Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước vì vậy đòi hỏi cần phải nhanh chóng chuyển dich cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất theo hướng CNH hướng vào xuất khẩu. Là một quốc gia đang phát triển với dân số khoảng 80 triệu người, thu nhập bình quân theo đầu người thấp thì lợi thế nhất đối với Việt Nam là có một lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ. Bởi vậy việc phát triển mặt hàng dệt may có một vai trò đặc biệt quan trọng. Với kim ngạch xuất khẩu hàng năm tương đối cao, dệt may đang là một mặt hàng chủ lực, đóng vai trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung trong cả nước, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. Hiện nay, các sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng, cạnh tranh về giá cả, đa dạng về mẫu mã . nên đã xâm nhập thành công vào một số thị trường lớn như: EU, Nhật Bản Tuy nhiên việc xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Là một thị trường rộng lớn, nhu cầu về hàng may mặc cao, đa dạng và kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may hàng năm cao nhất thế giới, Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng đối với tất cả các nước trong đó có Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết vào tháng 7/2000 và chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 đã mở ra một cơ hội mới và là một điều kiện tiền đề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Tuy vậy, Mỹ là một quốc gia có hệ thống pháp luật nghiêm ngặt và chặt chẽ cộng với việc chưa am hiểu luật pháp kinh doanh, phong tục, tập quán . nên các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp phải rất nhiều khó khăn khi thâm nhập vào thị trường này. Chính vì vậy việc nghiên cứu về thị trường Mỹ, tìm hiểu các vấn đề còn tồn tại cản trở việc xuất khẩu hàng dệt may cũng như từ đó đưa ra các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ là việc làm hết sức cần thiết vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Lời nói đầu .4 Chương I: Giới thiệu khái quát về thị trường dệt may của Mỹ 7 I. Khái quát về thị trường Mỹ 7 1. Giới thiệu về nền kinh tế Mỹ 7 2. Một số đặc điểm chính của thị trường hàng dệt may của Mỹ 8 2.1. Dung lượng thị trường .8 2.2. Xu hướng tiêu dùng 9 2.3. Kênh phân phối trên thị trường hàng dệt may của Mỹ .16 II. Tình hình sản xuất và nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Mỹ 17 1. Tình hình sản xuất .17 2. Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ 18 III. Vai trò của thị trường Mỹ trong chiến lược xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam .21 1. Phát huy lợi thế ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống .21 2. Mở rộng thị trường tiêu thụ .23 3. Phát triển khả năng sản xuất để xuất khẩu 25 Chương II: Xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ từ 1994 tới nay 27 I. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ 27 1. Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 27 2. Cơ cấu xuất khẩu .29 3. Phương thức xuất khẩu 31 II. Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ 33 1. Những thuận lợi cơ bản cho việc phát triển xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 33 2. Những khó khăn khi xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ 35 III. Một số vấn đề cần chú ý khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ 38 1. Một số quy định nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ 38 1.1. Hạn ngạch nhập khẩu 38 1.2. Quy định về xuất xứ 40 1.3. Quy định về nhãn hiệu hàng hoá 42 1.4. Quy đinh về hàng dễ cháy 44 1.5. Quy định về chế độ VISA .45 1.6. Phạt vi phạm .45 2. Một số lưu ý chung khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ 45 2.1. Chính sách thương mại của Mỹ 45 2.2. Hệ thống pháp luật Mỹ .47 2.3. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ 47 2.4. Các hệ thống tiêu chuẩn 48 2.5. Vấn đề về thuế 52 2.6. Cách thức kinh doanh của doanh nghiệp Mỹ 52 Chương III: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ 53 I. Chương trình tăng tốc phát triển hàng dệt may 2001-2010 .53 1. Quan điểm tăng tốc phát triển hàng may mặc 53 2. Mục tiêu tăng tốc phát triển ngành dệt may đến năm 2010 .54 3. Chương trình tăng tốc đầu tư vào ngành dệt may .55 II. Hệ thống giải pháp vĩ mô nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ .57 1. Chính sách thuế, tỷ giá hối đoái, tín dụng và trợ cấp xuất khẩu .57 2. Một số đối sách thương mại .60 2.1. Đẩy nhanh lộ trình gia nhập WTO 60 2.2 . Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo tính tương thích với những quy định của pháp luật Mỹ và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ .61 2.3. Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng dệt may xuất khẩu 63 2.4. Đàm phán để được GSP của Mỹ 65 3. Hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động tìm hiểu và thâm nhập thị trường .65 4. Đảm bảo nguồn cung cấp nguyên phụ liệu 67 5. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực .68 IV. Nhóm giải pháp vi mô về phía ngành may mặc và doanh nghiệp 68 1. Nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường Mỹ .69 2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may .72 3. Thúc đẩy sự phát triển thương mại thông qua Internet 76 4. Nghiên cứu nắm vững hệ thống pháp luật Mỹ và nâng cao khả năng đàm phán .77 5. Tận dụng triệt để những ưu đãi thuơng mại của Mỹ dành cho các nước đang phát triển 80 6. Nâng cao khả năng liên doanh, liên kết.82 Kết luận 83 Tài liệu tham khảo .85

doc89 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2533 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yên vật liệu phục vụ sản xuất. Vì vậy việc duy trì một chính sách tỉ giá thả nổi có quản lý như hiện nay là tối ưu. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, khi ảnh hưởng cuả sự suy giảm nền kinh tế toàn cầu là không nhỏ, cần có giải pháp điều chỉnh tỉ giá hối đoái một cách khéo léo. Khi điều chỉnh tỉ giá, cần chú ý tới mối quan hệ chặt chẽ giữa tỉ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu, phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trên cơ sở phân tích các biến số như: tỉ lệ lạm phát trong và ngoài nước, cán cân thương mại, khuynh hướng thay đổi giá của các đồng tiền và tâm lý của người dân. Việc điều chỉnh cần được thực hiện từ từ qua từng giai đoạn, nên tiến hành trong thời điểm nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của nước ta đang ở mức tăng. Với ngành May, việc áp dụng chính sách nhiều tỉ giá là rất quan trọng vì mong muốn xuất khẩu nhiều và nhập khẩu cũng lớn, nên áp dụng một tỉ giá cao cho xuất khẩu và thấp cho nhập khẩu. 1.3. Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu. Tín dụng và trợ cấp xuất khẩu là công cụ hữu hiệu của Nhà nước để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Đối với ngành dệt may – một ngành rất cần khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước cần có các chính sách phù hợp, cụ thể như sau: - Thành lập Quỹ Bảo hiểm và Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước, đồng thời cho phép Tổng công ty Dệt may thành lập quỹ bảo hiểm riêng của ngành nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi giá cả thị trường thế giới có biến động cũng như khi gặp rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. - Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua công cụ lãi suất. Một điều hết sức quan trọng là Nhà nước cần cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các dự án phát triển vùng trồng bông để trong tương lai Việt Nam có thể tự túc nguyên liệu ngành Dệt. Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn bởi nếu đáp ứng được nguồn nguyên liệu cơ bản, chúng ta sẽ tránh được những bất lợi là thế bị động khi xảy ra những biến động về giá cả trên thị trường nguyên liệu thế giới. Có như vậy mới bảo đảm được cho ngành May mặc phát triển tốt. - Tạo điều kiện cấp vốn cho các doanh nghiệp có sản phẩm, có thị trường nhưng thiếu vốn. Thưởng khuyến khích các doanh nghiệp không xuất khẩu nhưng có khả năng tìm và giới thiệu thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp. - Tài trợ vốn cho doanh nghiệp tham gia hội trợ triển lãm hàng dệt may ở nước ngoài để tạo điều kiện tìm kiếm thị trường, tìm kiếm bạn hàng. - Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải nghiên cứu một số kinh nghiệm từ các nước châu Á láng giềng. Họ đã thiết lập được cơ chế đối thoại chung giữa chính phủ và doanh nghiệp. 2. Một số đối sách thương mại 2.1 Đẩy nhanh lộ trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO Khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức chiếm tới 90% buôn bán thế giới này thì đương nhiên Việt Nam sẽ được hưởng quy chế MFN của các nước thành viên WTO nhờ đó kim ngạch buôn bán của Việt Nam với Mỹ nói riêng cũng như quốc tế nói chung sẽ tăng lên nhanh chóng và đạt quy mô lớn. Nhờ đó, Việt Nam tăng cường được vai trò kinh tế và chính trị của mình trên thế giới. Nếu tham gia được vào hệ thống thương mại quốc tế rộng lớn, chúng ta có cơ hội tăng trưởng nhanh bằng việc phát huy “nội lực” về : lao động, tài nguyên thiên nhiên, cũng như lợi dụng được thành tựu khoa học công nghệ, vốn của các nước phát triển để nâng cao hiệu quả kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và thế giới. Ngoài ra, theo WTO hàng dệt may đã được đưa vào chương trình tự do hoá đến năm 2005, Việt Nam chưa được hưởng quy định này nên sau khi Hiệp định Thương Mại Việt - Mỹ có hiệu lực khoảng 2 năm (2003) thì Mỹ sẽ áp đặt chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam xuất sang Mỹ. Muốn tự do hoá cho hàng dệt may của Việt Nam trong tương lai thì điều kiện tối thiểu là Việt Nam phải trở thành thành viên của WTO. Việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển đổi của nền kinh tế trong nước và tạo dựng được một môi trường kinh doanh lành mạnh giúp cho các doanh nghiệp trong nước thích nghi nhanh hơn với môi trường cạnh tranh quốc tế, nhờ đó mà họ mới vươn lên mạnh mẽ để cạnh tranh có hiệu quả và phát triển. Tuy nhiên, cùng với cơ hội thì việc gia nhập WTO cũng đem lại những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là khi gia nhập tổ chức này, ta phải chấp nhận một “ sân chơi” bình đẳng, không được sử dụng bất cứ một hàng rào thuế quan cũng như hàng rào phi thuế quan nào để bảo hộ sản xuất trong nước. Vậy để đứng vững trong “ sân chơi” này, các doanh nghiệp Việt Nam phải áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm ngang tầm với quy định của các nước tiên tiến, hạ giá thành sản phẩm v.v.. 2.2 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo tính tương thích với những quy định của luật pháp Mỹ và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có rất nhiều quy định đặc thù và khi có hiệu lực pháp lý, Hiệp định sẽ tạo nên nhiều điểm khác biệt so với những quy định của luật pháp trong nước. Đó là, những khác biệt hàm chứa trong các quy định của Hiệp định về chính sách thuế, về các khoản lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu, về cạnh tranh, về thương mại nhà nước, về giải quyết tranh chấp... Bên cạnh đó, thị trường Mỹ là thị trường đòi hỏi phải có sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về chất lượng hàng hoá, về giá cả, về thị hiếu khách hàng. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng, trước mắt cần tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Để làm được điều này, cần thực hiện ngay các công việc sau đây: -Tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản (luật hoặc dưới luật) đã lỗi thời, đã bất cập. Đây là công việc phức tạp, tốn kém, đòi hỏi phải có sự đầu tư của Nhà nước về kinh phí cũng như về nhân lực. Cùng với việc đầu tư, việc phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành hữu quan cũng là công việc đặc biệt quan trọng. -Sửa đổi Luật Thương Mại Việt Nam năm 1997 theo hướng mở rộng khái niệm thương mại, hoàn thiện Quy chế thương nhân và bổ sung các quy định về chính sách quản lý xuất khẩu rõ ràng, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu của Đảng, cũng phù hợp với Hiệp định Thương Mại Việt-Mỹ. -Khẩn trương soạn thảo và ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. -Một trong những biện pháp tích cực nhất để thực hiện nghĩa vụ đã cam kết trong Hiệp định là Chính phủ Việt Nam phải đảm bảo cho hàng hoá của Mỹ xuất sang Việt Nam, được hưởng MFN và NT. Để thực thi nghĩa vụ này, Dự thảo Pháp lệnh về Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử Quốc gia đã được soạn thảo. Tuy nhiên, thời gian qua, các công việc liên quan nhằm sớm ban hành pháp lệnh này còn được triển khai chậm, ở phạm vi hẹp. Thêm vào đó, hoàn thiện môi trường pháp lý là việc làm hết sức cần thiết để tạo tâm lý tin tưởng cho doanh nghiệp chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Ngoài ra, nếu không ổn định môi trường pháp lý thì sẽ không có cách nào phổ biến thông tin kịp thời tới các doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp ra đời cùng với việc bãi bỏ 84 loại giấy phép không cần thiết đã là một bước cải tiến lớn trong việc giảm thiểu những thủ tục rườm rà cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay hệ thống các văn bản về quản lý kinh tế nước ta khá phức tạp. Trước hết là các văn bản Luật do Quốc hội thông qua, sau đó là các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đã ban hành. Song phần lớn các Nghị định này chỉ mang tính nguyên tắc vì sau đó còn có khá nhiều thông tư hướng dẫn của các Bộ, các ngành có liên quan. Điều đó gây nên rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật ra không đồng bộ, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, xin đề xuất một số giải pháp sau: -Nghiêm khắc xử lý đối với các trường hợp ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật chậm hơn so với quy định của pháp luật. -Cần quy định thời gian bắt buộc phải ban hành các Thông tư hướng dẫn của các Bộ, các ngành và gần nhau trong một thời điểm nhất định. Điều đó nhằm tạo ra sự đồng bộ trong các văn bản hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. -Hạn chế tới mức tối đa các văn bản “lưu hành nội bộ” sau Thông tư 2.3 Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng dệt may xuất khẩu 2.3.1. Cần thi hành một cách triệt để và nhất quán hơn biện pháp này theo nguyên tắc sản xuất hàng dệt may xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho hàng dệt may xuất khẩu. Đây là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng bởi tuy xuất khẩu hàng dệt may đã được đưa lên vị trí ưu tiên và được coi là một trong những động lực chính thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế nhưng trên thực tế việc đầu tư chủ yếu vẫn tập trung vào sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Để xuất khẩu hàng dệt may có được nguồn vốn đầu tư cần thiết trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ có hạn, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng này theo các hướng sau: -Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi giành cho sản xuất hàng xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng đã được đề cập đến trong Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi (năm 1998) -Xoá bỏ ngay các thủ tục xét duyệt phiền hà đối với đầu tư đặc biệt là phê duyệt nhập khẩu máy móc thiết bị. 2.3.2. Xem xét lại chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước sao cho bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Hiện nay, tuy vị trí của đầu tư trong nước đã được nâng cao nhưng ở ngành dệt may, doanh nghiệp trong nước chưa được đối xử bằng hoặc cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ: Một doanh nghiệp trong nước phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 32% trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chịu tối đa 25%. Một doanh nghiệp may xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu 100% sản phẩm hiện nay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 32% trong khi xí nghiệp liên doanh may, sản phẩm xuất khẩu chỉ đạt 80%, lại chỉ phải nộp có 15%. 2.3.3. Cần phải có biện pháp đầu tư hợp lý, đồng bộ, đầu tư phải được tính toán trên quy hoạch toàn ngành để có thể phát huy được sức mạnh tổng hợp của các doanh nghiệp. Cụ thể là: -Đầu tư 100% vốn nước ngoài và liên doanh : Những sản phẩm đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp mà ta chưa đủ khả năng quản lý, chưa đủ kinh nghiệm thì khuyến khích gọi đầu tư nước ngoài, kể cả 100% vốn nước ngoài, thậm chí nếu chủ đầu tư muốn tiêu thụ một tỷ lệ nào đó ở Việt Nam thì tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể ưu tiên cho họ để hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Ưu tiên sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao để xuất khẩu. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên phụ liệu may. -Đối với đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia không hạn chế quy mô và số lao động làm thuê. Đơn giản các thủ tục thế chấp ngân hàng vay vốn đầu tư áp dụng mức lãi suất thấp cho đầu tư vào ngành dệt may đặc biệt là những dự án để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ nhằm tạo nhiều chỗ làm cho người lao động. Đầu tư của Nhà nước tập trung cho các công trình trọng điểm: các xí nghiệp dệt-nhuộm-hoàn tất có quy mô lớn, các trung tâm thương mại và kho ngoại quan ở Mỹ đòi hỏi vốn và công nghệ cao có tác dụng cho nhiều doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác không đảm đương nổi. Trong các khâu còn lại, Nhà nước chỉ ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp chủ động đầu tư sản xuất, kinh doanh. -Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá ngành dệt may để tập trung vốn cho các công trình trọng điểm nói trên và huy động thêm vốn nhàn rỗi trong dân, tăng nguồn vốn cho sản xuất. -Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ để tăng sức hấp dẫn đối với cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tích cực chủ động điều chỉnh luật đầu tư nước ngoài theo quy định của WTO về đầu tư, giảm dần và tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Duy trì môi trường đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư. 2.4. Đàm phán để được hưởng GSP của Mỹ. Đối với chế độ GSP của Mỹ dành cho các nước đang phát triển, đến nay Việt Nam vẫn chưa được hưởng. Song, điều 3, khoản 8 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ quy định: Chính phủ Mỹ sẽ xem xét khả năng dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi GSP. Tuy nhiên, có một khó khăn đối với Việt Nam để được hưởng chế độ này là quy định ở phần 502B của Luật thương mại Mỹ năm 1974. Theo đó, tổng thống không được phép cho một loạt nước được hưởng chế độ GSP của Mỹ, trong đó có Việt Nam. Do vậy, để được hưởng chế độ GSP của Mỹ thì Việt Nam cần đấu tranh mạnh mẽ, yêu cầu Mỹ bãi bỏ áp dụng quy định trong phần 502B này, đưa Việt Nam sang nhóm nước đã chuyển sang nền kinh tế thị trường và không còn là “kẻ thù” của Mỹ nữa. 3. Hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động tìm hiểu thị trường và tổ chức tốt hệ thống thông tin và xúc tiến thương mại Hoạt động marketing đặc biệt quan trọng với sản phẩm may mặc do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, văn hoá, xu hướng thời trang. Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như hầu hết các doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại để cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Trong các hoạt động này, Đại diện thương mại tại các nước nhập khẩu đóng vai trò quan trọng. Việt Nam đã có hoạt động thương vụ tại hầu hết các nước có quan hệ song phương. Tuy nhiên, đại diện thương mại nói chung khó có thể bao quát các vấn đề của từng ngành. Vì vậy, để nâng cao hoạt động của các Thương vụ, có thể cử một Đại diện Thương mại của Ngành tại các thị trường xuất quan trọng nhất (khu vực EU, Nhật Bản) và các thị trường có tiềm năng lớn (Bắc Mỹ, Đông Âu và SNG). Vì vậy, ở Mỹ ta cũng nên tổ chức thành lập các đại diện thương mại hay các văn phòng đại diện, bên cạnh việc nghiên cứu thị trường Mỹ những văn phòng hay đại diện này còn có nhiệm vụ giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận đối tác Mỹ, nâng cao hiệu quả của các hoạt động tìm hiểu thị trường. Thông qua các đại diện thương mại Việt Nam tại Mỹ, Bộ Thương mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp. Đồng thời, việc hoạch định chiến lược tổng thể về thị trường Mỹ là việc có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian trước mắt. Để xây dựng chiến lược này, Bộ Thương Mại và thương vụ Việt Nam tại Mỹ phải nắm rõ được đặc điểm, tính chất nhu cầu về hàng dệt may cũng như thể chế của thị trường Mỹ để giúp cho các doanh nghiệp trong nước vào việc: sản xuất mặt hàng gì ?, số lượng sản xuất và khả năng xuất khẩu là bao nhiêu?, vận chuyển như thế nào?, đối thủ cạnh tranh nào? cũng như phương thức cạnh tranh như thế nào ? Tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tiếp thị. Chức năng của Cục xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức, xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định, Cục xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để giúp các doanh nghiệp đưa hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ. Các hoạt động xúc tiến thương mại như tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường Mỹ, tổ chức giới thiệu hàng dệt may tại Mỹ thông qua các hội chợ, triển lãm, cung ứng thông tin về thị trường Mỹ cũng như các đặc điểm kinh tế xã hội, quy định pháp luật, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan của thị trường này cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Trong thời gian chờ đợi được hưởng quy chế NTR, Tổng công ty dệt may Việt Nam (VINATEX) đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm giúp các doanh nghiệp trong tìm hiểu và thâm nhập thị trường Mỹ. Điển hình là ngày 6/11/2000, Tổng công ty đã phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Công ty Công nghệ Việt Mỹ (AT Inc.) tổ chức hội thảo chủ đề “Xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ” nhằm cung cấp những thông tin cần thiết, kinh nghiệm thực tế cho các doanh nghiệp dệt may trên toàn quốc về thị trường tiềm năng này. Cuối tháng 11/2000, Tổng công ty đã phối hợp với Trung tâm phát triển và đầu tư Việt Nam (FTDC) đưa 14 doanh nghiệp trong ngành dệt may sang Mỹ giới thiệu sản phẩm và xúc tiến thương mại. Chương trình đã được diễn ra tại các thành phố lớn như San Francisco, Los Angeles và Seattle. Thiết nghĩ, các biện pháp hỗ trợ trên rất cần được phát huy, tuy nhiên không chỉ dừng lại ở quy mô hẹp. 4. Đảm bảo và phát triển nguồn nguyên liệu Để đáp ứng tốt cho việc tăng cường xuất khẩu các sản phẩm may mặc sang thị trường Mỹ, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu dệt và phụ liệu may nhập khẩu từ nước ngoài, cần có chính sách tập trung đầu tư phát triển ngành dệt và sản xuất phụ liệu may một cách thích hợp phục vụ tích cực cho ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu. Trước mắt, ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, do đó cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, đặc biệt là khâu nhuộm và khâu hoàn tất. Ưu tiên các dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài trong ngành dệt, nhập khẩu công nghệ thiết bị hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm dệt đạt chất lượng quốc tế, phù hợp với yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu. Muốn vậy trước mắt nên tập trung đầu tư trọng điểm vào các xí nghiệp dệt-nhuộm-hoàn tất có quy mô lớn. Mặt khác, để đáp ứng đủ nguyên liệu cho ngành dệt, giảm bớt nhập khẩu thì vấn đề tất yếu là phải có chiến lược quy hoạch phát triển tổng thể vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sự phát triển của ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho việc hình thành và sản xuất sợi hoá học. Muốn vậy phải có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa vùng nguyên liệu và chế biến, những chính sách lớn của Nhà nước về khuyến nông và đầu tư công nghệ cao cho việc trồng bông và trồng dâu nuôi tằm nhằm tạo ra nguyên liệu bông và tơ tằm có chất lượng cao. Mục tiêu trước mắt đến năm 2010 có thể thoả mãn 50% nhu cầu của ngành dệt. Hơn nữa cần tăng cường đầu tư công nghệ sản xuất xơ PE và tơ PE để đáp ứng nhu cầu sử dụng dự kiến năm 2010 là 20 vạn tấn. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các hoá chất khác cho ngành dệt. Bên cạnh đó cần đặc biệt chú trọng khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất trong nước các nguyên phụ liệu đủ tiêu chuẩn quốc tế, có chất lượng cao, mẫu mã phù hợp v.v.. nhằm phục vụ đắc lực cho nhu cầu của ngành may mặc xuất khẩu. Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước (chính sách thuế, hàm lượng nội địa của sản phẩm xuất khẩu) . 5. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực Cần sớm có chính sách hỗ trợ khuyến khích, thu hút và đào tạo những cán bộ ở bậc đại học và trên đại học cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư chuyên ngành về may mặc, dệt trầm trọng hiện nay và có thể còn kéo dài trong vài năm tới. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo ngày càng nhiều công nhân kỹ thuật lành nghề đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây chuyền công nghệ hiện đại, nhằm đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may Việt Nam. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trang và công tác nghiên cứu thị trường tiêu thụ, khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may mặc xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để nâng cao hiệu quả xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm may mặc mang thương hiệu Việt Nam trên thị trường Mỹ. III. Nhóm giải pháp vi mô về phía ngành may mặc và doanh nghiệp. 1. Nâng cao hiệu quả hoạt động cuả các doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ. 1.1. Đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ ngoại thương lành nghề Muốn nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp thì yếu tố con người là vấn đề không thể bỏ qua vì con người là nhân tố quyết định sự thành bại của sản xuất kinh doanh. Hiện nay, trình độ quản lý và lao động của các doanh nghiệp chưa cao, chính vì vậy mà khả năng tiếp nhận thông tin, kiến thức, nâng cao tay nghề của nhiều doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Trong giai đoạn này và sắp tới nếu không được chú trọng đầu tư về con người thì ngay cả các doanh nghiệp có công nghệ hiện đại cũng không thể phát huy được tính ưu việt của sản phẩm, chứ chưa nói đến khả năng tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Vì vậy, trong thời gian tới các nhà quản lý trong ngành phải chú trọng đến vấn đề thường xuyên đào tạo nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân, khả năng lao động, khả năng quản lý và tiếp thị của từng người, từng kíp thợ. Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, để thành công thì điều tiên quyết là phải có đội ngũ cán bộ ngoại thương lành nghề. Một đội ngũ cán bộ ngoại thương mạnh là một đội ngũ có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời phải nắm bắt được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi đó (như các diễn biến về chính trị, quân sự, tài chính, tiền tệ...) cho dù là nặng nề, thậm chí mang tính thất thiệt cũng phải cung cấp ngay lập tức. Khả năng tiếp thị tốt cũng là một tiêu chuẩn không thể thiếu được đối với đội ngũ cán bộ ngoại thương trong doanh nghiệp xuất nhập khẩu mạnh. Vì đây là đặc điểm khác biệt giữa doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu với các loại hình doanh nghiệp khác. Sự phát triển của doanh nghiệp xuất nhập khẩu đòi hỏi phải có khả năng tiếp thị tốt hơn hẳn các doanh nghiệp nội thương hoặc doanh nghiệp sản xuất, vì thị trường mà họ phải tiếp cận là thị trường nước ngoài. ở đó, các đòi hỏi và tiêu chuẩn của thị trường cao hơn hẳn so với thị trường trong nước và luôn phải ở mức ngang với tiêu chuẩn chung của thế giới. 1.2. Ứng dụng công nghệ mã số mã vạch vào hoạt động của các doanh nghiệp Từ năm 1990, hầu như tất cả các nước trên thế giới đều yêu cầu sản phẩm phải có mã số, mã vạch mới được nhập khẩu, sản phẩm của Việt Nam không có mã số, mã vạch thì sẽ không thể bán được hoặc muốn bán thì phải chấp nhận để bạn hàng nước sở tại gia công, đóng gói lại, vừa tốn kém, vừa phức tạp dẫn đến tình trạng mất thị trường. Vì vậy, việc EAN - VN ra đời (1995) và gia nhập Hội mã số vật phẩm quốc tế đã đáp ứng được nhu cầu cấp bách cần thể hiện mã số, mã vạch trên các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Ngoài ra, áp dụng công nghệ mã số, mã vạch đã giúp các nhà sản xuất, kinh doanh hàng dệt may thực hiện quản lý sản xuất, kinh doanh một cách khoa học, thuận tiện, nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm trong khâu phân phối, lưu thông hàng hoá, kiểm kê, kiểm soát và thanh toán góp phần bảo hộ bản quyền của hàng hoá một cách tích cực, chống sự làm giả, làm nhái... Thực tế đang ngày càng chỉ ra rằng, công nghệ mã số, mã vạch- ngành công nghệ nhận dạng tự động tiên tiến với ưu điểm chính xác, khoa học, nhanh chóng tiện lợi là công nghệ không thể thiếu được khi xây dựng một nền kinh tế trong bối cảnh thế giới đang phát triển nền thương mại toàn cầu hoá. 1.3. Ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế (ISO) trong doanh nghiệp và tuân thủ thực hiện các hệ thống tiêu chuẩn cần thiết. Mỹ là một trong những quốc gia đề xướng ra các Hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới, bởi vậy các sản phẩm dệt may bán vào thị trường Mỹ phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Vậy một vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam đó là: để sản phẩm của mình đạt chất lượng quốc tế và xâm nhập thị trường yêu cầu cao như Mỹ, các doanh nghiệp phải áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến mà cụ thể là ISO 9000. Tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 đề cập đến các yếu tố chính trong quản lý chất lượng như chính sách chỉ đạo về chất lượng: nghiên cứu thị trường: thiết kế triển khai sản phẩm; quá trình cung ứng, bao gói, phân phối, xem xét đánh giá nội bộ, dịch vụ sau khi bán hàng; kiểm soát tài liệu, đào tạo. Có thể nói, Hệ thống quản lý chất lượng ISO cho phép doanh nghiệp kiểm soát được chất lượng sản phẩm ở mọi khâu, từ thiết kế sản phẩm đến khâu xuất xưởng. Phương châm của ISO là : từng khâu của quá trình sản xuất tốt sẽ cho ra sản phẩm cuối cùng có chất lượng tốt và hạn chế ở mức thấp nhất sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Vì vậy, muốn thành công, các doanh nghiệp phải có chương trình giáo dục, đào tạo mọi người trong doanh nghiệp và tiến hành tự kiểm tra, đánh giá theo quy định trước. Đặc biệt, doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá bắt đầu từ nhập nguyên liệu - quy trình sản xuất - sản phẩm nghiệm thu. Việc nhanh chóng xây dựng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế tại các doanh nghiệp là điều cần thiết và cấp bách để: -Khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ và thiếu điều kiện trang bị kiểm nghiệm đo lường để kiểm tra chất lượng sản phẩm xuất khẩu. -Đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tại nhà máy có khả năng kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu, tránh tình trạng chỉ nghiệm thu đánh giá theo cảm nhận và kinh nghiệm. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải nhanh chóng đáp ứng được một số yêu cầu tiêu chuẩn khác cũng khá đặc thù và quan trọng đối với hàng dệt may đó là các tiêu chuẩn về SA 8000 và WRAP, đây là những tiêu chuẩn rất cần thiết cho hàng dệt may khi xâm nhập vào các thị trường phát triển nói chung và thị trường Mỹ nói riêng. Hiện nay, rất ít doanh nghiệp Việt Nam chú ý đến các tiêu chuẩn này vì vậy nhiều khi đã gây ra đổ bể hợp đồng. Việc tuân thủ những tiêu chuẩn trên sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao uy tín và có đủ năng lực và điều kiện xuất khẩu vào thị trường Mỹ. 2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm 2.1. Cải thiện chất lượng sản phẩm Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sau năm 2005, khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ thì thị phần của mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đối với hàng dệt may, các biện pháp cạnh tranh “phi giá cả” trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá, trong rất nhiều trường hợp đã trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh. Mỹ là thị trường rất “khó tính “, đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu dùng ở thị trường này có khả năng thanh toán cao, nên yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm được chú ý hơn cả. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp sau: - Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp. Cần lưu ý rằng nguyên liệu sợi vải là những hàng hoá hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng. - Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì... - Đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu và luôn giữ uy tín trên thị trường thế giới. Muốn vậy mọi sản phẩm may mặc xuất khẩu của các doanh nghiệp bắt buộc phải được kiểm tra qua một hệ thống quản lý chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ hệ thống quản lý chất lượng hàng xuất khẩu của Đài Loan kiểm tra bằng cách phân các doanh nghiệp theo các nhóm: -Nhóm phải kiểm tra đột xuất ( nhóm A) -Nhóm kiểm tra định kỳ ( nhóm B) -Nhóm kiểm tra bắt buộc ( nhóm C) Việc phân loại trên có sự điều chỉnh giữa các nhóm theo kết quả điều tra thực tế từng giai đoạn. Đây có thể là một kinh nghiệm tốt mà các doanh nghiệp may cũng như các cơ quan kiểm định chất lượng hàng hoá của Việt Nam nên tham khảo, áp dụng trong công tác kiểm tra chất lượng hàng may mặc xuất khẩu. 2.2. Đảm bảo yêu cầu về giao hàng Giao hàng đúng thời hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quan trọng quyết định về tính cạnh tranh của mặt hàng này. Vì vậy cần : - Chủ động trong khâu vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá. - Phân bổ các doanh nghiệp may xuất khẩu ở các khu vực thuận tiện cho giao hàng xuất khẩu. Một trong những yếu tố cơ bản về hàng dệt may Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường Mỹ là uy tín về giao hàng đúng hạn, thị trường Mỹ có đòi hỏi rất khắt khe về điều khoản này. Hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ phải cạnh tranh với các nước NAFTA, những nước có ưu thế về địa lý, điều kiện chuyển tải, giao hàng cũng như các ưu đãi về thủ tục nhập cảnh, giữ được ưu thế về giao hàng là nhiệm vụ khó khăn nhưng rất cần thiết. Do vậy cần nhanh chóng nghiên cứu, thiết lập hoặc thuê các kho ngoại quan tại Mỹ để luôn đảm bảo thời hạn giao hàng với khách hàng nước ngoài, từng bước tiến tới việc nghiên cứu, dự báo nhu cầu tiềm năng của khách hàng, đủ năng lực sản xuất những sản phẩm mới hợp thời trang tại thời điểm thích hợp nhất nhằm đạt được lợi nhuận cao và mở rộng thị trường tiêu thụ. 2.3. Giảm dần tỷ trọng gia công, tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp. Kinh doanh với Mỹ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải tiếp cận vói phương thức bán trực tiếp. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp cần chú trọng giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu sang nước thứ ba, tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp. Đây là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Muốn nâng cao hiệu quả xuất khẩu trực tiếp cần : * Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu: Sản phẩm ngành dệt phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may và tạo lập mối quan hệ qua lại mật thiết giữa dệt và may. Ngành dệt nên thành lập bộ phận chuyên trách thường xuyên nắm vững nhu cầu của ngành may để từ đó có hướng đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý. Phát triển hệ thống các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may trong nước. Ngay từ đầu phải đầu tư cho công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may xuất khẩu. Có các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. Quỹ thưởng xuất khẩu có 5% dành cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước là một biện pháp tốt cho vấn đề này. * Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường Mỹ. Để xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Mỹ, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng nhãn mác của mình . Muốn vậy : - Cần tập trung cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu vải cũng như sản phẩm may. - Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. - Trước mắt có kế hoạch hợp tác với các viện mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường Mỹ. - Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các doanh nghiệp và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu cũng như đại diện của các mạng lưới phân phối tại Mỹ. - Khi chưa có tên tuổi trên thị trường Mỹ thì cách tốt nhất để thâm nhập thị trường trong giai đoạn đầu là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của các công ty nước ngoài để làm ra sản phẩm của họ với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị trường thế giới bằng sản phẩm “ sản xuất tại Việt Nam”, đồng thời học tập kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ để tiến tới sự thiết kế mẫu mã. - Khai thác lợi thế của việc tham gia Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ cao của các nước ASEAN, hợp tác trong phát triển sản phẩm mới, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và khai thác lợi thế về thuế suất ưu đãi bằng mức thuế suất CEPT của sản phẩm tại thời điểm 2006 theo quy định của AICO cũng như các ưu đãi phi thuế quan khác. * Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá: Ở nhiều nước, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của các doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Để xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Mỹ, sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí trên thị trường Mỹ bằng nhãn hiệu của mình. Tuy nhiên, đăng ký một nhãn hiệu hàng hoá phải chịu chi phí cao, các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. * Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp: Cần khẳng định rằng trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng dệt may là chủ yếu, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ “ nội lực” để xuất khẩu trực tiếp. Trong điều kiện hiện nay, khi khâu tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, thiết kế... và đặc biệt là phối hợp các “công đoạn” này để cho ra đời một sản phẩm mới có sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam còn yếu kém thì gia công vẫn là hình thức cần thiết và hiệu quả. Gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường Mỹ bằng những ưu thế riêng biệt như : giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng hạn v.v.. Đồng thời thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ của các nước khác và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. 2.5. Thực hiện các giải pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ thì quảng cáo là một giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc tung sản phẩm vào thị trường, nó tạo ra sự thu hút, chú ý của các đối tượng tiêu dùng tại thị trường đó đối với sản phẩm, kích thích người mua sử dụng sản phẩm. Do vậy, trước khi đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may cần có những chính sách đúng đắn phù hợp với tập quán văn hoá và thị hiếu của người tiêu dùng tại Mỹ. Muốn vậy cần phải nghiên cứu xem phương thức quảng cáo và phương tiện quảng cáo như thế nào là phù hợp nhất, gây được sự chú ý nhất và kích thích được tới mức cao nhất người tiêu dùng để họ quyết định mua sản phẩm. Những phương thức quảng cáo trên vừa phải mang tính độc đáo vừa phải mang tính chân thực, phù hợp với đặc điểm tâm lý cá biệt của người mua, đúng đối tượng và đúng thời điểm. 3. Thúc đẩy sự phát triển thương mại thông qua Internet Ngày nay thương mại điện tử đóng một vai trò rất quan trọng trong các hoạt động mua bán, trao đổi, giao dịch trên phạm vi toàn cầu. Nhận thức rõ tiềm năng to lớn của ngành “thương mại không giấy tờ”, với tư cách là một đòn bẩy quan trọng nhất đối với nền kinh tế quốc dân, chính phủ Mỹ đang cố gắng thiết lập một môi trường kinh doanh sao cho thương mại điện tử có thể tăng trưởng nhanh nhất trên phạm vi toàn cầu. Bằng việc tận dụng các công nghệ mới để làm tăng khả năng kinh doanh, hiện nay Mỹ đang tích cực khai thác Internet và tham gia vào thương mại điện tử nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá cũng như dịch vụ ra thị trường thế giới. Vì vậy, muốn hợp tác với Mỹ một cách nhanh chóng và có hiệu quả, các doanh nghiệp Việt Nam không còn con đường nào khác là phải tiếp cận từng bước một cách hợp lý, tạo một môi trường kinh doanh thực sự, hình thành thương mại điện tử ở Việt Nam để hội nhập với thương mại điện tử thế giới. Sau đây là một số biện pháp nhằm thúc đẩy môi trường kinh doanh thương mại điện tử ở Việt Nam: - Phát triển các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet: phát triển Internet trước hết là phát triển các nhà cung cấp dịch vụ gia tăng cho Internet. Từ đó, các doanh nghiệp này sẽ tìm kiếm khách hàng, không ngừng mở rộng nội dung khai thác Internet. Bằng cách đó, số lượng thuê bao của Internet phát triển ngày một nhanh. - Đưa các báo chí, trung tâm thông tin, tra cứu lên mạng: bằng cách này, các doanh nghiệp biết dùng Internet để tra cứu thông tin, tìm bạn hàng quảng cáo thông tin về mình. - Đẩy mạnh kinh doanh thông tin thương mại qua Internet: cần sớm đưa dịch vụ cung cấp thông tin lên mạng để lôi kéo các doanh nghiệp tham gia kết nối mạng. Nội dung thông tin phải nhanh, nhạy, chính xác và bao trùm cả nước. Các nội dung thông tin về giá cả, thị trường thế giới cần được cập nhật và đưa vào đáp ứng với nhu cầu thế giới. - Các cơ quan quản lý Nhà nước tích cực tham gia nối mạng Internet để cung cấp các thông tin về chế độ chính sách, luật pháp từ đó tạo ra thói quen nhu cầu dùng Internet trong đời thường. 4. Nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp của Mỹ và nâng cao khả năng đàm phán. 4.1 Nghiên cứu và nắm vững hệ thống pháp luật Mỹ. Việc nghiên cứu những quy định liên quan đến xuất nhập khẩu trong Luật kinh doanh của Mỹ, cung cách làm ăn và tác phong của người Mỹ v.v.. giúp doanh nghiệp Việt Nam tính toán, cân nhắc và có quyết định đúng đắn trong việc hợp tác kinh doanh với công ty Mỹ đến mức nào để đạt hiệu quả cao nhất, rủi ro thấp nhất. Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả, mà còn phải thông thạo hệ thống pháp luật của Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào Mỹ. Như đã nói ở trên, hệ thống pháp luật của Mỹ rất phức tạp, rắc rối và chặt chẽ. Ngoài những quy định về thuế quan và hải quan khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần quan tâm tới Luật về trách nhiệm sản phẩm, Luật bảo hành và bảo vệ người tiêu dùng... Thị trường Mỹ là thị trường có sức mua lớn song yêu cầu cao về chất lượng đặc biệt đối với hàng dệt may, thị trường Mỹ có nhiều đòi hỏi về chất lượng. Ngoài việc đây là nhân tố cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ phải chịu các chế tài của Luật trách nhiệm sản phẩm nếu có vi phạm về chất lượng. Theo luật này, nhà sản xuất và người bán hàng phải chịu trách nhiệm đối với người tiêu dùng về chất lượng hàng hoá sản xuất và bán trên thị trường Mỹ. Đây là những quy định để bảo vệ người tiêu dùng khỏi bị thiệt hại do hàng hoá họ đã mua. Mỹ là nước thể chế hoá chặt chẽ quyền lợi của người tiêu dùng. Theo Luật bảo hành và bảo vệ người tiêu dùng, có hai loại bảo hành : bảo hành rõ ràng và bảo hành ngầm. Bảo hành rõ ràng được hiểu khi trên hàng hoá có ghi mẫu mã, quy cách, thành phần... tức là bên bán đã cam kết bảo đảm. Bảo hành ngầm là sự đảm bảo hàng hoá đã phù hợp với mục đích sử dụng của người mua mặc dù đôi khi mục đích sử dụng đó không giống với mục đích ban đầu của nhà sản xuất. Như vậy, bên cạnh việc tìm kiếm lợi nhuận, các doanh nghiệp phải lường trước khả năng bị kiện bởi “Thượng đế của mình”. Theo kinh nghiệm của các nhà xuất khẩu thành công trên thị trường Mỹ thì việc mua bảo hiểm về thương mại đối với hàng hoá tại các công ty bảo hiểm có tiếng là việc làm khôn ngoan nhất để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Để hạn chế sai lầm do ít hiểu biết về luật các doanh nghiệp nên tìm đến luật sư trong mỗi thương vụ. Ngoài ra, doanh nghiệp nên cộng tác với văn phòng tư vấn hoặc luật sư tại Mỹ để có thông tin về những thay đổi thủ tục hải quan - một trong những thủ tục phức tạp nhất. 4.2. Nâng cao kỹ năng đàm phán với doanh nhân Mỹ Đặc điểm nổi bật trong cách đàm phán với người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề, bỏ qua những lời lẽ rườm rà. Ngoài lý do muốn tiết kiệm thời giạn, coi thời gian là tiền bạc (Time is money), người Mỹ còn muốn nhanh chóng định đoạt thương vụ. Nếu thấy không có khả năng buôn bán với đối tác họ chấm dứt ngay và dành thời gian để tiếp xúc, thương lượng với người khác. Thương nhân Mỹ thường có biện pháp giảm bớt rủi ro trong kinh doanh bằng cách soạn sẵn những hợp đồng, trong đó khéo léo đưa ra những điều khoản về số lượng, chất lượng và thời gian giao hàng, đồng thời có những chi tiết mang tính thủ đoạn pháp lý để có thể thắng kiện khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, khi đàm phán hợp đồng nếu thấy bất ổn bạn nên yêu cầu điều chỉnh cho tới khi cảm thấy hợp lý hãy ký. Mặc dù tập quán buôn bán ở Mỹ có thể có nhiều điểm không đồng nhất với cách thức thông thường, những nhà thương lượng giàu kinh nghiệm vẫn yêu cầu người Mỹ sửa đổi các điều khoản cam kết cho hợp lý và thuận lợi cho mình, dựa vào Incoterm mới nhất. Vì vậy, khi đàm phán với thương nhân Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đặc biệt lưu ý những điểm sau: - Các doanh nghiệp đều có bộ phận thu thập thông tin và hàng hoá của họ được quảng cáo mạnh mẽ. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi thông tin và kèm theo sản phẩm tốt của hãng mình khi đàm phán. Đừng quên danh thiếp, ảnh của doanh nghiệp và của những người lãnh đạo doanh nghiệp, quyển danh mục mặt hàng dịch sang tiếng Anh. Biểu giá bằng USD, giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm (nếu được tổ chức giám định nước ngoài cấp càng tốt). Trong khi thương lượng phải đưa ra những vấn đề cụ thể, những con số rõ ràng, đừng để cho họ hiểu sai sẽ không có cơ hội lần thứ hai. - Cũng cần hiểu thêm rằng kinh doanh ở Mỹ tự do, các thương gia có thể vận dụng mọi chiến thuật, mưu mẹo để thực hiện các thương vụ và bằng sự liên minh hợp tác hoặc công ty nhỏ làm vệ tinh cho công ty lớn, người ta có khả năng làm được những cuộc kinh doanh mà số vốn cần thiết lớn hơn rất nhiều so với vốn pháp định của công ty. Khi đã tỏ ra kiên quyết và chắc chắn với ý đồ kinh doanh hay đầu tư của thương nhân Mỹ thường nói to, nói nhanh, tay làm những động tác mạnh để thuyết phục đối tác của họ. Trước sự tự giới thiệu mình một cách hùng hồn của người Mỹ, đối tác có thể bị mê hoặc bởi những lợi ích to lớn do các thương vụ đem lại, cũng có thể rơi vào cảm giác được giúp đỡ, được ban ơn. Tất nhiên đối với những nhà thương lượng sáng suốt thì tính thuyết phục cao nhất là ở tác phong giao dịch đàng hoàng, ở những tài liệu tính toán thiết kế kỹ lưỡng, hợp lý, phản ánh rõ dự tính thu lợi của mỗi bên. Người Mỹ không dại gì nhảy vào một thương vụ mà không tiên liệu trước được lợi nhuận. -Thương lượng với người Mỹ không chỉ khó về xác định số lượng (vì cách làm ăn nhỏ không cho phép đảm bảo chắc chắn khối lượng hàng hoá lớn giao đúng hạn), mà còn khó về chất lượng. Yêu cầu về chất lượng của thị trường Mỹ khá cao và đảm bảo chất lượng không phải bằng lời hứa suông mà bằng những giấy xác nhận càng nhiều càng tốt, của các tổ chức quản lý chất lượng có tiếng tăm thế giới hoặc ít ra là các công ty lớn thuộc nước thứ ba. Thiếu loại chứng chỉ này coi như chất lượng hàng hoá không được đảm bảo và phải chịu mua mức giá thấp. -Người Mỹ rất chính xác trong các cuộc hẹn, không xê dịch 15 phút nên vì bất cứ lý do gì mà phải chậm trễ, phải tìm mọi cách thông báo cho phía đối tác biết. Do vậy, rất cần chú ý đến điểm dự họp. Người Mỹ hay làm việc kết hợp đồng thời việc này với việc kia, nước Mỹ lại rộng lớn và nhiều thành phố trong lúc đó họ lại có hàng loạt các cuộc hẹn gặp. -Một tập quán cần chú ý khi đàm phán với người Mỹ là nên nói bằng tiếng Anh mà tốt nhất là nói tiếng Mỹ. 5. Tận dụng triệt để những ưu đãi của Mỹ giành cho các nước đang phát triển Một điều bất lợi đối với doanh nghiệp Việt Nam là chưa được hưởng Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ. Vì nếu được hưởng những ưu đãi này, hàng của nước ta xuất khẩu sang Mỹ chỉ bị đánh thuế suất 0% hoặc rất thấp. Tuy nhiên, trong khi chưa được hưởng GSP, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cần phải tìm những kẻ hở của quy định này để vẫn có thể xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ thu ngoại tệ. Một sản phẩm được hưởng GSP phải đáp ứng được những quy định sau: - Sản phẩm phải được sản xuất tại nước được hưởng GSP và giá trị nguyên liệu do nước đó làm ra cộng với chi phí trực tiếp gia công, chế tạo thành sản phẩm tại nước được hưởng GSP không được thấp hơn 35% giá trị sản phẩm ấy khi vào lãnh thổ Hải quan Mỹ. - Sản phẩm được sản xuất ở hai hay trên hai nước mà những nước ấy là thành viên của một Hiệp hội kinh tế, Liên minh thuế quan, Khu mậu dịch tự do thì được coi như sản xuất tại một nước, trị giá nguyên liệu chi phí đó được gộp lại để xác định điều kiện 35% nguyên liệu trong nước để hưởng GSP. - Khi nguyên liệu nhập khẩu vào nước được hưởng GSP và được chế biến thành một loại sản phẩm hoặc nguyên liệu khác thì vẫn được tính là trị giá gia tăng trong nước để đưa vào sản phẩm khi xét điều kiện 35% nguyên liệu trong nước để hưởng GSP. Như vậy, từ các quy định trên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể tìm được khe hở để xâm nhập hàng hoá của mình vào thị trường Mỹ bằng cách làm gia công hàng xuất khẩu cho các nước được hưởng GSP hay xuất khẩu nguyên nhiêu vật liệu cho các nước ASEAN để thu ngoại tệ. Thực tế cho thấy, nhờ có gia công hàng dệt may, hàng trăm doanh nghiệp Việt Nam đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước khoảng 300 triệu USD, giá trị thu được từ làm hàng dệt gia công cũng chiếm 75-80% trong tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này. Tuy nhiên, đây cũng cũng chỉ là con đường vòng bất đắc dĩ chúng ta phải sử dụng. Mục tiêu lâu dài của chúng ta là phải đạt được quy chế GSP của Mỹ. Có như vậy, hiệu quả kinh tế mới được phản ánh thực sự, khắc phục được tình trạng “ lấy công làm lãi” như hiện nay. Bởi trên thực tế giá trị ta xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may mới chỉ là 20-25%. Nếu được hưởng quy chế GSP của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu chắc chắn sẽ gấp nhiều lần con số 300 triệu USD. 6. Nâng cao khả năng liên kết, liên danh, hợp tác và liên doanh trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. Đặc điểm của các doanh nghiệp Mỹ là luôn ký các hợp đồng lớn, giao hàng nhanh và phải xuất khẩu hàng dệt may theo hình thức trực tiếp (sản xuất, xuất khẩu trực tiếp không qua trung gian) vì vậy các doanh nghiệp, các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng dệt may nói riêng trong điều kiện thiếu vốn, quy mô sản xuất không đáp ứng các hợp đồng lớn, giao hàng nhanh đúng hạn... thì không còn con đườnh nào khác là phải tăng cường tính liên danh, liên kết, hợp tác,... để cùng thực hiện hợp đồng đã ký với các doanh nghiệp Mỹ. Tuy nhiên phải đảm bảo các yêu cầu về hợp đồng và chữ tín với bạn hàng. KẾT LUẬN. Mỹ là một thị trường lớn, đầy hứa hẹn đối với sản phẩm dệt may của Việt Nam. Trong những năm vừa qua, cùng với nhịp độ tăng cao về tổng giá trị buôn bán của thị trường Việt nam sang Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này cũng không ngừng tăng cao, khá cả về số lượng, chất lưọng và chủng loại. Cùng với Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết, thông qua và có hiệu lực vào tháng 12/2001, hàng dệt may Việt Nam đã có thể cạnh tranh bình đẳng với sản phẩm của các cương quốc dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ ... nhưng bên cạnh đó hàng dệt may Việt Nam vẫn đứng trước những khó khăn và thách thức rất lớn đó là Việt Nam là nước đến sau, năng lực sản xuất còn bé, nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm chưa cao, chủng loại chưa đa dạng, thua kém về vốn, công nghệ, quản lý và kinh nghiệm trên thị trường. Đứng trước những khó khăn và thách thức đó, làm thế nào để cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập, đứng vững và phát triển ở thị trường Mỹ luôn là vấn đề quan tâm của các Bộ, Ngành có liên quan. Để giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có một hành trang vững chắc, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập thị trường rộng lớn này, Nhà nước cần phải có những chính sách thích hợp đầu tư cho ngành dệt may, đẩy mạnh công tác xúc tiến, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nước, thủ tục thuế xuất khẩu, nhập khẩu, hải quan. Đồng thời cũng cần tiếp tục cải tiến cơ chế tài chính, tín dụng và tạo điều kiện cần thiết để giúp ngành dệt may thành công thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, ở tầm vi mô, các doanh nghiệp cũng cần phải có những chiến lược, phương pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, lựa chọn sản phẩm và thị phần để tiếp cận thị trường, tìm hiểu luật pháp Mỹ cũng như phong tục tập quán, phương thức kinh doanh của Mỹ để có thể có những bước đi thích hợp. Thị trường Mỹ là một thị trường lý tưởng xét cả về quy mô, nhu cầu hay sức mua. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này sẽ là bước đi quan trọng của ngành dệt may Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập với thế giới, đưa Việt Nam trở thành một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may, góp phần thực hiện thành công công cuộc “Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá” đất nước. DANH SÁCH CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo công tác thị trường Dệt - May, Tổng công ty dệt may Việt Nam, tháng 6/2001 2. Báo cáo của thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ năm 2000 3. Báo Thương Mại, Thời báo kinh tế, Báo Hải quan 4. Bộ Thương mại Mỹ – Tài liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. 5. Các báo cáo hàng năm của Vụ XNK- Bộ Thương Mại. 6. Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010 - Bộ Thương Mại 7. Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ - Thị trường và doanh nghiệp Hoa Kỳ, Hội Khoa Học Kinh Tế Việt Nam. 8. Kinh tế 1999-2000 Việt Nam và thế giới ,Thời báo kinh tế Việt Nam Kinh tế 2000-2001 Việt Nam và thế giới, Thời báo kinh tế Việt Nam 9. Những điều cần biết khi nhập khẩu hàng hoá vào thị trường Hoa Kỳ - Ban xúc tiến thương mại - Bộ Thương Mại. 10. Những quy định về nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ. 11. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2010 - Tổng công ty dệt may Việt Nam ( Vinatex). 12. Tài liệu chương trình toạ đàm “Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may và da giầy sang thị trường Mỹ” 13. Tạp chí Dệt May, các số năm 2001 và 2002 14. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới” số 6 năm 2000 15. Thông tin và dự báo thương mại quốc tế, Vụ kế hoạch-Bộ Thương Mại 16. Vài nét giới thiệu thị trường Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam – Trung tâm xúc tiến xuất khẩu – Tổng Công ty Dệt may Việt Nam – Tháng 8/2000 17. An outline of the American Economy; by R.Mc Can, M. Perlman; United States Information Agency. 18. Exporting Textiles and Textile Products to the United States, by Ellen Kerrigan Dry, Russin & Vecchi 19. Omiko FuKaSe and Will Martin, the effect of the S’s Grating MFN status to Việt Nam, World Bank. 20. Quota and Visa, by Mitchell Fain, The US Department of Commerce 21. The effect of the United States granting MFN status to Việt Nam; UNDP 22. US. Department of Commerce Office of Textiles and Apparel.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.doc