PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do hình thành đề tài 
Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những 
hịu các áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm 
ên quan đến hoạt động ngân hang, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc phải 
ối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện nay hệ thống 
hân hang Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơ từ các tổ chức tội phạm quốc tế 
ử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền của các hoạt động bất hợp pháp. 
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về 
phòng, chống rửa tiền và Nghị định này tập trung chủ yếu trong lĩnh vực ngân hang. 
Điều này thể hiện quyết tâm chống rửa tiền của Việt Nam trong bối cảnh hệ thống 
thanh tra, giám sát ngân hang còn yếu, tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức 
độ sử dụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn. 
Tuy nhiên, với những hạn chế của khung pháp lý cho hoạt động phòng, 
chống rửa tiền cùng những thách thức cho ngành ngân hang Việt Nam trước thềm 
hội nhập đòi hỏi Nhà nước và ngành ngân hang phải nhanh chóng có giải pháp để 
đương đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện chống rửa tiền có hiệu quả cao nhất. 
Đây chính là lý do để hình thành Luận văn này với nội dung nghiên cứu tập trung 
vào “Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam” 
xoay quanh chủ yếu ba vấn đề chính đó là: hoàn thiện khung pháp lý phòng, chống 
rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho 
hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Trên cơ sở thực trạng hoạt động rửa tiền trên thế giới nói chung và tại Việt 
Nam nói riêng cùng với những nguy cơ rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam 
khi hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn tập trung đưa ra các giải pháp phòng, chống 
rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Với mục tiêu chính là đưa ra các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ 
thống ngân hang Việt Nam, đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là hoạt động rửa tiền, hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam và phạm vi nghiên cứu được 
tập trung vào hệ thống ngân hang Việt Nam. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Luận văn đã kết hợp phương pháp phân tích lý thuyết các văn bản, tài liệu và 
sử dụng phương pháp thống kê số liệu có lien quan đến hoạt động rửa tiền dể tiến 
hành phân tích những nguy cơ dẫn đến hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hang 
Việt Nam trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, Luận văn tập trung đưa ra các giải 
pháp để phòng chóng rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu 
Các giải pháp được đưa ra trong Luận văn tập trung vào ba mảng chính là: 
hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích 
hợp để hạn chế nạn rửa tiền,và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho cuộc chiến chống 
rưa3 tiền. Các giải pháp này được phân loại phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của 
các cấp, ngành, đó là nhóm giải pháp về phía Nhà nước, về phía ngân hang Nhà 
nước và về phía các ngân hang thương mại. 
Nhóm giải pháp về phía Nhà nước mang tính chất dài hạn nhằm tạo lập một 
môi trường pháp lý hoàn chỉnh và một môi trường kinh tế thích hợp. 
Nhóm giải pháp về phía Ngân hang Nhà nước và các ngân hang thương mặi 
được sử dụng trong ngắn hạn như những công cụ tác nghiệp và có thể được vận 
dụng ngay. Tuy nhiên việc xem xét và lựa chọn giải pháp nào còn tuỳ thuộc vào 
tình hình thực tế và đặc điểm riêng có của từng ngân hang. 
6. Kết cấu của luận văn 
Nội dung của luận văn gồm ba phần: 
Phần 1: Phần mở đầu giới thiệu đề tài nghiên cứu và trình bày sơ lược về nội 
dung nghiên cứu. 
Phần 2: Nội dung nghiên cứu của đề tài,bao gồm ba chương: 
- Chương 1: Khái quát về hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền 
- Chương 2: Hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền tại Việt Nam 
- Chương 3: Giải pháp phòng,chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt 
Nam 
Phần 3:Phần kết luận chung qua quá trình nghiên cứu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 76 trang
76 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2789 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 dàng bị tấn công bởi nạn rửa tiền và tài trợ cho khủng bố bởi những người 
thực hiện các giao dịch này dễ dàng ẩn danh. 
 50 
 Các NHTM Việt Nam hiện nay đã và đang chuyển đổi dần cách thức giao 
dịch của một ngân hàng truyền thống sang ngân hàng điện tử. Đây là xu thế tất yếu 
trong quá trình phát triển thành một ngân hàng hiện đại và như vậy các NHTM Việt 
Nam cũng không tránh khỏi nạn rửa tiền điện tử. 
 Rửa tiền theo các cung cách truyền thống đã là một vấn đề nghiêm trọng, các 
công nghệ tiền điện tử mới chắc chắn sẽ là một động lực thúc đẩy nạn rửa tiền ngày 
càng bành trướng trên bình diện toàn thế giới, cũng như sẽ làm phức tạp hóa công 
việc phòng, chống nó. 
Kết luận chương 2 
 Nội dung chương 2 đã phản ánh thực trạng hoạt động rửa tiền tại Việt Nam 
trong các năm qua là vô cùng phức tạp và khó kiểm soát. Vấn nạn này đang phát 
triển ngày càng nhanh với mức độ tinh vi ngày càng cao. Việt Nam đang trở thành 
mục tiêu của bọn tội phạm rửa tiền do trình độ quản lý và kiểm soát còn yếu kém. 
Mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn khiến 
cho việc kiểm soát các giao dịch, thanh toán trở nên khó khăn. 
 Những hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa mang lại 
hiệu quả thực sự do khung pháp lý về vấn đề này chưa hoàn chỉnh. Nghị định 74 về 
phòng, chống rửa tiền chỉ mới tập trung trong lĩnh vực ngân hàng trong khi đó nạn 
rửa tiền có thể được thực hiện ở mọi lĩnh vực trong nền kinh tế. Tuy nhiên, sự ra đời 
của Nghị định 74 đã thể hiện sự quyết tâm của Nhà nước trước vấn nạn rửa tiền. 
Trong tương lai chắc chắn Việt Nam sẽ hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống 
rửa tiền cũng như chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho cuộc chiến chống rửa tiền. 
 Đứng trước yêu cầu hội nhập quốc tế, Việt Nam đang từng bước thực hiện “mở 
cửa” trên một số lĩnh vực và đặc biệt ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam 
kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Và như vậy, những nguy cơ 
dẫn đến hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là rất lớn. Những giải pháp về 
phòng và chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng được trình bày trong chương 3 sẽ 
góp phần kiểm soát được vấn nạn trên. 
 51 
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA 
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM 
3.1. Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng của hệ thống ngân hàng Việt 
Nam 
 Nền kinh tế Việt nam đã và đang thực sự trở thành một nền kinh tế thị trường và 
hội nhập quốc tế, vấn đề phát triển dịch vụ ngân hàng là một tất yếu khách quan và 
chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng chính là bộ phận chiến lược phát triển trọng 
tâm trong chiến lược phát triển tổng thể của toàn ngành. 
 Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, ngành ngân hàng Việt Nam đã xây dựng 
Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 
và đã được Thủ tướng phê chuẩn theo Quyết định số 112/2006/QĐTTg ngày 
24/05/2006. Định hướng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng như sau: 
 Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định hướng theo 
nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch 
vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời tiếp cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại 
và dịch vụ tài chính, ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ cao. Nâng cao năng 
lực cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng của các TCTD Việt Nam theo nguyên tắc thị 
trường, minh bạch, hạn chế bao cấp và chống độc quyền cung cấp dịch vụ ngân 
hàng để từng bước phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng thông thoáng, cạnh tranh 
lành mạnh, an toàn và hiệu quả. Không hạn chế quyền tiếp cận của các tổ chức, cá 
nhân đến thị trường dịch vụ ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá 
nhân có nhu cầu và đáp ứng đủ các yêu cầu về năng lực, thủ tục, điều kiện giao dịch 
được tiếp cận các dịch vụ ngân hàng. Từng bước tự do hóa gia nhập thị trường và 
khuyến khích các TCTD cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ, uy tín, 
thương hiệu thay vì dựa chủ yếu vào giá cả dịch vụ và mở rộng mạng lưới. Đến năm 
2010, hệ thống ngân hàng Việt Nam phấn đấu phát triển được hệ thống dịch vụ 
ngân hàng ngang tầm với các nước trong khu vực ASEAN về chủng loại, chất 
lượng và có khả năng cạnh tranh quốc tế ở một số dịch vụ. 
 Một số chỉ tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010: 
 52 
 - Tăng trưởng huy động vốn bình quân: 18% - 20%/năm. 
 - Tăng trưởng tín dụng bình quân: 18% - 20%/năm. 
 - Tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động: 33% - 
35%/năm. 
 - Tăng trưởng doanh số thanh toán qua ngân hàng bình quân: 25% - 30%/năm. 
 - Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng: 40% - 42%. 
 - Tỷ trọng nợ xấu so tổng dư nợ tín dụng đến năm 2010 (chuẩn quốc tế): 5% - 
7%. 
 - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đến năm 2010: 8%. 
 Và lộ trình phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010 như sau: 
 - Thẻ thanh toán, séc cá nhân và công cụ thanh toán không dùng tiền mặt khác: 
hoàn thiện và triển khai rộng rãi từ năm 2006. 
 - Dịch vụ ngân hàng điện tử: triển khai rộng rãi từ năm 2007. 
 - Sản phẩm phái sinh tiền tệ, lãi suất và tỷ giá: triển khai rộng rãi từ năm 2007. 
 - Quản lý tài sản, tiền mặt: triển khai rộng rãi từ năm 2008. 
 - Dịch vụ bảo hiểm rủi ro hàng hoá (kim loại, dầu lửa,…): triển khai rộng rãi từ 
năm 2008. 
 - Dịch vụ bảo hiểm: triển khai rộng rãi từ năm 2007. 
 - Dịch vụ chứng khoán trong nước: triển khai rộng rãi từ năm 2007. 
 - Đầu cơ chứng khoán quốc tế: triển khai rộng rãi từ năm 2008. 
 - Tư vấn tài chính: triển khai rộng rãi từ năm 2009. 
 - Phát hành các công cụ nợ: triển khai rộng rãi từ năm 2007. 
 - Dịch vụ ngân hàng hiện đại khác: phát triển dần từ năm 2008. 
 Với chiến lược phát triển dịch vụ như trên ngành ngân hàng Việt Nam đã dần 
hội nhập với xu hướng phát triển trên thế giới. Điều này đưa đến nhiều cơ hội 
nhưng cũng lắm thách thức cho ngành ngân hàng Việt Nam, một trong những thách 
thức đó chính là vấn nạn rửa tiền. 
 Dù cho các hoạt động rửa tiền có biến đổi tinh vi dưới hình thức nào chăng nữa 
thì ngân hàng vẫn là nơi ưu tiên được chọn để tiến hành rửa tiền, không những vì 
 53 
 Do đó, để chống lại nạn rửa tiền một cách cơ bản và hiệu quả, trước mắt, ta cần 
phải có những giải pháp thiết thực để chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng và về 
lâu dài hơn nữa, đó là những giải pháp phòng ngừa nhằm ngăn chặn ngay từ sự phát 
sinh các nguồn tiền “bẩn”, thiết lập hệ thống kiểm soát chặt chẽ nhằm sớm phát 
hiện sự thâm nhập của các khoản tiền bất hợp pháp vào hệ thống tài chính, ngân 
hàng. 
3.2. Nhóm giải pháp phòng, chống rửa tiền về phía Nhà nước 
 3.1.1. Ban hành Luật phòng, chống rửa tiền 
 Việt Nam cần sớm ban hành Luật phòng, chống rửa tiền để thay thế cho Nghị 
định 74 bởi tính pháp lý của luật cao hơn và điều này cũng phù hợp với các khuyến 
nghị của FATF về chống rửa tiền. 
 Nghị định chống rửa tiền ở Việt Nam trước mắt cũng chỉ mới thực hiện chủ yếu 
trong lĩnh vực ngân hàng và hiện nay vẫn chưa có cơ chế phối hợp thực hiện như 
thế nào giữa các ngành ngân hàng, tài chính, chứng khoán, tòa án, công an và các 
nhà hoạch định chính sách để chống lại tội phạm rửa tiền. 
 Hoạt động phòng, chống rửa tiền cần sự phối hợp đồng bộ giữa tất cả các cơ 
quan, tổ chức trong Chính phủ và toàn cộng đồng xã hội. NHNN là cơ quan đầu 
mối về chính sách và chiến lược chống rửa tiền, đàm phán và thực hiện các điều 
ước quốc tế nhằm trao đổi thông tin; tiếp nhận và quảng bá thông tin, kiểm tra sự 
tuân thủ tại chỗ và từ xa. Bộ Công an là cơ quan đầu mối về ngăn chặn rửa tiền và 
các vấn đề tội phạm; điều tra về hoạt động rửa tiền và thông báo kết quả, cung cấp 
thông tin cho các cơ quan và công chúng. Các Bộ, ngành ban hành hướng dẫn cho 
các tổ chức, phối hợp điều tra với các cơ quan, báo cáo với NHNN. Bộ Ngoại giao, 
 54 
 Để có thể làm được như trên, Chính phủ phải có chính sách rõ ràng, nhất quán 
về hoạt động phòng, chống rửa tiền; thiết lập một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các 
bộ, ngành, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn để đảm bảo guồng máy hoạt 
động suôn sẻ. 
 3.2.2. Ban hành và thực thi chính sách về thanh toán không dùng tiền mặt 
trong nền kinh tế 
 Trong đời sống kinh tế - xã hội của bất kỳ quốc gia nào, kể cả các nước phát 
triển, tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán không thể thiếu. Tuy nhiên, tùy theo 
mức độ phát triển về công nghệ, thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính mà nhu 
cầu và mức độ sử dụng tiền mặt trong thanh toán ở các nước có sự khác nhau. Tuy 
nhiên, xu hướng chung là thanh toán bằng tiền mặt sẽ ngày càng thu hẹp dần so với 
thanh toán không dùng tiền mặt. Ở Việt Nam, theo đánh giá các cơ quan chức năng, 
mức độ thanh toán bằng tiền mặt là rất phổ biến, tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương 
tiện thanh toán là khá cao so với nhiều nước trên thế giới. Đến cuối năm 2004, tỷ lệ 
tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế Việt Nam là 20,35%6. 
Tại một số quốc gia ở Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, tỷ lệ này hiện ở 
khoảng từ 11% - 17%. Tại các nước châu Âu, tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều, một số 
quốc gia phát triển như Thụy Điển, Na Uy… chỉ ở dưới mức 1%. 
 Trong những năm gần đây, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các 
NHTM đã được cải thiện đáng kể trên nhiều phương diện: số lượng dịch vụ mới 
phát triển nhanh; chất lượng dịch vụ được nâng lên về tốc độ xử lý, tính chính xác, 
tạo thuận lợi cho khách hàng; thu nhập từ dịch vụ thanh toán của các NHTM cũng 
không ngừng tăng lên và quan trọng hơn là tạo cơ hội cho phát triển các hoạt động 
khác như huy động vốn, mở rộng đầu tư tín dụng... Các phương tiện thanh toán 
không dùng tiền mặt khá phổ biến hiện nay, gồm: Internet Banking, E-banking, 
Home Banking, Phone Banking, MobileBanking, ATM, thẻ thanh toán, thẻ tín 
6 Báo cáo thường niên NHNN năm 2004. 
 55 
 Về liên doanh liên kết trong phát triển thẻ và thanh toán thẻ, hiện nay đã có 4 
liên minh thẻ ra đời gồm: liên minh thẻ của Vietcombank và 17 NHTM cổ phần, 
liên minh thẻ VNBC, công ty cổ phần chuyển mạch tài chính Việt Nam (BankNet) 
và liên minh thẻ NHTM cổ phần Sài Gòn thương tín – ANZ. Như vậy, việc đầu tư 
phát triển thẻ vẫn thiếu tính liên kết trong toàn hệ thống. Điều này dẫn đến các dịch 
vụ cung cấp cho người sử dụng chỉ giới hạn trong phạm vi từng ngân hàng hoặc 
một vài ngân hàng và như vậy, hiệu quả của việc hạn chế thanh toán tiền mặt không 
cao. 
 Do vậy, một mục tiêu rất lớn mà Chính phủ đang phấn đấu là phải nhanh chóng 
giảm mức độ thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này, 
NHNN đang phối hợp cùng các bộ, ngành chức năng liên quan tập trung nghiên 
cứu, triển khai các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy phát triển nhanh dịch vụ thanh 
toán không dùng tiền mặt trong xã hội. 
 Một số giải pháp cần thực hiện để giảm mức độ thanh toán bằng tiền mặt trong 
nền kinh tế như sau: 
 Thứ nhất, Chính phủ đã nên sớm ban hành Nghị định quy định về thanh toán 
bằng tiền mặt. Đây sẽ là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện thanh toán phi tiền mặt, 
trước mắt sẽ được thực hiện cho các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên về lâu dài, vấn đề 
 56 
 Thứ hai, đầu tư cho toàn hệ thống ngân hàng phát triển các phương tiện thanh 
toán không dùng tiền mặt. Nhà nước cần có chính sách cụ thể và có dự án đầu tư để 
liên kết các ngân hàng thống nhất phát triển các phương tiện thanh toán thì sẽ có kết 
quả tốt hơn việc hạn chế tiền mặt bằng mệnh lệnh hành chính. Giải pháp cho thị 
trường thẻ Việt Nam bằng việc kết nối toàn hệ thống các ngân hàng là giải pháp 
thực thi nhất. Trước hết cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho thị trường thẻ như tạo 
hành lang pháp lý toàn diện và đầy đủ, các quy định điều chỉnh hoạt động thẻ cần rõ 
ràng và đồng bộ. Mặt khác, cũng cần phát triển trung tâm chuyển mạch thẻ thống 
nhất có khả năng kết nối tất cả các liên minh thẻ hiện nay. 
 Việc kết nối toàn hệ thống ngân hàng về mảng dịch vụ thẻ sẽ mang lại nhiều lợi 
ích như: 
 Một là, tiết kiệm được chi phí cho các ngân hàng khi đầu tư mua sắm hệ 
thống ATM và POS (điểm chấp nhận thanh toán thẻ). 
 Hai là, hệ thống thanh toán thẻ thống nhất tạo sự tiện lợi tối đa cho khách 
hàng vì có thể sử dụng thẻ tại bất cứ nơi nào với mức phí thống nhất. 
 Ba là, có hệ thống thanh toán thẻ thống nhất mới giải quyết được yêu cầu cơ 
bản hiện nay là giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. Các NHTM sẽ khuyến khích 
các doanh nghiệp trả lương qua tài khoản và thẻ, có chính sách giảm phí cho các cá 
nhân sử dụng thẻ chi trả các phí dịch vụ trong gia đình. 
 Thứ ba, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công. Mục tiêu 
của Việt Nam là đến năm 2010, hầu hết các khoản chi tiêu từ ngân sách hay giao 
dịch thanh toán định kỳ công cộng được thực hiện qua tài khoản. Để thực hiện được 
mục tiêu này, Chính phủ nên xúc tiến nhanh các giải pháp sau: 
 57 
 Chính phủ nên thực hiện việc trả lương, thu nhập, phúc lợi,… qua tài khoản 
cho cán bộ công chức vì hiện nay 90% tiền lương được chi trả trong khu vực công 
là tiền mặt. 
 Các cơ quan nhà nước nên sử dụng thẻ mua hàng trong chi tiêu, một mô hình 
đã được áp dụng và thành công ở nước Anh. Năm 1997, Anh bắt đầu áp dụng thẻ 
mua hàng tại 6 cơ quan chính phủ và đến năm 2004 đã có tới 420 cơ quan với 
62.000 người sử dụng. Chính phủ Anh chi tiêu gần 1,2 tỷ bảng Anh qua thẻ mua 
hàng, giúp giảm thiểu các công việc giấy tờ, giảm các khoản tiền tiêu vặt, tăng 
cường khả năng kiểm soát chi tiêu. Trong năm 2004, chính phủ Anh tiết kiệm được 
gần 64,9 triệu bảng Anh, và 23 triệu tờ giấy (mỗi giao dịch tiết kiệm được 10 tờ 
giấy A4). Ngoài việc kiểm soát chi tiêu thì việc sử dụng thẻ như trên sẽ hạn chế 
được tham nhũng trong khu vực công. 
 3.2.3. Xây dựng hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng hiệu quả. 
 Quá trình toàn cầu hoá với sự kiện các rào chắn giữa các thị trường tài chính 
trên thế giới bị dỡ bỏ dần. Các luồng vốn quốc tế di chuyển nhanh và dễ dàng từ thị 
trường này, nước này sang nước khác, tới những nơi mà đem lại lợi nhuận cao nhất. 
Các định chế tài chính được tiếp cận thị trường dễ dàng hơn trong một môi trường 
cạnh tranh tự do hơn hay quá trình tự do hoá thị trường diễn ra ngày càng sâu sắc. 
Khu vực tài chính ngân hàng càng ngày càng trở nên được quốc tế hoá với mức độ 
liên kết sâu sắc hơn. Tại Việt Nam trong những năm vừa qua, hệ thống ngân hàng 
tài chính đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về lượng và chất. Những tập 
đoàn tài chính có quy mô lớn, hoạt động đa dạng và phức tạp hơn, bao gồm cả Ngân 
hàng - Chứng khoán – Bảo hiểm đã dần được hình thành. Các công cụ tài chính 
ngày càng đa dạng, phức tạp, độ mở cửa thị trường tài chính tăng lên trong xu 
hướng hội nhập quốc tế. Những xu hướng này làm cho hoạt động tài chính ngân 
hàng dễ bị tổn thương hơn, các định chế tài chính gặp phải rủi ro nhiều hơn, mức độ 
phức tạp hơn. Những vấn đề đó yêu cầu hệ thống thanh tra giám sát phải thay đổi 
một cách căn bản cả về cấu trúc tổ chức, cách thức hoạt động, chất và lượng. Việc 
xây dựng hệ thống thanh tra trực thuộc NHNN như hiện nay sẽ trực thuộc Chính 
 58 
 Hiện nay, hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng vẫn thuộc NHNN. Việc hoàn 
thiện hệ thống thanh tra giám sát này vẫn phải được thực hiện thường xuyên để theo 
kịp với sự phát triển của các NHTM. Một số giải pháp cho việc hoàn thiện hệ thống 
thanh tra giám sát ngân hàng như sau: 
 - Xây dựng hệ thống quy chế thanh tra, giám sát theo thông lệ quốc tế: đánh 
giá, xếp hạng các tổ chức tín dụng theo tiêu chuẩn CAMELS; hệ thống thanh tra, 
giám sát rủi ro trên cơ sở định tính kết hợp với thanh tra tuân thủ trên cơ sở định 
lượng; thiết lập hệ thống giám sát từ xa tập trung; 
 - Hoàn thiện các quy định về an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng 
cường phối hợp với Bảo hiểm tiền gửi và Trung tâm Thông tin tín dụng để đảm bảo 
an toàn hệ thống; 
 - Thiết lập mối quan hệ với thanh tra, giám sát ở các nước để bảo đảm hữu 
hiệu thanh tra giám sát các hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam 
và đoàn kết phối hợp phòng chống khủng hoảng tài chính. 
 - Xây dựng và hoàn thiện quy trình, quy chế thanh tra tại chỗ và sổ tay thanh 
tra viên. 
 - Về mặt lý thuyết là phải có sự cân bằng và tương xứng về quy mô, tốc độ 
phát triển kinh doanh với khả năng quản trị của các tổ chức tín dụng. Khi khả năng 
tự quản trị của tổ chức tín dụng được tăng cường thì cơ chế thanh tra, giám sát của 
Thanh tra Ngân hàng cũng sẽ đổi mới; có như vậy, việc đổi mới về tổ chức và hoạt 
động của Thanh tra Ngân hàng mới phù hợp, mới thúc đẩy các tổ chức tín dụng phát 
triển tốt hơn. Do vậy, Thanh tra Ngân hàng cần xác định khả năng tự quản trị của 
các tổ chức tín dụng chính là một cơ sở để đổi mới về tổ chức, hoạt động. 
 3.2.4. Thành lập Cơ quan phòng, chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ 
 Hiện nay, Việt Nam đã thành lập tổ chức phòng, chống rửa tiền, đó là “Trung 
tâm thông tin phòng chống rửa tiền” trực thuộc NHNN. Trung tâm này sẽ làm đầu 
 59 
 Với cơ chế quản lý hiện hành, các nhà hoạch định chính sách khi quyết định để 
Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền trực thuộc NHNN vì lẽ hiện nay chỉ có 
những chuyên gia trong ngành ngân hàng mới hiểu sâu sắc hoạt động giao dịch tiền 
tệ và vì thế chỉ có họ mới có đủ những khả năng chuyên môn nhất định để kiểm soát 
các nguồn tiền bẩn. 
 Các quốc gia trên thế giới có Luật chống rửa tiền đều thành lập một tổ chức có 
chức năng tương tự như chức năng của Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa 
tiền, với tên gọi là cơ quan tình báo tài chính. Cơ quan này trực thuộc Chính phủ, có 
vai trò thay mặt cho mỗi quốc gia trong việc trao đổi thông tin về các giao dịch tài 
chính hay tài sản khác có liên quan tới các cá nhân, tổ chức bị nghi là tội phạm rửa 
tiền. Về nguyên tắc như thế nó sẽ hoạt động khách quan, độc lập hơn. 
 Việc để cho một tổ chức chỉ mới dừng lại ở mức tên gọi “Trung tâm thông tin” 
và chỉ trực thuộc NHNN cho thấy các cơ quan chức năng vẫn còn khá nhạy cảm với 
các biện pháp trấn áp các hoạt động rửa tiền. Tuy nhiên, cùng với tốc độ mở cửa 
của nền kinh tế Việt Nam, hoạt động rửa tiền sẽ ngày càng phát triển, Trung tâm 
thông tin phòng, chống rửa tiền trực thuộc NHNN sẽ không thể kiểm soát hoạt động 
rửa tiền một cách hiệu quả. Thứ nhất, hoạt động rửa tiền không chỉ xảy ra trong lĩnh 
vực ngân hàng mà nó còn len lõi vào mọi ngóc ngách của nền kinh tế. Thứ hai, cơ 
quan phòng, chống rửa tiền phải trực thuộc Chính phủ để bảo đảm tính khách quan, 
độc lập hơn và phải là một cơ quan thực thi pháp luật chứ không mang tính chất 
hành chính như Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền như hiện nay. Thứ ba, 
trong quá trình hợp tác quốc tế Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền trực 
thuộc NHNN sẽ không thể là cơ quan đại diện cho quốc gia vì nó không ngang tầm 
với các cơ quan tình báo tài chính của các nước. 
 Như vậy, trong tương lai, Chính phủ cần nâng tầm Trung tâm thông tin phòng, 
chống rửa tiền thành cơ quan chuyên trách về hoạt động phòng, chống rửa tiền và 
 60 
 3.2.5. Nhanh chóng trở thành thành viên chính thức của FATF 
 Để có thể trở thành thành viên chính thức của FATF, Việt Nam cần tuân thủ 
theo các khuyến nghị của FATF. Đây là một chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền 
và khủng bố, chúng chứa đựng trên 200 tiêu chuẩn quan trọng, 20 tiêu chuẩn phụ và 
35 tiêu chuẩn đính kèm. 
 Một số vấn đề chính yếu mang tính quyết định mà Việt Nam cần tuân thủ theo 
để trở thành thành viên của tổ chức FATF: 
 - Phải đưa ra được một chuỗi các hành vi phạm tội có liên quan đến hành vi 
rửa tiền, chí ít cũng phải bao quát toàn bộ 20 hành vi phạm pháp có liên quan đến 
hoạt động rửa tiền trong các đề xuất của FATF. Các hành vi phạm tội này được liệt 
kê hết sức rõ ràng với 20 tội danh. Ngoài những loại tội phạm có tổ chức thì những 
tội phạm “vĩ mô” khác được lưu ý đặc biệt, đó là những tội liên quan đến lạm dụng 
thân thế chính trị gia đình, tham nhũng, đút lót, giao dịch nội gián trên thị trường tài 
chính và loại tội phạm về môi trường như khai thác tài nguyên thiên nhiên trái 
phép. Hệ thống luật pháp phòng chống rửa tiền ở một số quốc gia đã chỉ rõ những 
hành vi phạm tội cụ thể như: pháp luật Malaysia liệt kê 18 tội danh, Thái Lan 24 tội 
danh, Úc 180 tội danh, ... 
 - Các định chế tài chính trước hết phải tuân thủ những chuẩn mực quốc tế về 
quản trị ngân hàng và các định chế tài chính như là thỏa ước Basel về vốn tự có để 
cho hoạt động của các ngân hàng trở nên lành mạnh hơn. Theo qui định Basle, vốn 
tự có của ngân hàng gồm 2 phần: vốn cấp 1 và vốn cấp 2, vốn tự có tối thiểu phải 
bằng 8% tổng tài sản có rủi ro, vốn cấp 2 tối đa bằng 100% vốn cấp 1. Vốn cấp 1 
gồm vốn góp, thặng dư vốn, các quĩ dự trữ, lợi nhuận để lại, phần vốn góp vào các 
công ty trực thuộc. Vốn cấp 2 gồm dự phòng bù đắp rủi ro, quĩ dự trữ đánh giá lại 
tài sản, giá trị tăng lên của các trái phiếu có khả năng chuyển đổi, các công cụ vốn 
lưỡng tính, nợ thức cấp. 
 61 
 Ngoài ra, các định chế tài chính còn phải xây dựng những quy trình quản lý 
rủi ro thích hợp nhằm lưu trữ và phát hiện ra những giao dịch đáng ngờ. 
 - Tăng cường hoạt động phối hợp ở tầm quốc tế nhằm thực hiện một chiến dịch 
quy mô toàn cầu chống lại nạn rửa tiền. 
 - Thực hiện việc kê khai tài sản của cán bộ công chức nhà nước ở cương vị lãnh 
đạo một cách triệt để và phối hợp với các định chế tài chính để thiết lập một hệ 
thống kiểm soát rủi ro nhằm xác định khách hàng có phải là những cán bộ công 
chức này hay không; thực hiện những biện pháp để xác định nguồn gốc và những 
tài sản của họ và tiến hành phân tích các hoạt động kinh doanh của các nhân vật 
này. 
 3.2.6. Thực hiện phòng, chống tham nhũng có hiệu quả 
 Một trong những nguồn gốc của tiển “bẩn” chính là tiền do tham những. Việc 
phòng và chống rửa tiền có thể đạt hiệu quả không nếu như ta không xem xét đến 
vấn đề phòng và chống tham nhũng. 
 Cho đến nay việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam chưa có kết quả rõ ràng 
vì nó liên quan đến nhiều người và ở nhiều vị trí cấp cao, dường như nó trở thành hệ 
thống. Việt Nam đã ban hành Luật phòng, chống tham nhũng vào năm 2005 và bắt 
đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/06/2006. Điều này đã thể hiện quyết tâm cao 
của Việt Nam trong cuộc chiến chống lại vấn nạn này. Tuy nhiên, chỉ mới dừng lại 
ở đó không thì chưa đủ vì phòng, chống tham nhũng dường như là một “cuộc nội 
chiến” kéo dài mãi mãi. Vấn đề đặt ra ở đây chính là hạn chế tham nhũng đến mức 
thấp nhất. 
 Giải pháp phòng, chống tham nhũng nhìn chung gồm hai nhóm chính là phòng 
ngừa và xử lý. 
 3.2.6.1. Nhóm giải pháp phòng ngừa tham nhũng 
 Thứ nhất, chú trọng công tác giáo dục con người. Đối với người dân, giáo 
dục cho mọi người, ngay từ nhỏ về đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, cách 
ứng xử văn minh, lịch thiệp. Tuyên truyền, giáo dục cho người dân nhận diện được 
các hành vi tham nhũng, có thái độ căm ghét và tinh thần kiên quyết đấu tranh 
 62 
 Thứ hai, thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của các 
cơ quan nhà nước như: 
 - Công khai thủ tục hành chính; 
 - Công khai các trường hợp mua sắm tài sản công (kể cả các cuộc đấu thầu, 
tuyển dụng công chức, thuê mướn lao động...); 
 - Công khai ngân sách và thu chi tài chính ở tất cả các cơ quan nhà nước; 
 - Công khai các trường hợp khiếu nại, tố cáo và quá trình giải quyết các 
khiếu nại, tố cáo ấy... 
 Thứ ba, phòng ngừa sự xung đột giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Đây là 
việc đề ra và thực hiện các quy định nhằm giúp công chức tránh được tình trạng 
phải đối đầu với việc xung đột giữa lợi ích riêng và lợi ích chung; nói cách khác là, 
làm cho công chức không có cơ hội lợi dụng vị trí công tác của mình nhằm thu lợi 
riêng gây thiệt hại đến lợi ích chung. Một số biện pháp cụ thể như: 
 - Xây dựng và thực hiện quy chế tuyển dụng, đề bạt cán bộ, công chức công 
khai, dân chủ; 
 - Quy định sau khi từ chức hoặc nghỉ hưu một thời gian nhất định, công chức 
không được thực hiện các hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực công tác trước đây 
của mình; 
 - Quy định những điều công chức không được làm. 
 63 
 Thứ tư, quy định về việc kê khai tài sản của công chức. Công chức phải kê 
khai tài sản, nhất là đối với số công chức có vai trò lãnh đạo, quản lý. Tài sản được 
kê khai bao gồm tài sản có được cả trước và sau khi công chức được tuyển dụng, đề 
bạt hoặc bầu cử. Việc kê khai cần được thực hiện hàng năm và công bố công khai 
kết quả kê khai tài sản của công chức cho người dân biết. 
 Thứ năm, áp dụng một chế độ đãi ngộ thoả đáng với đồng lương cao tới mức 
có thể để công chức yên tâm thực hiện công vụ mà không phải lo lắng hay bị câu 
thúc bởi những nhu cầu của cuộc sống dẫn đến việc tham nhũng. 
 3.2.6.2. Nhóm giải pháp xử lý tham nhũng 
 Thứ nhất, khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò to lớn của quần 
chúng nhân dân, các tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng trong 
việc phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng. 
 Thứ hai, thực hiện nghiêm Luật phòng, chống tham nhũng do Nhà nước ban 
hành. 
3.3. Nhóm giải pháp phòng, chống rửa tiền về phía NHNN 
 3.3.1. Ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định 74 về phòng, chống rửa tiền 
 Nghị định 74 về phòng, chống rửa tiền đã có hiệu lực thi hành từ ngày 
01/08/2005 nhưng cho đến nay NHNN vẫn chưa ban hành thông tư hướng dẫn cụ 
thể Nghị định này. Điều này dẫn đến việc thực hiện không thống nhất giữa các 
NHTM. Bên cạnh đó, Bộ Công an cũng có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện Nghị 
định nhưng vẫn chưa ban hành văn bản cụ thể. 
 Hoạt động phòng, chống rửa tiền cần sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và sự 
thống nhất thực hiện giữa các cấp nên việc ban hành thông tư hướng dẫn là việc cần 
thực hiện ngay. 
 3.3.2. Các giải pháp đối với vấn đề tự do hóa chu chuyển vốn quốc tế 
 Với sự ra đời của Pháp lệnh ngoại hối, thị trường ngoại hối sẽ được tự do hóa 
đáng kể và hầu như rất ít có sự hiện diện của Chính phủ thông qua các can thiệp có 
chọn lọc như trước đây. Những nới lỏng như thế là phù hợp với xu hướng hội nhập 
và không thể không thực hiện cho dù nó sẽ làm phát sinh các hoạt động rửa tiền. 
 64 
 Đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai, tất cả các giao dịch thanh toán và 
chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai giữa người cư trú và người không cư trú được 
tự do thực hiện. Trước mắt do không phải các NHTM nào ở nước ta cũng có hệ 
thống giám sát đáng tin cậy và các chuyên gia lành nghề phân tích các giao dịch 
đáng ngờ nên chỉ có những ngân hàng nào đủ chuẩn mới được phép thực hiện các 
giao dịch này. NHNN nên công bố công khai các ngân hàng đủ tiêu chuẩn để thực 
hiện giao dịch trên tài khoản vãng lai. 
 Đối với vấn đề các cá nhân và doanh nghiệp được phép tự do vay, cho vay, đầu 
tư và trả nợ nước ngoài, tuy đây là chủ trương được nhiều người đồng tình và đã 
được giới đầu tư đánh giá rất cao nhưng trước hết chúng ta cũng cần phải cảnh giác 
với hành vi này. Trong thực tế đây là một trong những công đoạn mà các tội phạm 
thường thực hiện hành vi rửa tiền. Để chống lại rửa tiền cần yêu cầu tất cả vốn đầu 
tư, lợi nhuận nhất thiết phải được thông qua tài khoản ngoại tệ mở tại NHTM trong 
nước được NHNN chỉ định. Các luồng vốn ngoại tệ ra vào Việt Nam đều phải được 
thực hiện thông qua tài khoản này. Mặt khác các vấn đề liên quan đến kế hoạch trả 
nợ, tình hình thực hiện khoản vay, rút vốn và chuyển tiền phải được phản ảnh 
thường xuyên trên các báo cáo tài chính và phải được kiểm toán bởi những công ty 
kiểm toán có uy tín. 
 Đối với vấn đề phát hành chứng khoán ra thị trường chứng khoán nước ngoài, 
đây cũng là một xu hướng tích cực và không thể đảo ngược. Các khả năng rửa tiền 
thông qua phương thức này rất khó được thực hiện vì các phương án để các công ty 
phát hành chứng khoán ra nước ngoài phải thông qua những quy trình bắt buộc để 
có thể được xem là cổ phiếu chuẩn phát hành ra nước ngoài. Tuy nhiên những bằng 
chứng từ các nước trên thế giới cũng cho thấy kênh đầu tư thông qua mua bán cổ 
phiếu trên thị trường chứng khoán cũng là một kênh quan trọng để thực hiện hành 
vi rửa tiền. Giải pháp triệt để cho vấn đề này là tăng cường minh bạch hóa các 
 65 
 3.3.3. Giải pháp chống lại hiện tượng đô la hóa 
 Để chống lại hiện tượng đô la hóa, NHNN cần xem xét một số giải pháp sau: 
 - Về chính sách, NHNN phải giảm tỷ lệ đồng đô la trong dự trữ ngoại hối và 
thay thế chúng bằng những đồng tiền khác mạnh hơn, như là đồng euro chẳng hạn. 
 - NHNN nên xem xét đến vấn đề nới rộng biên độ tỷ giá hối đoái giữa VND và 
USD cũng như tiến tới việc thực hiện cơ chế tỷ giá hoàn toàn thả nổi trong tương lai 
để giảm khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thực tế trên thị trường không 
chính thức nhằm thu hút nguồn vốn đô la trong dân chúng vào ngân hàng. 
 - Việc ổn định tỷ giá hối đoái và giữ mức lãi suất hợp lý sẽ làm cho người dân ít 
lo sự mất giá của đồng tiền và tránh sự chuyển dịch từ đồng tiền này sang đồng tiền 
kia. 
 - Việc cho phép các cá nhân được quyền nắm giữ ngoại tệ là phù hợp với những 
cam kết của lộ trình hội nhập, vấn đề chính là NHNN bắt buộc các cá nhân phải 
thực hiện việc mở tài khoản ngoại tệ tại một NHTM được phép nhằm kiểm soát 
được luồng ngoại tệ. 
 3.3.4. Giải pháp đối với sự phát triển các công cụ phái sinh 
 Giao dịch trên các sản phẩm phái sinh là một trong những hành vi rửa tiền mà 
FATF đã từng cảnh báo các quốc gia thành viên. Trên thực tế các sản phẩm phái 
sinh như quyền chọn tiền tệ hay quyền chọn vàng mà các NHTM Việt Nam đang 
triển khai hiện nay một mặt giúp cho các doanh nghiệp chân chính phòng ngừa các 
rủi ro kinh doanh nhưng mặt khác lại là cơ hội để các tội phạm rửa tiền tiến hành 
rửa tiền một cách hợp pháp. 
 Giải pháp cho vấn đề này chính là NHNN phải có các biện pháp can thiệp như 
khống chế các trạng thái giao dịch mỗi lần không được quá mức quy định hoặc 
khống chế các mức giá thực hiện các quyền chọn với mức giá trần và giá sàn không 
vượt quá một biên độ nào đó so với mức giá hiện tại. Quy định này nhằm hạn chế 
phần nào khả năng các tội phạm rửa tiền sẽ đặt lệnh với bất cứ mức giá nào và gây 
 66 
 3.3.5. Phát huy tối đa hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng 
(CIC) 
 Hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) các năm qua đã hỗ trợ rất 
nhiều trong việc cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng. Trung tâm thông tin 
phòng, chống rửa tiền vừa mới được NHNN thành lập cùng với sự ra đời của Nghị 
định 74. Tuy chức năng, nhiệm vụ của hai trung tâm này khác nhau nhưng nguồn 
dữ liệu để khai thác có phần giống nhau, đó chính là các thông tin về khách hàng 
thực hiện các giao dịch qua ngân hàng. Chính vì vậy, nếu có sự phối hợp hoạt động 
giữa hai trung tâm này thì hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn. Cụ thể, Trung tâm thông 
tin phòng, chống rửa tiền sẽ sử dụng các dữ liệu sẵn có của CIC để giảm bớt thời 
gian, chi phí thu thập thông tin ban đầu và đồng thời sẽ cung cấp lại cho CIC những 
thông tin đã được xử lý về các hoạt động rửa tiền qua ngân hàng nhằm giúp các tổ 
chức tín dụng ngăn chặn những hành vi rửa tiền thông qua hoạt động cấp tín dụng. 
 Chính vì vậy, để có thể phát huy tối đa hiệu quả hoạt động của CIC, NHNN cần 
thực hiện các biện pháp sau đây: 
 - NHNN cần có quy định bắt buộc đối với tất cả các tổ chức tín dụng phải tham 
gia trong việc cung cấp, cập nhật thông tin, số liệu về khách hàng và việc sử dụng 
thông tin tín dụng phải trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong công tác xét duyệt 
cấp tín dụng. 
 - Hiện tại loại hình thông tin mà CIC cung cấp chủ yếu là các thông tin về diễn 
biến dư nợ tín dụng, tình trạng dư nợ tín dụng, các đánh giá về quá trình quan hệ tín 
dụng của các khách hàng. Tuy đã có những tiến bộ nhất định về sự chính xác, đầy 
đủ và thời gian cung cấp song sự cập nhật đối với những thay đổi của khách hàng 
còn hạn chế. Do đó, CIC cần xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống cung cấp thông tin 
để tạo nguồn thông tin phong phú và đa dạng hơn như: phân tích và đưa ra những 
 67 
 - Tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của CIC và triển khai 
mạnh mạng internet để thu thập một cách nhanh chóng thông tin trong và ngoài 
nước nhằm tạo ra bước phát triển mới trong hoạt động này trong thời gian tới. 
 - Ngoài ra, CIC cần có mối quan hệ thường xuyên với các cơ quan thông tin, cơ 
quan quản lý nhà nước, cơ quan pháp luật để làm phong phú thêm thông tin hiện tại. 
Tập huấn, đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ nhân viên trong Trung 
tâm. 
 3.3.6. Các giải pháp phòng, chống rửa tiền điện tử 
 Tại Việt Nam đã có Luật giao dịch điện tử, được ban hành vào ngày 29/11/2005 
và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/03/2006. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để thực 
hiện các giao dịch điện tử cũng như xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong giao 
dịch điện tử. Việc tuân thủ nghiêm Luật cũng góp phần hữu hiệu trong cuộc chiến 
phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là tiền điện tử sẽ phát triển mạnh ở Việt Nam trong 
thời gian tới. 
 Một số các biện pháp khác trong việc phòng chống rửa tiền điện tử là giữ cách 
nào cho mức tiền giao dịch nhỏ ở mức có thể và phát triển các tiêu chí nhận dạng 
giao dịch. Các yêu cầu đối với các giao dịch vô danh (không thông qua trung gian 
tài chính) được đòi hỏi gắt gao hơn. Còn đối với các giao dịch điện tử thông qua hệ 
thống trung gian, các điều kiện để chuyển các món tiền lớn cũng phải được tuân thủ 
một cách nghiêm ngặt. 
 Một giải pháp khác có thể được áp dụng cho các NHTM nhằm ngăn chặn rửa 
tiền điện tử mà NHTM cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam vừa thông báo sẽ áp 
dụng từ năm 2007. Theo Nghị quyết của Ủy ban thanh toán Châu Âu (EPC 
Resolution) kể từ ngày 01/01/2007, khi thanh toán tiền hàng theo phương thức TTR 
bằng đồng Euro cho người thụ hưởng ở khối châu Âu và khu vực kinh tế châu Âu 
phải có đầy đủ BIC (Swift code của ngân hàng người thụ hưởng) và IBAN (số tài 
khoản của người thụ hưởng bao gồm tất cả các chi tiết mà ngân hàng nhận cần để 
 68 
 Việc hợp tác quốc tế được xem là công cụ hữu hiệu nhất của các quốc gia trong 
công cuộc phòng, chống rửa tiền và Việt Nam cũng không thể đơn độc trong cuộc 
chiến này. 
3.4. Nhóm giải pháp phòng, chống rửa tiền về phía các NHTM 
 3.4.1. Các giải pháp liên quan đến con người 
 Con người là nguồn lực quan trọng nhất và không thể thiếu trong bất kỳ một 
doanh nghiệp nào và càng quan trọng hơn nữa khi doanh nghiệp đó chính là ngân 
hàng. Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cho thấy, dù các quy 
định được ban hành có chặt chẽ đến đâu mà con người cố tình vi phạm, làm trái thì 
hậu quả thật khó lường. 
 Ngoài rủi ro trong hoạt động ngân hàng xảy ra do trình độ nhận thức của nhân 
viên yếu kém, không nắm bắt được bản chất của vấn đề thì cũng phải kể đến trình 
độ quản lý con người của cấp lãnh đạo. Do đó một số biện pháp nhằm góp phần 
nâng cao chất lượng con người cần được các NHTM quan tâm đúng mức, cụ thể 
như sau: 
 - Công tác tuyển chọn cần căn cứ trên đạo đức, chuyên môn, kinh nghiệm và khả 
năng phát triển. Trong các yếu tố thì hai yếu tố: đạo đức và khả năng phát triển là 
quan trọng nhất. Đạo đức tốt quyết định hành vi và mục đích hành động. Khả năng 
phát triển đáp ứng sự thích nghi với hoạt động đa dạng và luôn phát triển của ngân 
hàng, đây là điều kiện tồn tại của một ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội 
nhập. 
 - Cần đặc biệt quan tâm đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, không 
ngừng đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp, 
 69 
 - Thu nhập thấp sẽ dần làm triệt tiêu lòng nhiệt huyết của nhân viên đối với công 
việc, thậm chí dễ dàng khiến họ đánh mất phẩm chất vì sức cám dỗ của đồng tiền. 
Chế độ tiền lương, thưởng hợp lý đảm bảo cho nhân viên đáp ứng được nhu cầu 
cuộc sống của chính mình nhằm hạn chế việc bị mua chuộc hay những hành vi tham 
nhũng dẫn đến tiếp tay cho bọn tội phạm thực hiện các hành vi rửa tiền. 
 - Chế độ khen thưởng, động viên khuyến khích kịp thời đầy đủ cả về vật chất 
cũng như tinh thần đối với các cá nhân, tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng là 
động lực thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của người lao động cho sự nghiệp phát 
triển của ngân hàng 
 - Thường xuyên kiểm tra, xem xét những biến chuyển về tâm lý, về cách làm 
việc cũng như cuộc sống thực tế để kịp thời xử lý, uốn nắn, giúp đỡ. 
 - Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm khác nhau, không có sự phân biệt và gia 
giảm đối với bất kỳ đối tượng nào. 
 3.4.2. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các NHTM 
 Thứ nhất, nâng cao năng lực tài chính cho các NHTM. Năng lực tài chính của 
các NHTM nhìn chung còn yếu. Tất cả các chỉ số đều còn là thấp so với các nước 
trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, các ngân hàng nên thực hiện 
một số biện pháp như: 
 - Khẩn trương tăng vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%. 
 - Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng để lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao 
khả năng cạnh tranh và chống rủi ro. 
 Thứ hai, các ngân hàng phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn 
bản chế độ, quy chế, quy trình nghiệp vụ cụ thể cho ngân hàng mình trên nguyên 
tắc tuân thủ các quy định của Nhà nước, của NHNN. Đồng thời, các ngân hàng phải 
tổ chức nghiên cứu, tập huấn và quán triệt để đảm bảo mọi nhân viên phải nắm 
vững và thực thi đầy đủ, chính xác. 
 70 
 Thứ ba, phải hoàn thiện bộ máy giám sát rủi ro hoạt động của ngân hàng trên cơ 
sơ hình thành một bộ phận độc lập không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro, có 
chức năng quản lý, giám sát rủi ro cho các ngân hàng; nhận diện và phát hiện rủi ro; 
phân tích và đánh giá các mức độ rủi ro trên cơ sơ các chỉ tiêu, tiêu thức được xây 
dựng đồng thời đề ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn giảm thiểu rủi ro. 
 Thứ tư, nâng cao chất lượng chuyên nghiệp của cán bộ, nhân viên cũng như tập 
trung xây dựng thương hiệu cho ngân hàng với mục tiêu giảm thiểu rủi ro đạo đức 
và rủi ro hoạt động; 
 Thứ năm, hạn chế rủi ro từ các yếu tố từ bên ngoài như sự thay đổi về cơ chế, 
chính sách của Nhà nước, sức ép từ việc thực hiện các cam kết theo thông lệ quốc 
tế, các diễn biến phức tạp của xu thế thị trường, tác động tiêu cực của các thông tin 
truyền thống bất cân xứng bằng biện pháp cơ bản sau: 
 - Thường xuyên cập nhật thông tin liên quan từ bên ngoài, kiểm soát và hiệu 
chỉnh kịp thời các văn bản nội bộ khi phát sinh các thay đổi, chủ động xây dựng các 
lộ trình để thực hiện các cam kết theo thông lệ quốc tế. 
 - Hình thành bộ phận chuyên nghiên cứu và phân tích những thay đổi trong các 
lĩnh vực kinh tế, từ đó đưa ra các đánh giá tổng quan về nền kinh tế thế giới và 
trong nước, xu hướng phát triển và những tác động của nó đến hoạt động ngân 
hàng. Trên cơ sở đó, ngân hàng sẽ kịp thời điều chỉnh, xây dựng chính sách và định 
hướng chiến lược phù hợp. 
 - Chú trọng việc thường xuyên mời chuyên gia cấp chiến lược của ngành để 
tranh thủ ý kiến, bài nói chuyện hoặc lời khuyên cho các cán bộ chủ chốt của ngân 
hàng theo từng chuyên đề, từng thời kỳ và bối cảnh của nền kinh tế thế giới. 
 Thứ sáu, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại và đồng bộ. 
 Trong số 56 NHTM không kể ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng 
nước ngoài, mới chỉ có 8 ngân hàng xây dựng được hệ thống kế toán tập trung hóa 
tài khoản hoạt động theo phương thức online phù hợp với công nghệ hiện đại. Một 
số khác hoặc đang tiếp tục triển khai mở rộng hoặc đang triển khai theo lộ trình dự 
án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng Thế giới (WB) tài 
 71 
 3.4.3. Hạn chế việc cấp tín dụng bằng tiền mặt 
 Các NHTM hiện nay thực hiện việc cho vay theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN ngày 31/12/2001 của NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức 
tín dụng đối với khách hàng. Theo quy chế này, việc giải ngân khoản tín dụng cấp 
cho khách hàng dưới hình thức tiền mặt hơặc chuyển khoản không được quy định. 
Trên thực tế, các NHTM thường dựa vào mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng 
để giải ngân bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Ví dụ, các doanh nghiệp thanh toán 
tiền hàng nhập khẩu chắc chắn phải thực hiện chuyển khoản ra nước ngoài hoặc 
doanh nghiệp vay thanh toán tiền hàng trong nước mà nhà cung cấp cũng là doanh 
nghiệp thì hình thức chuyển khoản vẫn được áp dụng; còn nếu doanh nghiệp vay để 
thanh toán tiền lương cho người lao động hoặc các cá nhân vay tiêu dùng, mua nhà, 
mua xe, … thì vẫn thực hiện giải ngân dưới hình thức tiền mặt. Tuy nhiên hiện nay, 
người đi vay (kể cả tổ chức kinh tế và cá nhân) đều “yêu thích” việc giải ngân bằng 
tiền mặt bởi nó dễ sử dụng cho nhiều mục đích và tránh được việc kiểm soát của 
ngân hàng. 
 Việc giải ngân bằng tiền mặt sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến việc phòng, 
chống rửa tiền mà các ngân hàng đang ra sức thực hiện. 
 Thứ nhất, lượng tiền mặt được giải ngân sẽ góp phần làm tăng lượng tiền mặt 
trong nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động rửa tiền bởi nó dễ dàng 
tiêu xài, dễ ẩn danh, các cơ quan chức năng khó kiểm soát. 
 Thứ hai, nhân viên tín dụng sẽ rất khó kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách 
hàng có đúng mục đích hay không. Điều này không những ảnh hưởng đến chất 
lượng tín dụng mà còn góp phần hợp thức hóa những khoản tiền “bẩn” khi các dòng 
 72 
 Hiện nay, Chính phủ vẫn chưa ban hành chính thức Nghị định về thanh toán 
bằng tiền mặt nên vẫn chưa có một quy định pháp lý chính thức về hạn mức thanh 
toán bằng tiền mặt. Tuy nhiên, trong khả năng của mình các NHTM vẫn có thể áp 
dụng một chính sách tín dụng chặt chẽ để quản lý có hiệu quả vốn tín dụng cung 
ứng cho nền kinh tế. Việc hạn chế cấp tín dụng bằng tiền mặt cho khách hàng là 
một điều các NHTM cần phải quan tâm và hoàn toàn có khả năng thực hiện được. 
Một số biện pháp nhằm hạn chế việc giải ngân bằng tiền mặt như sau: 
 - Giải ngân để thanh toán tiền lương cho người lao động qua thẻ ATM. 
 - Giải ngân thanh toán tiền hàng trong nước (cho cả tổ chức kinh tế và cá nhân) 
đều phải thực hiện chuyển khoản trực tiếp cho người thụ hưởng. 
 - Ban hành mức phí rút tiền mặt từ tài khoản tiền gửi thanh toán và hạn chế số 
lần rút tiền cũng như quy định hạn mức rút tiền trong một ngày. 
 3.4.4. Ban hành quy trình phòng, chống rửa tiền 
 Để hoạt động phòng, chống rửa tiền đạt kết quả cao nhất thì yêu cầu đặt ra là 
phải có sự phối hợp thực hiện giữa các phòng, ban, các bộ phận trong ngân hàng 
một cách đồng bộ. Để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi 
của từng bộ phận, từng cá nhân trong ngân hàng, các NHTM nên xây dựng quy 
trình thực hiện phòng, chống rửa tiền tại ngân hàng mình. 
 Trên cơ sở khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền sẽ được hoàn thiện trong 
thời gian tới cùng với việc chủ động xây dựng một quy trình phối hợp thực hiện 
riêng có tại từng NHTM, hoạt động phòng, chống rửa tiền tại từng NHTM mới có 
thể đạt hiệu quả cao. Và như vậy, hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng mới có 
thể kiểm soát được từ gốc cho đến ngọn. 
 3.4.5. Thành lập một bộ phận chuyên trách về phân tích thông tin khách hàng 
 Thông tin khách hàng hiện nay được ví như một “mỏ vàng lớn”. Các nhà quản 
trị rất quan tâm đến việc “khai thác mỏ vàng” này bởi nó mang lại nhiều lợi ích cho 
công việc kinh doanh. Các NHTM hiện nay với khối lượng khách hàng giao dịch rất 
 73 
 Bọn tội phạm thường rửa tiền qua ngân hàng thông qua hình thức chuyển tiền, 
các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài 
khoản trong một thời gian ngắn hoặc ngược lại, hoặc tiền được chuyển lòng vòng 
qua nhiều tài khoản nhằm tránh sự kiểm soát của ngân hàng. Để ngân hàng có thể 
nhận diện hoạt động rửa tiền thì tất cả thông tin về khách hàng và các giao dịch của 
khách hàng cần được tập trung về một đầu mối để được xử lý và lưu giữ một cách 
có hệ thống. Chính vì vậy, việc các NHTM lập một bộ phận chuyên trách về phân 
tích thông tin khách hàng là cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình và qua đó 
sẽ kiểm soát được nạn rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. 
 Để thực hiện phòng, chống rửa tiền theo tinh thần của Nghị định 74, bộ phận 
phân chuyên trách cần thực hiện như sau: 
 Thứ nhất, thu thập và lưu giữ các thông tin ban đầu của khách hàng. Bộ phận 
giao dịch trực tiếp sẽ nhập liệu thông tin khách hàng vào hệ thống một cách đầy đủ 
và cập nhật thông tin nhanh chóng khi có sự thay đổi. Bộ phận chuyên trách sẽ kiểm 
soát tính tuân thủ của quy trình này để đảm bảo chất lượng thông tin. 
 Thứ hai, bộ phận phân tích thông tin khách hàng sẽ tiến hành phân loại khách 
hàng và báo cáo cho NHNN về các giao dịch của cá nhân hay tổ chức nếu các giao 
dịch này vượt mức quy định theo Nghị định 74. 
 Thứ ba, thông qua các thông tin tổng hợp được từ nhiều nguồn (bên trong và bên 
ngoài ngân hàng), bộ phận chuyên trách sẽ tiến hành phân tích, đánh giá và nhận 
diện những đối tượng có nguy cơ rửa tiền và đưa ra các biện pháp thích hợp hỗ trợ 
cho các bộ phận giao dịch, bộ phận tín dụng ngăn chặn hành vi rửa tiền qua ngân 
hàng. 
 74 
 Thứ tư, bằng các hình thức đào tạo khác nhau, bộ phận chuyên trách sẽ cập nhật 
thông tin, kỹ năng và kinh nghiệm cho các nhân viên ngân hàng thực hiện tốt việc 
phòng, chống rửa tiền. 
Kết luận chương 3 
 Nội dung chương 3 đã trình bày các giải pháp về phòng, chống rửa tiền qua hệ 
thống ngân hàng Việt Nam. Các giải pháp được tập hợp và trình bày theo phạm vi 
và chức năng của các cơ quan Nhà nước, NHNN và các NHTM. Các giải pháp về 
phòng và chống rửa tiền này không độc lập mà luôn cùng hỗ trợ nhau. Chính vì vậy, 
để hoạt động phòng, chống rửa tiền có hiệu quả thì nên có sự phối hợp giữa các ban 
ngành, các cấp dưới sự chỉ đạo thống nhất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để 
cùng thực hiện. 
 Hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng chỉ mới là một phần 
trong hoạt động phòng, chống rửa tiền nói chung nhưng có thể xem đây là phần cơ 
bản nhất, bởi lẽ đối với bọn tội phạm rửa tiền thì ngân hàng chính là kênh truyền 
dẫn lớn nhất và nhiều ưu việt nhất. Chính vì vậy để giải pháp phòng, chống rửa tiền 
qua hệ thống ngân hàng có hiệu quả cần phải có sự hỗ trợ từ nhiều ngành có liên 
quan và quan trọng hơn hết chính là việc tạo ra một môi trường kinh tế, xã hội 
“sạch”. 
 Dù thực hiện bất cứ giải pháp nào, trong ngắn hạn hoặc dài hạn, yếu tố con 
người vẫn được đặt lên hàng đầu. Ý thức về chống rửa tiền phải luôn hiện diện 
trong mỗi người dân thì việc thực hiện các giải pháp mới có hiệu quả. Đối với người 
dân Việt Nam, ý thức về hoạt động rửa tiền và chống rửa tiền hãy còn mới mẻ nên 
việc tuyên truyền, giáo dục ý thức về vấn nạn này phải được thực hiện thường 
xuyên và liên tục nhằm tạo thành một thói quen luôn đề cao cảnh giác trước các 
hoạt động rửa tiền trong mọi tầng lớp dân cư./. 
 75 
KẾT LUẬN 
 Ngân hàng đóng vai trò là “người gác cổng” của hệ thống tài chính quốc gia. 
chỉ có sự cảnh giác cao độ của ngân hang mới có thể ngăn chặn và phát hiện hoạt 
động rửa tiền và cung cấp thông tin cần thiết cho các cơ quan chức năng thực hiện 
phòng, chống rửa tiền. Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam đã xuất 
hiện nhưng hoạt động phòng, chống rửa tiền của ngành ngân hang Việt Nam mới chỉ 
bắt đầu và còn rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, Nhà nước và ngành ngân hang cần 
sớm có giải pháp thực thi để đối phó với vấn nạn này. Qua quá trình nghiên cứu, 
Luận văn xin đóng góp một vài ý kiến cho vấn đề này như sau: 
 Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền thong qua việc 
ban hành Luật phòng, chống rửa tiền; tạo cơ chế phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ 
quan ban ngành; trở thành thành viên chính thức của rổ chức FATF và thành lập cơ 
quan phòng, chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ. 
 Thứ hai, tạo môi trường kinh tế phù hợp để hạn chế sự phát sinh của tiền 
“bẩn” và hoạt động rửa tiền như: Chính sách về thanh toán không dung tiền mặt 
trong nền kinh tế, phòng chống tham nhũng và xây dựng hệ thống thanh tra, giám sát 
ngân hang hiệu quả. 
 Thứ ba, chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho hoạt động phòng, chống rửa tiền 
qua việc xây dựng và thực thi các chính sách cũng như các biện pháp mang tính tác 
nghiệp tại Ngân hang Nhà nước và các ngân hang thương mại như: Đầu tư cho 
nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các ngân hang thương mại, xây 
dựng các quy định, quy trình nhằm phát hiện và ngăn chặn hoạt động rửa tiền qua 
ngân hang. 
 Với kiến thức và khả năng vẫn còn hạn chế, tôi rất mong nhận được nhiều 
đóng góp từ phía Quý Thầy, Cô để Luận văn được hoàn thiện hơn. 
 Xin chân thành cảm ơn. 
 76 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
TIẾNG VIỆT 
1. Ngân hang Nhà nước Việt Nam (2004), Báo cáo thường niên năm 2004, Hà Nội. 
2. Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 15/1999/QH10. 
3. Cục Thống kê TP.Hồ Chí Minh, các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 
06/2005, tháng 03/2006, tháng 06/2006, TP. Hồ Chí Minh. 
4. Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 do Ngân hang Nhà nước ban 
hành về việc “Phòng , chống rửa tiền”. 
5. Quyết định số 1002/QĐ-NHNN ngày 08/07/2005 do Ngân hang Nhà nước ban 
hành về việc “Thành lập trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền trực thuộc Ngân 
hang Nhà nước”. 
6. Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 do Ngân hang Nhà nước 
ban hành về việc “Ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng 
dịch vụ thanh toán”. 
7. Tạp chí Kinh tế phát triển, các số trong năm 2005, 2006. 
8. Tạp chí Ngân hang, các số trong năm 2005, 2006. 
9. Thời báo ngân hang, các số báo trong năm 2005, 2006. 
TIẾNG ANH 
10. FATF (1990), The Forty Recommendations. 
11. FATF (2001), The Eight Special Recommendations. 
12. FATF (2004), The Ninth Special Recommendation. 
13. Office of the Comtroller Currency (2002), Money Laundering: A Banker’s 
Guide to Avoiding Problems, Washington, DC. 
14. The U.S Department of State (2001), The Fight Against Money Laundering, 
Economic Perspective. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.pdf Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.pdf