LỜI NÓI ĐẦU
Vốn cố định (VCĐ) là một bộ phận vốn đầu tư ứng trước về Tài sản cố định (TSCĐ) nên quy mô của VCĐ lớn hay nhỏ sẽ quyết định đến qui mô của TSCĐ ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang thiết bị công nghệ, năng lực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy VCĐ là một tiền đề không thể thiếu đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, là một bánh răng trong guồng máy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Người ta đã từng vì VCĐ như dòng máu của doanh nghiệp. Dòng máu này có tuần hoàn, chất lượng thì doanh nghiệp mới phát triển hưng thịnh. Ngược lại, nếu dòng máu này bị nghẽn tắc hay kém chất lượng sẽ khiến cho doanh nghiệp bị lụi bại. Nhận thức được tầm quan trọng đó, mỗi doanh nghiệp không thể không chú ý, quan tâm đến các phương pháp sử dụng hiệu quả nguồn VCĐ quí báu của doanh nghiệp mình.
Hiện nay, đất nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các doanh nghiệp được toàn quyền tự quyết trong mọi hoạt động và trong sử dụng VCĐ. Chính vì vậy, quản lý việc sử dụng VCĐ là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mỗi Công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc quản lý và sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp , sau thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần may II – Hải Dương em đã hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình với đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty cổ phần may II Hải Dương”.
Những vấn đề trình bày trong bản khoá luận là những nghiên cứu về quá trình quản lý sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp sao cho việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn đạt hiệu quả cao nhất.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản khoá luận bao gồm ba phần chính:
Chương I: Vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý vốn cố định tại Công ty Cổ phần may II Hải Dương.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Cổ phần may II Hải Dương.
Hoàn thành bản khoá luận em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn Bùi Tiến Hanh, sự giúp đỡ và chỉ bảo của tập thể cán bộ công nhân viên tại Công ty Cổ phần may II Hải Dương. Song di trình độ còn hạn chế cũng như kinh nghiệm còn non yếu và tài liệu tham khảo còn hạn hẹp nên chắc chắn bài khoá luận của em sẽ có nhiều thiếu sót, em kính mong được sự hướng dẫn, góp ý của thầy cô giáo, các cô chú anh chị trong Công ty để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. VỐN CỐ ĐỊNH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
1.1. TSCĐ và vốn cố định của doanh nghiệp :
1.1.1. TSCĐ trong doanh nghiệp :
Một bộ máy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp muốn hành động được thì không thể thiếu được các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động và các đối tượng lao động.
Khác với các đối tượng lao động (nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán tp ) các tư liệu lao động (như máy móc và thiết bị nhà xưởng, phương tiện vận tải ) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động biến đổi nó theo mục đích của mình. Trong đó thì TSCĐ trong các doanh nghiệp lại là bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động. Chúng được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khái niệm TSCĐ : TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, còn giá trị của nó thì được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định số 149/ 2001/QĐ - BTC ngày 31/12/2001, một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải đồng thời thoả mãn 4 điều kiện sau:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
- Nguyên giá của tài sản được xác định một cách đáng tin cậy.
- Phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ một năm trở lên.
- Phải đạt giá trị tối thiểu ở mức quy định. Tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá cả của từng thời kỳ.
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là công cụ dụng cụ lao động nhỏ, được sắm bằng nguồn vốn lưu động nhỏ của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế, việc xem xét tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ của doanh nghiệp là phức tạp hơn.
Có thể cùng một tài sản trong trường hợp này được coi là TSCĐ song ở trường hợp khác chỉ được coi là đối tượng lao động. Ví dụ máy móc thiết bị, nhà xưởng dùng trong sản xuất là các TSCĐ song nếu là các sản phẩm mới hình thành đang được bảo quản trong kho thành phẩm, chờ tiêu thụ thì chỉ được coi là tư liệu lao động. Vì vậy việc phân biệt TSCĐ với các đối tượng lao động trong một số trường hợp lại không đơn thuần dựa vào đặc tính hiẹn vật.
Một số tư liệu lao động nếu xét riêng lẻ từng bộ phận thì không đủ các điều kiện trên song lại được tập hợp sử dụng đồng bộ như một hệ thống thì cả hệ thống đó được coi như một TSCĐ. Ví dụ trang thiết bị cho một văn phòng giao dịch của doanh nghiệp.
Một số khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu đồng thời thoả mãn 2 điều kiện trên và không hình thành các TSCĐ hữu hình thì được coi là các TSCĐ vô hình của doanh nghiệp. Vận dụng chi phí mua bằng phát minh sáng chế của đơn vị
Chính bởi sự phức tạp trong các xác định TSCĐ nên việc quản lý vốn cố định và TSCĐ trên thực tế là một công việc vô cùng phức tạp và cần thiết phải chú trọng.
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2983 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty cổ phần may II Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn cố định (VCĐ) là một bộ phận vốn đầu tư ứng trước về Tài sản cố định (TSCĐ) nên quy mô của VCĐ lớn hay nhỏ sẽ quyết định đến qui mô của TSCĐ ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang thiết bị công nghệ, năng lực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy VCĐ là một tiền đề không thể thiếu đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, là một bánh răng trong guồng máy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Người ta đã từng vì VCĐ như dòng máu của doanh nghiệp. Dòng máu này có tuần hoàn, chất lượng thì doanh nghiệp mới phát triển hưng thịnh. Ngược lại, nếu dòng máu này bị nghẽn tắc hay kém chất lượng sẽ khiến cho doanh nghiệp bị lụi bại. Nhận thức được tầm quan trọng đó, mỗi doanh nghiệp không thể không chú ý, quan tâm đến các phương pháp sử dụng hiệu quả nguồn VCĐ quí báu của doanh nghiệp mình.
Hiện nay, đất nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các doanh nghiệp được toàn quyền tự quyết trong mọi hoạt động và trong sử dụng VCĐ. Chính vì vậy, quản lý việc sử dụng VCĐ là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mỗi Công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc quản lý và sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp, sau thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần may II – Hải Dương em đã hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình với đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty cổ phần may II Hải Dương”.
Những vấn đề trình bày trong bản khoá luận là những nghiên cứu về quá trình quản lý sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp sao cho việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn đạt hiệu quả cao nhất.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản khoá luận bao gồm ba phần chính:
Chương I: Vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý vốn cố định tại Công ty Cổ phần may II Hải Dương.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Cổ phần may II Hải Dương.
Hoàn thành bản khoá luận em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn Bùi Tiến Hanh, sự giúp đỡ và chỉ bảo của tập thể cán bộ công nhân viên tại Công ty Cổ phần may II Hải Dương. Song di trình độ còn hạn chế cũng như kinh nghiệm còn non yếu và tài liệu tham khảo còn hạn hẹp nên chắc chắn bài khoá luận của em sẽ có nhiều thiếu sót, em kính mong được sự hướng dẫn, góp ý của thầy cô giáo, các cô chú anh chị trong Công ty để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. VỐN CỐ ĐỊNH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
1.1. TSCĐ và vốn cố định của doanh nghiệp:
1.1.1. TSCĐ trong doanh nghiệp:
Một bộ máy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp muốn hành động được thì không thể thiếu được các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động và các đối tượng lao động.
Khác với các đối tượng lao động (nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán tp…) các tư liệu lao động (như máy móc và thiết bị nhà xưởng, phương tiện vận tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động biến đổi nó theo mục đích của mình. Trong đó thì TSCĐ trong các doanh nghiệp lại là bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động. Chúng được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khái niệm TSCĐ : TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, còn giá trị của nó thì được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định số 149/ 2001/QĐ - BTC ngày 31/12/2001, một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải đồng thời thoả mãn 4 điều kiện sau:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
- Nguyên giá của tài sản được xác định một cách đáng tin cậy.
- Phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ một năm trở lên.
- Phải đạt giá trị tối thiểu ở mức quy định. Tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá cả của từng thời kỳ.
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là công cụ dụng cụ lao động nhỏ, được sắm bằng nguồn vốn lưu động nhỏ của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế, việc xem xét tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ của doanh nghiệp là phức tạp hơn.
Có thể cùng một tài sản trong trường hợp này được coi là TSCĐ song ở trường hợp khác chỉ được coi là đối tượng lao động. Ví dụ máy móc thiết bị, nhà xưởng… dùng trong sản xuất là các TSCĐ song nếu là các sản phẩm mới hình thành đang được bảo quản trong kho thành phẩm, chờ tiêu thụ thì chỉ được coi là tư liệu lao động. Vì vậy việc phân biệt TSCĐ với các đối tượng lao động trong một số trường hợp lại không đơn thuần dựa vào đặc tính hiẹn vật.
Một số tư liệu lao động nếu xét riêng lẻ từng bộ phận thì không đủ các điều kiện trên song lại được tập hợp sử dụng đồng bộ như một hệ thống thì cả hệ thống đó được coi như một TSCĐ. Ví dụ trang thiết bị cho một văn phòng giao dịch của doanh nghiệp.
Một số khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu đồng thời thoả mãn 2 điều kiện trên và không hình thành các TSCĐ hữu hình thì được coi là các TSCĐ vô hình của doanh nghiệp. Vận dụng chi phí mua bằng phát minh sáng chế của đơn vị…
Chính bởi sự phức tạp trong các xác định TSCĐ nên việc quản lý vốn cố định và TSCĐ trên thực tế là một công việc vô cùng phức tạp và cần thiết phải chú trọng.
1.1.2. Đặc điểm của các TSCĐ trong doanh nghiệp.
Từ khái niệm TSCĐ ở trên, ta có thể rút ra những đặc điểm chung của các TSCĐ như sau:
- TSCĐ trong doanh nghiệp tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Bởi vì TSCĐ là loại tư liện lao động có thời gian sử dụng lâu dài cho phép nó tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trong quá trình tham gia sản xuất, hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ không thay đổi. Bởi vì TSCĐ là loại tư liệu lao động dùng để biến đổi đối tượng lao động, hình thành những sản phẩm con người mong muốn, thường mỗi loại TSCĐ chỉ làm ra một số sản phẩm nhất định trong suốt cả quá trình sản xuất. Trong quá trình đó, nó bị hao mòn dần chứ không biến đổi về hình thái vật chất hay đặc tính sử dụng ban đầu.
- Giá trị TSCĐ được chuyển dịch từng phần vào giá trị của sản phẩm sản xuất ra cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi sản phẩm được tiêu thụ thì phần chi phí cho TSCĐ quay trở lại hay được bù đắp.
1.1.3. Phân loại TSCĐ của doanh nghiệp.
Việc quản lý doanh nghiệp sẽ được đơn giản hoá đi rất nhiều nhờ vào việc phân loại TSCĐ. Hay có thể nói việc phân loại TSCĐ là sự phân chia toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức nhất định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có các tiêu thức phân loại chủ yếu sau:
1.1.3.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện
Theo phương pháp này thì TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:
- TSCĐ hữu hình (TSCĐ có hình thái vật chất) là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng hình thái vất chất cụ thể như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải… Những TSCĐ này có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu được lập lại trên là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- TSCĐ vô hình (TSCĐ không có hình thái vật chất): Là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí mua bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại, giá trị lợi thế thương mại.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý có 1 nhãn quan tổng thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Nhờ đó mà xác định được các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn và tính khấu hao cũng được đề ra hợp lý chính xác hơn.
1.1.3.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng
Theo tiêu thức này. TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
- TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: Là những tài sản dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
- TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc phòng. Đó là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho hoạt động phúc lợi, sự nghiệp (như công trình phúc lợi) các TSCĐ sử dụng cho hoạt động đảm bảo an ninh quốc phòng của doanh nghiệp.
- Các TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ Nhà nước: Đó là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
1.1.3.3. Phân loại theo công dụng kinh tế
Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành các loại sau:
- Nhà cửa, vật kiến trúc: Là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho…
- Máy móc thiết bị: Là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc công tác, thiết bị chuyên dùng những máy móc đơn lẻ…
- Phương tiện vận tải, thiết bị chuyền dẫn. Là các loại phương tiện vận tải như phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước, băng tải…
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: Là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, thiết bị, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút bụi…
- Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm là các vườn cây lâu năm như vườn chè, vườn cafê, vườn cây cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, đàn bò….
- Các loại TSCĐ khác: Là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên như tác phẩm nghệ thuật, tranh ảnh…
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sử dụng TSCĐ và trích khấu hao TSCĐ chính xác.
1.1.3.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng.
Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp thành các loại:
- TSCĐ đang sử dụng: Đó là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp hay an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
- TSCĐ chưa cần dùng: Là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, song hiện tại chưa cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này.
- TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: Là những TSCĐ không cần thiết hay không hù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng chúng.
Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá các loại TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Từ đó sẽ có biện pháp sử dụng cũng như quản lý việc sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp một cách có hiệu quả nhất.
1.1.4. Vốn cố định và đặc điểm luân chuyển của VCĐ
1.1.4.1. Khái niệm VCĐ
Để tiến hành bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng vốn ứng trước nhất định đề đầu tư vào mua sắm, xây dựng, lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình được gọi là VCĐ của doanh nghiệp. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì số vốn này sẽ không bị mất đi và được thu hồi lại sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của mình.
Như vậy, VCĐ là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình.
1.1.4.2. Đặc điểm luân chuyển của VCĐ
Qui mô của VCĐ lớn hay nhỏ sẽ quyết định qui mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến tình trang thiết bị kỹ thuật công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ có thể khái quát về đặc điểm luân chuyển của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
- Một là: VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh sản phẩm, điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định.
- Hai là: VCĐ luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kì sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, giá trị sử dụng của TSCĐ giảm dần, theo đó VCĐ cũng được tách thành 2 phần tương ứng, một phần gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm hay tạo nên giá trị sản phẩm phần còn lại được cố định trong đó. Trong các chu kì kế tiếp nếu như phần vốn luân chuyển tăng dần thì phần vốn cố định lại giảm dần đi tương ứng với mức suy giảm giá trị sử dụng của TSCĐ.
- Ba là: Sau nhiều chu kì sản xuất VCĐ mới hoàn thành 1 vòng luân chuyển.
Sau mỗi chu kì sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần phát triển lên sang phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm dần xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những điểm luân chuyển trên đây của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải luân gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp. Sao cho không ngừng giá phát triển VCĐ của doanh nghiệp trên mọi hình thái biểu hiện bởi quy mô của VCĐ sẽ quyết định qui mô của TSCĐ cùng với trình độ quản lý nó có ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ trang thiết bị kỹ thuật cũng như qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Khấu hao TSCĐ.
1.2.1. Hao mòn TSCĐ.
Hao mồn TSCĐ được biểu hiện dưới 2 hình thức.
1.2.1.1. Hao mòn hữu hình của TSCĐ.
Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất về giá trị sử dụng và giá trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể người thấy được sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất.
Về giá trị sử dụng đó là sự giảm sút về chất lượng tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sử dụng và cuối cùng không sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị đó là sự phát triển giảm dần giá trị hao mòn vào giá trị sản xuất. Đối với các ý vô hình, hao mòn hữu hình chỉ thể hiện ở sự hao mòn về mặt giá trị.
Nguyễn nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các nhân tố trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng việc chấp hành các qui phạm kỹ thuật trong sử dụng và bảo vệ TSCĐ. Ngoài ra còn có các nguyên tố về tự nhiên, môi trường, về chất lượng chế tạo TSCĐ…
Việc nhận thức rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến mức độ hao mòn hữu hình TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết hữu hiệu để hạn chế nó.
1.2.1.2. Hao mòn vô hình của TSCĐ.
Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị của TSCĐ, biểu hiện sự giảm sút về giá trị trao đổi của TSCĐ do ảnh hưởng của tiến bộ của khoa học kỹ thuật có các loại hao mòn vô hình sau:
* Hao mòn vô hình loại 1:
TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do đã có những TSCĐ như cũ song giá mua lại rẻ hơn. Do đó các TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị của mình.
* Hao mòn vô hình loại 2:
TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do có những TSCĐ mới tuy mua với giá trị như cũ nhưng lại hoàn thiện hơn về mặt kỹ thuật. Do đó TSCĐ mới tốt hơn mà TSCĐ cũ bị mất đi một phần giá trị của mình. Đó chính là phần TSCĐ cũ không chuyển dịch được vào giá trị sản phẩm kể từ khi có TSCĐ mới xuất hiện.
* Hao mòn vô hình loại 3:
TSCĐ bị mất giá trị hoàn toàn do chấm dứt chu kì sống của sản phẩm, tất yếu dẫn đến những TSCĐ sử dụng để chế tạo các sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng. Hoặc trong các trường hợp các máy móc thiết bị qui trình công nghệ…còn nằm trong dự án thiết kế, các bản dự thảo phát minh song đã trở nên lạc hậu tại thời điểm đó. Điều này cho thấy hao mòn vô hình không chỉ xảy ra đối với các TSCĐ hữu hình mà còn với cả các TSCĐ vô hình.
Nguyên nhân cơ bản của hao mòn vô hình là sự quá trình của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này có ý nghĩa rất quyết định trong việc tạo ra các lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường.
1.2.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao
1.2.2.1. Khái niệm khấu hao TSCĐ
Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào giá trị sử dụng sản xuất trong kì gọi là khấu hao TSCĐ. Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp.
Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được coi là 1 yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ.
Về nguyên tắc, việc tính khấu hao TSCĐ phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu trong thực tế sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải biết xử lý một cách linh hoạt mối quan hệ giữa yêu cầu tính đúng , tính đủ chi phí khấu hao ở đầu vào và giá bán sản phẩm ở đầu ra phù hợp với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Biện pháp quan trọng nhất là doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các TSCĐ trong doanh nghiệp.
1.2.2.2.Các phương pháp khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp có thể tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình để lựa chọn các phương pháp khấu hao nhất định. Việc lựa chọn đúng đắn các phương pháp khấu hao TSCĐ là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý VCĐ trong các doanh nghiệp. Thông thường có các phương pháp khấu hao cơ bản sau:
* Phương pháp khấu hao bình quân (phương pháp khấu hao tuyến tính cố định hoặc phương pháp khấu hao đường thẳng).
Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất được sử dụng khá phổ biến để tính khấu hao các loại TSCĐ. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ theo công thức:
MKH
=
NG
T
TKH
=
MKH
x 100%
Hay
TKH
=
1
x
100%
NG
T
MKH: Mức tính khấu hao trung bình hàng năm
TKH: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm
NG: Nguyên giá cuả TSCĐ
T: Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm)
Nếu doanh nghiệp trích khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao hàng năm chia cho 12.
- Ưu điểm: ưu điểm chung của phương pháp khấu hao bình quân là cách tính đơn giản, dễ hiểu. Mức khấu hao được tính vào giá thành ấn định, tạo điều kiện ổn định cho giá thành sản phẩm.
- Nhược điểm: Không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong các kì sử dụng TSCĐ khác. Hơn nữa, do tính bình quân nên khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, làm cho TSCĐ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình…
* Phương pháp khấu hao giảm dần:
Thực chất của phương pháp này là đẩy nhanh mức khấu hao TSCĐ trong những năm đầu sử dụng giảm dần mức khấu hao theo thời hạn sử dụng. Phương pháp khấu hao giảm dần có 2 cách tính toán tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm, đó là phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần hoặc khấu hao theo tổng số thứ tự giảm dần:
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần: Số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời hạn sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi.
MKHi = Gcđi x TKH
MKHi: Mức khấu hao ở năm thứ i
TKH: Tỷ lệ khấu hao hàng năm (theo phương pháp số dư)
Với: TKH = TKH x Hđc
Trong đó: TKH: tỷ lệ KH bình quân ban đầu
Hcđ: Hệ số điều chỉnh
- Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tư năm sử dụng :
Theo phương pháp này số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân giá trị ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ giảm dần qua các năm.
MKHi = NG x TKHi
Trong đó:
TKH
=
2 (T.t + 1)
T (T+1)
MKHi: Mức khấu hao hàng năm
NG: Nguyên giá của TSCĐ
TKHi: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng
T: Thời gian sự kiến sử dụng TSCĐ
+ Ưu điểm: Khắc phục được những nhược điểm của phương pháp khấu hao bình quân, phản ánh chính xác hơn mức khấu hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư mua sắm TSCĐ trong những năm đầu sử dụng, hạn chế các ảnh hưởng của hao mòn vô hình.
+ Nhược điểm: Việc tính toán mức kế hoạch và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức tạp hơn, số tiền trích khấu hao luỹ kế đến cuối năm cuối cùng thời hạn sử dụng TSCĐ cũng chưa bù đắp toàn bộ giá trị ban đầu vào TSCĐ của doanh nghiệp.
* Phương pháp khấu hao giảm dần kết hợp với khấu hao bình quân:
Để khắc phục nhược điểm của cả hai phương pháp trên người ta thường sử dụng kết hợp cả hai phương pháp đó. Đặc điểm của phương pháp này là trong những năm đầu sử dụng TSCĐ người ta sử dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những năm cuối thì thực hiện phương pháp bình quân. Mức khấu hao bình quân trong năm cuối của thời gian sử dụng TSCĐ sẽ bằng tổng giá trị còn lại của TSCĐ chia cho số năm sử dụng còn lại. Doanh nghiệp không được tiếp tục tính khấu hao đối với những TSCĐ hữu hình đã khấu hao hết giá trị nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc nghiên cứu các phương pháp khấu hao TSCĐ là một căn cứ quan trọng giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc thu hồi, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Đồng thời cũng là căn cứ cho việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ của các doanh nghiệp.
1.2.2.3. Lập kế hoạch khấu hao TSCĐ và quản lý quĩ khấu hao của doanh nghiệp
Lập kế hoạch khấu hao TSCĐ hàng năm là một nội dung quan trọng được quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp. Thông qua kế hoạch khấu hao, doanh nghiệp có thể thấy được nhu cầu tăng, giảm TSCĐ trong năm kế hoạch khả năng nguồn tài chính để đáp ứng các mẫu đó. Vì thế kế hoạch khấu hao cũng là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét, lựa chọn các quyết định đầu tư đổi mới TSCĐ trong tương lai.
Trình tự và nội dung việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp gồm:
- Xác định phạm vi TSCĐ phải tính khấu hao và tổng nguyên giá TSCĐ phải tính khấu hao đầu kỳ khấu hao: Về nguyên tắc mọi TSCĐ của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải trích khấu hao, mức trích được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Còn đối với những TSCĐ không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì không phải trích khấu hao.
- Xác định giá trị TSCĐ bình quân tăng giảm trong kỳ kế hoạch và nguyên giá bình quân TSCĐ phải trích khấu hao trong kỳ.
- Xác định mức khấu hao bình quân hàng năm.
- Phân phối và sử dụng tiền trích khấu hao TSCĐ trong kỳ.
1.3. Quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
1.3.1. Nội dung quản trị VCĐ
VCĐ thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp, có ý nghĩa quyết định tới năng lực sản xuất của doanh nghiệp và việc sử dụng VCĐ thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hút vốn chậm và dễ gặp rủi ro. Chính vì vậy, quản lý VCĐ là một nội dung rất quan trọng trong quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp, quản trị vốn kinh doanh nói chung, VCĐ nói riêng bao gồm nhiều nội dung cụ thể có liên quan mật thiết với nhau có thể khái quát thành 3 nội dung:
- Khai thác tạo lập nguồn vốn.
- Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
- Phân cấp quản lý VCĐ.
1.3.1.1. Khai thác và tạo lập nguồn VCĐ của doanh nghiệp.
Khai thác tạo lập VCĐ đáp ứng nhu cầu đầu tư TSCĐ là khâu đầu tiên trong quản trị VCĐ của doanh nghiệp. Để định hướng cho việc khai thác và tạo lập nguồn VCĐ đáp ứng yêu cầu đầu tư của các doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu vốn đầu tư vào TSCĐ trong những năm trước mắt và lâu dài. Căn cứ vào các dự án đầu tư TSCĐ đã thẩm định để lựa chọn và khai thác các nguồn vốn đầu tư phù hợp.
Doanh nghiệp có thể khai thác nguồn vốn đầu tư vào TSCĐ từ nhiều nguồn vốn khác nhau như:
- Nguồn vốn pháp định: Gồm VCĐ của những TSCĐ do ngân sách cấp, do cấp trên cấp phát cho doanh nghiệp (đối với các doanh nghiệp Nhà nước)
- Nguồn vốn tự bổ sung: gồm VCĐ của những TSCĐ được đầu tư từ lợi nhuận tái đầu tư …
- Nguồn liên doanh, liên kết: Gồm các khoản do các đơn vị tham gia liên doanh đóng góp vốn bằng TSCĐ và bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành.
- Nguồn vốn vay dài hạn ngân hàng, từ thị trường vốn, từ các tổ chức kinh tế khác hoặc các khoản huy động từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu…
Mỗi nguồn vốn huy động trên đều có những hạn chế và những lợi thế riêng cũng như chi phí sử dụng khác nhau vì thế trong khai thác, tạo lập các nguồn VCĐ, các doanh nghiệp vừa phải chú ý đa dạng hoá các nguồn tài trợ, cân nhắc kỹ các ưu, nhược điểm từng nguồn vốn để lựa chọn cơ cấu các nguồn tài trợ VCĐ hợp lý và có lợi ích nhất cho doanh nghiệp. Những định hướng cơ bản cho việc khai thác tạo lập các nguồn VCĐ cho doanh nghiệp là phải đảm bảo khả năng tự chủ của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, hạn chế và phân tán rủi ro phát huy tối đa những ưu điểm của các nguồn vốn được huy động. Điều này đòi hỏi không chỉ ở sự năng động, nhạy bén của từng doanh nghiệp mà còn ở việc đổi mới các chính sách cơ chế tài chính của Nhà nước ở tầm vĩ mô để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể khai thác, huy động được các nguồn vốn cần thiết.
Doanh nghiệp có thể dựa vào các căn cứ sau đây để dự báo các nguồn vốn đầu tư vào TSCĐ:
- Qui mô và khả năng quỹ đầu tư phát triển hoặc quỹ khấu hao để đầu tư mua sắm TSCĐ hiện tại và các năm tiếp theo.
- Khả năng ký kết hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác để huy động nguồn vốn góp liên doanh.
- Khả năng huy động vốn vay dài hạn từ các ngân hàng thương mại hoặc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn.
- Các dự án đầu tư TSCĐ tiền khả thi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
1.3.1.2. Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ
VCĐ của doanh nghiệp cần được sử dụng cho các hoạt động khác nhau của doanh nghiệp như đầu tư dài hạn và các hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp.
- Để sử dụng có hiệu quả VCĐ trong các hoạt động đầu tư dài hạn (mua sắm, lắp đặt, xây dựng TSCĐ hữu hình và vô hình) doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các qui chế quản lý đầu tư và xây dựng từ khâu chuẩn bị đầu tư, lập dựa án đầu tư, thẩm định dự án và quản lý thực hiện dự án đầu tư.
- Để sử dụng có hiệu quả VCĐ trong các hoạt động kinh doanh thường xuyên (sản xuất các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ) doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp để không chỉ bảo toàn mà còn phát triển được VCĐ của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
Do đặc điểm của TSCĐ và VCĐ là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu (đối với TSCĐ hữu hình) còn giá trị lại chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm. Vì thế nội dung bảo toàn VCĐ luôn bao gồm 2 mặt hiện vật và giá trị. Trong đó bảo toàn về mặt hiện vật là cơ sở, tiền đề để bảo toàn VCĐ về mặt giá trị.
Bảo toàn VCĐ về mặt hiện vật không chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ mà quan trọng hơn là duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Có nghĩa là trong quá trình sử dụng doanh nghiệp phải quản lý thật chặt chẽ sát sao, đúng qui chế nhằm bảo toàn TSCĐ kịp thời sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của TSCĐ không để TSCĐ hư hỏng trước thời gian qui định.
Cuối mỗi năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê TSCĐ và có biện pháp xử lý thừa thiếu hợp lý.
Bảo toàn VCĐ về mặt giá trị là phải duy trì được giá trị thực (sức mua) của VCĐ ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu bất kể có sự biến động của giá cả, sự biến động của tỷ giá hối đoái, tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Trong trường hợp doanh nghiệp không chỉ duy trì được sức mua của vốn mà còn mở rộng được qui mô vốn đầu tư ban đầu thì doanh nghiệp đã phát triển được VCĐ của mình.
Có 2 loại nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc không bảo toàn được VCĐ trong doanh nghiệp là nguyên nhân khách quan và chủ quan.
- Nguyên nhân khách quan: Do rủi ro bất ngờ trong kinh doanh (thiên tai, dịch hoạ…) do tiến bộ khoa học kỹ thuật, do biến động của giá cả thị trường…
- Nguyên nhân chủ quan: Do các sai lầm trong quyết định đầu tư TSCĐ, do việc quản lý, sử dụng TSCĐ kém hiệu quả, lãng phí thời gian công suất, chậm đổi mới TSCĐ, do khấu hao không đủ…
Chính vì vậy, để bảo toàn và phát triển VCĐ các doanh nghiệp cần đánh giá đúng các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn được vốn để có biện pháp xử lý thích hợp.
+ Phải đánh giá đúng giá trị của TSCĐ tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, qui mô vốn phải bảo toàn. Điều chỉnh kịp thời giá trị của TSCĐ để tạo điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao, không để mất VCĐ.
Thông thường có 3 phương pháp đánh giá chủ yếu:
- Đánh giá TSCĐ theo giá nguyên thuỷ (nguyên giá).
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại.
Là toàn bộ các chi phí thực tế của doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ cho đến khi đưa TSCĐ vào hoạt động bình thường. Tuỳ theo từng loại TSCĐ hữu hình hay vô hình, nguyên giá TSCĐ được xác định đối với nội dung cụ thể khác nhau.
Cách đánh giá này giúp cho doanh nghiệp thấy được số tiền vốn đầu tư mua sắm TSCĐ ở thời điểm ban đầu, là căn cứ để xác định số tiền phải khấu hao để tái sản xuất giản đơn TSCĐ.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị khôi phục (đánh giá lại)
Là giá trị để mua sắm TSCĐ ở tại thời điểm đánh giá. Ưu điểm của cách đánh giá này là thống nhất mức giá cả của TSCĐ được mua sắm ở các thời điểm khác nhau về thời điểm đánh giá, loại trừ sự biến động của giá cả. Đó là một căn cứ để xem xét mức khấu hao loại trừ sự ảnh hưởng của hao mòn vô hình.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại. Là phần giá trị còn lại của TSCĐ chưa chuyển vào giá trị sản phẩm. Giá trị còn lại có thể tính theo giá trị ban đầu hoặc đánh giá lại.
Mỗi cách đánh giá trên có ý nghĩa, tác dụng riêng. Cách đánh giá giá trị còn lại tính theo nguyên giá cho phép thấy được mức độ thu hồi vốn đầu tư đến thời điểm đánh giá. Từ đó giúp cho việc lựa chọn chính sách khấu hao để thu hồi số vốn đầu tư còn lại để bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh của mình.
+ Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp, không để mất vốn và hạn chế tối đa ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
Nguyên tắc chung là mức khấu hao phải phù hợp với hao mòn thực tế của TSCĐ. Doanh nghiệp phải xem xét cụ thể mối quan hệ giữa chi phí sản xuất đầu vào và giá bán sản phẩm ở đầu ra để có chính sách khấu hao phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường, vừa đảm bảo thu hồi đủ vốn, vừa không gây nên sự đột biến trong giá cả.
+ Chú trọng đổi mới trang thiết bị phương pháp công nghệ sản xuất, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ hiện có của doanh nghiệp về thời gian và công suất. Kịp thời thanh lý các TSCĐ không cần dùng hoặc đã hư hỏng, không dự trữ quá mức các TSCĐ chưa cần dùng.
+ Thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng TSCĐ, không để xảy ra tình trạng TSCĐ hư hỏng trước thời hạn hoặc hư hỏng bất thường gây nên thiệt hại ngừng sản xuất. Trong sửa chữa lớn, nếu chi phí sửa chữa lớn hơn mua sắm mới thì nên thay thế TSCĐ cũ.
+ Phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh để hạn chế tổn thất VCĐ do các nguyên nhân khách quan và chủ quan.
+ Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài các biện pháp nếu trên cần thực hiện tốt qui chế giao vốn và trách nhiệm bảo toàn vốn cố định với các doanh nghiệp.
- Nguyên nhân chủ quan: Do các sai lầm trong quyết định đầu tư TSCĐ, do việc quản lý, sử dụng TSCĐ kém hiệu quả, lãng phí thời gian công suất, chậm đổi mới TSCĐ, do khấu hao không đủ…
Chính vì vậy, để bảo toàn và phát triển VCĐ các doanh nghiệp cần đánh giá đúng các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn được vốn để có biện pháp xử lý thích hợp
+ Phải đánh giá đúng giá trị của TSCĐ tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, qui mô vốn phải bảo toàn. Điều chỉnh kịp thời giá trị của TSCĐ để tạo điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao, không để mất vốn cố định.
Thông thường có 3 phương pháp đánh giá chủ yếu.
- Là toàn bộ các chi phí thực tế của doanh nghiệp đã chỉ ra để có được TSCĐ cho đến khi đưa TSCĐ vào hoạt động bình thường. Tuỳ theo từng loại TSCĐ hữu hình hoặc vô hình, nguyên giá TSCĐ được xác định đối với nội dung cụ thể khác nhau.
Cách đánh giá này giúp cho doanh nghiệp thấy được số tiền vốn đầu tư mua sắm TSCĐ theo giá trị khôi phục (đánh giá lại). Là giá trị để mua sắm TSCĐ ở tại, thời điểm đánh giá. Ưu điểm của cách đánh giá này là thống nhất mức giá cả của TSCĐ được mua sắm ở các thời điểm khác nhau để thời điểm đánh giá, loại trừ sự biến động của giá cả. Đó là một căn cứ để xem xét mức khấu hao loại trừ sự ảnh hưởng của hao mòn vô hình.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại: Là phần giá trị còn lại của TSCĐ chưa chuyển vào giá trị sản phẩm, giá trị còn lại có thể tính theo giá trị ban đầu hoặc đánh giá lại.
Mỗi cách đánh giá trên có ý nghĩa, tác dụng riêng. Cách đánh giá giá trị còn lại tính theo nguyên giá cho phép thấy được mức độ thu hồi vốn đầu tư đến thời điểm đánh giá. Từ đó giúp cho việc lựa chọn chính sách khấu hao để thu hồi số vốn đầu tư còn lại để bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh của mình.
- Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp, không để mất vốn và hạn chế tối đa ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
Nguyên tắc chung là mức khấu hao phải phù hợp với hao mòn thực tế của TSCĐ. Doanh nghiệp phải xem xét cụ thể mối quan hệ giữa chi p hí sản xuất đầu vào và giá bán sản phẩm ở đầu ra để có khấu hao phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường vừa đảm bảo thu hồi đủ vốn, vừa không gây nên sự đột biến trong giá cả.
- Chú trọng đổi mới trang thiết bị phương pháp công nghệ sản xuất, cụ thời nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ hiện có của doanh nghiệp cả về thời gian và công suất. Kịp thời thanh lý các TSCĐ không cần dùng hoặc đã hư hỏng, không dự trữ quá mức các TSCĐ chưa cần dùng.
- Thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng TSCĐ không để xảy ra tình trạng TSCĐ hư hỏng trước thời hạn hoặc hư hỏng bất thường gây thiệt hại ngừng sản xuất. Trong sửa chữa lớn, nếu chi phí sửa chữa lớn hơn mua sắm mới thì nên thay thế TSCĐ cũ.
- Phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh để hạn chế tổn thất VCĐ do các nguyên nhân khách quan và chủ quan.
- đối với các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài các biện pháp nêu trên cần thực hiện tốt qui chế giao vốn và trách nhiệm bảo toàn vốn cố định với các doanh nghiệp.
Trong điều kiện chuyển các doanh nghiệp sang kinh doanh theo kinh tế thị trường thực hiện qui chế giao vốn và trách nhiệm bảo toàn vốn cố định cho các doanh nghiệp Nhà nước là biện pháp cần thiết để tạp cơ sở pháp lý rằng buộc trách nhiệm quản lý vốn giữa cơ quan Nhà nước đại diện cho quyền sở hữu và trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn tiết kiện và có hiệu quả. Đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có quyền chủ động hơn trong quản lý và sử dụng có hiệu quả VCĐ được giao.
1.3.1.2. Phân cấp quản lý VCĐ.
Trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, do có sự phân biệt giữa quyền sở hữu và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp và quyền quản lý kinh doanh, do đó cần phải có sự phân cấp quản lý để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh.
Theo qui chế tài chính hiện hành các doanh nghiệp Nhà nước được quyền.
Chủ động trong sử dụng vốn, quĩ để phục vụ kinh doanh theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và quá trình vốn. Nếu sử dụng vốn quĩ đó khác với mục đích sử dụng đã qui định cho các loại vốn, quĩ đó thì phải theo nguyên tắc có hoàn trả khi có nhu cầu sử dụng.
- Chủ đông thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn phục vụ cho việc phát triển vốn kinh doanh có hiệu quả hơn.
- Doanh nghiệp được quyền cho các tổ chức và cá nhân trong nước thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để nâng cao hiệu quả sử dụng, phát triển thu nhập song phải theo dõi, thu hồi tài sản cho thuê khi hết hạn. Các tài sản cho thuê hoạt động doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định.
- Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Được quyền thanh lý những TSCĐ đã lạc hậu mà không thể nhượng bán được hoặc đã hư hỏng không có khả năng phục hồi.
- Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo các qui định của pháp luật hiện hành.
Đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, do không có sự phân biệt giữa quyền sở hữu tài sản và quyền quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, vì thế các doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong việc quản lý, sử dụng có hiệu quả VCĐ của mình theo các qui chế luật pháp qui định.
1.3.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp.
Thông qua kiểm tra tổ chức có được những căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết dịnh về mặc tổ chức như điều chỉnh qui mô và cơ cấu vốn đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hoá TSCĐ các biện pháp khai thác năng lức sản xuất của TSCĐ hiện có, nhờ hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ và TSCĐ của doanh nghiệp thông thường bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích sau:
1.3.2.1. Hệ thống các chỉ tiêu tổng hợp.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VCĐ có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kì.
Hiệu suất sử dụng VCĐ
=
Doanh thu (DT thuần) trong kỳ
Số VCĐ bình quân trong kỳ
Số VCĐ bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học giữa số VCĐ đầu kỳ và cuối kỳ.
Số VCĐ bình quân trong kỳ
=
Số VCĐ bình quân đầu kỳ + Số VCĐ bình quân cuối kỳ
2
Trong đó số VCĐ bình quân đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) được tính theo công thức
Số VCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ)
=
Nguyên giá TSCĐ ở đầu kỳ (cuối kỳ)
-
Số tiền khấu hao luỹ kế ở đầu kỳ (cuối kỳ)
Số tiền khấu hao luỹ kế ở cuối kỳ
=
Số tiền khấu hao ở đầu kỳ
+
Số tiền khấu hao tăng trong kỳ
-
Số tiền khâu hao giảm trong kỳ
- Chỉ tiêu hàm lượng VCĐ: Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng VCĐ.
Hàm lượng VCĐ
=
Số VCĐ bình quân trong kỳ
Doanh thu (doanh thu thuần) trong kỳ
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận VCĐ chỉ tiêu này phản ánh một đồng VCĐ trong kỳ có thể tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế thu nhập).
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ
=
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế TN)
x 100%
Số VCĐ bình quân trong kỳ
1.3.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích
- Hệ số hao mòn TSCĐ: PHản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. Hệ số càng lớn chứng tỏ mức độ hao mòn TSCĐ càng cao và ngược lại.
Hệ số hao mòn TSCĐ
=
Số tiền khấu hao luỹ kế
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần. Hiệu suất càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ càng cao.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
=
Doanh thu (DTT) trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
- Hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân trực tiếp sản xuất phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất. Hệ số càng lớn phản ánh mức độ trang bị TSCĐ cho sản xuất của doanh nghiệp càng cao.
Hệ số trang bị TSCĐ
=
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất
- Tỷ suất đầu tư TSCĐ: Phản ánh mức độ đầu tư vào TSCĐ trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Nói một cách khác là trong một đồng giá trị tài sản của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng được đầu tư vào TSCĐ. Tỷ suất càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vào TSCĐ.
Tỷ suất đầu tư TSCĐ
=
Giá trị còn lại của TSCĐ
x 100%
Tổng tài sản
- Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp.
Ngoài việc nghiên cứu các chỉ tiêu trên, vì TSCĐ gồm nhiều loại nên phải kết hợp xem xét các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của từng loại cụ thể về mặt hiện vật để đánh giá được toàn diện và chính xác. So sánh chỉ tiêu giữa các năm, doanh nghiệp cần kết luận sự biến động theo hướng tích cực hay tiêu cực. Hơn nữa chúng cần sử dụng chỉ tiêu giữa các đơn vị cùng ngành, cùng lĩnh vực để xem xét khả năng cạnh tranh trên thị trường, tình trạng sử dụng vốn, sử dụng TSCĐ và quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ đó các doanh nghiệp có cái nhiền tổng quát về việc quản lý sử dụng vốn của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty cổ phần may II Hải Dương.doc