Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG .1 1.1 Tổng quan về bảo lãnh ngân hàng . . 1 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển bảo lãnh ngân hàng 1 1.1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng . . 2 1.1.3 Khái niệm hoạt động bảo lãnh ngân hàng . 3 1.1.4 Mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh ngân hàng .3 1.1.5 Phân loại bảo lãnh ngân hàng . . 5 1.1.6 Chức năng và vai trò của bảo lãnh ngân hàng . 9 1.1.7 Một số nhân tố tác động đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng . 13 1.1.8 Một số chỉ têiu phản ánh tình hình hoạt động bảo ãlnh ngân hàng 1.1.9 Các dạng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng 17 1.2 Cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng . 18 1.2.1 Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu (The Uniform Rules for Demand Guarantee – URDG) . 19 1.2.2 Quy tắc thực hành cam kết dự phòng quốc tế (The International Standby Practice Rules - ISP) . 20 1.2.3 Công ước Liên hiệp quốc về Bảo lãnh độc lập và Tín dụng thư dự phòng (The United Nations Convention on Independent Guarantee and Standby Letter of Credits) 21 1.3 Kinh nghiệm phát triển hoạt động bảo lãnh của một số ngân hàng nước ngoài 22 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 . 24 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.1 Tổng quan về Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam . 25 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển 25 2.1.2 Mô hình tổ chức . . 27 2.2 Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank 30 2.2.1 Cơ sở pháp lý trong nước khi thực hiện hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank 30 2.2.2 Các sản phẩm bảo lãnh của Vietcombank . 32 2.2.3 Phương pháp quản lý hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank . 33 2.2.4 Đánh giá thực trạng hoạt động bảo ãlnh tại Vietcombank từ năm 2005 - 2008 . 40 2.3 Một số rủi ro trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng . 53 2.3.1 Các dạng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh 53 2.3.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank . 55 2.4 Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank56 2.4.1 Nguyên nhân bên trong . 56 2.4.2 Nguyên nhân từ bên ngoài 61 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 . 64 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM . 65 3.1 Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng. . 65 3.1.1 Định hướng phát triển của ngành ngân hàng đến năm 2020 65 3.1.2 Định hướng phát triển của Vietcombank đến năm 2020 68 3.1.3 Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank đến năm 2020 69 3.2 Cơ sở xây dựng giải pháp phát trinể hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank . . 69 3.3 Một số giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank . 70 3.3.1 Nhóm giải pháp đối với Vietcombank . 71 3.3.2 Các gợi ý chính sách khác . . 80 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 . 85 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf98 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5584 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đội ngũ lao động. Trong hoạt động bảo lãnh, tuy phần đông nhân viên tác nghiệp được đào tạo bài bản và có trình độ, nhưng thường thiếu các kiến thức chuyên sâu về bảo lãnh. Bên cạnh đó, tuy đã có Trung tâm Đào tạo đặt tại Hội sở, nhưng công tác đào tạo chưa được chú trọng đúng mức. Các nhân viên tác nghiệp bảo lãnh chủ yếu tự mày mò, đúc kết kinh nghiệm qua thực tế theo kiểu “nghề dạy nghề”, chứ chưa nhận được sự hỗ trợ từ việc hệ thống hóa các kiến thức, kinh nghiệm trong hoạt động này như một cẩm nang nghiệp vụ. Mặt khác, công tác trao đổi kinh nghiệm giữa các chi nhánh tuy có nhưng theo kiểu tự phát, riêng lẻ; chưa có chủ trương khuyến khích và chưa tổ chức rộng rãi dù đây là hoạt động rất hữu ích và góp phần quan trọng trong việc hạn chế rủi ro về tác nghiệp và quản lý. Ngoài ra, nhân viên mới ít được đào tạo lại một cách 58 bài bản sau khi được tuyển dụng nên không nắm được tổng quát các sản phẩm ngân hàng hiện có, do đó chưa tiếp thị một cách đầy đủ đến khách hàng. 2.4.1.2 Về nghiệp vụ Một hạn chế dễ nhận thấy nhất về nghiệp vụ trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Vietcombank là tác nghiệp bảo lãnh chưa được chuẩn hóa. Nguyên nhân là do Vietcombank chưa ban hành quy trình nghiệp vụ bảo lãnh bằng văn bản để áp dụng trên toàn hệ thống. Điều này làm cho việc tác nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm của mỗi chi nhánh nên không tạo được sự đồng nhất, chuyên nghiệp trong cách thức thực hiện và chưa rút ngắn được thời gian phục vụ khách hàng. Bên cạnh đó, do chưa có quy trình cho nghiệp vụ bảo lãnh nên Vietcombank cũng chưa xây dựng được cơ chế về quản lý rủi ro trong hoạt động này. Mặt khác, Vietcombank cũng chưa thực hiện chuyên môn hóa rộng rãi trong hoạt động bảo lãnh. Hiện nay, Vietcombank chỉ mới thực hiện chuyên môn hóa hoạt động bảo lãnh tại Sở Giao dịch (Hà Nội) và chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh bằng việc tổ chức phòng bảo lãnh hoạt động độc lập và có tính chuyên môn cao. Các chi nhánh còn lại vẫn chưa tổ chức được bộ phận chuyên trách về bảo lãnh, nhân viên tác nghiệp phải kiêm nhiệm nhiều việc khác như: xuất nhập khẩu, cho vay, thẩm định khách hàng, … Điều này làm tăng áp lực của nhân viên và giảm hiệu quả công việc. Bên cạnh đó, việc thiếu chuyên môn hóa sẽ làm gia tăng rủi ro trong tác nghiệp và giảm chất lượng phụ vụ khách hàng. Mặt khác, công tác kiểm tra, kiểm soát về bảo lãnh còn khá sơ sài. Ngoài ra, Vietcombank cũng chưa có bộ phận phụ trách hỗ trợ về pháp lý, đặc biệt là luật pháp quốc tế cho hoạt động bảo lãnh. Các cam kết bảo lãnh được phát hành đều có tham chiếu luật áp dụng; do đó, việc thiếu bộ phận có chuyên môn về pháp luật để hỗ trợ hoạt động bảo lãnh đã làm giảm tính chuyên nghiệp và làm tăng bất lợi cho ngân hàng này khi có tranh chấp xảy ra. 59 2.4.1.3 Về công nghệ Công nghệ tin học đã được áp dụng trong thao tác và quản lý hoạt động bảo lãnh, nhưng vẫn còn thô sơ, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Hiện tại, Vietcombank đang áp dụng phần mềm tin học chuyên dùng cho tài trợ thương mại (Trade Finance – TF), trong đó có mảng ứng dụng trong công tác bảo lãnh, nhưng phần mềm này đã bộc lộ nhiều điểm yếu. Các thông tin về việc phát hành bảo lãnh đều phải được cập nhật vào hệ thống này, tuy nhiên, chương trình chưa đáp ứng được nhu cầu truy xuất thông tin đầy đủ về cam kết bảo lãnh đã phát hành. Bên cạnh đó, công nghệ này tuy được sử dụng để bước đầu tạo ra sự chuẩn hóa trong mẫu thư/điện bảo lãnh được phát hành, nhưng trên thực tế ứng dụng này đã không thể sử dụng được và các cam kết bảo lãnh đều phải soạn thảo thủ công. Đây là hạn chế lớn nhất. Điều này làm gia tăng thời gian phục vụ khách hàng và không tạo được sự thống nhất trong mẫu biểu sử dụng trên toàn hệ thống Vietcombank. 2.4.1.4 Một số yếu tố khác  Chính sách marketing: Marketing đang là một trong những điểm yếu của Vietcombank. Các hoạt động có nhiều thế mạnh như thanh toán quốc tế, bảo lãnh nước ngoài chưa được chú trọng khai thác để quảng bá rộng rãi đến khách hàng. Bên cạnh đó, các kênh truyền thông như báo chí, phát thanh, truyền hình, internet ít được sử dụng. Trang thông tin điện tử còn rất sơ sài và thiếu sinh động. Điều này là do Vietcombank chưa chú trọng đúng mức đến chính sách marketing. Hoạt động quảng bá về ngân hàng chưa có chiến lược cụ thể và chưa chú trọng đến nhóm khách hàng là cá nhân. Cùng với đó, Vietcombank chưa có đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp. Ngoài ra, sự bó buộc trong quy chế tài chính trong hoạt động này từ các quy định hiện tại của các cấp quản lý cũng là một cản trở không nhỏ trong hoạt động này. 60  Chính sách phí Một trong những nguyên nhân làm giảm lợi thế cạnh tranh của Vietcombank trong hoạt động bảo lãnh hiện nay là chính sách phí chưa hợp lý. Mức phí bảo lãnh hiện tại của Vietcombank cao hơn mặt bằng chung của các ngân hàng. Điều này tác động đến số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ này do chi phí gia tăng. Cụ thể, từ khi mức phí mới được áp dụng, một số khách hàng có nhu cầu phát hành bảo lãnh thường xuyên nhưng do đặc trưng ngành nghề nên giá trị từng bảo lãnh không cao, như các công ty dược phẩm, các công ty xây dựng nhỏ, đã không sử dụng dịch vụ này của Vietcombank. Rõ ràng, mức phí bảo lãnh hiện tại đã cản trở việc thu hút và giữ chân khách hàng. Bên cạnh đó, chính sách phí được áp dụng đồng nhất toàn hệ thống Vietcombank trên cả nước cũng gây ra những bất cập do mặt bằng phát triển kinh tế từng khu vực không giống nhau. Việc áp một mức phí cho cả hệ thống tạo nên sự cứng nhắc và làm giảm tính cạnh tranh tại từng khu vực. Cùng với đó, tuy có biểu phí có quy định những ưu đãi nhất định thông qua các mức giảm, nhưng lại bó buộc trong các bước giảm 25%, 50%, 75% và 100%. Điều này làm giảm tính linh hoạt và tự chủ của từng chi nhánh.  Quy mô vốn Với mức vốn tự có 13.790.042 triệu đồng (tương đương khoảng 860 triệu USD) (đến ngày 31/12/2008), quy mô vốn hiện tại của Vietcombank còn khá nhỏ so với các ngân hàng nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định hiện hành của pháp luật, tổng số dư bảo lãnh của TCTD đối với khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, do đó, với quy mô vốn này, Vietcombank bị hạn chế trong việc phát hành các cam kết có giá trị lớn. 61  Điểm tín nhiệm Dù đã có sự ghi nhận của các tổ chức quốc tế trong việc xếp hạng tín nhiệm; tuy nhiên, Vietcombank chưa là ngân hàng được các tổ chức lớn trên thế giới ưu tiên lựa chọn do điểm tín nhiệm trong xếp hạng ngân hàng quốc tế chưa cao. Với điểm xếp hạng ở mức BB/B, triển vọng ổn định và năng lực nội tại ở mức D theo kết quả xếp hạng của S&P năm 2007, Vietcombank vẫn còn là ngân hàng được xếp hạng khá thấp trong khu vực Đông Nam Á do chịu ảnh hưởng bởi chất lượng tài sản, khả năng sinh lời, và độ an toàn về vốn còn hạn chế so với chuẩn mực quốc tế. 2.4.2 Nguyên nhân từ bên ngoài 2.4.2.1 Áp lực từ hội nhập kinh tế toàn cầu Hội nhập kinh tế toàn cầu đặt mọi doanh nghiệp dưới áp lực cạnh tranh gay gắt. Yêu cầu về hội nhập đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa kinh tế, phải có cơ chế bình đẳng cho các doanh nghiệp nước ngoài. Khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bên cạnh những cơ hội về hợp tác và phát triển, các doanh nghiệp trong nước cũng đứng trước áp lực cạnh tranh gay gắt và nguy cơ tụt hậu. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, áp lực này còn lớn hơn rất nhiều. Các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính, công nghệ và kinh nghiệm hơn hẳn ra đời ngày càng nhiều, đã phần nào ảnh hưởng đến thị phần và vị thế cạnh tranh của các ngân hàng nội địa, trong đó có Vietcombank. 2.4.2.2 Ảnh hưởng từ mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia Cũng như các ngân hàng nội địa khác, mức xếp hạng tín nhiệm của Vietcombank bị khống chế bởi mức trần tín nhiệm của quốc gia. Điều này cho thấy sự tầm quan trọng và sự tác động của mức tín nhiệm quốc gia đến hạng tín nhiệm của các ngân hàng trong nước theo các chuẩn mực quốc tế. Khi 62 mức tín nhiệm của quốc gia được cải thiện sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng nội địa gia tăng thứ hạng tín nhiệm. Ngược lại, khi mức tín nhiệm quốc gia bị tụt giảm sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hạng tín nhiệm của các ngân hàng nội địa bất chấp nỗ lực của các ngân hàng này. 2.4.2.3 Hành lang pháp lý chưa hoàn thiện Hiện nay nước ta chưa có luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Các quy định cụ thể về hoạt động này hiện được quy định tại Quy chế Bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy đã có những điều chỉnh so với các quy chế trước, nhưng nhìn chung các quy định trong văn bản này còn khá sơ sài. Trong một số trường hợp, hoạt động bảo lãnh ngân hàng lại chịu sự điều chỉnh của một số quy định khác, gây nên sự chồng chéo. Đơn cử trường hợp về bảo lãnh thanh toán thuế. Theo Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 quy định: “Hết thời hạn bảo lãnh hoặc thời hạn nộp thuế mà người nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm nộp số tiền thuế và tiền phạt chậm nộp thuế thay cho người nộp thuế” (Điều 42). Khi hướng dẫn thi hành Luật này, Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/07/2007 của Chính phủ quy định: Người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế phải nộp tiền thuế, tiền phạt thay cho người nộp thuế được bảo lãnh trong trường hợp người nộp thuế không nộp thuế hoặc vi phạm pháp luật về thuế. Các quy định trên đã vô hiệu hoá hai thoả thuận quan trọng trong cam kết bảo lãnh của ngân hàng, cụ thể: (i) quy định ngân hàng vẫn phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay cả khi thời hạn bảo lãnh ghi trong cam kết bảo lãnh đã hết; (ii) mở rộng phạm vi bảo lãnh của ngân hàng từ chỗ chỉ giới hạn trong số tiền thuế phải nộp (nghĩa vụ được bảo lãnh) sang cả tiền phạt chậm nộp thuế và tiền phạt do người nộp thuế vi phạm. Trong khi đó, theo Quy chế bảo lãnh hiện hành, ngân hàng chỉ có trách nhiệm trong số tiền và thời hạn nêu trên 63 cam kết bảo lãnh. Quy định chồng chéo hiện này đã làm cho các NHTM, trong đó có Vietcombank gặp nhiều trong hoạt động bảo lãnh. 2.4.2.4 Nguyên nhân từ cơ chế quản lý Hiện nay, về lý thuyết Vietcombank đang chịu sự quản lý theo cơ chế ngân hàng cổ phần, tuy nhiên, trên thực tế Vietcombank vẫn còn bị bó buộc bởi các quy định của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là trong các quy chế về tài chính. Cụ thể, sự bó buộc trong quy chế tài chính đã hạn chế các hoạt động quảng bá của Vietcombank như: chi phí cho quảng bá tuyên truyền không quá 10% chi phí, hạn chế trong chính sách về quỹ lương cho người lao động. Bên cạnh đó, là một trong những ngân hàng đi đầu trong việc cổ phần hóa các NHTM nhà nước theo chủ trương của Chính phủ nên được thực hiện theo kiểu “vừa làm vừa rút kinh nghiệm”, do đó thường gặp phải những vướng mắc nhưng chậm được tháo gở. Điều này làm giảm tính chủ động của bộ máy lãnh đạo ngân hàng trong điều hành hoạt động kinh doanh. 64 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Chương 2 của luận văn đã phác thảo toàn cảnh về thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Sau khi điểm qua sơ lược về quá trình hình thành và phát triển cũng như mô hình tổ chức của ngân hàng này, tác giả tập trung đi vào nghiên cứu thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank từ năm 2005 đến nay thông qua việc phân tích một số chỉ tiêu định tính và định lượng, hệ thống hóa vấn đề nhận diện và quản lý rủi ro, đồng thời đưa ra được những đánh giá về kết quả đạt được cũng như các hạn chế cần khắc phục trong việc phát triển hoạt động này. Cùng với đó, trong chương này, tác giả đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank từ năm 2005 đến nay, trong đó chia thành hai nhóm nguyên nhân chính: nguyên nhân bên trong và nguyên nhân từ bên ngoài. Cụ thể:  Nhóm nguyên nhân bên trong gồm có một số nguyên nhân chính như: về con người, nghiệp vụ, công nghệ và một số yếu tố nội tại khác của ngân hàng.  Nhóm nguyên nhân bên ngoài gồm: áp lực từ hội nhập kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng từ mức xếp hạng tín nhiệm quốc giá, hành lang pháp lý chưa hoàn thiện và nguyên nhân từ cơ chế quản lý. Những nguyên nhân đã được xác định bên trên là cơ sở để tác giả đưa ra một số giải pháp góp phần phát triển hoạt động bảo lãnh hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) trong chương 3. 65 CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 3.1 Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng 3.1.1 Định hướng phát triển của ngành ngân hàng đến năm 2020 Thực hiện kết luận của Bộ Chính trị về mục tiêu, giải pháp phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, ngày 24/5/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 theo hướng cơ cấu lại một cách toàn diện mô hình tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước và các TCTD. Đây là văn bản pháp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo điều kiện cho ngành ngân hàng tiếp tục sự nghiệp đổi mới để hội nhập sâu vào khu vực và thế giới. Theo Quyết định này, định hướng phát triển các TCTD trong thời gian tới là:  Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng, đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, có quy mô lớn và hoạt động theo nguyên tắc thị trường với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế vào hoạt động kinh doanh ngân hàng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á;  Tiếp tục cơ cấu lại một cách toàn diện hệ thống TCTD, đặc biệt là cơ cấu lại hệ thống NHTM, tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM, tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá và 66 phát triển các ngân hàng cổ phần, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD trong kinh doanh, gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, ngăn ngừa và xử lý kịp thời, không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng ngoài sự kiểm soát của NHNN đối với các TCTD yếu kém;  Bảo đảm quyền kinh doanh của các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết song phương và đa phương đã ký kết với các nước và các tổ chức quốc tế;  Phát triển quỹ tín dụng nhân dân thành TCTD hợp tác độc lập, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh tiền tệ. Quyết định này cũng nêu rõ định hướng phát triển các NHTM đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 là:  Tăng cường năng lực thể chế thông qua cơ cấu lại tổ chức và hoạt động, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTM từ trung ương đến chi nhánh theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thông lệ quốc tế, phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị và ban điều hành, mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, phát triển các hệ thống quản lý của NHTM phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện Việt Nam;  Mở rộng quan hệ đại lý, hợp tác kinh doanh, phát triển sản phẩm, ứng dụng và chuyển giao công nghệ với các tổ chức tài chính nước ngoài, xúc tiến hiện diện thương mại dưới các hình thức chi nhánh, liên doanh, văn phòng đại diện và hình thức pháp nhân khác của các NHTM Việt Nam tại các thị trường tài chính khu vực và quốc tế; 67  Tăng cường năng lực tài chính thông qua cơ cấu lại tài chính, đảm bảo các NHTM tăng qui mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có, giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có;  Xử lý dứt điểm nợ xấu tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTM;  Tăng vốn tự có của các NHTM từ nguồn lợi nhuận để lại, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, sáp nhập, hợp nhất, mua lại;  Xử lý các NHTM cổ phần yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản;  Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với qui mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn;  Từng bước cổ phần hóa các NHTM nhà nước theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành NHTM Việt Nam;  Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các NHTM nhà nước và các TCTD khác theo nguyên tắc các TCTD được tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, công khai, bình đẳng;  Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích, được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời nhanh chóng tiếp cận và phát triển các loại hình dịch vụ mới với hàm lượng công nghệ cao. 68 3.1.2 Định hướng phát triển của Vietcombank đến năm 2020 Định hướng của Vietcombank là phát triển thành một tập đoàn đầu tư tài chính đa năng trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu tổ chức, áp dụng mô thức quản trị ngân hàng hiện đại theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, duy trì vai trò chủ đạo tại Việt Nam và trở thành 1 trong 70 định chế tài chính hàng đầu châu Á (trừ Nhật Bản) vào những năm 2015 – 2020 với vốn chủ sở hữu khoảng 2 tỷ đô la Mỹ và tổng tài sản khoảng 30 tỷ đô la Mỹ. Để có thể trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu Việt Nam và là ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới, hoạt động đa năng, kết hợp với điều kiện kinh tế thị trường, thực hiện tốt phương châm “Luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt” trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập, Vietcombank đã xây dựng cho mình một chiến lược phát triển từ nay đến năm 2020 với những nội dung chính như sau:  Nâng cao năng lực, nâng cao sức cạnh tranh bằng việc phấn đấu nâng chỉ số an toàn và các chỉ số tài chính quan trọng khác theo các chuẩn mực quốc tế;  Phấn đấu đạt mức xếp hạng “AA” theo chuẩn mực của các tổ chức xếp hạng quốc tế;  Hoàn thành quá trình tái cơ cấu ngân hàng để có một mô hình tổ chức hiện đại, khoa học, phù hợp với mục tiêu và bảo đảm hiệu quả kinh doanh, kiểm soát được rủi ro, có khả năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng, tổng hợp, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và nhu cầu của khách hàng thuộc mọi thành phần;  Áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện và pháp luật của Việt Nam trong điều hành và quản lý. 69 3.1.3 Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank đến năm 2020 Từ định hướng phát triển chung từ nay đến năm 2020,Vietcombank cũng xây dựng định hướng phát triển hoạt động kinh doanh trong thời gian tới. Đối với hoạt động bảo lãnh, đó là:  Thực hiện tăng trưởng hoạt động bảo lãnh phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng bảo lãnh để bảo đảm phát triển bền vững;  Phát triển hơn nữa sản phẩm bảo lãnh, đặc biệt là các sản phẩm bảo lãnh dành cho khách hàng cá nhân;  Tích cực phát huy thế mạnh, nỗ lực củng cố vị thế, tăng cường mở rộng thị phần;  Tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng sử dụng trong hoạt động bảo lãnh;  Tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng trong nước, các ngân hàng nước ngoài cũng như các tổ chức, định chế tài chính trên thế giới. 3.2 Cơ sở xây dựng giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank Bảo lãnh ngân hàng vừa là một dịch vụ có thu phí, vừa là một trong những nghiệp vụ tín dụng ngân hàng. Đây là hoạt động có những đặc thù nhất định. Bên cạnh những đóng góp về thu nhập từ phí, về đa dạng hóa sản phẩm và góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của khách hàng, hoạt động này cũng chứa đựng trong nó những rủi ro, đòi hỏi NHTM phải có sự quan tâm toàn diện khi phát triển hoạt động này. Đối với Vietcombank, mặc dù đang là ngân hàng có những thế mạnh nhất định, tuy nhiên, để có thể phát triển hoạt 70 động bảo lãnh theo đúng định hướng đã đặt ra, NHTM này còn rất nhiều việc cần làm. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank được xây dựng trong luận văn với mục tiêu góp phần tăng trưởng hoạt động này nhưng vẫn bảo đảm bảo về chất lượng, để tạo nên sự phát triển bền vững, đóng góp vào sự phát triển chung của Vietcombank cũng như ngành ngân hàng. Những giải pháp này dựa trên cơ sở định hướng hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank và xuất phát từ thực tiễn của ngân hàng này, nhằm phát huy hơn nữa những lợi thế đang có có và khắc phục những hạn chế đang tồn tại trong hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. 3.3 Một số giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank Để phát triển hơn nữa hoạt động bảo lãnh, trước hết bản thân Vietcombank phải khắc phục những hạn chế xuất phát từ chính bên trong ngân hàng mình. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ từ các cấp và cơ quan quản lý thông qua các cơ chế, chính sách cũng rất cần thiết cho sự phát triển của Vietcombank nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Vì thế, các giải pháp và kiến nghị tác giả đưa ra dưới đây tập trung thành hai nhóm: (i) Nhóm giải pháp đối với Vietcombank: nhằm giải quyết các nguyên nhân bên trong của ngân hàng này; và (ii) Các gợi ý chính sách khác: nhằm đề xuất các kiến nghị đối với các cấp quản lý như Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan nhằm khắc phục những ảnh hưởng bất lợi từ bên ngoài; từ đó tạo được tác động tổng hòa để góp phần thúc đẩy hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank ngày càng phát triển. 71 3.3.1 Nhóm giải pháp đối với Vietcombank 3.3.1.1 Giải pháp về con người Con người là nhân tố có vai trò quyết định trong các hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt động bảo lãnh. Đối với Vietcombank, chính sách con người cần có sự đổi mới toàn diện hơn nữa. Cụ thể:  Về đãi ngộ: Cần có sự quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố như: kinh nghiệm, trình độ học vấn để khuyến khích người lao động không ngừng nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, trong thực hiện chính sách lương, cần có sự điều chỉnh bất cập trong việc đánh giá năng lực của nhân viên và hoàn thiện quy chế trả lương theo hướng thực đúng theo công việc và bảo đảm tính bảo mật; đồng thời cải cách cơ chế thưởng phạt theo hướng công minh và thực sự có tính khuyến khích, răn đe, để từ đó phát huy đầy đủ nguồn lực về con người. Để làm được điều này, cần thực hiện các biện pháp sau: - Trong quy chế lương cần bổ sung và chia nhỏ thang điểm về kinh nghiệm, trình độ để tạo sự cách biệt rõ ràng. Chẳng hạn như: về kinh nghiệm có thể chia thành các mức: kinh nghiệm dưới 01 năm, kinh nghiệm từ 01 năm đến dưới 02 năm, kinh nghiệm từ 02 năm đến dưới 03 năm, … Đề xuất này xuất phát từ thực tế là kinh nghiệm làm việc của nhân viên được tích luỹ theo thời gian và rất hữu ích trong công việc cũng như góp phần nâng cao kỹ năng làm việc của nhân viên. Về trình độ của người lao động có thể chia thành: trung cấp, cao đẳng, đại học, cao học, nghiên cứu sinh, … chứ không nên chia đơn thuần là dưới đại học, đại học và trên đại học. Bên cạnh đó, nên bỏ quy định bó buộc thời gian công tác phải trên 03 năm mới được hỗ trợ học phí học tập, thay vào đó, nên có cơ chế cam kết gắn bó lâu dài và hoàn trả học 72 phí khi vi phạm. Khi các yếu tố trên được thực hiện sẽ góp phần khuyến khích được người lao động không ngừng nâng cao trình độ, phục vụ tốt hơn cho công việc. - Hoàn thiện cơ chế đánh giá năng lực nhân viên theo hướng toàn diện hơn, thông qua một số chỉ tiêu như: (i) hiệu quả công việc bằng cách giao chỉ tiêu thực hiện trong từng quý, 06 tháng, năm; (ii) ghi nhận thái độ phục vụ khách hàng thông qua phản hồi từ khách hàng; (iii) ghi nhận thái độ làm việc từ đánh giá nhiều chiều của đồng nghiệp; (iiii) đánh giá của lãnh đạo, … Khi xây dựng các chỉ tiêu trên, hiệu quả công việc phải có trọng số cao nhất, tiếp đó là thái độ phục vụ khách hàng và đến các thành tố khác. Dựa vào cơ chế đánh giá năng lực nhân viên này, sẽ thực hiện việc trả lương theo công việc của từng nhân viên, ngoài việc trả lương theo công việc của từng phòng/ban như quy chế lương đang thực hiện. - Sớm xây dựng hệ thống tài khoản trả lương riêng biệt và có độ bảo mật cao. Bởi lẻ hiện nay Vietcombank đang trả lương vào tài khoản tiền gửi thanh toán của người lao động, trong khi tài khoản này mọi nhân viên đều có thể truy cập được. Do đó, lương/thưởng của nhân viên không bảo đảm được tính bảo mật và vô tình tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trong đội ngũ nhân viên, nhất là khi lương được trả theo năng lực làm việc và theo công việc thực hiện. Vì thế, việc xây dựng hệ thống tài khoản trả lương chuyên biệt và có tính riêng tư, bảo mật là cần thiết, hữu ích và có thể thực hiện được với sự hỗ trợ của công nghệ hiện có. - Đối với chế độ thưởng phạt: bổ sung cơ chế thưởng “nóng” để tạo tính khích lệ và động viên kịp thời, gia tăng giá trị vật chất của phần thưởng bên cạnh giá trị tinh thần, cũng như gia tăng nghĩa vụ thực hiện khi vi phạm. Bên cạnh đó, đối với từng chi nhánh, Vietcombank cần mở rộng quyền tự quyết gắn với tự chịu trách nhiệm, bổ sung quy định về thực hiện thưởng 73 phạt công tâm và minh bạch, bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm liên đới của người đứng đầu. Ngoài ra, để bảo đảm quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, cơ chế thưởng phạt cần tiếp tục đổi mức theo hướng thiết thực hơn. Cụ thể như cho phép chi nhánh được quyền giử lại và hưởng một số phần trăm nhất định từ kết quả vượt chỉ tiêu; ngược lại, nếu chi nhánh không hoàn thành chỉ tiêu thì chế độ lương, thưởng và một số ưu đãi sẽ bị cắt giảm; đối với chi nhánh hoàn thành chỉ tiêu trong nhiều năm liên tục, các chi nhánh có nhiều đóng góp cho toàn hệ thống Vietcombank thì được những hưởng những quyền lợi và ưu đãi nhất định.  Về đào tạo: Vietcombank cần chú trọng hơn nữa đến công tác đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ người lao động và phải xem đây không chỉ đơn thuần là chính sách về con người mà còn là một biện pháp thiết thực việc quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Cụ thể: - Đối với nhân viên mới tuyển dụng, cần có chương trình đào tạo lại một cách tổng quát về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng thời tổ chức đào tạo một cách nghiêm túc, có kiểm tra, đánh giá cụ thể và xem đây là một trong những yêu cầu cần thiết để trở thành nhân viên chính thức. Điều này giúp cho đội ngũ nhân viên mới nắm được tổng quát các sản phẩm ngân hàng để có thể quảng bá một cách đầy đủ đến khách hàng cũng như phục vụ khách hàng tốt hơn; - Đối với hoạt động bảo lãnh, Vietcombank cần sớm biên soạn và ban hành cẩm nang nghiệp vụ nhằm hệ thống hóa và chuẩn hóa các kiến thức, kinh nghiệm trong hoạt động này theo hướng kết hợp giữa lý thuyết với thực tiễn công tác bảo lãnh và có tính ứng dụng. Cùng với đó, Trung tâm Đào tạo của Vietcombank cần kết hợp với các phòng ban có liên quan và các chi 74 nhánh để tổ chức các hoạt động về trao đổi, học tập nghiệp vụ và tổng kết kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm trong hoạt động bảo lãnh một cách thường xuyên, nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho nhân viên và góp phần hạn chế rủi ro trong tác nghiệp, quản lý. 3.3.1.2 Giải pháp về nghiệp vụ Về nghiệp vụ, Vietcombank cần sớm ban hành quy trình nghiệp vụ bảo lãnh bằng văn bản và sử dụng trên toàn hệ thống để tạo sự chuẩn hóa trong hoạt động này. Trong quy trình này cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thao tác thực hiện và trách nhiệm của nhân viên tác nghiệp và các phòng ban liên quan, đồng thời cũng cần có những quy định về phối hợp, hỗ trợ giữa các phòng ban trong xử lý nghiệp vụ, luân chuyển và lưu trữ chứng từ. Mặt khác, Vietcombank cần thực hiện chuyên môn hóa rộng rãi hoạt động bảo lãnh đến các chi nhánh khác trong toàn hệ thống, bên cạnh Sở Giao dịch (Hà Nội) và chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh. Tuỳ tình hình thực tế tại từng chi nhánh, có thể tổ chức thành bộ phận chuyên trách dưới hình thức tổ/ban bảo lãnh, trực thuộc phòng Khách hàng hoặc phòng Kinh doanh Dịch vụ. Đứng đầu bộ phận này phải là người có trình độ, có kỹ năng không chỉ về tín dụng (thẩm định khách hàng, hiệu quả phương án, nguồn trả và tài sản bảo đảm) mà còn về bảo lãnh (thông lệ quốc tế, tập quán kinh doanh, rủi ro đặc thù, …), có kinh nghiệm trong công tác bảo lãnh; chịu trách nhiệm kiểm soát về nghiệp vụ trước khi cam kết bảo lãnh được phát hành và tham mưu cho lãnh đạo trong công tác bảo lãnh. Ngoài ra, Vietcombank cần sớm thành lập bộ phận chuyên trách hỗ trợ về luật pháp trong hoạt động bảo lãnh. Kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cho thấy bộ phận này rất cần thiết và hữu ích. Thiết nghĩ đây là việc Vietcombank cần làm 75 ngay bởi trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, các giao dịch bảo lãnh nước ngoài ngày càng nhiều để tránh một số trường hợp đã xảy ra là: khi có tranh chấp, ngân hàng mới quay trở lại xem hồ sơ gốc, tìm hiểu về luật và xin tư vấn ở các văn phòng luật sư, lúc này có thể đã quá trễ. Việc ra đời bộ phận chuyên trách hỗ trợ, tư vấn về pháp lý sẽ giúp nhân viên tác nghiệp sẽ bớt áp lực về công việc và tập trung nhiều hơn vào nghiệp vụ, đồng thời góp phần làm cho công tác khách hàng được tốt hơn, chuyên nghiệp hơn; và quan trọng nhất là Vietcombank sẽ hạn chế được rủi ro về pháp lý và tránh được bất lợi khi có tranh chấp xảy ra. 3.3.1.3 Giải pháp về quản trị rủi ro Vietcombank cần sớm xây dựng cơ chế về quản trị rủi ro trong hoạt động bảo lãnh. Bên cạnh rủi ro tín dụng, hoạt động này có những rủi ro đặc thù như gian lận, lừa đảo và giả mạo; do đó, trong cơ chế về quản trị rủi ro cần có các quy định bao trùm được các loại rủi ro này. Khi xây dựng cơ chế về quản trị rủi ro, trước hết Vietcombank cần có sự phân loại bảo lãnh theo hình thức bảo đảm một cách cụ thể hơn để có các thức quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng, được tốt hơn. Thay vì chỉ phân chia các bảo lãnh được phát hành thành hai loại là bảo lãnh ký quỹ và bảo lãnh không ký quỹ như hiện nay, Vietcombank nên chia thành:  Bảo lãnh bảo đảm bằng tài khoản hoặc chứng chỉ tiền gửi do Vietcombank phát hành;  Bảo lãnh bảo đảm bằng tài khoản có kỳ hạn hoặc chứng chỉ tiền gửi do tổ chức khác phát hành;  Bảo lãnh bảo đảm bằng bất động sản, động sản và các hình thức khác;  Bảo lãnh không có tài sản bảo đảm. 76 Theo cách phân loại như trên, bảo lãnh bảo đảm bằng tài khoản hoặc chứng chỉ tiền gửi do Vietcombank phát hành hầu như rủi ro rất thấp và việc phát hành cam kết bảo lãnh đơn thuần chỉ là dịch vụ có thu phí, do đó, cơ chế về quản trị rủi ro đối với các bảo lãnh loại này nên theo hướng đơn giản để rút ngắn thời gian chờ đợi của khách hàng. Đối với loại bảo lãnh bảo đảm bằng tài khoản có kỳ hạn hoặc chứng chỉ tiền gửi tổ chức khác phát hành, cơ chế về quản trị rủi ro sẽ tập trung vào việc xác thực và tạm thời phong tỏa quyền sử dụng của khách hàng trong suốt thời gian bảo lãnh, để tránh các trường hợp giả mạo hoặc có sự cấu kết giữa khách hàng và tổ chức phát hành. Đối với bảo lãnh bảo đảm bằng bất động sản, động sản và các hình thức bảo đảm khác cũng như bảo lãnh không có tài sản bảo đảm, cơ chế về quản trị rủi ro nên được xây dựng theo hướng chuyên môn hóa trong thẩm định khách hàng và phát hành cam kết bảo lãnh. Cụ thể, việc thẩm định khách khách hàng nên được giao cho bộ phận chuyên trách như bộ phận khách hàng, bộ phận quản lý rủi ro. Việc xem xét các yếu tố khác có liên quan đến việc phát hành cam kết bảo lãnh như điều kiện bảo lãnh, một số yếu tố liên quan đến bên thụ hưởng, luật áp dụng trong cam kết bảo lãnh, ... nên được giao cho bộ phận chuyên về bảo lãnh đảm nhận. Điều này một lần nữa cho thấy chuyên môn hóa trong hoạt động bảo lãnh góp phần tích cực trong việc quản lý rủi ro đối với hoạt động này. Bên cạnh đó, để có thể quản trị các rủi ro đặc thù trong hoạt động bảo lãnh, cơ chế về quản trị rủi ro cần được thiết lập trên cơ sở hệ thống hóa các đặc trưng trong nhận diện các loại rủi ro này, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của các phòng ban tại chi nhánh trong vai trò là người trực tiếp phát hành và các phòng ban tại Hội sở trong vai trò là bộ phận có trách nhiệm hỗ trợ các chi nhánh trong hoạt động bảo lãnh. 77 Ngoài ra, Vietcombank cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác và mở rộng hơn nữa mạng lưới ngân hàng đại lý, đồng thời thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các tổ chức phòng chống tội phạm quốc tế để có thể nắm bắt các thông tin và vận dụng các kinh nghiệm hữu ích nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý rủi ro trong hoạt động bảo lãnh 3.3.1.4 Giải pháp về công nghệ Vietcombank cần hoàn thiện công nghệ, đặc biệt là công nghệ tin học sử dụng trong hoạt động bảo lãnh. Cụ thể, Trung tâm Tin học trực thuộc Hội sở cần hỗ trợ các chi nhánh bằng cách: nâng cấp việc truy xuất thông tin từ phần mềm hiện có, mở rộng và phát triển các ứng dụng từ hệ thống để hỗ trợ cho việc soạn thảo cam kết bảo lãnh theo mẫu chuẩn trên toàn hệ thống Vietcombank một cách tự động thay vì phải làm thủ công như hiện nay. Bên cạnh đó, từ sự hỗ trợ của Hội sở chính, các chi nhánh có thể chủ động viết những những chương trình ứng dụng nhỏ, riêng lẻ trên cơ sở phát triển chương trình lõi hiện có để phục vụ việc tác nghiệp và báo cáo trong hoạt động bảo lãnh. Ngoài ra, với định hướng phát triển đi kèm công nghệ hiện đại, Vietcombank cần có chiến lược về tìm kiếm và hợp tác với các nhà cung cấp công nghệ có uy tín để đặt hàng xây dựng các chương trình hiện đại hơn, nhằm hiện đại hóa hơn nữa công nghệ ngân hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh. 3.3.1.5 Giải pháp về marketing và củng cố thương hiệu Để khắc phục những điểm yếu về marketing trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, Vietcombank cần xây dựng chiến lược về marketing và củng cố thương hiệu, đồng thời cần có kế hoạch thực hiện một cách cụ thể 78 theo hướng tăng cường khai thác và quảng bá những thế mạnh hiện có và đưa hình ảnh ngân hàng đến gần hơn với khách hàng. Các biện pháp cụ thể về marketing và củng cố thương hiệu Vietcombank có thể thực hiện trong thời gian tới:  Nên đầu tư hơn nữa vào trang thông tin điện tử - bộ mặt truyền thông điện tử của ngân hàng, để làm phong phú hơn về nội dung, sinh động hơn về giao diện và nhiều tiện ích về ứng dụng hơn. Để thực hiện việc này, Vietcombank có thể sử dụng đội ngũ nhân viên tin học hiện có tại Trung tâm Tin học hoặc có thể thuê các nhà cung cấp chuyên nghiệp;  Đẩy mạnh việc quảng bá trên các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình hoặc tài trợ các chương trình cộng đồng. Khi quảng bá sản phẩm ngân hàng, đặc biệt là sản phẩm bảo lãnh, Vietcombank cần chú ý nhiều hơn đến việc nhấn mạnh đến các lợi thế hiện có như: có uy tín, nhiều kinh nghiệm;  Cùng với đó, để đẩy mạnh việc thu hút các khách hàng cá nhân, vốn là đối tượng có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo lãnh trong giao dịch nhà đất, du học, Vietcombank cần liên kết với các công ty địa ốc, trung tâm môi giới nhà đất, các trường học, trung tâm tư vấn du học trong việc quảng bá các sản phẩm bảo lãnh này đến khách hàng;  Bên cạnh đó, Vietcombank cần có đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp, có chuyên môn và kỹ năng tốt. Đội ngũ này có thể tổ chức tại Hội sở, nhưng phải thường xuyên có sự phối hợp cùng các chi nhánh trên toàn hệ thống để thực hiện chiến lược marketing.  Ngoài ra, để quảng bá về ngân hàng một cách trọn vẹn và đầy đủ, Vietcombank cũng cần đưa được hình ảnh một ngân hàng “đổi mới” đến với khách hàng bằng việc chú trọng hơn nữa đến công tác khách hàng, đặc biệt chất lượng phục vụ khách hàng. Để thực hiện điều này, Vietcombank nên tổ 79 chức các chương trình đào tạo về chăm sóc khách hàng một cách thường xuyên hơn và có thêm nhiều hình thức ghi nhận phản hồi từ khách hàng để nâng cao trách nhiệm của đội ngũ nhân viên. 3.3.1.6 Một số giải pháp khác  Về chính sách phí Vietcombank cần có sự điều chỉnh trong chính sách phí hiện nay, cụ thể: - Điều chỉnh giảm mức phí hiện tại xuống ngang bằng với mặt bằng chung của các ngân hàng. Bên cạnh đó, cần xây dựng lộ trình tăng một cách hợp lý và cụ thể, đảm bảo mức tăng của từng lần không quá cao. Có thể xây dựng biểu phí theo từng năm hoặc từng sáu tháng; - Thay đổi chính sách phí theo hướng linh hoạt cho từng khu vực tuỳ theo mặt bằng phát triển của từng khu vực thay vì áp dụng đồng nhất trên toàn quốc như hiện nay. Để thực hiện điều này, trong chính sách về phí Vietcombank nên xây dựng và áp dụng theo kiểu khung, gồm quy định mức trần và mức sàn; đồng thời trao quyền tự quyết và tự chịu trách nhiệm cho chi nhánh khi thực hiện trong khung cho phép và có quy định nhằm hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các chi nhánh trên cùng địa bàn. Bên cạnh đó, về mức ưu đãi cũng nên trao quyền tự chủ cho chi nhánh thay vì bó buộc trong các bước giảm như quy định hiện nay.  Về quy mô vốn Vietcombank cần có chiến lược và lộ trình về gia tăng quy mô vốn. Đây là một trong những biện pháp giúp Vietcombank củng cố nội lực và chủ động trong hội nhập quốc tế. Chiến lược này phải được cụ thể hóa thành sách lược và kế hoạch thực hiện trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhằm bám 80 sát yêu cầu thực tiễn, bảo đảm lợi ích của ngân hàng. Với việc gia tăng quy mô về vốn, hệ số an toàn vốn của Vietcombank sẽ được cải thiện và dần tiến tới chuẩn mực quốc tế như định hướng phát triển. Bên cạnh đó, đối với hoạt động bảo lãnh, việc gia tăng quy mô vốn sẽ tạo cơ hội cho Vietcombank tiếp cận những bảo lãnh có giá trị lớn mà không bị hạn chế bởi các quy định hiện hành của pháp luật. Tuy nhiên, việc gia tăng quy mô vốn phải đảm bảo yêu cầu phát huy đầy đủ hiệu quả của nguồn vốn và có cân nhắc đến vấn đề chi phí sử dụng vốn.  Về điểm xếp hạng tín nhiệm Vietcombank cần có chiến lược gia tăng điểm tín nhiệm, nhằm phấn đấu đạt mức xếp hạng “AA” theo chuẩn mực của các tổ chức xếp hạng quốc tế như định hướng đã được đặt ra từ nay đến năm 2020. Để làm được điều này, bên cạnh việc gia tăng độ an toàn vốn, ngân hàng này cần nâng cao chất lượng tài sản và khả năng sinh lời. Bên cạnh nỗ lực của Vietcombank, còn một yếu tố tác động rất lớn đến điểm xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng này là điểm xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam; do đó, để Vietcombank có thể gia tăng điểm tín nhiệm, rất cần sự hỗ trợ từ các chính sách từ các cấp có thẩm quyền. Rõ ràng, để có thể phát triển hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động bảo lãnh nói riêng trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi Vietcombank phải chủ động và nỗ lực hơn nữa, đồng thời phải luôn làm mới mình. Đây là điều kiện tiên quyết. 3.3.2 Các gợi ý chính sách khác Bên cạnh nỗ lực của chính ngân hàng, Vietcombank cũng rất cần sự hỗ trợ từ các cấp và cơ quan quản lý thông qua các cơ chế chính sách. Đây là 81 điều kiện đủ của sự thành công. Dưới đây tác giả trình bày một số kiến nghị đối với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan. 3.3.2.1 Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và ngân hàng nội địa trong hội nhập Hội nhập là xu thế tất yếu, nhưng để không bị động và có thể đứng vững và phát triển đòi hỏi mọi doanh nghiệp phải tự nỗ lực rất nhiều; tuy nhiên, sự hỗ trợ của Nhà nước là rất cần thiết. Khi nước ta thực hiện mở cửa theo lộ trình đã cam kết khi gia nhập WTO, bên cạnh cơ hội mở rộng hợp tác với các đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đứng trước áp lực cạnh tranh gay gắt. Chính phủ và các cơ quan hữu quan có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua các hiệp hội để tổ chức các chương trình dành cho doanh nghiệp như: chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, thành lập quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ xúc tiến thương mại, … Bằng cách này, Nhà nước cũng đã gián tiếp góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh doanh ngân hàng tại các NHTM trong nước, trong đó có Vietcombank. Đối với ngành tài chính – ngân hàng, thông qua Hiệp hội Ngân hàng, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan có thể vận động sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) trong việc hỗ trợ các ngân hàng trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế trong kinh doanh và quản lý. 82 3.3.2.2 Cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia Mức xếp hạng tín nhiệm của các ngân hàng nội địa chịu sự khống chế bởi mức trần tín nhiệm của quốc gia, do đó, để cải thiện mức độ tín nhiệm của các ngân hàng trong nước, trong đó có Vietcombank, theo các chuẩn mực quốc tế, Việt Nam cũng cần cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Theo tiêu chuẩn xếp hạng của S&P, mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia phụ thuộc vào năm gốc độ chủ yếu: áp lực nợ nước ngoài, tài khóa, tiền tệ, tăng trưởng và chính trị. Trong các yếu tố này, môi trường chính trị ổn định là một lợi thế của Việt Nam; tuy nhiên, các yếu tố khác cần phải được cải thiện hơn nữa. Thực hiện chính sách tài khóa lành mạnh, chính sách tiền tệ có hiệu quả và tăng trưởng bền vững là điều mà Việt Nam cần nỗ lực đạt được để có thể cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố rất được các tổ chức xếp hạng có uy tín trên thế giới quan tâm trong xếp hạng tín nhiệm quốc gia là mức độ minh bạch hóa. Theo công bố mới nhất của S&P vào cuối năm 2008, xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam hiện ở mức BB; tuy nhiên, theo đánh giá của tổ chức này, mức độ minh bạch của Việt Nam rất thấp, đặc biệt là trong ngành ngân hàng. Do đó, S&P rất khó và rất thận trọng trong xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam. Vì thế, để tạo được uy tín với các tổ chức xếp hạng quốc tế, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần có các quy định về minh bạch hóa theo các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đồng thời có các cơ chế giám sát, thanh tra để đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc các quy định này. 83 3.3.2.3 Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý Những năm gần đây, hành lang pháp lý về hoạt động ngân hàng đã được dần hoàn thiện; tuy nhiên, trong lĩnh vực bảo lãnh các quy định pháp quy còn khá sơ sài. Bên cạnh đó, văn bản cụ thể quy định về hoạt động này là văn bản dưới luật nên tính ổn định không cao và bị vô hiệu trong trường hợp bị điều chỉnh bởi luật khác, gây nên sự chồng chéo trong quản lý và rủi ro cho các bên tham gia giao dịch này. Do đó, cần sớm ban hành luật về bảo lãnh ngân hàng để việc điều chỉnh hoạt động này được đồng bộ. Điều này là cần thiết. Bởi lẽ, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là hiện nay Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhu cầu bảo lãnh ngày càng gia tăng, các giao dịch này ngày càng đa dạng, phức tạp và vượt khỏi phạm vi của quốc gia. Hơn nữa, trong hoạt động bảo lãnh, nước ta chỉ mới có quy chế hướng dẫn thực hành, tuy nhiên, trong các văn bản này, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia dịch vụ bảo lãnh còn mơ hồ, không rõ ràng. Điều này làm tăng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh. Bên cạnh đó, nếu nước ta không có một văn bản luật cụ thể thì khi tiến hành giao dịch bảo lãnh với đối tác nước ngoài, các ngân hàng phải dẫn chiếu luật của nước ngoài để áp dụng. Việc này trong nhiều trường hợp sẽ gây thiệt hại cho phía Việt Nam, đặc biệt khi các thuật ngữ và các điều khoản mà luật nước ngoài quy định chưa được hiểu chính xác. Chính vì vậy việc ban hành Luật về bảo lãnh ngân hàng sẽ là một trong những vũ khí giúp các ngân hàng trong nước cũng như Vietcombank tự vệ khi tham gia giao dịch bảo lãnh với các đối tác nước ngoài. Khi biên soạn và ban hành luật này, các cơ quan hữu quan cần có sự tham khảo các thông lệ, tập quán quốc tế và có sự vận dụng linh hoạt vào điều kiện của nước ta. 84 Bên cạnh đó, các cơ quan hữu quan, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, cần sớm có một chuẩn mực chung trong nghiệp vụ bảo lãnh để tránh tình trạng đơn giản hóa giao dịch bảo lãnh và trong một số trường hợp còn có sự tùy tiện của một số ngân hàng trong thời gian qua. Bởi vì tình trạng này không chỉ gây ảnh hưởng đến các ngân hàng thực hiện nghiêm túc hoạt động này và còn gây nên những rủi ro tiềm ẩn cho cả hệ thống ngân hàng. Việc ban hành một chuẩn mực này không những giúp cho các ngân hàng trong nước thực hiện một cách đồng bộ, mà còn cũng giúp cho việc quản lý, kiểm tra và giám sát của các cơ quan chức năng được hoàn chỉnh và thống nhất. Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có trách nhiệm cần có sự tham khảo các thông lệ và chuẩn mực quốc tế khi ban hành chuẩn mực này. Mặt khác, trong hoạt động bảo lãnh hiện nay, Việt Nam cũng nên tham gia phê chuẩn công ước quốc tế về hoạt động bảo lãnh như Công ước Liên hiệp quốc về Bảo lãnh độc lập và Tín dụng thư dự phòng (Công ước Uncitral). Khi công ước quốc tế này được phê chuẩn và sử dụng, sẽ giúp các bên áp dụng thống nhất một điều luật chung trong giao dịch, tránh được tình trạng một trong hai đối tác lựa chọn luật của nước mình áp dụng cho giao dịch, tạo bất lợi cho phía bên kia. Vì thế, khi Việt Nam phê chuẩn công ước này, các ngân hàng trong nước sẽ có được sự bình đẳng với các đối tác, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình và tránh được rủi ro khi có tranh chấp xảy ra. 85 3.3.2.4 Hoàn thiện cơ chế quản lý Cần sớm hoàn thiện và ban hành quy chế quản lý đối với các ngân hàng được cổ phần hóa và chuyển đổi từ NHTM nhà nước sang NHTM cổ phần, trong đó có Vietcombank. Đây là vấn đề mà Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần làm ngay bởi cơ chế quản lý có tác động rất lớn đến hoạt động và điều hành của các NHTM dạng này. Hiện nay, đối với Vietcombank, cơ chế quản lý cần được thực hiện theo hướng mở rộng quyền tự chủ đi kèm với trách nhiệm của ngân hàng này, Nhà nước quản lý ở cấp vĩ mô và không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của ngân hàng bằng mệnh lệnh hành chính. Bên cạnh đó, các quy chế về tài chính như lương, chi phí quảng cáo, tuyên truyền, …nên được cải cách theo hướng mở rộng quyền chủ động cho ngân hàng này thay vì vẫn thực hiện bó buộc như hiện nay. Cùng với đó, Nhà nước nên trao quyền thực sự cho Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị của ngân hàng và thực hiện việc điều hành thông qua đại diện của mình trong bộ máy này. Bằng cách này, Nhà nước sẽ nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của Ban lãnh đạo và Ban điều hành của ngân hàng trong việc giải quyết linh hoạt các vấn đề trong hoạt động kinh doanh, đồng thời vẫn thực hiện được chức năng quản lý và định hướng hoạt động cho ngân hàng này theo các mục tiêu chung trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. 86 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Trên cơ sở những nguyên nhân dẫn đến các hạn chế trong thực tiễn hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Vietcombank từ năm 2005 đến nay và định hướng phát triển của ngân hàng này đến năm 2020, chương 4 của luận văn đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Vietcombank trong giai đoạn hiện nay. Các giải pháp và kiến nghị được chia thành hai nhóm:  Nhóm giải pháp vi mô: bao gồm giải pháp về con người, chủ yếu qua các mặt: đãi ngộ, đào tạo; giải pháp về nghiệp vụ; giải pháp về công nghệ; và một số giải pháp khác về chính sách phí, quy mô vốn, điểm xếp hạng tín nhiệm và chính sách marketing.  Kiến nghị đối với Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và các cơ quan hữu quan về: tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và ngân hàng trong hội nhập, cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý và hoàn thiện cơ chế quản lý. Để hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank ngày càng phát triển, các giải pháp trên đây cần được thực hiện một cách đồng bộ. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan thông qua các biện pháp cụ thể nêu trên sẽ giúp Vietcombank phát triển hơn nữa hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. 87 KẾT LUẬN Với mong muốn góp phần vào sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Vietcombank, tác giả đã đi vào nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo lãnh ngân hàng, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng này để từ đó đưa ra một số giải pháp có thể thực hiện được trong thời gian tới. Trong các giải pháp được đưa ra, có những giải pháp Vietcombank có thể triển khai ngay, có những giải pháp mang tính đề xuất, cần được nghiên cứu sâu hơn để đề ra chiến lược cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn cũng đưa ra các gợi ý về các chính sách, kiến nghị đến các cấp, các cơ quan hữu quan trong việc tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh tại Vietcombank nói chung ngày càng phát triển. Các giải pháp và kiến nghị được đề xuất trong luận văn cần được thực hiện đồng bộ để tạo được lực đẩy tổng hòa giúp Vietcombank có thể phát triển hơn nữa hoạt động bảo lãnh trong thời gian tới. Do gặp nhiều hạn chế về tài liệu tham khảo và khó khăn trong việc tìm kiếm số liệu phục vụ cho việc thực hiện luận văn cũng như hạn chế trong kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và người đọc để luận văn được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfGiải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank).pdf
Luận văn liên quan