Sản phẩm BTT là một sản phẩm tƣơng đối mới với cả khách hàng. Do đó, trƣớc tiên
cần thiết phải thành lập bộ phận tƣ vấn khách hàng về sản phẩm BTT để có thể tƣ vấn và
giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng. Làm nhƣ vậy sẽ tránh đƣợc lãng phí lớn về thời
gian và chi phí khách hàng và đơn vị BTT, tránh để lại ấn tƣợng không tốt cho khách
hàng về đơn vị BTT. Bƣớc tiếp theo đó, có thể kịp thời nắm bắt tâm lý, nhu cầu của từng
nhóm đối tƣợng khách hàng, thiết lập những mối quan hệ đối tác với các tổ chức tín dụng
khác, từ đó đồng thời cũng nâng cao khả năng cạnh tranh cho chính đơn vị thực hiện
BTT.
Thực hiện các chƣơng trình khuyến mãi, tổ chức hội nghị khách hàng để quảng bá,
marketing rộng rãi hơn về BTT, từ đó có thể tiếp nhận những ý kiến phản hồi, góp ý trực
tiếp từ khách hàng về dịch vụ BTT, tiềm năng cho việc mở rộng mạng lƣới hoạt động
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2334 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều nƣớc trên thế
giới chọn lựa để tối ƣu hóa hoạt động kinh doanh, nhằm giúp doanh nghiệp trong nƣớc
tiếp cận nhanh với các phƣơng thức thanh toán quốc tế, xóa bỏ những rào cản, khó khăn
đang hiện hữu trong hoạt động xuất nhập khẩu. Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt
Nam (Eximbank) là một trong những ngân hàng đầu tiên đã triển khai dịch vụ này. Là
một NHTM hiện đại, cung cấp đa dạng các sản phẩm tài chính ngân hàng chất lƣợng cao
và luôn có nhiều dịch vụ tốt dành cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Eximbank đã
triển khai hình thức bao thanh toán theo xu hƣớng quốc tế để hỗ trợ vốn lƣu động, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. Hình thức tài trợ
này dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu muốn mở rộng thị trƣờng, muốn đƣợc đảm bảo
rủi ro thanh toán bên nhập khẩu, có nhu cầu đƣợc ứng trƣớc tiền hàng đối với khoản phải
thu trả chậm và doanh nghiệp nhập khẩu muốn mua hàng theo phƣơng thức thanh toán trả
chậm.
Ngân hàng bao thanh toán sẽ thực hiện các dịch vụ nhƣ bảo đảm rủi ro tín dụng cho bên
nhập khẩu, theo dõi khoản phải thu, ứng trƣớc tiền hàng tối đa 90% trị giá khoản phải thu
và thu hồi nợ. Hiện Eximbank đang thực hiện các phƣơng thức bao thanh toán rất linh
hoạt gồm bao thanh toán từng lần hoặc theo hạn mức để các doanh nghiệp có thể lựa
chọn hình thức phù hợp.Với nhiều lợi ích hiện hữu, hình thức bao thanh toán của
Eximbank đƣợc xem là sự hỗ trợ thiết thực để các doanh nghiệp nhập khẩu không bỏ lỡ
cơ hội kinh doanh và các nhà xuất khẩu có thể giữ vững vị thế tại các thị trƣờng cũ, vƣợt
qua rào cản về phƣơng thức thanh toán để gia nhập các thị trƣờng mới.
Qua thực tế sử dụng dịch vụ này, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cũng cho biết sử dụng
bao thanh toán của Eximbank đã giúp họ tăng lợi thế cạnh tranh, khả năng trúng thầu đơn
hàng khi bán hàng theo phƣơng thức D/A và T/T trả chậm cao hơn, nhanh chóng thu hồi
đƣợc nguồn vốn lƣu động để mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển thị trƣờng. Hình
thức này còn giúp tiết kiệm đƣợc thời gian, chi phí trong việc quản lý và thu hồi các
khoản phải thu. Eximbank còn đảm bảo rủi ro tín dụng bên nhập khẩu cho các khoản phải
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
25
thu và hỗ trợ các thông tin tài chính, tình hình kinh doanh của bên nhập khẩu cho doanh
nghiệp.
Còn doanh nghiệp nhập khẩu khi sử dụng dịch vụ này đã có thể mua hàng theo điều
khoản thanh toán trả chậm mà không phải trả bất kỳ một khoản phí bao thanh toán nào.
Các công ty vừa có thể thanh toán tiền hàng sớm, đáp ứng yêu cầu của hợp đồng ngoại
thƣơng, vừa đƣợc sử dụng tín dụng của ngƣời bán để tài trợ vốn lƣu động và không phải
mất thời gian mở L/C cho mỗi lần nhập hàng, không phải ký quỹ. Phía Eximbank sẽ thực
hiện hình thức bao thanh toán có quyền truy đòi để đảm bảo lợi ích cho các bên.
Theo yêu cầu của Eximbank, để đƣợc bao thanh toán, các doanh nghiệp phải có hàng hóa
hữu hình, bao thanh toán chỉ thực hiện sau khi hàng hóa đƣợc giao. Ngoài ra, hợp đồng
ngoại thƣơng không cấm bên xuất khẩu chuyển nhƣợng khoản phải thu cho bên thứ ba
hay không đƣợc chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng ngoại thƣơng và phải
phù hợp với quy định của pháp luật. Một điều kiện nữa là khoản phải thu không phát sinh
từ hợp đồng ngoại thƣơng bị pháp luật cấm, không phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận
bất hợp pháp đang có tranh chấp, không phát sinh từ các hợp đồng ngoại thƣơng dƣới
hình thức ký gửi, không đƣợc gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp, không bị quá hạn thanh toán
theo hợp đồng ngoại thƣơng…
Các chuyên gia cho rằng trong bối cảnh kinh tế khó khăn, bao thanh toán sẽ giúp bên
xuất khẩu sẽ tăng thanh khoản, cải thiện dòng tiền, tăng doanh số bán hàng, giảm chi phí
hành chính, quản lý đƣợc công nợ, có đƣợc nguồn tài chính mới mà không cần tài sản
đảm bảo, không phụ thuộc vào các khoản vay và giảm thiểu nợ xấu, hạn chế rủi ro tín
dụng trong các giao dịch quốc tế. Bên nhập khẩu sẽ có cơ hội đàm phán điều khoản mua
hàng tốt hơn và đơn giản hóa thủ tục thanh toán. Cùng với lợi ích của mình, khách hàng
tham gia bao thanh toán cũng giúp các ngân hàng trong nƣớc nâng cao uy tín của trên thị
trƣờng quốc tế.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
26
Eximbank (million of Euro) 2010 2011 2012
Domestic 0.95 0.86 0.98
International 0.12 0.04 0.05
Tuy nhiên, Eximbank không phải không có những hạn chế trong lĩnh vực bao thanh toán,
cụ thể ở văn bản hợp đồng chƣa rõ ràng đối với bên nhận thanh toán và đƣợc thanh toán.
Cụ thể có trƣờng hợp nhƣ sau: Ngày 26/6/2012, Công ty TNHH Công nghiệp Ngôi Sao
Xanh và Công ty CP Nhựa tổng hợp Thành Tài ký hợp đồng nguyên tắc về mua bán khí
gas hóa lỏng. Theo đó, Công ty Ngôi Sao Xanh sẽ cung cấp khí gas hóa lỏng cho Công ty
Nhựa tổng hợp Thành Tài thành nhiều đợt. Để bảo đảm cho việc thanh toán tiền hàng,
Công ty Nhựa tổng hợp Thành Tài phải yêu cầu một ngân hàng phát hành chứng thƣ bảo
lãnh thanh toán đối với số tiền mua hàng là 17 tỷ đồng. Căn cứ vào hợp đồng mua bán
trên và thỏa thuận với Công ty Nhựa tổng hợp Thành Tài, ngày 12/7/2012, Ngân hàng
Eximbank đã phát hành chứng thƣ bảo lãnh số 1401/GTA-120700030 bảo lãnh nghĩa vụ
thanh toán của Công ty Nhựa tổng hợp Thành Tài. Theo chứng thƣ này, Ngân hàng
Eximbank sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng trong phạm vi 17 tỷ đồng theo Hợp
đồng mua bán hàng hóa số 22/2012/IBS-THANHTAI/TERN trong trƣờng hợp Công ty
Nhựa tổng hợp Thành Tài vi phạm nghĩa vụ thanh toán và Công ty Ngôi Sao Xanh có thƣ
đòi tiền. Thƣ bảo lãnh có thời hạn đến ngày 10/2/2013. Thực hiện hợp đồng mua bán
trên, Công ty Ngôi Sao Xanh đã 5 lần giao hàng cho Công ty Nhựa tổng hợp Thành Tài
hơn 3.233 tấn khí gas hóa lỏng, trị giá hơn 83,6 tỷ đồng. Đến hết ngày 4/2/2013, Công ty
Nhựa tổng hợp Thành Tài cũng đã thanh toán đƣợc số tiền hơn 61,5 tỷ đồng cho Công ty
Ngôi Sao Xanh. Đến lô hàng cuối cùng đƣợc giao ngày 25/12/2012, Công ty Nhựa tổng
hợp Thành Tài vi phạm nghĩa vụ thanh toán, chậm trả hơn 22 tỷ đồng. Trƣớc việc bên
mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngày 7/2/2013, Công ty Ngôi Sao Xanh đã phát hành
thƣ đòi tiền, yêu cầu Eximbank thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh trả số tiền 17 tỷ đồng
trong tổng số tiền hơn 22 tỷ mà Công ty Nhựa tổng hợp Thành Tài còn nợ Công ty Ngôi
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
27
Sao Xanh. Nhận đƣợc văn bản này, Eximbank cũng đã có phản hồi sẽ phúc đáp yêu cầu
của Công ty Ngôi Sao Xanh vào ngày 28/2/2013.
Tuy nhiên, sau đó Eximbank không thực hiện việc thanh toán tiền hàng theo yêu cầu của
Công ty Ngôi Sao Xanh và cũng không có phản hồi gì nhƣ cam kết trƣớc đó. Ngày
4/4/2013, Eximbank có một thông báo bất ngờ cho Công ty Ngôi Sao Xanh là ngân hàng
này không còn nghĩa vụ phải thanh toán tiền cho Công ty Ngôi Sao Xanh vì Công ty
Nhựa tổng hợp Thành Tài “đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán”. Ngân hàng
Eximbank còn viện dẫn các lần Công ty Nhựa tổng hợp Thành Tài chuyển tiền cho Công
ty Ngôi Sao Xanh trong tháng 10/2012 để khẳng định, bên mua đã trả tiền cho Công ty
Ngôi Sao Xanh và ngân hàng cũng… hết trách nhiệm. Thậm chí, sau đó Eximbank còn
gửi cho Công ty Ngôi Sao Xanh một thông báo hoàn thành nghĩa vụ thanh toán do ngân
hàng này phát hành từ tháng 10/2012. Với những gì mà Eximbank đã làm thì rõ ràng
ngân hàng này đang tìm cách chối bỏ nghĩa vụ bảo lãnh của mình. Thậm chí, ngân hàng
còn viện dẫn một câu rất mù mờ trong chứng thƣ bảo lãnh là “nghĩa vụ của ngân hàng sẽ
giảm dần tƣơng ứng với mỗi khoản thanh toán của bên đƣợc bảo lãnh” để thoái thác trách
nhiệm. Với cách ứng xử này, Eximbank đang gây thất vọng lớn cho đối tác. Đại diện
Công ty Ngôi Sao Xanh cho biết, nếu Ngân hàng Eximbank không nhìn nhận đúng đắn
và thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ bảo lãnh thì Công ty sẽ khởi kiện ra tòa để buộc ngân
hàng phải có trách nhiệm với chứng thƣ bảo lãnh đã phát hành.
2.2.2 Đánh giá về hoạt động bao thanh toán của NHTM tại VN:
Hiện nay Việt Nam đang có 11 ngân hàng tham gia vào dịch vụ bao thanh toán, trong đó
4 ngân hàng là ACB, Vietcombank, Sacombank và Techcombank là những ngân hàng
đầu tiên áp dụng dịch vụ này vào thanh toán. Trong đó ACB là nổi bật nhất trong việc
thực hiện bao thanh toán. Tuy nhiên cho đến nay vẫn đơn thuần là áp dụng với khách
hàng trong nƣớc với doanh số thực hiện còn khá thấp.
- Nhiều doanh nghiệp vẫn còn xa lạ với loại hình dịch vụ bao thanh toán,
nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vẫn ƣu tiên sử dụng các hình thức
nhƣ gửi tiền, tín dụng chứng từ… hơn là bao thanh toán.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
28
- Lãi và phí của loại hình dịch vụ này tƣơng đối cao so với các doanh nghiệp
trong nƣớc. Đi liền cùng với mức độ tín nhiệm bảo lãnh, phí lại càng cao,
ACB có thể là ví dụ điển hình trong vấn đề này khi thu phí cao hơn hẳn các
ngân hàng khác. Những loại thực phẩm nông sản, đồ tƣơi khó bảo quản nếu
chấp nhận bao thanh toán cho bên mua thì cần phải xem xét kỹ lƣỡng.
- Ngân hàng đòi hỏi khá cao đối với khách hàng để chứng minh uy tín của
bên mua hàng hóa. Đối với các nhà sản xuất ở trong nƣớc, trình độ hiểu
biết về thị trƣờng nƣớc ngoài còn hạn chế, kinh nghiệm chƣa nhiều nên khó
có thể đáp ứng vấn đề này.
- Sản phẩm chƣa hoàn thiện, chƣa đa dạng, chủ yếu tập trung vào doanh
nghiệp lớn.
-
2.3 Nguyên nhân và tồn tại khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam:
Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhƣng tình
hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chƣa thực sự phát triển và chƣa thể hiện hết những
ƣu điểm vốn có của nó. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ phía Nhà
nƣớc với những bất cập môi trƣờng pháp lý, từ chính bản thân các đơn vị thực hiện bao
thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:
2.3.1 Khung pháp lý
Hoạt động bao thanh toán cũng đƣợc quy định trong nhiều quy định nhƣ 1096/2004/Q Đ-
NHNN, 30/2008/QĐ- NHNN .Tuy nhiên, những quy chế này vẫn còn nhiều bất cập và
hạn chế. Chính vì thế, các ngân hàng thƣơng mại, công ty tài chính vẫn chƣa mạnh dạn
triển khai rộng rãi hoạt động này.
- Theo Quy chế 1096, bao thanh toán đƣợc định nghĩa “là một hình thức cấp tín dụng
của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát
sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong
hợp đồng mua bán hàng hóa”.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
29
+ Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ
nội dung quy chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này
không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức
năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền
hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với
việc cấp tín dụng thông thƣờng.
+ Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập
nhằng, khó hiểu vì quan hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt
nhau.
+ Theo Quy chế 1096, nghiệp vụ bao thanh toán chỉ áp dụng cho các khoản phải thu xuất
phát từ hợp đồng mua bán hàng hóa, không đề cập gì đến khoản phải thu phát sinh từ việc
cung ứng dịch vụ.
- Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng trƣớc chỉ
đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc sở hữu của ngƣời
bán. Chính sự không chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ bao thanh toán đã dẫn
đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển giao quyền đòi
nợ từ ngƣời bán sang đơn vị bao thanh toán. Pháp luật hiện nay vẫn không có quy định
liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này.
- Theo mục c, d, đ, e, khoản 1, điều 13 của Quy chế 1096 có viết:
“c. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh
toán.
d. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng
bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán
hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng
thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
30
đ. Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán và đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc đã
nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn vị bao thanh toán.
e. Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng và
các chứng từ khác liên quan đến khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán”.
Điều này đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng Việt Nam khi thực hiện nghiệp vụ
bao thanh toán. Khi ngƣời bán và đơn vị bao thanh toán đồng ký gửi văn bản thông báo
về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng, mà bên mua hàng không đồng ý, không
gửi văn bản xác nhận về việc đã nhận thông báo thì sẽ gây khó khăn cho cả ngƣời bán và
đơn vị bao thanh toán. Bởi vì, pháp luật sẽ không thừa nhận dịch vụ bao thanh toán nếu
không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng phải trả nợ.
Cũng theo đề mục trên, khi ngƣời bán và đơn vị bao thanh toán thỏa thuận, kí kết hợp
đồng bao thanh toán, sẽ phải đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán
cho bên mua hàng. Nhƣ vậy, chƣa đủ cơ sở để xác định thông báo có hiệu lực thi hành
cho tất cả các bên.
- Cũng theo Quy chế 1096, chỉ các tổ chức tín dụng mới đƣợc thực hiện nghiệp vụ bao
thanh toán. Quy định trên không hợp lý vì nó gây khó khăn cho các doanh nghiệp có uy
tín, có năng lực về tài chính và thẩm định khách hàng muốn cung cấp dịch vụ này.
- Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết mọi
tranh chấp thƣơng mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thƣơng mại đã đƣợc đóng
dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng nhƣ các hợp đồng thƣơng mại
khác sẽ đƣợc xem nhƣ là cơ sở pháp lý để trong trƣờng hợp có tranh chấp, sẽ đƣợc đƣa ra
trọng tài kinh tế hoặc tòa án thƣơng mại để xét xử. Nhƣng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam,
hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án
thƣơng mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trƣờng hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ
phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại,
một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm đƣợc triển khai ở Việt Nam là do luật pháp
của ta chƣa nghiêm.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
31
- Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án đƣợc xem là cứu cánh cuối cùng và
hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn tránh nghĩa
vụ khi đến hạn. Nhƣng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chƣa thực sự là phƣơng
thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng kinh tế và dân sự còn quá
phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án còn nhiều bất cập… Sau một
chặng đƣờng dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết quả là ngân hàng vẫn đứng trƣớc nguy
cơ không thu hồi đƣợc khoản nợ.
2.3.2 Số lƣợng khách hàng tham gia nghiệp vụ BTT còn khiêm tốn
Đối tƣợng khách hàng hiện nay sử dụng dịch vụ Bao thanh toán tại các ngân hàng còn rất
hạn chế, chủ yếu là các khách hàng quen, đã từng sử dụng nghiệp vụ này hoặc có quan hệ
tín dụng với ngân hàng thì mới tham gia dịch vụ này. Nguyên nhân là do:
a. Khái niệm bao thanh toán còn khá mờ nhạt
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày
01/10/2004, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hiểu biết về bao thanh toán vẫn còn rất
mơ hồ nhất là các doanh nghiêp nhỏ lẻ.
Tại các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế , các doanh nghiệp chỉ đựơc
giới thiệu một chút am hiểu về sản phẩm bao thanh toán. Từ đó, họ không có khái niệm
sử dụng dịch vụ cũng nhƣ lựa chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh
nghiệp mình.
b. Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệp
Bao thanh toán là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía ngƣời mua. Vì
vậy, dịch vụ bao thanh toán có chi phí tƣơng đối cao, trung bình khoảng 3 – 5% doanh
thu. Chi phí cao bởi vì ngoài chi phí để gánh chịu rủi ro, còn bao gồm chi phí quản lý sổ
sách, chi phí chuyển phát nhanh và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại cho
các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.
c. Nguyên nhân khác:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
32
Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục đƣợc tình trạng cho vay dựa trên tài sản
thế chấp của tín dụng ngân hàng. Nhƣng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn
đề tiên quyết để nhận đƣợc nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản
đảm bảo không những đƣợc các ngân hàng Việt Nam mà còn đƣợc các ngân hàng nƣớc
ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trƣờng Việt Nam đầy rủi
ro, không cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín
dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình
là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có đƣợc từ việc phân tích các báo cáo tài chính
không thể tin tƣởng đƣợc.Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài sản đảm bảo
đã làm giảm đi ƣu thế của dịch vụ bao thanh toán, đồng thời cũng đã làm mất đi bản chất
của dịch vụ này.
Mặt khác, dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thƣờng chỉ chú trọng tới các doanh
nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chƣa thật tiện lợi, hệ thống thông tin
tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đƣa ra những điều kiện rất khó đáp
ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng nhƣ phải chứng minh uy tín của bên mua hàng,
các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định chế tài chính
khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ, nhất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với quốc tế, bao thanh toán thƣờng là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao thanh
toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, ngƣời bán (nhà xuất khẩu) sẽ hết
nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ƣu điểm nổi
bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận tâm với
hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và để đảm
bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh toán có quyền truy đòi. Điều này cũng
đƣợc xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm cho
các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, bên bán hàng muốn đƣợc ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách hàng của
bên bán (bên mua hàng) phải đƣợc đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng. Điều này
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
33
thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh
toán.
2.3.3 Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ƣớc và tập quán quốc tế
Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho sự phát
triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những chỉ chịu sự
điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn chịu sự điều tiết của
luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ nhƣ: theo GRIF thì
không cần phải có xác nhận của ngƣời mua đồng ý thanh toán cho đơn vị bao thanh toán.
Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt Nam thì phải có xác nhận này thì hợp
đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức bao thanh toán mới có hiệu lực. Sự không
thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện bao thanh toán.
Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng nhƣ tập quán riêng. Vì vậy, để nắm
bắt, am hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, điều này thật không đơn giản. Và chính việc không
am hiểu luật pháp quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, thua kiện khi ra tòa.
2.3.4 Quan hệ với thị trƣờng nƣớc ngoài còn hạn chế
Trong bao thanh toán quốc tế, ngƣời mua và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu ở hai quốc
gia khác nhau, vì thế việc thẩm định ngƣời mua rất khó khăn. Nhất thiết cần phải có sự
tham gia hỗ trợ của một tổ chức bao thanh toán tại quốc gia ngƣời mua (đơn vị bao thanh
toán nhập khẩu). Do đó, một ngân hàng muốn thực hiện bao thanh toán quốc tế tốt, cần
phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức bao thanh toán khác trên thế giới. Nhƣng đa
số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chƣa đủ điều kiện để mở các chi nhánh tại nƣớc
ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng, đơn vị bao thanh toán nƣớc ngoài còn
nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn của các ngân hàng Việt Nam.
Những lý do trên là nguyên nhân làm cho nghiệp vụ bao thanh toán không phát triển ở
Việt Nam. Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ bao thanh toán chỉ
đƣợc thực hiện ở hội sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chƣa quen thuộc và
cũng chƣa quan tâm nhiều đến việc thực hiện cũng nhƣ đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ này đến
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
34
khách hàng. Điều này cũng là một rào cản gây khó khăn cho việc mở rộng, phát triển sản
phẩm ở thị trƣờng đầy tiềm năng nhƣ nƣớc ta.
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA
VIỆT NAM
3.1. Giải pháp về mặt vĩ mô
Về phía ngân hàng nhà nước, cần nhanh chóng và hoàn thiện khung pháp lý cho
hoạt động Bao thanh toán. NHNN cần sớm ban hành các văn bản quy khác bổ sung khác,
khắc phục những tồn tại, hạn chế của quy chế Bao thanh toán hiện hành, đặc biệt văn
bản này nên xem xét, tham khảo với văn bản luật trên thế giới để thống nhất với cách
hiểu chung của thông lệ quốc tế về Bao thanh toán, và để mở rộng đối tượng cung ứng
dịch bao thanh toán.
3.1.1. Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bao thanh toán.
Thứ nhẩt, cần mở rộng đối tƣợng cung ứng dịch vụ bao thanh toán, không nên chỉ
dừng lại trong phạm vi các tổ chức tín dụng, cần thiết tới việc thành lập các công ty bao
thanh toán độc lập.
Thứ hai, hiện nay không có quy định nào xác lập mối quan hệ của việc chuyển giao
quyền đòi nợ của bên bán cho đơn vị bao thanh toán. Vì thế cần đƣa ra quy định xác định
điều kiện về việc chuyển giao quyền đòi nợ của các bên có hiệu lực.
Thứ ba, nên có quy định về các điều kiện giới hạn đối với ngƣời mua, hạn mức bao
thanh toán tối đa của từng ngƣời mua so với vốn tự có của đơn vị bao thanh toán. Hiện
nay, việc quy định về tổng số dƣ bao thanh toán cho khách hàng không vƣợt quá 15%
vốn tự có của đơn vị bao thanh toán là không hợp lý bởi vì rủi ro của đơn vị bao thanh
toán không phải chỉ nằm ở chổ ngƣời bán mà còn nằm ở khả năng thanh toán của ngƣời
mua.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
35
Thứ tư, cần xem xét và quy định rõ việc áp dụng thuế và quy định về việc gia hạn,
chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động này. Hiện nay, vẫn chƣa có bất kỳ văn bản pháp
luật nào đề cập tới vấn đề này.
Đối với thuế :
Hiện tại thì việc áp dụng thuế chuyển nhƣợng hiện nay là không nên. Có chăng, khi
hoạt động BTT đã thực sự phát triển thì mới áp dụng thuế, và việc thu thuế nên tiến hành
theo lộ trình nhất định vừa khuyến khích BTT phát triển và đảm bảo không gây thất thu
cho ngân sách nhà nƣớc.
Nếu có quy định về thuế thì nội dung cơ bản của những quy định về thuế nên đảm
bảo:
- Quy định về mức độ miễn giảm thuế đối với các đơn vị BTT trong quá
trình thực hiện cũng nhƣ các điều kiện cơ bản để miễn giảm thuế, cơ quan thuế
can thiệp đến mức nào đối với hoạt động BTT.
- Các hình thức khen thƣởng khi đơn vị BTT thực hiện đúng các quy định và
nộp thuế đúng hạn…
Đối với gia hạn, chuyển nợ quá hạn áp dụng đối với các khoản mục của
hoạt động BTT
Việc quy định cụ thể hơn về những điều trên sẽ giúp cho các đơn vị BTT có thể
đánh giá tốt hơn hiệu quả hoạt động mà còn giúp các cơ quan chức năng có thể kiểm
tra, quản lý tốt hoạt động BTT trên cấp độ vĩ mô, hạn chế những rủi ro cho nền kinh tế.
Nếu đƣa ra các quy định mới thì các quy định này nên đáp ứng các yêu cầu sau:
Khi nào thì đƣợc gia hạn thời hạn các khoản phải thu.
Thời gian cụ thể chuyển từ nợ phải thu sau khi đã gia hạn sang nợ quá hạn.
Mức trích dự phòng gia hạn và chuyển nợ quá hạn.
Mức độ tối đa các khoản BTT đƣợc gia hạn, chuyển nợ quá hạn.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
36
Những quy định, chế tài khi các đơn vị BTT không thực hiện đúng các quy định
gia hạn và chuyển nợ quá hạn.
Thứ năm, Ban hành chuẩn mực kế toán cụ thể khi thực hiện BTT
Cho đến nay, bao thanh toán đã đƣợc triển khai thực hiện khoảng 6 năm nhƣng
NHNN vẫn chƣa ban hành quy chế hạch toán kế toán chuẩn mực. Do đó, các đơn vị BTT
đã phải tự xây dựng cho mình chế độ hạch toán theo quy định hƣớng dẫn của các sản
phẩm dịch vụ khác và thực tế hoạt động của doanh nghiệp. Điển hình đó là NHTM cổ
phần Á Châu, NHTM Vietcombank …Chính vì vậy dẫn đến tình trạng chế độ hạch toán
của các đơn vị BTT không thống nhất với nhau, các cơ quan hữu quan rất khó trong việc
quản lý cũng nhƣ theo dõi sự phát triển của sản phẩm mới này. Do vậy, việc ban hành
những chuẩn mực hạch toán kế cho cho sản phẩm BTT là rất cần thiết.
Quy chế hạch toán kế toán ban hành cần phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây :
- Thứ nhất, phải phù hợp với nguyên lý, chuẩn mực kế toán hiện hành áp
dụng tại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kế toán tài chính.
- Thứ hai, đảm bảo tính nhất quán, chặt chẽ khi áp dụng vào thực tế.
- Thứ ba, đảm bảo tính rõ ràng mạch lạc khi phản ánh hoạt động BTT trên sổ
sách kế toán của đơn vị BTT.
- Thứ tƣ, đối với hoạt động BTT xuất, nhập khẩu, các quy định hạch toán kế
toán phải phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng nhƣ các hiệp ƣớc, thỏa thuận mà Việt
Nam tham gia.
- Thứ năm, trong quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng nhƣ hiện
nay, các quy định về hạch toán kế toán đối với hoạt động BTT chắc chắn sẽ không
đáp ứng đƣợc hết những tình huống xảy ra trong thực tế. Do đó, các quy định này
cần phải có tính mở, tức là có thể cập nhật, sửa đổi bổ sung khi cần thiết.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
37
3.1.2. Xây dựng trung tâm điều tiết quản lý thông tin tín dụng, đánh giá chất lượng các
bên nhằm cung cấp những thông tin xác thực cho các đơn vị BTT.
Hiện nay các ngân hàng, TCTD có thể truy cập thông tin về các doanh nghiệp thông
qua website riêng biệt đó là hệ thống thông tin tín dụng (CIC).
Do đó, việc xây dựng mới hoặc tiếp tục phát triển hơn nữa trung tâm CIC là rất cần
thiết cho các đơn vị BTT. Trung tâm này có thể thực hiện các chức năng nhƣ sau:
Thứ nhất: Cung cấp thông tin, đánh giá chất lƣợng hoạt động của các doanh nghiệp,
công ty tham gia hoạt động BTT một cách nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin này
bao gồm:
+) Thông tin ngành nghề, địa chỉ kinh doanh của doanh nghiệp.
+) Tình hình hoạt động, tài chính của các doanh nghiệp tham gia hoạt động BTT.
+) Uy tín thanh toán, lịch sử giao dịch của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động đối với các TCTD.
+) Những quy định mới của nhà nƣớc về hoạt động BTT.
Một thực tế hiện nay là việc cung cấp thông tin của các doanh nghiệp rất hạn chế,
có thể nói đây là giải pháp lâu dài, toàn diện không chỉ riêng đối với doanh nghiệp mà
còn đối với tất cả các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai: Tạo sự liên kết giữa các đơn vị BTT, trên cơ sở đó tạo nên các liên minh
giữa các đơn vị BTT để tiến hành thực hiện đồng BTT nếu một đơn vị BTT không thể
thực hiện.
Thứ ba: Xử lý tranh chấp giữa các đơn vị thực hiện đồng BTT.
Thứ tư: Tham gia tƣ vấn cho các đơn vị BTT trong quá trình thực hiện BTT cũng
nhƣ hội nhập thực hiện BTT quốc tế.
3.2. Giải pháp vi mô
Dự báo trong tương lai sẽ có thêm một số NHTM khác tham gia vào nghiệp vụ mới
mẻ và tiềm năng này. Tuy nhiên , theo xu thế thanh toán quốc tế là phương thức ghi sổ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
38
ngày càng chiếm ưu thế và theo nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp trong nước sẻ
buộc các ngân hàng trong nước có hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại
phải khẩn trương triển khai nghiệp vụ này, khi đó BTT sẻ là một nghiệp vụ không thể
thiếu của một ngân hàng hiện đại. Để sản phẩm bao thanh toán phát triển nhanh chóng
tại Việt Nam thì các NHTM cần có giải pháp tập trung khắc phục những hạn chế và
những nguyên nhân cơ bản ở trên.
3.2.1. Xây dựng sản phẩm phù hợp và chiến lƣợc marketing
a) Xây dựng sản phẩm phù hợp với thị trường
Hiện nay sản phẩm bao thanh toán còn khá đơn điệu và kém hấp dẫn với hình thức
duy nhất là có truy đòi. Vì thế cần nghiên cứu và phát triển thêm nhiều sản phẩm mới để
đa dạng hóa sản phẩm bao thanh toán.
Bên cạnh việc mua lại cá khoản phải thu dƣới hình thức có truy đòi, ngân hàng có
thể thực hiện bao thanh toán miễn truy đòi kết hợp với việc cung cấp thêm chức năng bảo
hiểm rủi ro đối với bên mua có uy tín cao trên thị trƣờng, là công ty lớn có tình hình tài
chính minh bạch. Đối với hoạt động thƣơng mai quốc tế, việc ngân hàng thực hiện bao
thanh toán miễn truy đồi kết hợp với bảo hiểm rủi ro cho ngƣời mua là gói sản phẩm sẽ
đƣợc nhiều nhà xuất khẩu lựa chọn. Bởi vì do thiếu thông tin, không nắm rõ về đối tác,
để đảm bảo đƣợc thanh toán, nhà xuất khẩu trong nƣớc sẽ sẵn sàng trả cho ngân hàng với
mức phí cao hơn. Điều này vừa làm phong phú thêm hoạt động bao thanh toán của ngân
hàng vừa có thể tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Và điều này cần sự nỗ lực rất lớn từ
phía ngân hàng trong việc đẩy mạnh mối quan hệ với các đơn vị bao thanh toán nhập
khẩu, cũng nhƣ nắm bắt đƣợc thông tin về thị trƣờng xuất khẩu của khách hàng.
b) Xây dựng chiến lược phát triển thông qua marketing.
Nhƣ chúng ta cũng đã biết tại thị trƣờng Việt Nam, sản phẩm BTT đƣợc xem là sản
phẩm mới, ngƣời tiêu dùng hầu nhƣ chƣa biết tới và do vậy cũng không thấy đƣợc tính
ƣu việt của sản phẩm này nên cũng không thể sử dụng sản phẩm. Do đó, để sản phẩm
phát triển, việc đầu tiên đơn vị BTT cần thực hiện là giới thiệu cho khách hàng làm quen
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
39
với sản phẩm thông qua các buổi hội thảo, quảng cáo… thông qua những chiến lƣợc
marketing hiệu quả.
Muốn làm tốt điều này, các đơn vị BTT trƣớc hết phải tập huấn cho các cán bộ trực
tiếp thực hiện về những ƣu nhƣợc điểm của sản phẩm, đồng thời hƣớng dẫn thực hiện
theo quy định của đơn vị. Có nhƣ vậy, cán bộ đó mới có thể giới thiệu dịch vụ với khách
hàng đạt hiệu quả cao đƣợc. Bƣớc tiếp theo, đơn vị BTT cần thực hiện quảng cáo về sản
phẩm, một số biện pháp giúp các doanh nghiệp quan tâm đến lợi ích của sản phẩm bao
thanh toán :
- Bán hàng trực tiếp, quảng cáo trực tiếp tại quầy để sản phẩm BTT đến đƣợc với
khách hàng.
- Gửi thƣ trực tiếp đến khách hàng. Thƣ phải chứa đựng đầy đủ thông tin nhƣng
ngắn gọn, rõ ràng và bắt mắt nhằm thu hút đƣợc sự quan tâm của khách hàng.
- Tổ chức hội thảo về sản phẩm BTT: đối tƣợng tham dự là các kế toán trƣởng,
trƣởng phòng xuất nhập khẩu, giám đốc tài chính của các doanh nghiệp.
- Để tiếp cận các khách hàng tiềm năng khác, đơn vị BTT nên tận dụng các kênh
truyền thông hiệu quả: quảng cáo trên phƣơng tiện thông tin (đài truyền hình, đài phát
thanh, Internet), quảng cáo trên đƣờng phố, tổ chức các sự kiện… Chẳng hạn đơn vị
BTT có thể truyền hình trực tiếp buổi tọa đàm giữa đơn vị BTT và các doanh nghiệp đã
sử dụng thành công dịch vụ BTT của đơn vị BTT.
3.2.2. Chính sách hỗ trợ về giá và phí khi tham gia hình thức BTT
Một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm BTT tuy đã ra đời cuối năm 2004
nhƣng đến nay vẫn chƣa đƣợc các doanh nghiệp quan tâm và sử dụng rộng rãi là do
doanh nghiệp Việt Nam cho rằng giá cả sản phẩm BTT khá cao so với các sản phẩm tín
dụng vay vốn thông thƣờng hiện nay. Tuy nhiên, giai đoạn đầu hoạt động do chƣa có
nhiều khách hàng nên việc giảm giá rất khó khăn cho đơn vị BTT, đơn vị BTT có thể
thực hiện “khai thác sản phẩm chéo” để hạ giá thành sản phẩm. “Khai thác sản phẩm
chéo” là khái niệm không mới và đã đƣợc thực hiện rất nhiều.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
40
Thực hiện các chƣơng trình khuyến mãi, giảm phí dịch vụ bao thanh toán trong thời
gian đầu, tối thiểu là 2 - 3 năm tạo sự hấp dẫn và làm quen của các doanh nghiệp. Ngoài
ra các ngân hàng thƣơng mại có thể tăng tính hấp dẫn cho dịch vụ BTT bằng cách vận
dụng linh hoạt hình thức bảo đảm tiền vay, nên dựa trên cơ sở tín nhiệm hoặc hình thức
đảm bảo khác thay cho tài sản thế chấp.
3.2.3. Xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát bên bán
Để ký đƣợc hợp đồng BTT với bên bán và duy trì đƣợc mối quan hệ hợp tác lâu dài
cùng có lợi, đơn vị BTT cần thực hiện tốt các yêu cầu nhƣ: phải lƣờng trƣớc tất cả những
rủi ro có thể xảy ra trong quá trình làm ăn với khách hàng; phải quyết định xem liệu đơn
vị BTT có thể quản lý những khoản rủi ro này một cách an toàn và hiệu quả không...
a) Quá trình lựa chọn khách hàng gồm các bước:
Khảo sát yêu cầu của khách hàng: bằng cách gọi điện thoại hoặc yêu cầu
khách hàng điền vào các phiếu cung cấp thông tin.
Tìm hiểu hoạt động kinh doanh: Bƣớc này giúp chúng ta nhận biết các nhu
cầu của ngƣời bán để bán đƣợc sản phẩm và kiểm tra xem đề nghị cung cấp dịch
vụ BTT của khách hàng có phù hợp với các quy định của đơn vị hay không.
Khảo sát khách hàng: Việc này phải đƣợc một bộ phận chuyên trách thực
hiện với mục đích là kiểm tra lại những thông tin đã thu thập đƣợc trƣớc đó có
nay đủ và chính xác hay không và bổ sung thêm chi tiết về hoạt động kinh doanh
của khách hàng.
Ra quyết định lựa chọn: Căn cứ vào giá trị của các khoản phải thu cùng với
những thông tin thu thập và kiểm tra chúng qua hai bƣớc trên, chuyên viên tín
dụng hoặc hội đồng tín dụng sẽ ra quyết định chấp nhận hay từ chối cung cấp dịch
vụ BTT. Nếu chấp nhận thì hội đồng tín dụng sẽ ấn định chính xác các điều khoản
và điều kiện hợp đồng BTT. Sau đó quyết định này sẽ đƣợc chuyển đến phòng
nghiệp vụ để gửi cho khách hàng.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
41
Ký hợp đồng BTT: Trong đó có ấn định ngày thực hiện BTT.
b) Các tiêu chí lựa chọn khách hàng
Tiêu chí 1: Khoản phải thu thỏa mãn các yếu tố sau:
- Có thể chuyển nhƣợng vô điều kiện;
- Có thể thu hồi đƣợc từ ngƣời mua có uy tín bằng các phƣơng thức thức thu
nợ thông thƣờng;
- Nếu ngƣời bán bị phá sản, vẫn có thể thu hồi đƣợc số tiền đã tài trợ từ các
khoản phải thu.
Tiêu chí 2: Khả năng phát triển và và uy tín của bên bán.
Để đánh giá một công ty cần xem xét những yếu tố chính:
- Bản thân công ty: loại hình kinh doanh, thời gian hoạt động, cổ đông, cam
kết của cổ đông về việc sử dụng và mở rộng khoản mục vốn…
- Năng lực quản lý: mô hình quản lý của doanh nghiệp? Quyền quản lý tập
trung vào một ngƣời hay một nhóm ngƣời? Kinh nghiệm và kỹ năng quản lý? Mức
độ liêm khiết?
- Tình hình tài chính: Công ty kinh doanh có lãi không? Khả năng thanh toán
nợ ngắn hạn? Công ty có chịu áp lực từ các chủ nợ ?
- Sản phẩm mà họ cung cấp có uy tín trên thƣơng trƣờng không? Có tiềm
năng phát triển không?
- Lý do cần đƣợc tài trợ: để phát triển kinh doanh hay để bù lỗ, để đầu tƣ
kinh doanh vào tài sản cố định hay vốn luân chuyển. Việc sử dụng vốn sai mục
đích sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bên bán và cả cho đơn vị BTT.
Tiêu chí 3: Dịch vụ thỏa đáng với nhu cầu của khách hàng
Khách hàng chỉ cảm thấy hài lòng nếu chúng ta cung cấp dịch vụ mà anh ta cần với
một mức giá mà anh ta cảm thấy hợp lý. Để làm đƣợc điều này, đơn vị BTT phải :
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
42
o Đƣa ra một hạn mức BTT phù hợp;
o Đƣa ra mức tài trợ phù hợp;
o Tính đến các khoản khấu trừ;
o Xem xét khả năng thanh toàn của bên mua hàng;
o Phải so sánh dịch BTT trong mối tƣơng quan với dịch vụ cho vay của ngân hàng;
o Phải so sánh dịch vụ của đơn vị mình trong mối tƣơng quan với dịch vụ của các
đơn vị BTT khác.
Tiêu chí 4: Hiệu quả lợi nhuận thu được
Hầu hết các đơn vị BTT chỉ chấp nhận BTT cho những doanh nghiệp đạt một doanh
số nhất định, đồng thời họ cũng tiến hành kiểm tra số lƣợng ngƣời mua và số lƣợng hóa
đơn bán hàng liên quan đến doanh số đó. Ngay khi doanh số của doanh nghiệp là cao
nhƣng đơn vị BTT cũng không có lãi nếu số lƣợng khách hàng và chứng từ mua bán quá
nhiều khiến đơn vị BTT phải tốn nhiều công sức, chi phí xử lý chứng từ và quản lý khách
hàng, đơn vị BTT sẽ khó có lãi trừ khi họ thu phí cao. Mà việc thu phí cao thƣờng không
đƣợc ngƣời bán chấp nhận.
Ngoài những tiêu chí xét duyệt chung cho các loại BTT, đối với các sản phẩm đặc
biệt, đơn vị BTT cần lƣu ý và điều chỉnh cho phù hợp. Với BTT xuất khẩu, đơn vị BTT
phải xem xét đến vấn đề ngƣời bán tiềm năng có xuất hàng sang quốc gia tại đó tổ chức
BTT là thành viên của FCI hay không. Nếu không đơn vị BTT khó mà có hạn mức tín
dụng dành cho bên mua trừ khi đơn vị BTT hoặc ngƣời bán của chúng ta có tiềm lực tài
chính rất mạnh.
Mặt khác phải chắc rằng việc thanh toán phải đƣợc thực hiện theo hình thức ghi sổ
và điều khoản đó không trái với quy định của nƣớc nhập khẩu.
Mặc dù quá trình và tiêu chí lựa chọn khách hàng đƣợc xem xét khá kỹ lƣỡng tuy
nhiên mối quan hệ giữa đơn vị BTT và ngƣời bán luôn có những thay đổi ảnh hƣởng tiêu
cực đến mối quan hệ giữa hai bên và đây là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
43
đối với hoạt động BTT. Do đó, đơn vị BTT cần phải quản lý giám sát những thay đổi của
khách hàng một cách chặt chẽ.
3.2.4. Xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát bên mua
a) Kiểm soát rủi ro từ phía người mua và vấn đề tài trợ.
Chất lƣợng và tính đa dạng của ngƣời mua là một trong những vấn đề mà đơn vị
BTT cần phải lƣu ý trong vấn đề đánh giá khoản phải thu:
- Tùy vào chất lƣợng của ngƣời mua mà đơn vị BTT quyết định có tài trợ hay không
và nếu có thì sẽ cấp một hạn mức phù hợp.
- Tính đa dạng của ngƣời mua sẽ hạn chế đƣợc rủi ro cho đơn vị BTT trong trƣờng
hợp có xảy ra vỡ nợ. Do vậy, nếu các khoản phải thu tập trung vào một số ít ngƣời mua
thì một cách để quản lý rủi ro hữu hiệu là: quy định nếu tổng khoản phải thu của bất kỳ
ngƣời mua nào mà vƣợt quá một mức nào tổng giá trị khoản phải thu của ngƣời bán thì
đơn vị BTT sẽ không tài trợ cho phần vƣợt quá đó. Tuy nhiên, điều này sẽ giảm khả
năng cạnh tranh của đơn vị BTT nên việc chấp nhận tính tập trung vào một số ít ngƣời
mua cần phải thỏa mãn những yếu tố sau:
+) Sản phẩm của ngƣời bán là sản phẩm có thể BTT.
+) Ngƣời mua đáng tin cậy, có thể cấp tín dụng đƣợc và có mối quan hệ làm ăn
tốt, lâu dài với ngƣời bán.
+) Hồ sơ về các khoản phải thu phải đầy đủ.
+) Ngƣời bán phải ý thức đƣợc lợi ích của việc xây dựng quan hệ với nhiều ngƣời
mua, có uy tín và luôn tích cực để đạt đƣợc mục tiêu đó.
+) Đơn vị BTT phải tìm ra đƣợc giải pháp thu hồi đƣợc khoản tiền đã tài trợ trong
trƣờng hợp ngƣời bán kinh doanh lỗ.
b) Đánh giá độ tin cậy của người mua.
Để thực hiện điều này, đơn vị BTT cần thu thập thông tin từ ngƣời mua, những
thông tin này bao gồm:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
44
+) Loại hình doanh nghiệp.
+) Các thông tin phi kế toán.
+) Thông tin về tƣ cách ngƣời mua.
+) Thông tin từ các tổ chức đánh giá tín dụng.
+) Thông tin từ ngân hàng.
+) Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng.
+) Thông tin từ các đối tác kinh doanh và các thông tin phi kế toán khác.
+) Các thông tin kế toán bao gồm:
- Báo cáo hoạt động kinh doanh.
- Báo cáo kiểm toán thƣờng niên.
Những số liệu của báo này chỉ nêu lên tình hình tài chính của doanh nghiệp tại một
thời điểm nhất định trong năm, thƣờng là cuối năm và sau đó không đƣợc cập nhật nên
chắc chắn có nhiều vấn đề phát sinh vì vậy không nên chỉ dựa vào bảng phân tích tình
hình tài chính để ra quyết định.
c) Quản lý rủi ro từ người mua.
Khi quyết định thực hiện dịch vụ BTT cho một khách hàng, đơn vị BTT luôn hy
vọng rằng họ đã đƣa ra một quyết định đúng đắn dựa trên những thông tin thu thập ngay
tại thời điểm đó.
Tuy nhiên tình hình tài chính của ngƣời mua luôn thay đổi. Do vậy đơn vị BTT phải
luôn kiểm soát quá trình kinh doanh giao dịch của ngƣời mua để có chiến lƣợc đòi tiền
thật hiệu quả mà vẫn duy trì đƣợc mối quan hệ tốt đối với ngƣời mua. Muốn vậy, bộ phận
thu nợ cần phải:
- Có kỹ năng chuẩn bị thật tốt đồng thời chuẩn bị các công cụ đòi tiền thật hiệu quả.
- Cố gắng thuyết phục ngƣời mua sử dụng phƣơng thức thanh toán hiệu quả nhất.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
45
- Có khả năng phân biệt đƣợc những nguyên nhân của việc không thanh toán vì
không phải lúc nào nguyên nhân thực sự cũng chính là những gì chúng ta thấy ban đầu.
Từ đó đƣa ra các biện pháp xử lý kịp thời
3.2.5. Quá trình quản lý khách hàng
Để thực hiện tốt công tác quản lý khách hàng, đơn vị BTT cần phải:
- Đánh giá định kỳ hoạt động kinh doanh của khách hàng.
- Thƣờng xuyên liên hệ với bên bán nhằm củng cố mối quan hệ và hỗ trợ kịp thời
nếu bên bán gặp khó khăn hoặc có kiến nghị về sản phẩm. Đồng thời nhân cơ hội này
giới thiệu và bán thêm sản phẩm cho khách hàng (bán chéo sản phẩm).
- Sau khi liên hệ với khách hàng, đơn vị BTT cần phải lập một báo cáo hoàn chỉnh
và báo cáo này đƣợc sử dụng cho những lần tiếp theo. Tuy nhiên những thông tin này cần
phải đƣợc cập nhật một cách thƣờng xuyên.
- Tƣ vấn cho bên bán.
- Đơn vị BTT nhanh chóng tiến hành đánh giá phát sinh trong những tình huống
ngƣời bán không hài lòng với sản phẩm và họ có thể chấm dứt hợp đồng BTT hay tài
khoản có vấn đề và có thể gây rủi ro cho đơn vị BTT.
- Để tránh trƣờng hợp khách hàng lập hóa đơn khống để ứng trƣớc tiền từ đơn vị
BTT, do đó cần phải phải nâng cao tinh thần cảnh giác cũng nhƣ kinh nghiệm nghiệp vụ
để phát hiện những trƣờng hợp gian lận có thể xảy ra.
3.2.6. Quản lý các khoản phải thu
Quản lý các khoản phải thu tốt sẽ phát hiện sớm những dấu hiệu xấu liên quan đến
khoản phải thu, do đó công việc này cần phải đƣợc tiến hành một cách nhanh chóng, kịp
thời, bao gồm các nội dung sau đây:
- Theo dõi phƣơng thức thanh toán.
- Theo dõi những thay đổi danh sách khách hàng.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
46
- Theo dõi và quản lý mặt hàng kinh doanh.
- Theo dõi và quản lý các khoản giảm trừ.
- Xác minh các khoản phải thu.
3.2.7. Hoàn thiện công tác chăm sóc khách hàng
Sản phẩm BTT là một sản phẩm tƣơng đối mới với cả khách hàng. Do đó, trƣớc tiên
cần thiết phải thành lập bộ phận tƣ vấn khách hàng về sản phẩm BTT để có thể tƣ vấn và
giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng. Làm nhƣ vậy sẽ tránh đƣợc lãng phí lớn về thời
gian và chi phí khách hàng và đơn vị BTT, tránh để lại ấn tƣợng không tốt cho khách
hàng về đơn vị BTT. Bƣớc tiếp theo đó, có thể kịp thời nắm bắt tâm lý, nhu cầu của từng
nhóm đối tƣợng khách hàng, thiết lập những mối quan hệ đối tác với các tổ chức tín dụng
khác, từ đó đồng thời cũng nâng cao khả năng cạnh tranh cho chính đơn vị thực hiện
BTT.
Thực hiện các chƣơng trình khuyến mãi, tổ chức hội nghị khách hàng để quảng bá,
marketing rộng rãi hơn về BTT, từ đó có thể tiếp nhận những ý kiến phản hồi, góp ý trực
tiếp từ khách hàng về dịch vụ BTT, tiềm năng cho việc mở rộng mạng lƣới hoạt động.
3.2.8. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh về dịch vụ BTT
Vấn đề con ngƣời luôn là yếu tố cốt lõi trong hoạt động của bất kỳ một doanh
nghiệp nào. Nghiệp vụ BTT là một nghiệp khá mới mẻ đối với các NHTM tại Việt Nam.
Do đó,việc đào tạo và bồi dƣỡng cán bộ và nhân viên thực hiện nghiệp vụ BTT cần có sự
quan tâm tích cực, đào tạo chuẩn mực, có chất lƣợng, cung cấp đủ kiến thức kinh tế thị
trƣờng và hoạt động ngân hàng hiện đại, đủ nguồn nhân lực bổ sung và thay thế theo yêu
cầu mới. Đặc biệt, ngoại ngữ là kiến thức cần thành thạo đối với ngƣời làm lĩnh vực tài
trợ ngoại thƣơng.
Trong tƣơng lai cần liên kết với các trƣờng đại học, cao đẳng khối kinh tế đƣa
chƣơng trình đào tạo kiến thức về tài trợ thƣơng mại nói chung và bao thanh toán nói
riêng cho sinh viên. Đổi mới, hoàn thiện nội dung các loại giáo trình hiện có và xây dựng
thêm các loại giáo trình với các chƣơng trình mới phù hợp với yêu cầu thực tế công việc
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
47
tại các ngân hàng Việt nam hiện nay, nâng cao số lƣợng và chất lƣợng đội ngũ giảng dạy
nhằm phục vụ công tác đào tạo sinh viên bởi chính những sinh viên sau khi rời ghế nhà
trƣờng trong tƣơng lai sẽ là ngƣời chủ doanh nghiệp, những ngƣời trực tiếp làm việc
trong ngân hàng. Việc doanh nghiệp có nhiệt tình sử dụng dịch vụ bao thanh toán hay
không chính là từ bây giờ các sinh viên phải hiểu đƣợc giá trị đích thực của việc sử dụng
bao thanh toán.
Cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo về chuyên môn hoặc tổ chức các chuyên đề
trong đó mời các giảng viên kinh tế trong và ngoài nƣớc về giảng dạy. Hợp đồng với các
ngân hàng đại lý để nhân viên có thể tập sự, học hỏi kinh nghiệm. Gởi đi đào tạo ở nƣớc
ngoài đối với một số cán bộ nhân viên có triển vọng. Phát động phong trào thi đua trong
nhân viên nhằm khuyến khích tinh thần học hỏi và làm việc của nhân viên. Có thể sử
dụng hình thức cộng tác viên để thu hút chất xám trong xã hội.
Có chế độ tiền lƣơng đúng với yêu cầu công việc nhằm giữ đƣợc những cán bộ
nghiệp vụ có kinh nghiệm, năng lực cao.
Những ngƣời đƣợc tuyển chọn phải là những ngƣời có tâm huyết và có đạo đức
nghề nghiệp.
Định kỳ tổ chức sát hạch, thi nghiệp vụ trong thao tác BTT, về dịch vụ đi kèm bao
thanh toán giữa các cán bộ nhân viên.
Đào tạo đội ngũ cán bộ hiện tại thƣờng xuyên theo các hình thức khác nhau đáp ứng
yêu cầu nghiệp vụ mới. Đồng thời cũng cần khuyến khích cán bộ ngân hàng tự học tự đi
đào tạo lại theo các kênh khác nhau để nâng cao trình độ chuyên môn.
Xây dựng chế độ phân cấp thẩm quyền phán quyết cho rút ngắn đƣợc thời gian xử
lý nghiệp vụ, cung cấp thông tin nhanh chóng cho khách hàng mà vẫn đảm bảo an toàn
cho hệ thống.
3.2.9. Cải thiện và nâng cao mức độ hiện đại hóa công nghệ trong đơn vị BTT
Công nghệ là yếu tố quan trọng sau yếu tố con ngƣời. Hệ thống đơn vị BTT có nhân
viên giỏi nhƣng không có hệ thống các sản phẩm công nghệ ƣu việt thì cũng không thể
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
48
làm nên một hệ thống BTT có chất lƣợng cao cung cấp cho khách hàng. Để phát triển
BTT, đơn vị BTT cần mạnh dạn đầu tƣ hệ thống máy móc trang thiết bị hiện đại, đƣờng
truyền tốc độ cao và có khả năng tối mật tốt, dung lƣợng lớn… Bên cạnh đó cần tuyển
dụng và bố trí đội ngũ quản trị mạng, quản trị hệ thống máy móc để đảm bảo toàn bộ cơ
sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động BTT.
Tổ chức thực hiện hoạt động bao thanh toán nên thực hiện các dự án tổng thể kết
hợp mời chuyên gia tƣ vấn để sao cho việc đầu tƣ đƣợc đồng bộ các chủng loại trang
thiết bị hiện đại khi lắp đặt trong toàn bộ hệ thống đơn vị thực hiện.
3.2.10. Mở rộng các mối quan hệ và xây dựng hệ thống đại lý
So với các ngân hàng nƣớc ngoài hoạt động tại Việt Nam thì các ngân hàng trong
nƣớc bất lợi hơn về mạng lƣới hoạt động vì đa số các ngân hàng này đều có mạng lƣới
trên khắp thế giới. Khi thực hiện BTT cho một khách hàng ở quốc gia nào thì chi nhánh ở
quốc gia đó sẽ thu thập thông tin một cách dễ dàng, tiến hành đánh giá khách hàng và
thẩm định khả năng thanh toán vì vậy giảm đƣợc rủi ro cho đơn vị BTT.
Việc mở chi nhánh ở nƣớc ngoài là một vấn đề khó thực hiện đối với các ngân hàng
Việt Nam bởi sự hạn chế khả năng tài chính cũng nhƣ phải có sự cân nhắc giữa chi phí bỏ
ra và hiệu quả mang lại. Hơn nữa, các ngân hàng trong nƣớc cần phải thắng trên sân nhà
thì mới có thể thắng trên đấu trƣờng quốc tế.
Do đó, để hoạt động BTT đạt hiệu quả và phát triển, các ngân hàng rất cần thiết
phải mở rộng quan hệ đại lý vì các lợi ích sau:
- Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp dịch vụ và tiện ích về lĩnh vực thanh toán, thông tin
liên lạc.
- Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp thông tin về khách hàng, thị trƣờng xuất khẩu của
Việt Nam nơi họ có trụ sở hoặc chi nhánh.
- Mạng lƣới Ngân hàng đại lý sẽ giúp ta giảm chi phí giao dịch, rút ngắn thời gian
thực hiện dịch và do đó thu hút đƣợc khách hàng quan hệ tài trợ ngoại thƣơng với ngân
hàng.
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM CỦA VIỆT NAM
49
- Ngân hàng đại lý sẽ có những hỗ trợ về kinh nghiệm, đào tạo về nhân sự.
3.3. Các kiến nghị
- Thứ nhất, thành lập hiệp hội bao thanh toán Việt Nam trong thời gian sớm nhất
nhằm hƣớng dẫn thực hiện cũng nhƣ bảo vệ các đơn vị BTT. Bên cạnh đó tạo sự liên kết
giữa các đơn vị BTT, trên cơ sở đó tạo nên các liên minh giữa các đơn vị BTT để tiến
hành thực hiện đồng BTT nếu một đơn vị BTT không thể thực hiện.
- Thứ hai, xây dựng website về hoạt động BTT nhằm cung cấp thông tin về hoạt
động BTT. Giúp các doanh nghiệp hiểu sâu rộng hơn về nghiệp vụ BTT cũng nhƣ những
sinh viên ngành ngân hàng tƣơng lai có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nvnhtm_nhom_9_chdem1_k22__0527.pdf