục cần phải đầu tư hiện đại hoá hơn nữa cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Ở Đội tuyên truyền hỗ trợ hiện nay còn thiếu các thiết bị hiện đại như: máy tính xách tay,...
Vị trí của Đội tuyên truyền hỗ trợ NNT Hà Đông đã đặt tại vị trí dễ tìm nhưng phòng vẫn chưa đủ rộng để đáp ứng được khi doanh nghiệp đến nộp tờ khai mỗi ngày, đặc biệt vào những ngày 20 hàng tháng, có thể có hàng nghìn doanh nghiệp, khi đó sẽ dẫn đến tình trạng chen lấn, không có trật tự tại cơ quan. Hội trường của Chi cục cần được trang bị đầy đủ hơn các trang thiết bị hiện đại để phục vụ cho công tác giảng dạy, tập huấn cho NNT.
Công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT tốn nhiều chi phí, nhất là chi phí để phát các chương trình trên đài phát thanh, đài truyền hình; kinh phí tổ chức các lớp tập huấn,... Do đó Chi cục thuế Quận Hà Đông cần phải có đủ chi phí để đội hoàn thành nhiệm vụ được giao, hoặc đề nghị lên các cơ quan cấp trên như Cục, Tổng cục thuế để được cấp kinh phí, và đưa ra ý kiến về vấn đề này.
Ngành thuế đang dần dần chuyển dần sang các hình thức kê khai, nộp tờ khai điện tự, như vậy ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế là một việc rất cần thiết và cấp bách. Cần được sự chỉ đạo thông suốt từ cấp trên để có thể tạo điều kiện cho Chi Cục hoàn thành tốt nhiệm vụ.
3.2.6 Xây dựng hệ thống chuẩn mực trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT
Trong quá trình hiện đại hoá ngành thuế, để tăng tính hiệu quả của công tác quản lý thuế, cơ quan thuế cũng cần quan tâm tới việc xây dựng và thực thi các chuẩn mực để đánh giá công tác quản lý và chỉ đạo. Đặc biệt trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT cũng cần phải có những chuẩn mực bởi kết quả của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT là ý thức trách nhiệm nộp thuế của người dân đối với Nhà nước do đó rất khó đánh giá được hiệu quả của nó. Vì vậy, việc xây dựng những chuẩn mực cần thiết trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT là hết sức cần thiết.
Công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT không chỉ nhằm vào việc xử lý tờ khai thuế, nộp thuế chính xác và đúng hạn mà còn cung cấp các thông tin chính xác và kịp thời cho NNT khi họ cần sự giúp đỡ từ phía cơ quan thuế. Điều quan trọng đối với Chi cục thuế Quận Hà Đông hiện nay là cần thiết lập các chuẩn mực thực hiện tuyên truyền, hỗ trợ NNT như: chuẩn mực về tư vấn, hỗ trợ trực tiếp; chuẩn mực về tư vấn, hỗ trợ qua điện thoại...
Tính hiệu quả có thể đạt được không chỉ thông qua việc xử lý nhanh số lượng lớn các thắc mắc của NNT mà nó còn phải được đảm bảo bằng mức độ chính xác cao của các câu trả lời tư vấn. Mục tiêu hàng đầu của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT là nâng cao tính tự giác tuân thủ của NNT, nhưng việc cung cấp thông tin nhanh mà không chính xác có thể gây ra những tác động ngược trở lại, NNT có thể vi phạm pháp luật thuế khi làm theo. Vì vậy, để kiểm tra được mức độ chính xác của thông tin cung cấp thì các cán bộ quản lý và giám sát viên phải điều hành chặt chẽ công việc của các nhân viên tham gia và công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về các chuẩn mực về công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền hỗ trợ, đánh giá, hoàn chỉnh, bổ sung và triển khai thực hiện tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tuyên truyền hỗ trợ trên phạm vi toàn quốc.
Tổ chức xây dựng mẫu biểu, phương pháp điều tra đánh giá chất lượng phục vụ của cơ quan thuế đối với các đối tượng trong và ngoài ngành thuế. Triển khai điều tra, thu thập thông tin đánh giá hàng năm.
Rà soát, hoàn thiện các quy trình, quy chế tuyên truyền, hỗ trợ NNT trong cơ chế TKTN. Xây dựng quy trình và sổ tay nghiệp vụ hướng dẫn công tác tuyên truyền, hỗ trợ về thuế triển khai thực hiện thống nhất trên toàn quốc.
3.2.7 Xây dựng chương trình tăng cường hiểu biết về thuế trong trường học
Một trong những nhiệm vụ hết sức cần thiết của quản lý thuế là làm sao để các công dân trẻ tuổi hiểu được nghĩa vụ của mình khi đến tuổi kê khai thuế. Vì vậy, các kiến thức cơ bản về trách nhiệm của công dân cần được học ngay trong hệ thống các trường giáo dục phổ thông. Hoạt động tuyên truyền pháp luật thuế có thể được thực hiện thông qua các chương trình học, trong đó, nội dung của chương trình học sẽ tập trung giải thích về lợi ích của Chính phủ, sự cần thiết của thuế và cách thức đơn giản nhất để có thể kê khai một tờ khai thuế. Các chương trình có thể được xây dựng như một nội dung bắt buộc trong các trường học cơ sở và các trường trung học phổ thông hoặc được thực hiện dưới hình thức truyện tranh hài để đảm bảo người dân đều có thể hiểu được. Đây được coi là một hình thức có hiệu quả lâu dài và sâu sắc nhất đối với NNT. Tuy nhiên, thực hiện hình thức này cần phải có sự nhất trí cao của cấp lãnh đạo cao nhất trong Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan liên quan.
Xây dựng cơ chế phối hợp và triển khai với các ngành có liên quan ( Bộ giáo dục và đào tạo ). Xây dựng mô hình chương trình tư vấn tình nguyện có thể là những hoạt động thường xuyên hoặc các chiến dịch với sự tham gia của các chuyên gia đã nghỉ hưu nhưng muốn tham gia hoạt động, các sinh viên chuyên ngành thuế và hải quan. Ở hình thức này, cơ quan thuế đóng vai trò là người tổ chức, tạo điều kiện thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ thuế.
3.2.8 Các giải pháp khác
Ngoài các giải pháp đã nêu trên, để nâng cao tính hiệu quả trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT thì việc áp dụng một số biện pháp mang tính điều kiện, mang tính cần thiết, như:
- Việc tư vấn, hỗ trợ NNT không chỉ dừng lại ở chính sách, chế độ về thuế, các luật thuế mà còn phải kết hợp với chế độ, quy định của các luật có liên quan nhất là về Kế toán, Kiểm toán.
- Đăng tải thường xuyên, kịp thời các chủ trương chính sách pháp luật mới về thuế của Đảng và Nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng; tích cực phát hiện và nêu gương người tốt việc tốt nhằm nhân rộng mô hình tiên tiến trong ngành Thuế và toàn xã hội.
- Tăng cường khối lượng in các văn bản pháp luật mới về thuế, tổng hợp các vướng mắc và giải đáp về thuế. Có thể cung cấp trực tiếp các ấn phẩm này ngay trong các buổi hội thảo, tập huấn về thuế tại cơ quan thuế.
- NNT cần tích cực, chủ động tìm hiểu sâu hơn về luật thuế, thay vì ỷ lại vào sự hướng dẫn của cơ quan thuế.
- Tổ chức các buổi tập huấn cho cán bộ làm công tác tuyên truyền về trình độ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp ứng xử với NNT .
- Có chế độ lương và chế độ thưởng thích hợp để khuyến khích các cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ.
KẾT LUẬN
Qua thời gian thực hiện mô hình tuyên truyền và hỗ trợ NNT, Chi cục thuế Quận Hà Đông đã đạt được những kết quả không nhỏ góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà nước. Thông qua hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT, Chi cục đã giúp cho NNT nắm bắt thông tin kịp thời về chính sách, pháp luật thuế, tạo điều kiện tốt nhất cho NNT thực hiện nghĩa vụ thuế, giảm rủi ro trong sản xuất, kinh doanh. Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì những khó khăn trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT cũng bộc lộ rõ và cần có biện pháp khắc phục để công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được cơ chế tự khai, tự nộp mà ngành thuế đang áp dụng.
Dựa trên cơ sở lý luận và thông qua quá trình thực tập tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông, tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Trong đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp”, tôi đã đưa ra một số giải pháp nhằm mục tiêu hoàn thiện hơn để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong thời gian tới. Tuy nhiên đây mới chỉ là những ý kiến của bản thân tôi và với giới hạn về trình độ nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến của các thầy cô giáo và các cán bộ đội tuyên truyền hỗ trợ Chi Cục thuế Quận Hà Đông để đề tài có thể hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của TS Vương Thị Thu Hiền – Giáo viên hướng dẫn, sự giúp đỡ của đồng chí đội trưởng Đội tuyên truyền và hỗ trợ, ban lãnh đạo Chi Cục thuế Quận Hà Đông cùng toàn thể cán bộ công chức Đội tuyên truyền và hỗ trợ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Quản lý thuế - Học viện tài chính
Báo cáo tổng kết năm 2009-2010 của Chi Cục thuế Quận Hà Đông
Www.mof.gov.vn
Webkinhte.com
Webkinhte.com
Báo cáo tình hình thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT 2009 - 2010 của Chi cục thuế Quận Hà Đông.
Tạp chí Thuế Nhà nước 2009- 2010.
Luận văn các khoá trước.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NNT
Người nộp thuế
HTNNT
Hỗ trợ người nộp thuế
TT&HT
Tuyên truyền và hỗ trợ
VBPL
Văn bản pháp luật
TKTN
Tự khai- Tự nộp
CSDL
Cơ sở dữ liệu
MST
Mã Số Thuế
TTHC
Thủ tục hành chính
SXKD
Sản xuất kinh doanh
TNCN
Thu nhập cá nhân
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
GTGT
Gía trị gia tăng
TT
Thông tư
NĐ-CP
Nghị định- Chính phủ
SD
Sử dụng
PT-TH
Phát thanh- Truyền hình
NSNN
Ngân sách nhà nước
TP
Thành phố
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Uỷ ban nhân dân
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp.doc