LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Tiến trình CNH–HĐH đất nước cần phải có vốn, công nghệ, nhân lực, . trong đó, vốn là yếu tố cơ bản nhất. Trong điều kiện vốn của Ngân sách Nhà nước có hạn, thị trường chứng khoán chưa phát triển, vốn tự có của doanh nghiệp rất thấp thì vốn của các NHTM có vai trò rất quan trọng. Thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH này, đòi hỏi một lượng vốn rất lớn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, kinh tế nông thôn .Như vậy nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế đang và sẽ là rất lớn.Ở hầu hết các nước công nghiệp trong nhóm 10, 15 nước hàng đầu trên Thế giới, nghiệp vụ cho vay của các trung gian tài chính đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn. Trong khi đó, ở hầu hết các nước đang phát triển như Việt Nam, các nước ASEAN, Nam Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, thì hiện nay cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn do tính thiếu an toàn của các khoản đầu tư dài hạn mà yếu tố chính trị, lạm phát, tình hình tăng trưởng là các tác nhân chủ yếu . Một điểm đáng lưu tâm nữa là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng thể hiện vai trò quan trọng và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế nước nhà; song lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động các nguồn vốn phục vụ đầu tư, kinh doanh sản xuất.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy (CN NHCTCG) dưới sự chỉ đạo chung củaNgân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN)đã và đang phát triển theo định hướng tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn giúp các doanh nghiêp ngoài quốc doanh (DNNQD) có điều kiện đầu tư chiều sâu, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng và năng lực sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu; làm tiền đề cho CNH-HĐH. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vướng mắc và kết quả đạt được chưa như mong muốn. Vì vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải tìm ra được biện pháp giải quyết tình trạng này. Trên đây là những lý do xuất phát từ sự cấp thiết của thực tiễn để em lựa chọn đề tài “Giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanhtại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy”
2. Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
_ Những vấn đề cơ bản về cho vay trung và dài hạn của NHTM; cũng như tìm hiểu về khu vực DNNQD
_ Khái quát về thực trạng công tác cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
_ Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
_ Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là: hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD Việt Nam
_ Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn tại CN NHCTCG đối với riêng DNNQD trong thời gian 3 năm 2005, 2006, 2007 và hướng phát triển tiếp theo của hoạt động này trong thời gian tới
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng kết hợp trong chuyên đề bao gồm: phương pháp thống kê và thu thập dữ liệu, phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu, tổng hợp.
5. Kết cấu chuyên đề
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần:
_ Chương 1: Tổng quan về cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD
_ Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
_ Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNNQDtại CN NHCTCG
73 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3145 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.817
135.431
186.310
Lợi nhuận
6.051
9.435
49.241
Nếu như thu nhập năm 2006 chỉ tăng 29,5% so với năm 2005 thì mức tăng của năm 2007 là 5 lần so với năm 2006 cho thấy sự khởi sắc trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Lợi nhuận năm 2007 đạt trên 49 tỷ đồng, đạt 109,5% kế hoạch, tăng 62,5% so với năm 2006.
Không chỉ đạt được tăng trưởng trong doanh số, chi nhánh còn quan tâm tới sự phát triển bền vững trong việc giảm các khoản nợ xấu xuống đáng kể: năm 2006 nợ xấu giảm 24,7% so với năm 2005 thì sang năm 2007 con số nợ xấu tiếp tục giảm xuống hơn 2 lần so với năm trước do chi nhánh đã thực hiện một loạt các biện pháp quản lý chất lượng tín dụng. Tỷ trọng nợ quá hạn năm 2007 chỉ chiếm 1,78% tổng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên nợ có khả năng mất vốn của năm 2007 lại tăng tới 17,8 lần so với năm 2006. Đây là vấn đề cần được lưu tâm trong năm 2008 để thu hồi tối đa nợ xấu, tiến tới giảm tỷ trọng nợ xấu tính trên tổng vốn cho vay.
Tỷ trọng các khoản vay có tài sản bảo đảm trên tổng các khoản cho vay cũng tăng lên rõ rệt qua từng năm (năm 2005: 44,7%; năm 2006: 69,8%; năm 2007: 73,2%). Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu mà chi nhánh thực hiện để tăng cường an toàn tín dụng.
Bảng 2.5: Hoạt động sử dụng vốn phân theo mức độ tài sản bảo đảm Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh CN NHCTCG
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng cho vay
1.199.758
601.885
464.372
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản
563.886
420.116
340.385
Không có bảo đảm bằng tài sản
635.872
181.769
123.987
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn với DNNQD tại CN NHCTCG
Thế mạnh của NHCT là tài trợ cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp – đây cũng là lĩnh vực hoạt động chính của các DNNQD hiện nay.
2.2.1. Tình hình cho vay trung và dài hạn nói chung của ngân hàng
Tình hình cho vay trung và dài hạn với các thành phần kinh tế của CN NHCTCGđược thể hiện trong bảng số liệu dưới đây.
Bảng 2.5: Dư nợ cho vay phân theo thời gian Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh CN NHCTCG
Đơn vị: triệu đồng
Dư nợ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Cho vay ngắn hạn
755.558
63
277.244
46
178.360
36,6
Cho vay trung và dài hạn
444.200
37
325.017
54
309.231
63,4
Tổng dư nợ
1.199.758
100
601.885
100
487.591
100
Các số liệu thống kê trong bảng trên cho thấy giá trị tuyệt đối của các khoản dư nợ cho vay trung và dài hạn tuy có giảm nhưng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trên với tổng dư nợ cho vay lại qua không ngừng tăng lên (năm 2005: 37%, năm 2006: 54%, năm 2007: 63,4%). Như vậy cho vay trung và dài hạn cho nền kinh tế đã được NHCTCG chú trọng phát triển và đến nay đã đạt tỷ lệ dư nợ khá cao.
2.2.2. Tình hình cho vay đối với DNNQD nói chung
Cho vay đối với các DNNQD (bao gồm cả cho vay ngắn, trung và dài hạn) được thể hiện trong bảng số liệu dưới đây.
Bảng 2.6: Dư nợ cho vay phân theo thành phần kinh tế Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh CN NHCTCG
Đơn vị: triệu đồng
Dư nợ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
DNQD
631.073
52,6
341.276
56.7
311.808
64
DNNQD
568.687
47,4
260.609
43,3
175.783
36
Tổng dư nợ
1.199.760
100
601.885
100
487.591
100
Chỉ xét riêng tới chỉ tiêu dư nợ cho vay ta đã thấy NHCTCG vẫn chủ yếu tập trung cho vay với khối DNQD, tỷ trọng vay vốn của khu vực này luôn chiếm hơn 50% và lại còn có xu hướng tăng lên trong các năm từ 2005 tới 2007. Điều này có nghĩa là các DNNQD vẫn chưa được thực sự quan tâm đúng mức. Tỷ trọng dư nợ của khối DNNQD liên tục giảm từ 47,4% năm 2005 xuống 36% năm 2007. Kết quả này một phần là do chính sách hạn chế tín dụng nhằm đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh trong tình hình kinh tế biến động trong thời gian qua của NHNN cũng như bản thân NHCTVN.
2.2.3. Tình hình cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD
Qua 2 bảng số liệu độc lập về dư nợ cho vay phân theo thời gian và phân theo thành phần kinh tế, phần nào chúng ta đã thấy được thực trạng của hoạt động cho vay trung và dài hạn ở chi nhánh. Cho vay trung và dài hạn liên tục tăng trưởng song lại tập trung chủ yếu vào khối DNQD trên địa bàn hoạt động của ngân hàng.
Để có được sự đánh giá chính xác về tình hình cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG, chúng ta trước hết sẽ xem xét số liệu cụ thể về tình hình cho vay trung và dài hạn riêng đối với riêng khu vực DNNQD được thống kê ở bảng dưới đây.
Bảng 2.7: Tình hình cho vay trung và dài hạn với DNNQD tại NHCT CG Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm CN NHCTCG
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
%
2006/2005
Số tiền
Tỷ trọng
%
2007/2006
1.Doanh số cho vay
_ DNQD
_ DNNQD
652.322
365.302
287.019
100
56
44
495.017
301.861
193.156
100
60,98
39,02
76
83
67
724.390
463.248
261.142
100
63,95
36,1
150
153
135
2.Doanh số thu nợ
_ DNQD
_ DNNQD
649.291
395.704
253.586
100
60,9
39,1
614.200
350.094
264.106
100
57
43
98
88
104
740.176
407.096
333.080
100
55
45
120
116
126
3.Dư nợ đến 31/12
_ DNQD
_ DNNQD
444.200
233.649
210.551
100
52,6
47,4
325.017
184.317
140.700
100
56,7
43,3
73
79
67
309.231
197.753
111.478
100
63,95
36,05
95
107
79
4. Dư nợ quá hạn
_ DNQD
_ DNNQD
28.010
15.224
12.786
100
59
41
15.921
9.871
6.050
100
62
38
56,8
64,8
47,3
8.700
5.351
3.010
100
64
36
54,6
54,2
49,7
2.2.3.1. Doanh số cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD
Doanh số cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản vốn trung và dài hạn mà ngân hàng đã phát ra cho DNNQD vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể món vay đó đã thu hồi hay chưa. Đây là chỉ tiêu phản ánh con số tuyệt đối cho thấy khả năng mở rộng cho vay. Do đó, nếu kết hợp được doanh số cho vay của nhiều thời kỳ thì ta sẽ thấy được phần nào về xu hướng của hoạt động cho vay này. Qua bảng số liệu 2.7 ta thấy, doanh số cho vay trung và dài hạn với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng giảm qua các năm. Đây là do xu thế giảm chung của hoạt động cho vay trong ba năm từ 2005 tới 2007 tại CN NHCTCG
Năm 2005: đạt 287 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng là 44% tổng doanh số cho vay trung và dài hạn toàn chi nhánh
Năm 2006: doanh số cho vay bằng 67% năm 2005, chiếm tỷ trọng 39,02% trên tổng doanh số
Năm 2007: doanh số cho vay bằng 90,9% so với năm 2005, bằng 135% so với năm 2006; chiếm tỷ trọng 36,1% tổng doanh số cho vay.
Như vậy, không chỉ doanh số cho vay có xu hướng biến động không đều trong ba năm qua: từ 287 tỷ năm 2005 xuống còn 193 tỷ năm 2006 và tăng lại là 261 tỷ năm 2007. Bên cạnh đó cả tỷ trọng cho vay trung và dài hạn với DNNQD trong tổng cho vay trung và dài hạn đang giảm sút (năm 2005: 44%, năm 2006: 39,02%, năm 2007: 36,1%). Đây là một điểm khác biệt so với xu hướng chung của các NHTM hiện nay là tăng cường cho vay đối với các DNNQD.
2.2.3.2. Doanh số thu nợ cho vay trung và dài hạn với DNNQD
Đây là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản cho vay trung và dài hạn với DNNQD kể cả năm nay và các năm trước đó.
Năm 2005: chiếm tỷ trọng 39,1% tổng doanh số thu nợ trung và dài hạn
Năm 2006: bằng 104% năm 2005, chiếm tỷ trọng 43% tổng doanh số thu nợ cho vay trung và dài hạn
Năm 2007: bằng 126% năm 2006, bằng 217% so với năm 2005, chiếm tỷ trọng 45% tổng doanh số thu nợ trung và dài hạn
Tính đến 31/12/2007, doanh số thu nợ cho vay trung và dài hạn của DNNQD là 333 tỷ đồng trên tổng doanh số cho vay là 261 tỷ đồng. Doanh số cho vay biến động không đều, tỷ trọng cho vay giảm, còn doanh số thu nợ lại liên tục tăng qua các năm (2005: 39,1; 2006: 43%; 2007: 45%) chứng tỏ dư nợ cũ đang được tích cực thu hồi, và việc thu nợ mới cũng tỏ ra có hiệu quả. Con số này cũng đồng thời cũng giải thích cho việc chi nhánh giảm cho vay đối với các DNNQD là nhằm mục đích thu hồi nôt nợ cũ. Chỉ tiêu doanh số thu nợ cho thấy ngân hàng ba năm qua ngân hàng thực hiện thu nợ rất hiệu quả, các khoản vay đảm bảo an toàn cao (bắt nguồn từ việc các DNNQD có sử dụng đúng mục đích khoản vay). Chỉ tiêu này của CN NHCTCG ngày càng cao đã phản ánh chất lượng các khoản vay ngày càng tốt.
2.2.3.3. Dư nợ cho vay trung và dài hạn của DNNQD
Là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân hàng hiện còn cho DNNQD vay bao nhiêu vốn trung và dài hạn, và đây cũng là khoản mà ngân hàngcần thu về.
Năm 2005: đạt 210 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,4% tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn của chi nhánh.
Năm 2006: đạt 141 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 43,3% tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn, giảm 32,86% so với năm 2005
Năm 2007: đạt 111 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 36,05% tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn, giảm 21,27% so với năm 2006.
Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn có xu hướng giảm dần qua các năm làm cho dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD cũng giảm theo. Năm 2005 dư nợ cho vay trung và dài hạn với DNNQD đạt 210 tỷ thì tới năm 2007 chỉ còn 111 tỷ đồng, tức là con số tuyệt đối đã giảm gần 2 lần. Tỷ trọng dư nợ của DNNQD trên tổng dư nợ trung và dài hạn với nền kinh tế cũng giảm từ 47,4% năm 2005 xuống còn 36,05% vào năm 2007. Rõ ràng là có sự thu hẹp rất lớn trong cho vay trung và dài hạn của chi nhánh đối với khu vực kinh tế này. Tóm lại là, dư nợ cho vay trung và dài hạn với DNNQD của CN NHCTCG ba năm gần đây liên tục giảm sút chứng hoạt động tài sản của ngân hàng chưa cao, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế…
2.2.3.4. Nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn vay trung và dài hạn của DNNQD
Nợ quá hạn:
Trong những năm trước đây, nợ quá hạn của khối kinh tế ngoài quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn nhưng bắt đầu từ năm 2003 đã có sự đổi hướng. Nợ quá hạn của khối kinh thế quốc doanh chiếm phần lớn (do một số DNQD gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tài chính giảm sút, không có tài sản đảm bảo để xử lý nợ quá hạn) đã tăng tỷ trọng từ 59% năm 2005 lên 64% năm 2007, nợ quá hạn khối kinh tế ngoài quốc doanh giảm dần. Tỷ trọng nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn của DNNQD năm 2005 là 41%, năm 2006 là 38%, và đến năm 2007 chỉ còn 36% so với tổng nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn của toàn chi nhánh.
Biểu đồ 2.1: Tình hình nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn của NHCTCG Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh CN NHCTCG
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn: chỉ tiêu này thường nói lên chất lượng tín dụng của khoản vay. Thông thường tỷ lệ này dưới 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng bình thường. Nếu ở một thời điểm nhất định nào đó mà tỷ lệ này lớn thì nó phản ánh chất lượng cho vay tại ngân hàng kém và rủi ro cao. Xem xét số liệu được thống kê tại thời điểm 31/12/2007
Bảng 2.8: Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn của DNNQD Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007 CN NHCTCG
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Nợ quá hạn DNNQD
12.786
6.050
3.010
Dư nợ DNNQD
210.511
140.700
111.478
Tỷ lệ NQH DNNQD (%)
6,03
4,3
2,7
Dễ dàng nhận thấy rằng, tỷ lệ nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn của DNNQD có sự chuyển biến tích cực theo thời gian, từ 6,03% năm 2005 giảm xuống còn 2,7% năm 2007.
Như vậy, xem xét tình hình nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn cho vay trung dài hạn của DNNQD tại NHCTCG trong ba năm qua, ta thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn hoàn toàn nằm trong khoảng 5% - 10% là tỷ lệ nợ quá hạn an toàn. Có thể khẳng định rằng chất lượng cho vay trung và dài hạn với DNNQD của chi nhánh là khá tốt.
2.3. Đánh giá về tình hình cho vay trung và dài hạn với DNNQD tại Chi nhánh NHCT Cầu Giấy
2.3.1. Những kết quả đạt được
Trong thời gian ba năm từ 2005 tới 2007, dưới sự chỉ đạo kịp thời và cương quyết của ban lãnh đạo, cùng với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên toàn chi nhánh, hoạt động cho vay trung và dài hạn với DNNQD của NHCTCG đã có những chuyển biến tích cực và tiến bộ rõ rệt.
Nguồn huy động trung và dài hạn ngày càng tăng trưởng
Từ khi thành lập đến nay, CN NHCTCG đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về nguồn vốn cũng như chất lượng nguồn vốn để trở thành một trong những chi nhánh mạnh của hệ thống NHCTVN.
Năm 2006 thị trường tiền tệ có nhiều biến động về lãi suất trong nước và trên thị trường quốc tế, tình hình lạm phát và cạnh tranh về huy động vốn giữa các tổ chức tín dụng trong nước gây ảnh hưởng không nhỏ tới công tác huy động vốn của các NHTM nói chung và NHCTVN nói riêng. Trước biến động về giá huy động vốn trên thị trường, CN NHCTCG đã chủ động áp dụng sách sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, cải thiện quản trị thanh khoản dựa trên hệ thống thông số an toàn. Các biện pháp chủ động và linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất đối với cá nhân, doanh nghiệp cả VNĐ và ngoại tệ đã góp phần giảm thiểu tác động thị trường lên công tác huy động vốn, nâng cao hệ số sử dụng vốn.
Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng có xu hướng tăng lên qua từng năm (năm 2005: 50,79%; năm 2006: 54,39%; năm 2007: 56,67%). Nguồn vốn chi nhánh dùng cho vay trung và dài hạn có sự đóng góp lớn của nguồn vốn huy động tại chỗ (huy động vốn chuyển về từ NHCTVN hưởng lãi điều hòa). Tỷ lệ huy động vốn tại chỗ so với tổng nguồn vốn huy động tăng dần qua các năm (2004: 87%, 2005: 90%, 2006: 92%) là cơ sở đảm bảo cho một nguồn vốn bền vững, ổn định về kỳ hạn.
Cho vay trung và dài hạn với DNNQD tăng về chất lượng
CN NHCTCG ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trên địa bàn cũng như trong toàn hệ thống NHCTVN trong đầu tư vốn trung và dài hạn. Số lượng các đơn vị DNNQD có quan hệ vay vốn với chi nhánh ngày càng tăng đáng kể, số lượng các DNNQD đặt mối quan hệ tài chính lâu dài với chi nhánh cũng theo đó tăng lên. Các món vay có khối lượng vay ngày càng lớn và trải rộng trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế từ xây dựng, đóng tàu, giáo dục tới sản xuất máy móc, … Một số món vay trung và dài hạn trong năm 2007 của chi nhánh phải kể tới là: Công ty cổ phần phát triển Đại Lâm vay trung hạn 6,1 tỷ phục vụ sản xuất kinh doanh (thời gian trả nợ là 06 năm); Công ty cổ phần vận tải Bình Minh vay 30 tỷ đóng tàu trọng tải 4.300 tấn (thời gian trả nợ là 09 năm); Công ty trách nhiệm hữu hạn tư vấn đầu tư phát triển Bộ giáo dục đào tạo Phương Nam vay 20 tỷ để thực hiện một phần dự án xây dựng trường phổ thông dân lập Phương Nam (thời gian trả nợ là 06 năm) Nguồn: Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn CN NHCTCG
Chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD nói riêng ngày càng có chuyển biến tốt. Một phần nhờ vào quán triệt phương châm của cấp lãnh đạo “ mở rộng cho vay đến đâu chắc đến đó”; một phần nữa là do công tác thẩm định món vay, kiểm tra trước và sau khi cho vay được các cán bộ tín dụng của chi nhánh thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ. Tại CN NHCTCG, mỗi cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định từ ban đầu cho tới khi thu hồi vốn đối với một dự án kinh tế có nhu cầu vay vốn. Xuất phát từ yếu tố đó, mỗi cán bộ tín dụng có ý thức hơn về trách nhiệm của mình, tập trung chuyên môn sâu vào dự án mình phụ trách. Đó là cơ sở để đưa ra kỳ hạn nợ sát với yêu cầu thực tế mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và ngân hàng đồng thời thuận lợi trong việc kiểm tra giám sát món vay, đôn đốc thu nợ đạt kết quả tốt. Đây là cơ sở để doanh số thu nợ với khu vực DNNQD không ngừng tăng lên, khẳng định hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đối tác của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh hoàn toàn nằm ở mức an toàn, và có xu hướng ngày càng giảm xuống cho thấy chất lượng cho vay trung và dài hạn với DNNQD ngày càng tăng
Song song với quá trình tìm hiểu doanh nghiệp và dự án đầu tư trên cơ sở tài liệu do doanh nghiệp cung cấp, chi nhánh còn coi trọng và đẩy mạnh khâu khảo sát thực tế, nắm bắt thông tin trực tiếp từ thị trường, từ các đối tác của khách hàng và từ những bạn hàng tín nhiệm. Đó chính là một bước quan trọng giúp chi nhánh giảm và tránh được những tổn thất do sự lừa đảo, thiếu trung thực của khách hàng.
CN NHCTCG tiến hành thẩm định dự án theo đúng nội dung quy định trong văn bản hướng dẫn thẩm định cho vay trung và dài hạn của NHCTVN. Tuy nhiên trong quá trình điều tra lập hồ sơ cho vay, một số thủ tục, điều kiện vay vốn và đối tượng vay vốn được ngân hàng giải quyết linh động theo khuôn khổ pháp luật cho phép, giúp khách hàng giảm bớt thời gian chờ đợi, cũng như chi phí. CN NHCTCG không ngừng đổi mới, nâng cao phong cách giao dịch văn minh, lịch sự đồng thời nhiệt tình tư vấn về các mặt nghiệp vụ, dịch vụ của ngân hàng do đó tạo được thiện cảm phía từ khách hàng.
Chi nhánh bám sát với các quy định của NHNN cũng như NHCTVN về tỷ lệ vốn chủ sở hứu tối thiểu của từng dự án, vốn cho vay tối đa trên giá trị tài sản đảm bảo, hoạch định cụ thể về thời hạn trả nợ, … Làm tốt các công tác này chi nhánh không những đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt động của mình mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của toàn hệ thống NHCTVN.
Như vậy, có thể khẳng định rằng chất lượng cho vay trung và dài hạn với DNNQD của chi nhánh ngày càng tăng lên.
Lãi suất cho vay linh hoạt
Lãi suất cho vay trung và dài hạn được chi nhánh áp dụng linh hoạt chứ không theo chuẩn lãi suất nhất định. Lãi suất áp dụng cho vay trung và dài hạn đều là lãi suất thả nổi, được ngân hàng xác định một cách khoa học dựa trên chi phí vốn, mức độ rủi ro và lợi nhuận hợp lý của ngân hàng. Lãi suất cho vay = lãi suất tiền gửi tiết kiệm trả sau + lợi nhuận ngân hàng (mức là 3,6%/năm; 4,6%/ năm, … tuỳ tính chất từng món vay) Nguồn: Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn CN NHCTCG
. Như vậy, chi nhánh đã bám sát vào tình hình biến động của thị trường để thực hiện công tác xác định lãi suất đối với các món vay trung và dài hạn; không chỉ đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng của mình.
Tỷ lệ nguồn ngắn hạn dùng cho vay trung và dài hạn hợp lý
Năm 2005, tỷ lệ nguồn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn của CN NHCTCG là 25% - hoàn toàn phù hợp với quy định của NHNN. Các năm tiếp theo, ngân hàng hầu như không phải dùng tới nguồn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Lấy ví dụ điển hình của năm 2007, chỉ riêng nguồn tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng mà ngân hàng huy động được từ doanh nghiệp và dân cư đã là 454.029 triệu đồng, trong khi cho vay trung và dài hạn đạt 309.229 triệu đồng. Như vậy cho vay trung và dài hạn hoàn toàn nằm trong khuôn khổ đáp ứng của nguồn vốn trung và dài hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý
Doanh số thu nợ cho vay trung và dài hạn của DNNQD liên tục tăng cao qua ba năm. Tình hình nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn của NHCTCG trong ba năm qua cũng cho ta thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn của chi nhánh hoàn toàn nằm trong khoảng từ 5% - 10% là tỷ lệ nợ quá hạn an toàn nên có thể nhận xét rằng chất lượng cho vay DNNQD của ngân hàng khá tốt.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được thì hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD của CN NHCTCG vẫn còn những mặt hạn chế. Nhìn nhận ra những điểm còn hạn chế cũng như tìm được nguyên nhân của những hạn chế này là việc làm cần thiết để tiếp tục phát triển nghiệp vụ này trong thời gian tới.
2.3.2.1. Hạn chế
Số lượng các DNNQD trên địa bàn hoạt động của ngân hàng ngày càng lớn, tương ứng với nhu cầu về vốn trung và dài hạn ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, huy động vốn trong chi nhánh lại tăng chưa tương xứng, thậm chí nguồn huy động trong dân cư còn giảm tới 20,26% trong năm 2007 làm cho dư nợ cho vay tín dụng trung và dài hạn năm 2007 chỉ bằng 95%, dư nợ cho vay trung và dài với DNNQD chỉ còn 79% so với năm 2006.
Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đối với khối DNNQD còn chưa tương xứng với nhu cầu của khách hàng cũng như tiềm lực của ngân hàng. Chi nhánh vẫn cho vay chủ yếu với khối lượng vốn lớn và thời gian dài cho các lĩnh vực xây dựng công trình giao thông, thi công xây lắp, điện lực, … - tức là vẫn tập trung vốn cho vay đối với khối DNQD. Dư nợ cho vay trung và dài hạn với DNNQD những năm gần đây cũng liên tục giảm. Doanh số cho vay trung và dài hạn đối với khối DNNQD trước năm 2005 tương đối lớn. Song bắt đầu từ năm 2005 trở đi lại có sự biến động bất thường (giảm mạnh vào năm 2006, tăng trở lại vào 2007). Như vậy là ở chi nhánh đang có hiện tượng đi ngược lại xu hướng chung của các NHTM là tăng cường cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD
Thực tế cho thấy cho vay trung và dài hạn tăng trưởng rất nhanh, tập trung vào các dự án với quy mô rất lớn, phức tạp mà việc thẩm định đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, theo các tiêu chuẩn thị trường thực sự, vượt quá năng lực, kinh nghiệm, khả năng giám sát của các cán bộ tín dụng. Ví dụ điển hình là với các dự án về đóng tàu, xây dựng cầu, đường… Doanh nghiệp muốn vay vốn đều phải cung cấp cho ngân hàng toàn bộ hồ sơ công trình. Tuy nhiên các cán bộ tín dụng với chuyên môn là phân tích các con số tài chính thì các số liệu kỹ thuật, sơ đồ chế tạo, lắp ráp với họ là nằm ngoài khả năng. Do đó các dự án này được duyệt chủ yếu là dựa vào thẩm định của các cơ quan chức năng có thẩm quyền khác.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan
Môi trường kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong mấy năm gần đây luôn duy trì ở mức cao, kéo theo đó là lạm phát liên tục gia tăng (năm 2007 là 12,63%) tạo lãi suất âm đối với các khoản tiền gửi. Giá cả tăng mạnh làm đồng tiền bị mất giá gây ra tâm lý e ngại gửi tiền dài hạn vào hệ thống ngân hàng, thay vào đó người dân chuyển tiền sang đầu tư kinh doanh bất động sản, vàng và đôla Mỹ. Tình trạng này làm giảm đáng kể nguồn vốn huy động của ngân hàng, nhất là nguồn trung và dài hạn.
Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong huy động vốn cũng là nhân tố làm giảm lượng vốn huy động được của mỗi ngân hàng. Tình trạng “khát” vốn VND và cuộc đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng trong mấy tháng đầu năm 2008 vừa qua là một ví dụ điển hình cho sự cạnh tranh này.
Môi trường pháp lý:
Lo ngại về lạm phát, nhất là tình trạng tăng trưởng tín dụng “nóng” (mức tăng trưởng tín dụng là 25% năm 2006, và lên tới 40% tính đến 8/2007) đã khiến NHNN trong mấy năm gần đây phải liên tục thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ như: tăng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, sử dụng các công cụ thị trường mở (buộc các NHTM phải mua tín phiếu bắt buộc), tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, … nhằm giữ tốc độ tăng trưởng ở mức hợp lý. Hiện nay, NHNN còn đưa ra hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các NHTM là 30% /năm. Chính sách tiền tệ thắt chặt này có tác dụng trực tiếp tới việc phát triển cho vay trung và dài hạn của chi nhánh với nền kinh tế nói chung và với DNNQD nói riêng.
Văn bản pháp lý về hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHCTVN quy định doanh nghiệp phải đạt vốn tự có tối thiểu là 50% trên tổng vốn đầu tư của dự án khi muốn vay vốn từ hệ thống Ngân hàng Công thương (trong khi quy định tại ngân hàng Agribank Sài Gòn là 20% và ngân hàng Nam Á là 30%). Đây chính là luật có tác dụng ràng buộc rất lớn trong việc phát triển cho vay với DNNQD vì đây là khối kinh tế có khả năng rất hạn hẹp về tài chính. Rất nhiều DNNQD tìm đến với ngân hàng nhưng đã vấp ngay phải rào cản này và không đạt được điều kiện tiến hành vay vốn.
Nguyên nhân từ phía các DNNQD:
Các DNNQD trên địa bàn quận Cầu Giấy chủ yếu mới được thành lập do đó luôn gặp khó khăn lớn về mặt tài chính. Nhiều doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện của ngân hàng về mức vốn chủ sở hữu tối thiểu trên tổng vốn đầu tư của dự án, về tài sản đảm bảo cho khoản vay. Xét về phương diện kinh tế là hoàn toàn có lý khi ngân hàng từ chối các khoản vay này vì không an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Nếu DNNQD đảm bảo được tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu thì món vay lại có giá trị nhỏ không đủ để ngân hàng bù đắp các chi phí và kiếm lời. Do đó sự yếu kém của các DNNQD chính là cản trở cho sự phát triển cho vay trung và dài hạn của ngân hàng với họ.
Chi phí ngân hàng phải dùng để tìm kiếm thông tin chính xác về DNNQD sẽ lớn hơn nhiều so với DNNN. Vì ở khối doanh nghiệp này, chế độ báo cáo tài chính, sổ sách kế toán không được thực hiện đầy đủ và thậm chí còn cố tình sử dụng nhiều loại sổ sách kinh tế để làm giả số liệu với các mục đích khác nhau.
Do vậy, mặc dù thời gian qua các DNNQD hoạt động có hiệu quả hơn xong ngân hàng vẫn chưa thực sự uy tín để ngân hàng đầu tư, đặc biệt là cho vay trung và dài hạn.
Nguyên nhân chủ quan từ phía CN NHCT CG
Do đặc thù của hệ thống NHCTVN là cung ứng vốn cho ngành công nghiệp và thương nghiệp là những ngành hiện nay vẫn còn nhiều sự độc quyền của khối kinh tế Nhà nước. Hơn nữa vẫn nằm trong khu vực NHTM Nhà nước do đó hoạt động cho vay của chi nhánh vẫn phải tập trung nhiều cho các DNNN như một nhiệm vụ bắt buộc.
Môi trường hoạt động cạnh tranh gay gắt cùng với xu hướng chung mở rộng cho vay tiêu dùng với nhóm khách hàng cá nhân của các ngân hàng hiện nay, buộc chi nhánh phải san sẻ nguồn vốn trung và dài hạn dùng để cho vay với các doanh nghiệp. Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD của chi nhánh.
Cán bộ tín dụng chủ yếu được đào tạo tại các trường khối kinh tế nên khi thẩm định cho vay trung và dài hạn chủ yếu liên quan tới các vấn đề kỹ thuật, thông số máy móc, … sẽ gặp nhiều khó khăn, nhiều khi không có khả năng thẩm định nên phải dựa hoàn toàn vào hồ sơ do khách hàng cung cấp.
Chi nhánh gặp khó khăn trong công tác thu thập và xử lý thông tin khách hàng của mình, nhất là đối với khu vực DNNQD. Thông tin dùng để thẩm định dự án chủ yếu là do doanh nghiệp cung cấp, việc thẩm định lại chưa có cán bộ chuyên trách từng mảng như xây dựng nhà cửa, đóng tàu, đường sá, ... nên công tác thẩm định chưa được thực hiện thực sự nghiêm túc và chưa chuyên sâu.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CẦU GIẤY
3.1. Định hướng phát triển cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD
3.1.1. Định hướng của Nhà nước
Thành phố Hà Nội đang tổ chức lấy ý kiến cho dự thảo “Đề án xây dựng Hà Nội thành Trung tâm tài chính - ngân hàng hàng đầu khu vực phía Bắc” Nguồn: “Hà Nội năm 2010: Trung tâm Tài chính-Ngân hàng lớn” website Báo kinh tế hợp tác Việt Nam (14/09/2007)
. Theo đó, bên cạnh vai trò là một Thủ đô - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước, Hà Nội sẽ nhanh chóng được xây dựng thành một trung tâm tài chính - ngân hàng lớn, có vai trò quan trọng của cả nước.
Theo đề án này của thành phố, dự kiến lộ trình đến năm 2015, thị trường vốn, thị trường chứng khoán của thủ đô sẽ trở thành công cụ cơ bản để huy động vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp; các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn. Thị trường này sẽ từng bước tiếp cận, kết nối và liên thông với thị trường vốn quốc tế.
Các tiêu chí cụ thể được hoạch định theo lộ trình sau:
Vốn cho vay trung và dài hạn chiếm từ 40% - 42% tổng cho vay NHTM vào năm 2010.
Tổng giao dịch các hoạt động tài chính - ngân hàng trên địa bàn chiếm 45% - 50% tổng giao dịch huy động cả nước, chiếm 75% - 80% của khu vực phía bắc, chiếm 90% - 95% tổng giao dịch của vùng thủ đô.
Nhà nước chủ trương tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư cho việc phát triển: ban hành, sửa đổi các chính sách về thuế, chính sách tài chính - tín dụng, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho DNNQD. Đồng thời, để hỗ trợ cho DNNQD tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, Nhà nước tiếp tục thành lập mới và phát triển các định chế tài chính thuộc sở hữu Nhà nước để thực hiện chính sách bảo lãnh tín dụng cho khu vực doanh nghiệp này.
3.1.2. Định hướng của CN NHCTCG
Định hướng nhiệm vụ kinh doanh năm 2008
Trên tinh thần phát huy tối đa những kết quả đạt được năm 2007, tiếp tục bám sát các hoạt động kinh doanh năm 2008 của NHCTVN, trong năm 2008 toàn chi nhánh tiếp tục quyết tâm phấn đấu theo định hướng: Thực hiện “kinh doanh tài sản nợ”, bảo đảm tăng trưởng tín dụng ổn định lành mạnh, tập trung thu hồi hết nợ xấu, thu hồi tối đa nợ ngoại bảng, phát triển các sản phẩm dịch vụ bán lẻ nhằm tăng thu phí dịch vụ. Cụ thể phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu sau Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007 CN NHCTCG
:
Tổng nguồn vốn huy động: 3.000 tỷ đồng
Dư nợ cho vay nền kinh tế: 800 tỷ đồng, trong đó phấn đấu chuyển đổi danh mục cho vay đạt cơ cấu: 50-30-20 (khoảng 50% dư nợ nhóm khách hàng lớn; 30% dư nợ khách hàng vừa và nhỏ; 20% dư nợ đối với khách hàng cá nhân)
Nợ xấu: phấn đấu đến 31/12/2008 đạt dưới 1% trên tổng dư nợ
Thu hồi nợ ngoại bảng: tối thiểu 34 tỷ đồng
Mở rộng và phát triển các loại hình dịch vụ, tiện ích ngân hàng, phấn đấu có những sản phẩm dịch vụ trọn gói phục vụ khách hàng. Thu phí giao dịch tối thiểu là 7,5 tỷ đồng
Lợi nhuận đã trích dự phòng rủi ro: tối thiểu 55 tỷ đồng
Định hướng phát triển cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD
CN NHCTCG thực hiện đúng định hướng của ngành: giảm dần cho vay DNQD tăng cường cho vay với DNNQD; phấn đấu trở thành một ngân hàng hàng đầu trên địa bàn trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn. Cơ cấu danh mục cho vay theo nhóm khách hàng phải đảm bảo đẩy mạnh tiếp thị, tập trung vốn cho vay với các doanh nghiệp thuộc các ngành có tiềm lực tài chính, sản xuất kinh doanh hiệu quả như điện lực, dịch vụ, xuất nhập khẩu, … Hoạt động đầu tư cho vay đang dần tiến tới mục tiêu ngân hàng của mọi thành phần kinh tế và của toàn dân, phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam cũng như định hướng của NHCTVN.
Tăng tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn có đảm bảo bằng tài sản. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản chiếm trên 70% tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn của chi nhánh Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007
.
Phát triển cho vay trung và dài hạn với khối DNNQD nhưng phải đảm bảo chấp hành nghiêm ngặt các nguyên tắc và điều kiện tín dụng; tăng cho vay có bảo đảm, hạn chế cho vay nhiều vào một khách hàng. Phát triển cho vay trung và dài hạn trong khuôn khổ nhằm đảm bảo an toàn tín dụng: khống chế cho vay trung và dài hạn trong khoảng 40% tổng dư nợ nền kinh tế. Điều này có nghĩa là chi nhánh cần lựa chọn những dự án tốt, có vốn tự có tham gia lớn, hiệu quả cao, thời gian trả nợ nhanh, thực hiện lãi suất thả nổi thị trường, bù đắp đủ chi phí có hiệu quả trong đầu tư tín dụng.
3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
Dựa trên định hướng phát triển của Chính phủ và của NHNN, cũng như phương hướng cụ thể mà CN NHCTCG đã hoạch định về phát triển tín dụng trung và dài hạn đối với DNNQD, sau thời gian thực tập được tiếp xúc với thực tế tại CN NHCTCG em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ này cho chi nhánh trong thời gian tới.
3.2.1. Nhóm giải pháp khách quan
3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật liên quan sao cho phù hợp với thực tế
Đổi mới chính sách khuyến khích huy động vốn trung và dài hạn
Hiện nay về cơ bản, lãi suất đã được tự do hoá, tuy nhiên, khả năng can thiệp để điều chỉnh lãi suất bằng các công cụ gián tiếp, thông qua nghiệp vụ thị trường mở của NHNN là rất hạn chế. Do đó, khi lãi suất huy động bị đẩy lên quá cao, NHNN nước tỏ ra lúng túng trong việc điều tiết, gây khó khăn trong công tác huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn của hệ thống NHTM. Vì vậy, NHNN cần có các giải pháp hoàn thiện các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở để có đủ năng lực điều tiết cung cầu về vốn, điều chỉnh lãi suất tạo thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại.
NHNN cần tạo quyền chủ động cho các NHTM, tạo sân chơi bình đẳng cho các NH trong lĩnh vực phát hành các công cụ huy động vốn trung và dài hạn. Ủy ban chứng khoán Nhà nước và NHNN cũng cần phối hợp để có các biện pháp khuyến khích các NHTM phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung; đồng thời, có các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu hiện đang đóng băng.
Thực hiện chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
NHNN cần có các chính sách nhằm khuyến cáo các NHTM phải thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn; chủ động tiếp cận để cho vay các doanh nghiệp và không phân biệt thành phần kinh tế. Trong đó, chú trọng đối với các dự án sản xuất của khối DNNQD có các sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, dự án đầu tư xây dựng mua sắm, cải tiến dây chuyền máy móc thiết bị phục vụ cho việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
Tăng cường quản lý hoạt động của các DNNQD
Nhà nước cần có các giải pháp hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp nói chung và DNNQD nói riêng, trước mắt là ở các khía cạnh chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp, thủ tục cấp phép, đăng ký kinh doanh, … để nhằm lành mạnh hóa môi trường hoạt động cho các DNNQD.
Đảm bảo môi trường kinh tế phát triển lành mạnh thông qua hoàn thiện và ổn định chính sách kinh tế, quản lý vĩ mô là bước đầu tiên và quan trọng nhất để các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh.
3.2.1.3. Thành lập các quỹ hỗ trợ nhằm bão lãnh vay vốn cho DNNQD
DNNQD gặp khó khăn chủ yếu khi tiếp cận nguồn vốn vay từ NHTM chính là không đáp ứng đủ yêu cầu về tài sản đảm bảo tiền vay cũng như điều kiện về tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu trên tổng vốn dự án. Bên cạnh việc hỗ trợ về sửa đổi hành lang pháp lý tạo sân chơi công bằng cho mọi thành phần kinh tế thì Chính phủ cũng cần thành lập các quỹ hỗ trợ cho DNNQD. Các quỹ này được lập nên với nhiệm vụ là dùng uy tín của mình, thay mặt Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các DNNQD có nhu cầu vay vốn ngân hàng song không đáp ứng đủ điều kiện để được vay vốn. Các quỹ hỗ trợ này không những giúp cho DNNQD có được nguồn vốn trung và dài hạn kịp thời đáp ứng nhu cầu mà còn bảo đảm an toàn hoạt động cho NHTM.
3.2.2. Nhóm giải pháp chủ quan từ phía ngân hàng
3.2.2.1. Nâng cao tính độc lập, tự chủ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Cho đến nay, NHTM Nhà nước vẫn là người cho vay DNQD lớn nhất. Có nhiều lý do: Mối quan hệ truyền thống, cùng hình thức sở hữu, nhu cầu vay của các DNQD lớn và khả năng cho vay của NHTM Nhà nước cũng lớn (NHTM cổ phần khó đáp ứng), nếu có rủi ro tín dụng xảy ra thì đã có Nhà nước xử lý. Điểm mấu chốt là NHTM Nhà nước do Nhà nước sở hữu duy nhất. Nhà nước với chức năng quản lý toàn bộ nền kinh tế được gắn chặt với Nhà nước - người chủ sở hữu duy nhất NH, quyết định toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng của NHTM.
Đảm bảo hoạt động độc lập của NHTM là yếu tố quan trọng để thực hiện đúng các quy định và pháp luật về tín dụng. Cổ phần hóa NHTM Nhà nước là biện pháp cơ bản. Đa dạng sở hữu trong NHTM Nhà nước sẽ làm tăng tính trách nhiệm của ngân hàng, hạn chế các khoản cho vay mang tính phong trào hoặc chỉ định hiện nay. Nhà nước có thể thực hiện chính sách hỗ trợ thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng Phát triển, hoặc ủy thác cho vay thông qua các NHTM.
3.2.2.2. Đẩy mạnh công tác huy động nguồn vốn
Để phát triển được hoạt động cho vay trung và dài hạn thì trước hết ngân hàng phải đảm bảo được cho mình một nguồn vốn trung dài hạn lớn về quy mô, ổn định về kỳ hạn. Vì vậy, hoạt động huy động vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với tín dụng nói chung cũng như cho vay trung và dài hạn nói riêng.
Củng cố các nguồn huy động vốn truyền thống
Vốn huy động truyền thống thường từ các nguồn: Hội sở chính cấp phát, vay từ ngân hàng khác, dân cư, tiền gửi của doanh nghiệp… Trong đó, nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp là quan trọng nhất vì đây là nơi tạo ra tích tụ vốn, là nguồn nguyên thủy để tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng. Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát hiện nay, thêm vào đó là sự phát triển sôi động của thị trường bất động sản và kinh doanh vàng, thì huy động vốn từ nền kinh tế càng trở nên khó khăn với bất cứ ngân hàng nào. Vì vậy ngân hàng cần tạo ra sức hấp dẫn riêng cho hoạt động huy động của mình bằng nhiều cách như:
Thường xuyên theo dõi biến động của lãi suất huy động trên địa bàn để có phương án chủ động điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt, và hợp lý. Mặt khác, cần áp dụng nhiều loại lãi suất có tính khuyến khích khác nhu. Ví dụ như gửi món tiền lớn trong thời gian dài lãi suất cao hơn gửi món tiền nhỏ (nghĩa là trong cùng một thời gian gửi tiền với số lượng lớn sẽ có mức lãi suất cao hơn số tiền nhỏ)
Tăng cường tiếp cận, tiếp thị trực tiếp tới các đối tượng có thu nhập cao
Áp dụng các hình thức tiết kiệm dự thưởng đối với tiết kiệm nói chung và tiết kiệm trên 12 tháng nói riêng nhằm thu hút nguồn tiền rải rác nhưng có tổng khối lượng lớn trong dân cư.
Thực hiện bảo đảm tiền gửi cho khách hàng nhằm tạo lòng tin cho họ.
Phát triển và đa dạng hoá các công cụ huy động vốn trung và dài hạn mới
Chi nhánh cần tích cực huy động các nguồn vốn trung và dài hạn đảm bảo cân đối giữa cơ cấu huy động và cho vay. Thông qua các công cụ như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên 01 năm và trái phiếu. Đây có thể coi là giải pháp quan trọng để huy động vốn trung và dài hạn. NHCTVN đã tổ chức nhiều đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu ngân hàng) để huy động vốn trung hạn (từ 1 đến 5 năm), phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại để huy động vốn dài hạn (cả nội tệ và ngoại tệ). Xu hướng các NHTM chuyển sang hình thức huy động vốn trung và dài hạn thông qua các giấy tờ có giá trị như trái phiếu nhằm mục đích huy động nguồn vốn lớn ổn định phục vụ cho các dự án lớn, dự án hợp vốn. Quan trọng hơn, phát hành trái phiếu làm tăng tổng tài sản của các ngân hàng. Giờ đây, có thể nói, tổng tài sản lớn đang là một thế mạnh mà các ngân hàng rất quan tâm khai thác.
Tuy nhiên, nghiệp vụ này theo quy định thì chỉ có hội sở chính NHCTVN mới được thực hiện. Các chi nhánh trong hệ thống như CN NHCTCG chỉ được nhận vốn cấp và điều phối của hoạt động này từ hội sở chính. Như vậy vô hình chung đã làm mất đi tính chủ động của đơn vị. Do đó, các chi nhánh như CN NHCTCG cần được tạo sự tự chủ nhất định trong việc huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ trung và dài hạn nói trên. Khi có nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các dự án lớn có hiệu quả thì chi nhánh có thể đề xuất lên Hội sở chính cho phép phát hành một số lượng trái phiếu nhất định mà không phải mất thời gian chờ đợi đợt phát hành chung của toàn hệ thống NHCTVN.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án cho vay đối với DNNQD
Thẩm định dự án là khâu quan trọng có tính quyết định tới hiệu quả của toàn bộ quá trình cho vay. Một quy trình cho vay hoàn chỉnh phải gồm đủ 03 bước thẩm định điều kiện vay vốn, thẩm định rủi ro và tái thẩm định.
Công tác thẩm định dự án không chỉ giới hạn trong phạm vi một vấn đề mà nó gắn liền với nhiều hoạt động khác như pháp lý, môi trường hoạt động của ngành, môi trường vĩ mô của nền kinh tế, … Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án thì bên cạnh sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan có thẩm quyền thì cần có sự nỗ lực rất lớn từ bản thân ngân hàng. Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn ngân hàng cần phải thực hiện đồng bộ và chính xác mới đảm bảo hạn chế rủi ro, tổn thất có thể xảy ra.
Đối với các dự án phức tạp thì ngân hàng phải đầu tư tài chính thuê thuê các chuyên gia thẩm định nhằm tránh tình trạng chấp nhận ngay kết quả kỹ thuật đã đưa đến
Hoàn thiện quy trình và phương pháp thẩm định
Trách nhiệm của ngân hàng là phải thường xuyên cập nhật, hoàn thiện quy trình và phương pháp thực hiện thẩm định sao cho vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
Quy trình thẩm định phải đảm bảo đầy đủ và phù hợp giữa hồ sơ pháp lý, tài liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, hiệu quả dự án do khách hàng cung cấp với tình hình thực tế của họ.
Một khía cạnh quan trọng cần nói tới trong việc hoàn thiện phương pháp thẩm định đó là hoàn thiện phương pháp định giá tài sản bảo đảm. Để không định giá quá cao tài sản đảm bảo gây ra tổn thất cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhưng cũng không đánh giá tài sản đảm bảo dưới giá trị của nó gây thiệt hại cho khách hàng của mình.
Hoàn thiện nội dung thẩm định
Nội dung thẩm định phải chi tiết nhằm giúp cho cán bộ tín dụng có cái nhìn toàn diện nhất về khách hàng cũng như dự án mà khách hàng có nhu cầu vay vốn. Nội dung thẩm định phải đi sâu vào việc thẩm định các thông số dự báo thị trường và doanh thu, thẩm định dòng ngân lưu của dự án, thẩm định chi phí sử dụng vốn, thẩm định các chỉ tiêu đánh giá dự án và quyết định đầu tư, thẩm định khả năng trả nợ và lãi vay.
Kết quả thẩm định phải bao gồm đầy đủ các kết quả về các mặt:
Thẩm định khách hàng
Thẩm định cơ sở pháp lý của dự án
Thẩm định sự cần thiết của dự án
Thẩm định phương diện thị trường và khả năng tiêu thụ
Thẩm định phương diện kỹ thuật: Quy mô; giải pháp thiết kế công trình; điều kiện hạ tầng kinh tế, môi trường
Thẩm định phương án địa điểm
Thẩm định kế hoạch khai thác dự án
Thẩm định phương diện tổ chức sản xuất và quản lý
Kết quả chấm điểm tín dụng
3.2.2.4. Hoàn thiện công tác thu thập thông tin
Thông tin là một nhân tố quan trọng trong khâu phân tích tín dụng của NHTM. Thông tin chính xác và kịp thời là những điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quá trình thẩm định có chuẩn xác hay không. Thông tin đầy đủ là nền tảng vững chắc cho phán quyết tín dụng hợp lý. Điều này càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với việc cho vay với đối tượng khách hàng là các DNNQD vốn còn nhiều sai phạm về khai báo thông tin cho ngân hàng. Thông tin đến với ngân hàng có từ nhiều nguồn: hồ sơ tín dụng, phỏng vấn khách hàng vay vốn, điều tra cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng và nguồn thông tin bên ngoài. Mỗi một bộ phận thông tin này được thu thập và thẩm định kỹ càng là giảm bớt được một phần rủi ro cho hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM. Trong các nguồn thông tin này thì ngân hàng cần đặc biệt quan tâm tới các thông tin từ bên ngoài bao gồm:
Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng (cơ quan chuyên định giá tín dụng)
Thông tin từ các cơ quan hữu quan: thuế, trung tâm đăng ký giao dịch đảm bảo, hải quan, quản lý thị trường, quản lý nhà đất, địa chính …
Thông tin từ người thường xuyên có quan hệ với khách hàng vay: nhà cung cấp, chủ nợ, người tiêu thụ.
Thông tin từ phương tiện thông tin đại chúng
Thông tin lưu trữ tại chính ngân hàng
Các thông tin từ bên ngoài sẽ là tấm gương phản ánh những thông tin được doanh nghiệp cung cấp trong hồ sơ tín dụng có chính xác không. Nó đồng thời bổ sung cho các thông tin mà cán bộ tín dụng thu thập được từ việc trực tiếp phỏng vấn khách hàng vay vốn và điều tra cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng.
3.2.2.5. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Đây là vấn đề không mới tuy nhiên dù đã được nói tới rất nhiều lần song vẫn chưa được ngân hàng thực hiện tốt. Có phát triển được cho vay hay không phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trình độ cán bộ tín dụng phải được chuẩn hoá, không ngừng nâng cao. Ngân hàng phải có nhiều chương trình đào tạo dưới nhiều hình thức: bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình huống, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn khách hàng, vận dụng các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành.
Đội ngũ cán bộ thẩm định phải gồm những người am hiểu chuyên ngành, có kinh nghiệm tư vấn dự án, phương án sản xuất kinh doanh cho DNNQD. Cán bộ tín dụng phải được đào tạo chuyên môn kỹ thuật vào các lĩnh vực mà đang cần lượng vốn trung và dài hạn lớn hiện nay như xây lắp, cầu đường, đóng tàu, mua sắm máy móc, … để có thể chủ động thẩm định dự án vay vốn của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải có các chương trình phối, kết hợp chặt chẽ với các bên liên quan (ngoài ngân hàng) để thẩm định chính xác các dự án trước khi cho vay.
Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng phải được coi là nhiệm vụ chiến lược trước mắt cũng như lâu dài trong quá trình phát triển của chi nhánh. Quá trình này một mặt phải tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng hiện có, mặt khác phải tuyển dụng những cán bộ tín dụng mới, trẻ, khoẻ, được đào tạo cơ bản ở các trường đại học.
Đổi mới công tác quản lý cán bộ tín dụng, kiên quyết không sử dụng, bố trí những cán bộ thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh kinh doanh, thiếu trung thực, thiếu công tâm, kém năng lực, … dễ móc ngoặc với các doanh nghiệp yếu kém để làm sai lệch hồ sơ gây ra tổn thất cho hoạt động của ngân hàng
3.2.2.6. Thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt với khối DNNQD
Muốn đẩy mạnh phát triển cho vay trung và dài hạn đối với khối DNNQD thì vấn đề chính yếu là phải có được khách hàng và thu hút được khách hàng. Việc này đòi hỏi chi nhánh một mặt phải nghiên cứu tình hình kinh tế trên địa bàn, các ngành nghề tập trung nhiều DNNQD có nhu cầu mở rộng, cải tiến phát triển DN mình để thu hút thêm khách hàng mới. Ngân hàng cần chủ động tiếp cận với các DNNQD làm ăn có hiệu quả để đầu tư vốn trung và dài hạn mà không đợi tới khi họ tìm đến với mình. Mặt khác, chi nhánh cũng cần kiên quyết thực hiện sàng lọc khách hàng, loại bỏ các khách hàng hoạt động yếu kém, tiềm ẩn nhiều rủi ro, từ đó xác định các khách hàng chiến lược có tiềm lực tài chính tốt, sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tín nhiệm với ngân hàng để tập trung tạo mối quan hệ chặt chẽ, lâu dài. Đây là cơ sở tạo nên nhóm khách hàng trung thành cho chi nhánh.
Để thu hút thêm khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì chi nhánh cần phải thiết lập một chính sách đặc biệt đối với họ. Trước hết cần giảm thiểu những sự phân biệt đối xử trong quan hệ của ngân hàng đối với DNQD và đối với DNNQD. Ngân hàng cần tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp khách hàng cạnh tranh lành mạnh, qua đó thu hút nhiều khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải thường xuyên phân loại khách hàng theo tiêu chí nhất định để có chính sách ưu đãi nhất định đối với các DNNQD. Những doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ, …
Bên cạnh đó, một phương thức không kém phần quan trọng mà chi nhánh cần thực hiện là linh hoạt hình thức cho vay có đảm bảo. Năng lực của các DNNQD thường lớn hơn so với tài sản thực có của họ. Do đó, muốn mở rộng cho vay đồng thời tạo hướng cho các doanh nghiệp, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng hình thức thế chấp, tín chấp, bão lãnh …sao cho phù hợp mà vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình. Đối với một số doanh nghiệp tuy không đủ tài sản đảm bảo nhưng có uy tín và sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì ngân hàng vẫn có thể cho vay, trên cơ sở đảm bảo vốn vay chính là kết quả sản xuất kinh doanh có được do vay vốn đem lại.
3.2.2.7. Tăng cường hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Các món vay trung và dài hạn đối với DNNQD tiềm ẩn nhiều rủi ro trước mắt và cả trong lâu dài. Rủi ro trước mắt là rủi ro về thanh khoản khi ngân hàng dùng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Rủi ro lâu dài là rủi ro về lãi suất và rủi ro tín dụng với khoản vay. Như vậy, ngân hàng cần tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát của mình. Một số giải pháp có thể được xem xét là:
Giám sát khách hàng vay, theo dõi rủi ro có thể xảy ra: thường xuyên nắm tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, tài sản bảo đảm, thời gian doanh nghiệp có nguồn thu để đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn.
Xem xét lại kỹ lưỡng và toàn diện việc tuân thủ chính sách, tuân thủ cho vay, những nhược điểm trong quy trình cho vay; năng lực, trình độ cán bộ trong việc thự hiện các nghiệp vụ; đánh giá giá trị tài sản thế chấp, sự bảo đảm các yếu tố pháp lý của hồ sơ tín dụng; thực trạng nợ ngân hàng thông qua việc phân loại nợ; kịp thời pháp hiệnh những sai phạm để chấn chỉnh kịp thời.
Thông qua kiểm tra các khoản nợ có vấn đề cũng như kết quả kiểm tra cần được thông báo công khai, kịp thời cho các cấp lãnh đạo để có biện pháp xử lý kịp thời theo chức năng nhiệm vụ được phân; thực hiện các hình thức giám sát phù hợp để đạt được mục tiêu đề ra, chứng tỏ hiệu quả và vai trò của công tác kiểm soát.
Xây dựng hoàn chỉnh các quy chế, quy trình kiểm tra. Củng cố kiện toàn hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại chi nhánh.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc (chứ không trực thuộc các phòng/ ban) về việc kiểm tra giám sát, đảm bảo an toàn và đúng luật pháp mọi hoạt động của chi nhánh.
KẾT LUẬN
Nguồn vốn trung và dài hạn đóng vai trò ngày càng quan trọng vào sự phát triển của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển chung của đất nước trong quá trình CNH – HĐH và hội nhập quốc tế. Đặc biệt là khu vực DNNQD có đóng góp ngày càng lớn vào kinh tế nước nhà xong lại chưa được quan tâm ưu đãi đúng mức nên luôn ở trong tình trạng thiếu vốn cho các dự án đầu tư. Như vậy phát triển cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD không chỉ là định hướng ở tầm vĩ mô của Nhà nước mà còn được CN NHCTCG đã, đang và sẽ tích cực thực hiện.
Từ những đánh giá, phân tích và nhận định trên, có thể thấy bức tranh toàn cảnh về hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM với DNNQD, cụ thể là hoạt động này của CN NHCTCG có những đặc điểm nổi bật như sau: tỷ trọng vốn tín dụng trung và dài hạn mà NH cho nền kinh tế vay ngày càng tăng. Doanh số thu nợ với cho vay trung và dài hạn của DNNQD tăng vững qua các năm. Thêm vào đó là tỷ trọng nợ quá hạn của khối DNNQD có xu hướng giảm rõ rệt cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNQD có quan hệ tín dụng với ngân hàng ngày càng hiệu quả.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì CN NHCTCG vẫn phải đối mặt với những khó khăn từ nhiều phía như các chính sách hạn chế tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát của Nhà nước, nguồn huy động vốn dành cho vay trung và dài hạn còn chưa tương xứng với nhu cầu của khách hàng, sự giảm sút dư nợ trung và dài hạn với khối DNNQD, năng lực hạn chế của đội ngũ cán bộ tín dụng, sự phát triển chưa thực sự bền vững và lành mạnh của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Điều này đòi hỏi CN NHCTCG phải cố gắng nhiều hơn nữa để trong thời gian tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanhtại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy.docx