MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÂN LOẠI NỢ VÀ TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG .1
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG . 12
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng12
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng .13
1.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng.14
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 14
1.1.5. Thiệt hại từ rủi ro tín dụng18
1.1.6. Đánh giá rủi ro và chất lượng tín dụng19
1.1.7. Biện pháp xử lý rủi ro tín dụng. 20
1.1.7.1. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng.
1.1.7.2. Dấu hiệu nhận dạng rủi ro tín dụng 22
1.1.7.3. Biện pháp xử lý rủi ro tín dụng. 23
1.2. NGHIỆP VỤ PHÂN LOẠI NỢ VÀ TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 23
1.2.1. Quản lý nợ tại Ngân hàng thương mại 23
1.2.2. Sự cần thiết phải phân loai nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
1.2.3. Các phương pháp phân loại nợ và trích lập dự phòng tại NHTM
1.2.3.1. Phương pháp "định lượng"
1.2.3.1. Phương pháp "định tính"
1.3. KINH NGHIỆM TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG ĐỂ XỬ LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 27
1.3.1. Phương pháp trích lập dự phòng ở Anh.27
1.3.2. Phương pháp trích lập dự phòng của các ngân hàng ở Mỹ
1.3.3. Phương pháp trích lập dự phòng Pháp
1.3.4. Bài học kinh nhiệm cho các NHTM Việt Nam
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN LOẠI NỢ VÀ TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VCB ĐỒNG NAI 31
2.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VCB
2.2. GIỚI THIỆU VỀ VCB ĐỒNG NAI 32
2.2.1. Quá trình hoạt động và phát triển của VCB Đồng Nai. .32
2.2.3. Tình hình hoạt động tín dụng tại VCB Đồng Nai. .35
2.2.2. Công tác quản trị rủi ro tín dụng tại VCB Đồng Nai. 41
2.2.2.1. Tổ chức công tác quản trị rủi ro tín dụng 41
2.2.2.2. Hoạt động kiểm tra và giám sát tín dụng: 43
2.2.2.3. Chính sách cho vay có đảm bảo. 45
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN LOẠI NỢ VÀ TRÍCH LẬP DPRR TÍN DỤNG TẠi VCB ĐỒNG NAI. 45
2.3.1. Các văn bản hướng dẫn của VCB TW về một số nội dung liên quan đến việc thực hiện QĐ 493 và QĐ 1845
2.3.2. Quy trình phân loại nợ và trích lập DPRR tín dụng đang áp dụng tại VCB Đồng Nai
2.3.2.1. Cập nhật dữ liệu trên hệ thống: 47
2.3.2.2. Đối chiếu kiểm soát dữ liệu hàng ngày. 48
2.3.2.3. Cập nhật dữ liệu về phân loại nợ. 48
2.3.2.4. Đề xuất phân loại nợ, trích lập DPRR tín dụng. 49
2.3.3. Thực trạng kết quả phân loại nợ, trích lập và sử dụng DPRR tín dụng. .51
2.3.3.1. Phân loại nợ và trích lập DPRR tín dụng. 51
2.3.3.2. Sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng 56
2.3.3.3. Tình hình thu hồi các khoản nợ đã được xử lý bằng DPRR
2.3.5. Đánh giá công tác phân loại nợ và trích lập DPRR tín dụng tại VCB Đồng Nai 61
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ NGHIỆP VỤ PHÂN LOẠI NỢ VÀ TRÍCH LẬP DPRR TÍN DỤNG TẠI VCB ĐỒNG NAI
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VCB TRONG THỜI GIAN TỚI .
3.1.1. VCB phát triển thành tập đoàn tài chính .67
3.1.2. Phát triển mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ.68
3.1.3. Hoạt động tín dụng phát triển theo hướng đảm bảo mục tiêu chất lượng, an toàn, giảm mạnh nợ tồn đọng, xử lý thu hồi nợ quá hạn. 58
3.1.4. Định hướng của VCB đối với công tác phân loại nợ và trích lập, sử dụng DPRR tín dụng.59
3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN LOẠI NỢ VÀ TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VCB ĐỒNG NAI. 73
3.2.1. Giải pháp đối với VCB Đồng Nai .73
3.2.1.2. Nâng cao công tác dự báo tình hình khách hàng 73
3.2.1.2. Tăng cường sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các bộ phận có liên quan.
3.2.1.3 . Thường xuyên tiến hành đánh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm64
3.2.1.4 . Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng
3.2.2. Giải pháp đối với VCB Việt Nam. 76
3.2.2. 1. Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ 65
3.2.2. 2. Hoàn thiện chương trình hỗ trợ phân loại nợ tự động 71
3.2.2. 2. Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng. 71
3.2.3. Các giải pháp hỗ trợ khác72
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2486 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp quản trị nghiệp vụ phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại VCB Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động trên cùng lĩnh vực
sản xuất máy nông nghiệp. Sau một quá trình thương lượng, phía công ty mới đã
đồng ý dùng nguồn doanh thu bán hàng để trả dần nợ vay. Bên cạnh đó, ngân hàng
sẽ xem xét tăng hạn mức tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động tăng thêm của
công ty khi nhận sáp nhập công ty mới. Tính đến cuối tháng 7/2009, công ty cũng
đã trả hết phần nợ xấu này.
Như vậy, có thể thấy, công tác xử lý nợ xấu của chi nhánh thời gian gần đây
đạt được kết quả rất khả quan. Dự kiến tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2009 giảm từ trên
10% xuống dưới 3% tổng dư nợ là hoàn toàn khả thi.
- Về cơ bản, số tiền trích lập DPRR đã theo kịp mức độ rủi ro gia tăng của
các khoản nợ, đảm bảo khả năng bù đắp khi có tổn thất xảy ra. Tuy các khoản nợ
xấu, nợ tồn đọng được xử lý bằng DPRR của chi nhánh không lớn nhưng đã phần
nào giúp lành mạnh hóa tình hình tài chính, đưa các khoản nợ xấu ra theo dõi ngoại
bảng. Việc sử dụng DPRR để xử lý nợ có sự thảo luận nhất trí của Hội đồng xử lý
rủi ro cơ sở (họp mỗi quý/lần) và được tuân thủ đúng theo đúng các quy định hiện
hành.
63
- Việc thu hồi các khoản nợ đã được xử lý bằng DPRR được chi nhánh chú
trọng và kết quả thu hồi thời gian qua là khá khả thi. Chi nhánh đã thu hồi được
45,7 tỷ đồng (tính đến thời điểm 31/12/2008) hạch toán vào thu nhập bất thường, là
chi nhánh có tỷ lệ thu hồi nợ sau xử lý bằng DPRR cao nhất hệ thống.
Trích lập và sử dụng dự phòng là một giải pháp tốt cho VCB Đồng Nai trên
các mặt:
- Xử lý nợ xấu và nợ tồn đọng.
- Nâng cao chất lượng tín dụng.
- Lành mạnh hoá tình hình tài chính, năng cao năng lực cạnh tranh.
- Phù hợp xu hướng quản trị rủi ro trong hội nhập, là lựa chọn lâu dài cho công
tác quản trị rủi ro tại ngân hàng trong thời gian tới.
VCB là ngân hàng Việt Nam tiên phong trong ứng dụng mô hình quản trị rủi
ro theo hướng hiện đại và hướng đến chuẩn mực quốc tế với việc phân tách các
phòng chức năng theo hướng chuyên môn hóa cao. Đây là mô hình tổ chức khá phổ
biến của các ngân hàng trên thế giới. Đặc biệt, VCB đã rất chú trọng trong việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào việc hỗ trợ các chi nhánh trong công tác phân loại nợ
đảm bảo kết quả phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro khá chính xác.
Hệ thống thông tin tín dụng ngày càng được hoàn thiện, đã thực hiện cung
cấp các thông tin, chuyên đề phân tích về ngành thường xuyên cho các chi nhánh để
tăng khả năng nắm bắt thông tin, phục vụ cho công tác quản trị rủi ro và phân loại
nợ đối với khách hàng.
Hạn chế
- Kiểm tra và phát hiện các dấu hiệu rủi ro là công việc không chỉ của một bộ
phận mà của tất cả các cán bộ tham gia vào quy trình cấp tín dụng. Theo quy trình,
nhiệm vụ phát hiện các dấu hiệu rủi ro chủ yếu do phòng Khách hàng thực hiện bởi
đây là bộ phận làm việc trực tiếp với khách hàng, thu thập các thông tin, kiểm tra sử
dụng vốn vay…nên có khả năng phát hiện kịp thời những biến động bất lợi. Trong
công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng, nhiệm vụ chủ yếu lại do phòng Quản lý
nợ thực hiện trên cơ sở thông tin định lượng từ hệ thống có sự phối hợp cung cấp
64
các thông tin khác của phòng Khách hàng. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy
sự phối hợp giữa các bộ phận vẫn còn rất hạn chế, công tác phát hiện rủi ro tín dụng
mang tính thụ động, chủ yếu là xử lý khi những dấu hiệu rủi ro đã xuất hiện (phát
sinh nợ quá hạn, nợ cơ cấu, khách hàng kinh doanh thua lỗ…). Khả năng phòng
ngừa và dự báo từ xa chưa tốt do sự hạn chế về trình độ, kinh nghiệm của cán bộ; hệ
thống thông tin thị trường và xử lý thông tin qua các phân tích, dự báo chưa tốt;
công tác kiểm tra sử dụng vốn còn hời hợt, chủ yếu dựa vào các báo cáo do khách
hàng cung cấp.
- Việc theo dõi thời gian thử thách của các khách hàng có nợ dưới chuẩn
vẫn còn hạn chế. Theo QĐ493 thì khách hàng có các khoản vay bị chuyển nhóm
nợ rủi ro cao vì bị quá hạn/cơ cấu nợ, phải theo dõi trong thời gian 3 tháng (đối
với nợ ngắn hạn) hoặc 06 tháng (đối với nợ trung và dài hạn) về khả năng trả
nợ gốc - lãi của khách hàng rồi mới xem xét chuyển về nhóm nợ ít rủi ro hơn.
Trên thực tế, công tác theo dõi các khách hàng này khá phức tạp và đòi hỏi từng
cán bộ phải có sự sát sao đối với từng món vay của khách hàng.
- Một khách hàng có thể vay tại nhiều tổ chức tín dụng cũng như tại nhiều chi
nhánh VCB và nhóm nợ của khách hàng phải là nhóm nợ ở mức cao nhất. Tuy
nhiên, việc thu thập thông tin về nhóm nợ của khách hàng ở các chi nhánh khác là
rất khó. Hiện nay để biết tình trạng chất lượng tín dụng của khách hàng chỉ có cách
là xem thông tin trên Trang Web của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC), nhưng
thông tin của CIC lại không được cập nhật thường xuyên nên việc tra cứu này chỉ
có tính chất tham khảo chứ chưa thật chính xác tại thời điểm chi nhánh tiến hành
phân loại nợ. Do cơ chế thông tin chưa đầy đủ nên khi khách hàng phát sinh nợ xấu
ở các chi nhánh khác hay TCTD khác nhưng ở chi nhánh Đồng Nai vẫn xếp nợ
nhóm 1 vì chưa cập nhật thông tin kịp thời dẫn đến số liệu phân loại nợ thiếu chính
xác. Tuy nhiên khắc phục được điều này là hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có sự hỗ
trợ từ VCB TW và từ CIC.
- Theo công thức tính thì số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào
giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo
đảm.
65
R = max {0, (A-C)} x r
trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích; A: giá trị khoản nợ.
C: giá trị tài sản bảo đảm đã khấu trừ; r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Việc cập nhật giá trị tài sản bảo đảm đưa vào tính trích lập dự phòng rủi ro
vẫn chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời. Tại chi nhánh, nhiều tài sản bảo
đảm được nhận từ khá lâu (có tài sản là nhà xưởng, máy móc thiết bị… ký hợp đồng
thế chấp từ 2003, 2004) nhưng đến nay vẫn chưa được đánh giá lại, chưa ký phụ lục
hợp đồng xác định lại giá trị tài sản thế chấp để nhập hệ thống. Vì vậy, khi tính giá
trị tài sản bảo đảm để đưa vào khấu trừ vẫn lấy theo giá trị tài sản nhập ngoại bảng
ban đầu. Điều này chưa phản ánh đúng giá trị cũng như tính thanh khoản của tài sản
và vì vậy không đảm bảo tính chính xác của số tiền trích lập dự phòng cụ thể.
- Liên quan đến tài sản bảo đảm tiền vay, do đặc thù của tỉnh Đồng Nai là tỉnh
công nghiệp với nhiều khu công nghiệp tập trung, doanh nghiệp thuê đất của các
công ty hạ tầng để đầu tư sản xuất kinh doanh. Về mặt pháp lý, việc thuê đất là hợp
pháp nhưng vì một số lý do nào đó mà nhiều công ty dù hoạt động đã lâu nhưng đến
nay vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đây cũng là tình hình
chung của nhiều doanh nghiệp trong tỉnh). Do đó, khi nhận bảo đảm bằng tài sản
gắn liền với đất như nhà xưởng, công trình xây dựng… thì chi nhánh không thể
hoàn tất thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo quy định, chỉ những tài sản bảo
đảm đầy đủ thủ tục pháp lý mới được đưa vào khấu trừ để tính dự phòng rủi ro. Như
vậy, số tiền trích lập dự phòng của chi nhánh sẽ tăng đáng kể mặc dù khoản vay
được bảo đảm với tài sản có giá trị lớn.
- QĐ 18 nêu rõ hồ sơ để làm căn cứ cho việc xử lý rủi ro tín dụng là tổ chức tín
dụng phải có tài liệu chứng minh đã nỗ lực sử dụng mọi biện pháp để thu hồi nợ
nhưng không thu được. Chính vì vậy một số khách hàng có nợ nhóm 5 đã lâu nhưng
do chi nhánh chưa hoàn tất được thủ tục phát mãi tài sản/hoặc cơ quan thi hành án
chậm thi hành án nên chi nhánh vẫn chưa bổ sung đủ hồ sơ để xử lý rủi ro đối với
khoản nợ này. Vì vậy, mặc dù quỹ dự phòng rủi ro tại chi nhánh khá lớn nhưng các
khoản nợ xấu được xử lý bằng DPRR chưa nhiều.
66
- Có thể nhìn thấy rằng áp dụng QĐ 493 đúng, đủ trong tình hình nợ xấu có
chiều hướng tăng cao sẽ là một đòn đánh mạnh vào chi phí kinh doanh nếu như
chính sách cho vay của ngân hàng không đúng, phát triển nóng tín dụng mà không
có kiểm soát, chất lượng tín dụng giảm mà không có biện pháp khắc phục. Một khi
chi phí kinh doanh tăng thì khả năng kiểm soát hiệu quả kinh doanh sẽ không còn
và ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn.
Kết luận chương 2
Chương 2 đã đi sâu phân tích về thực trạng công tác phân loại nợ và trích lập
DPRR tín dụng tại VCB Đồng Nai thông qua phân tích tình hình hoạt động tín
dụng, tình hình trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng cũng như
công tác xử lý và thu hồi nợ xấu tại chi nhánh trong thời gian qua.
Chương 2 cũng đã đưa ra đánh giá về những mặt thành công và hạn chế của
chi nhánh trong công tác phân loại nợ, đồng thời nêu bật những yêu cầu mà chi
nhánh nói riêng và VCB nói chung cần phải đáp ứng để tiến tới phân loại nợ định
tính theo điều 7 quyết định 493.
67
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ NGHIỆP VỤ PHÂN LOẠI NỢ
VÀ TRÍCH LẬP DPRR TÍN DỤNG TẠI VCB ĐỒNG NAI
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VCB TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1. VCB phát triển thành tập đoàn tài chính
Để có thể đứng vững trong hội nhập, VCB sẽ phát triển theo hướng trở thành
tập đoàn tài chính hàng đầu của nền kinh tế VN. Tập đoàn này sẽ kinh doanh theo
nhiều hình thức khác nhau. Mô hình tập đoàn tài chính mà VCB hướng đến là thành
lập thêm một số đơn vị như: Công ty bảo hiểm nhân thọ; Công ty Quản lý quỹ đầu
tư; Công ty tài chính và chuyển tiền tại Hoa Kỳ; Công ty quản lý vốn đầu tư bất
động sản; Công ty thẻ; Công ty chuyển mạch thẻ quốc gia; Trung tâm dịch vụ tin
học ngân hàng...
Bên cạnh đó, thị trường bảo hiểm VN còn rất non trẻ, tiềm năng tăng trưởng
lớn với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 20%. Để đáp ứng yêu cầu của
thị trường và để chuẩn bị cho tương lai, VCB đã đầu tư vốn vào một số DN bảo
hiểm trong nước, ký kết thoả ước với một số công ty bảo hiểm để tiến hành bán
chéo các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ qua mạng lưới giao dịch của
mình.
Thêm nữa, trong bối cảnh cải cách, đổi mới DN và cổ phần hoá hiện nay,
tiềm năng và cơ hội kinh doanh quản lý quĩ và đầu tư trực tiếp vào các DN cổ phần
hoá là rất lớn. Hiện tiềm năng về vốn của công chúng đầu tư trong và ngoài nước rất
lớn, cơ hội đầu tư sẵn có, nhưng số lượng các trung gian cung cấp dịch vụ đầu tư -
đặc biệt là các công ty quản lý quĩ cũng như các quĩ - chưa có nhiều. Thị trường còn
thiếu những cầu nối giữa các cơ hội đầu tư và công chúng đầu tư.
Nhận thức được thời cơ kinh doanh, VCB đang trong quá trình hoàn thiện đề
án thành lập công ty liên doanh quản lý quỹ. Kinh doanh quản lý quỹ đầu tư sẽ tạo
cho VCB khả năng hoàn thiện danh mục sản phẩm của mình, cung cấp được cho
khách hàng mọi sản phẩm, dịch vụ tài chính, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội
nhập và cạnh tranh trên trường quốc tế. Dự kiến tập đoàn VCB sẽ thành lập thêm
một công ty tài chính và chuyển tiền tại California (Hoa Kỳ).
68
3.1.2. Phát triển mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Trong bối cảnh đất nước hội nhập vào những năm 90 của thế kỷ trước, VCB
đã nhanh chóng xác định việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ là chiến lược trọng
tâm, có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh.
Bên cạnh dịch vụ bán buôn vốn có uy tín quốc tế dành cho các tổ chức kinh
tế (corporate banking), VCB hiện được biết tới như một địa chỉ tin cậy của các dịch
vụ đa dạng và hiện đại dành cho khách hàng cá nhân (dịch vụ ngân hàng bán lẻ -
retail banking) như các sản phẩm cho vay linh hoạt, thẻ thanh toán, hệ thống máy
rút tiền tự động ATM, các sản phẩm huy động vốn đa dạng, các dịch vụ ngân hàng
trực tuyến, dịch vụ chuyển tiền kiều hối.
Ở mảng tiền gửi, các chương trình huy động tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi có
thưởng, hoặc các cách tính lãi suất linh hoạt (lãi suất bậc thang, lĩnh lãi định kỳ)
được thiết kế cho phép khách hàng lựa chọn phù hợp với nhu cầu, tạo sức hấp dẫn
với các sản phẩm truyền thống.
VCB là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam cho phép khách hàng có thể gửi tiền
ở một nơi và thực hiện rút tiền ở bất kỳ điểm giao dịch nào thuộc hệ thống trên toàn
quốc
Bằng việc sớm thiết lập quan hệ đại lý với hơn 1.000 ngân hàng trên thế giới,
xử lý tự động lệnh Swift và ký hợp đồng với những tổ chức chuyển tiền nhanh quốc
tế (như MoneyGram), VCB luôn dẫn đầu thị trường về doanh số kiều hối trong
hàng chục năm.
Ngoài các sản phẩm, dịch vụ truyền thống được cải tiến, với nền tảng "VCB
Online". Cơ cấu các sản phẩm thẻ của VCB đã đầy đủ, bao gồm thẻ ghi nợ và thẻ
tín dụng, nội địa và quốc tế; hoạt động thanh toán và phát hành thẻ luôn được song
song chú trọng với công tác chăm sóc khách hàng. Hiện tại, VCB chấp nhận thanh
toán tất cả 5 loại thẻ tín dụng phổ biến nhất trên thế giới (Visa, MasterCard,
American Express, Diner Club và JCB); phát hành thẻ tín dụng VCB Visa, VCB
MasterCard Cội nguồn, VCB American Express, thẻ ghi nợ VCB Visa Debit, VCB
MTV và VCB Connect 24.
69
Cùng với dịch vụ thẻ, các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như internet banking
(VCB-iBanking), SMS banking (VCB SMS-Banking) và thanh toán hóa đơn tự
động (billing payment) đã và đang đem lại cho khách hàng nhiều tiện ích, góp phần
củng cố hình ảnh một VCB năng động trong ứng dụng công nghệ hiện đại.
Và mới đây nhất, VCB đã chính thức triển khai dịch vụ VCB Securities-
online - một dịch vụ kết nối trực tuyến tài khoản tiền gửi của nhà đầu tư tại ngân
hàng với tài khoản đầu tư chứng khoán của họ tại Công ty chứng khoán. Dịch vụ
này một mặt hỗ trợ các công ty chứng khoán và nhà đầu tư thực hiện quy định của
nhà nước về việc tách bạch trong quản lý tài khoản tiền của nhà đầu tư mặt khác tạo
điều kiện cho nhà đầu tư có thể linh hoạt trong sử dụng đồng vốn của mình thông
qua các tiện ích thanh toán nổi trội trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại VCB. Đây
cũng là cơ hội cho nhà đầu tư tiếp cận và sử dụng các dịch vụ đa dạng khác của
ngân hàng.
Tuy nhiên, khi các đối thủ cạnh tranh trong nước ngày một lớn mạnh và đặc
biệt là sự tham gia vào thị trường bán lẻ của các ngân hàng nước ngoài hàng đầu
trên một thị trường dù có nhiều thuận lợi cho dịch vụ bán lẻ phát triển (dân số trẻ,
đông, độ thâm nhập dịch vụ ngân hàng còn thấp) nhưng có độ cạnh tranh gay gắt
như hiện nay, dịch vụ ngân hàng bán lẻ của VCB chắc chắn sẽ cần tiếp tục được
định hướng đúng đắn và đầu tư cả về nhân lực và công nghệ một cách bài bản nhằm
giữ vững và phát triển hơn nữa, tận dụng và tạo ra các yếu tố thành công trong bản
thân chặng đường sắp tới: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
3.1.3. Hoạt động tín dụng phát triển theo hướng đảm bảo mục tiêu chất lượng,
an toàn, giảm mạnh nợ tồn đọng, xử lý thu hồi nợ quá hạn.
Thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất cho đối tượng khách hàng sử dụng trọn
gói các dịch vụ ngân hàng, kinh doanh có hiệu quả, uy tín trong quan hệ vay trả nợ,
kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu như nông, lâm, thủy
hải sản, chế biến gỗ, may mặc, giày dép,… ; nhập khẩu các nguyên liệu sản xuất
như phôi thép, phôi nhôm, kẽm, thép không rỉ, … Thực hiện chính sách ưu đãi phí
70
thanh toán XNK đối với nhóm khách hàng có doanh số thanh toánh XNK lớn qua
VCB.
Tập trung đầu tư tín dụng ngắn hạn vào các doanh nghiệp lớn tại các khu
công nghiệp, kinh doanh hiệu quả, hạn chế cho vay trung dài hạn trong thời gian tới
do nền kinh tế có nhiều biến động khó dự đoán được. Đặc biệt hạn chế cho vay đầu
tư chứng khoán, kinh doanh bất động sản hay cho vay thế chấp bằng bất động sản
đáp ứng nhu cầu vay tiêu dùng.
Giảm dần dư nợ các doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro, củng cố lại tài sản thế
chấp tiến đến rút hết dư nợ của các doanh nghiệp thuộc đối tượng phải rút dư nợ
theo kế hoạch, cũng như không có khả năng phát triển trong tương lai.
3.1.4. Định hướng của VCB đối với công tác phân loại nợ và trích lập, sử dụng
DPRR tín dụng.
Với QĐ 493 của NHNN, các khoản tín dụng của NHTM có thể được phân
loại theo hai phương pháp định tính và định lượng. Về cơ bản, việc phân loại nợ
theo Điều 6 chỉ dựa trên việc đánh giá khả năng trả nợ của từng khoản vay riêng lẻ,
còn việc phân loại nợ theo Điều 7 là đánh giá toàn diện năng lực tài chính và khả
năng trả nợ của khách hàng.
Phân loại nợ định lượng đơn thuần dựa trên dữ liệu khoản nợ tại thời điểm
đánh giá và chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn, số lần cơ cấu của khoản nợ nên kết
quả phân loại phản ánh chưa sát với mức độ rủi ro của khoản nợ. Song theo một số
chuyên gia, phân loại theo phương pháp định tính có thể khiến tỉ lệ nợ xấu của một
ngân hàng tăng gấp 2-3 lần so với cách phân loại định lượng chỉ dựa vào thời gian
quá hạn của khoản vay. Đặc biệt khi những biến động bất lợi của kinh tế trong thời
gian qua có ảnh hưởng trực tiếp và tức thời đến kết quả xếp hạng khách hàng theo
hệ thống xếp hạng tín dụng thông qua các chỉ tiêu về tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
Muốn thực hiện được Điều 7 thì phải xây dựng thành công hệ thống đánh
giá, xếp hạng tín nhiệm nội bộ đối với khách hàng. Nó không chỉ giúp ngân hàng
71
phân loại nợ trung thực hơn mà còn là công cụ tư vấn, giúp ban lãnh đạo có định
hướng chiến lược kinh doanh rõ ràng, hướng nhiều hơn về khách hàng.
Lợi ích khi thực hiện chuẩn phân loại nợ theo Điều 7 thể hiện ở chỗ: nếu
phân loại nợ tốt thì chất lượng tín dụng, khả năng thanh khoản của ngân hàng được
nâng cao rõ rệt nhưng hiện tại, trong số các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ có
BIDV thực hiện.
BIDV được Thống đốc NHNN chấp thuận cho thực hiện chính sách trích dự
phòng rủi ro theo quy định tại Điều 7, QĐ 493 từ Quý IV/2006 (bằng phương pháp
chấm điểm các nhóm chỉ tiêu tài chính, phi tài chính của từng khách hàng, kết hợp
với phương pháp chuyên gia và phương pháp thống kê để xếp hạng khách hàng).
Muốn phân loại nợ theo định tính, thì phải có công nghệ tốt, nhân lực trình độ cao
(thực tế, BIDV đã phải đầu tư khá lớn để xây dựng phần mềm với hơn 28.000 dữ
liệu). Với một bộ chỉ tiêu gồm 14 chỉ tiêu tài chính và 40 chỉ tiêu phi tài chính, hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV sau hơn 2 năm triển khai đang phản ánh
chính xác chất lượng tín dụng theo thông lệ quốc tế. Tỉ lệ nợ xấu của BIDV từ mức
31% vào năm 2005 giảm xuống còn 9,6% năm 2006, thời điểm bắt đầu phân loại nợ
theo điều 7 và giảm tiếp xuống 3,9% vào cuối năm 2007. Nhờ đó, hiện các tiêu chí
phân loại nợ của BIDV đã tiệm cận chuẩn mực thông lệ quốc tế; hệ thống xếp hạng
tín dụng nội bộ của BIDV phản ánh khá chính xác chất lượng tín dụng theo thông lệ
quốc tế, để từ đó đưa ra được các biện pháp, giải pháp xử lý nợ xấu và kiểm soát nợ
xấu phát sinh.
Cách làm và những kết quả của BIDV được NHNN, Ernst & Young, tổ chức
định hạng toàn cầu Moody’s và Ngân hàng Thế giới đánh giá cao.
Hiện nay, VCB đang tiến hành phân loại nợ định lượng theo điều 6 QĐ 493.
Việc phân loại nợ được thực hiện 01 tháng/lần nhằm phát hiện sớm các khoản nợ
xấu phát sinh để có biện pháp theo dõi, quản lý kịp thời.
VCB đang hướng tới phân loại nợ theo phương pháp định tính, trong đó kết
quả xếp hạng khách hàng được coi là cơ sở chủ yếu cho việc phân loại nợ; đồng
72
thời tiến tới thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế tốt nhất nhằm
đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng, chủ động đối phó với mọi rủi ro xảy ra.
VCB có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân loại nợ theo phương pháp
định tính thì xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro như sau:
- VCB phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc
phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình
thực tế của VCB.
- Định kỳ 6 tháng một lần, VCB có văn bản báo cáo NHNN về tình hình xây
dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo quy định, gồm các nội dung sau:
+ Hệ thống xếp hạng tín dụng (quy trình xếp hạng và quy định kết quả xếp
hạng, hệ thống chấm điểm tín dụng, hệ thống cơ sở dữ liệu, quy trình kiểm
tra và kiểm soát;
+ Tình hình tiến độ thực hiện, thời gian dự kiến hoàn thành, thời gian dự kiến
áp dụng thử nghiệm và kết quả áp dụng thử nghiệm;
+ Các vấn đề đang phải xử lý;
+ Các nội dung khác có liên quan.
- Căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, VCB trình NHNN chính
sách dự phòng rủi ro và được thực hiện sau khi NHNN chấp thuận bằng văn bản.
Tình hình nợ xấu vẫn diễn biến phức tạp và chưa có chiều hướng giảm. Vì
vậy mục tiêu của VCB là không lơ là trong theo dõi, quản lý. Đối với các khách
hàng dư nợ lớn, Giám đốc chi nhánh và các bộ phận trực tiếp quản lý phải dành thời
gian thích hợp, theo dõi thường xuyên và dự trù sẵn các phương án để chủ động
ngăn ngừa phát sinh nợ xấu.
VCB sử dụng quỹ DPRR để xử lý các khoản nợ xấu theo quyết định của Hội
đồng xử lý rủi ro tại Hội sở chính trong từng thời kỳ, bao gồm cả việc tiếp tục thực
hiện các biện pháp hữu hiệu để có thể thu nợ khách hàng.
73
3.2. CÁC GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ NGHIỆP VỤ PHÂN LOẠI NỢ VÀ TRÍCH
LẬP DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VCB ĐỒNG NAI.
3.2.1. Giải pháp đối với VCB Đồng Nai.
3.2.1.1. Nâng cao công tác dự báo tình hình khách hàng.
Để có thể tiến hành phân loại nợ bằng phương pháp định tính theo điều 7 QĐ
493, công tác dự báo tình hình khách hàng cần được chú trọng. Bên cạnh các chỉ
tiêu định lượng, ngân hàng phải nắm bắt kịp thời các dấu hiệu có liên quan để nhận
định tình trạng của khách hàng, từ đó hỗ trợ cho công tác phân loại nợ đạt kết quả
chính xác.
* Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ ngân hàng.
Đây là nhóm dấu hiệu dễ nhận biết nhất, có tác động trực tiếp, với tốc độ
nhanh và trong khoảng thời gian ngắn tới chất lượng tín dụng, có thể chuyển từ
trạng thái bình thường lên cấp độ rủi ro cao, do đó đòi hỏi những phản ứng mau lẹ,
tích cực và hiệu quả. Nhóm dấu hiệu này còn gọi là nhóm dấu hiệu cảnh báo sớm,
bao gồm:
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình
kiểm tra theo định kỳ hay đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tài chính,
hoạt động sản xuất kinh doanh mà khách hàng không giải thích một cách
thuyết phục.
- Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không
giải thích thuyết phục.
- Đề nghị gia hạn/ điều chỉnh kỳ hạn nhiều lần không rõ lý do chính đáng.
- Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.
- Chậm thanh toán các khoản lãi đến hạn.
- Thanh toán nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt nhu cầu
dự kiến.
74
- Sử dụng tài trợ ngắn hạn cho họat động trung dài hạn.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ giá cao với mọi điều kiện.
* Nhóm dấu hiệu liên quan đến tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng.
Nhóm dấu hiệu này có tác động trực tiếp đến chất lượng tín dụng nhưng với
độ “trễ” lớn hơn. Các dấu hiệu này được rút ra từ chính bản thân hoạt động sản xuất
kinh doanh của khách hàng và không dễ dàng nhận biết nếu thiếu sự quản lý chặt
chẽ sâu sát của cán bộ tín dụng. Nhóm dấu hiệu này bao gồm:
- Độ lệch giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách
hàng đề nghị cấp tín dụng.
- Nhưng thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ
hoạt động của khách hàng, cụ thể như: sự gia tăng đột biến của tỷ lệ
nợ/vốn chủ sở hữu; tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh và thanh toán tức thời
có dấu hiệu sụt giảm liên tục; hàng hóa tồn kho có sự gia tăng bất thường,
tăng doanh thu nhưng giảm lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận…..
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu quản trị và điều hành.
- Xuất hiện bất đồng và mâu thuẩn trong bộ máy quản trị và điều hành, tranh
chấp trong quá trình quản lý.
- Khó khăn trong quản lý phát triển sản phẩm và dịch vụ mới.
- Những thay đổi về chính sách của nhà nước như tác động của thuế, xuất
nhập khẩu, thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô: tỷ giá, lãi suất, thay đổi công
nghệ sản xuất,… tác động bất lợi đến chiến lược, kế họach sản xuất kinh
doanh của khách hàng.
3.2.1.2. Tăng cường sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa các bộ phận có liên
quan.
Kiểm tra và phát hiện các dấu hiệu rủi ro là công việc không chỉ của một bộ
phận mà của tất cả các cán bộ tham gia vào quy trình cấp tín dụng. Để việc phân
75
loại nợ được chính xác, kịp thời đòi hỏi các bộ phận có liên quan đến công tác tín
dụng như Phòng Khách hàng, Phòng Quản lý nợ phải có sự phối hợp chặt chẽ trong
việc trao đổi thông tin khách hàng. Phòng Khách hàng phải là phòng chủ động trong
việc tìm hiểu tình hình “sức khỏe” của khách hàng, nắm bắt các thông tin liên quan
đến khách hàng và kịp thời thông báo cho Phòng Quản lý nợ để cùng xác định lại
nhóm nợ của khách hàng một cách chính xác nhất. Để đạt được điều này, mỗi cán
bộ Khách hàng phải tích cực, chủ động trong công việc; phải thường xuyên tiến
hành kiểm tra kiểm soát sau cho vay tránh việc kiểm tra mang tính hình thức, đối
phó. Cán bộ khách hàng phải luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, tránh việc nhận
thông tin một chiều dễ dẫn đến những sai lầm trong việc phân tích, đánh giá.
Ngược lại, với những thông tin thu thập được từ hệ thống cũng như trong quá
trình theo dõi khoản vay của khách hàng, Phòng Quản lý nợ cũng phải kịp thời
thông báo lại cho Phòng Khách hàng tình trạng nợ vay cuả khách hàng để có biện
pháp ứng phó và xử lý kịp thời, đồng thời trình lên Ban lãnh đạo hướng giải quyết
tối ưu. Có được sự phối hợp nhịp nhàng như vậy thì mới đảm bảo kiểm soát được
các dấu hiệu rủi ro, hạn chế tối đa các tổn thất có thể xảy ra.
3.2.1.3 . Thường xuyên tiến hành đánh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm.
Nhiều tài sản bảo đảm được nhận từ khá lâu nhưng đến nay vẫn chưa được
đánh giá lại, chưa ký phụ lục hợp đồng xác định lại giá trị tài sản thế chấp. Đây là
một thực trạng đã tồn tại từ khá lâu và Ban lãnh đạo cũng thường xuyên nhắc nhở
các phòng có liên quan công tác tín dụng quan tâm thực hiện. Tuy nhiên nhận thức
của cán bộ đối với vấn đề này vẫn chưa thông suốt và vì thế thực trạng này vẫn tiếp
diễn.
Việc cập nhật giá trị tài sản bảo đảm kịp thời sẽ phản ánh đúng giá trị cũng
như tính thanh khoản của tài sản và vì vậy đảm bảo được tính chính xác của số tiền
trích lập dự phòng cụ thể và hạn chế rủi ro.
Phòng Kiểm tra nội bộ tại chi nhánh cần thường xuyên tổ chức kiểm tra hồ
sơ tài sản thế chấp của các phòng, hoặc các phòng kiểm tra chéo hồ sơ của nhau để
76
kịp thời phát hiện sai sót, chậm trễ. Đồng thời, Ban lãnh đạo cũng cần quy trách
nhiệm cụ thể đến lãnh đạo phòng nếu cán bộ trong phòng không nghiêm túc thực
hiện.
3.2.1.4 . Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng
Để thực hiện tốt công tác phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, đòi
hỏi đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng phải có trình độ chuyên môn tốt, có khả năng
phân tích và xử lý thông tin, nhanh nhạy trong xử lý tình huống để có thể đưa ra các
quyết định kịp thời, chính xác. Cán bộ Khách hàng và cán bộ Quản lý nợ phải
thường xuyên cập nhật tình hình khách hàng, nắm bắt các hướng dẫn của VCB TW
liên quan đến quy trình phân loại nợ để chuẩn bị cho việc phân loại nợ theo điều 7
khi được NHNN cho phép. Trước mắt, cần tập trung hoàn tất việc nhập báo cáo tài
chính, báo cáo tình hình khách hàng lên hệ thống phục vụ cho công tác xếp hạng tín
dụng nội bộ; nắm bắt quy trình quản lý rủi ro theo quy định.
VCB Đồng Nai cần thành lập một bộ phận giảng dạy không thường trực gồm
các trưởng, phó phòng hoặc cán bộ có kinh nghiệm, nắm vững nghiệp vụ của
phòng, có khả năng truyền đạt thông tin tốt; tổ chức các buổi hội thảo, nói chuyện
chuyên đề để cập nhật cho cán bộ các thông tin mới có liên quan.
Ngoài ra, VCB Đồng Nai cũng cần liên kết với các trường Đại học Ngân
hàng, Đại học kinh tế, Đại học Luật, … để tổ chức các buổi tập huấn theo chuyên đề
để bổ sung kiến thức cho nhân viên.
3.2.2. Giải pháp đối với VCB Việt Nam.
3.2.2. 1. Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
* Mục tiêu hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
Mục tiêu đặt ra đối với hệ thống XHTD của VCB trước hết là nhằm kiểm
soát rủi ro tín dụng hiệu quả hơn khi kết quả xếp hạng phản ảnh được mức độ rủi ro
của danh mục tín dụng, trên cơ sở đó giúp ra quyết định tín dụng chính xác. Bên
cạnh đó, hệ thống XHTD sau điều chỉnh phải đảm bảo khả năng quản trị tín dụng
thống nhất toàn hệ thống, đây là căn cứ để VCB có thể dự báo được tổn thất tín
77
dụng theo từng nhóm khách hàng, từ đó xây dựng chiến lược và chính sách tín dụng
phù hợp.
Hoàn thiện hệ thống XHTD cũng đặt ra yêu cầu vừa phải phù hợp với thông
lệ quốc tế nhưng không xa rời với điều kiện kinh doanh riêng biệt của VCB, vừa
phải đảm bảo tính linh hoạt có thể điều chinh phù hợp với những biến động của điều
kiện kinh doanh trong tương lai, kết quả xếp hạng khách hàng phải tính đến những
dự báo về nguy cơ vỡ nợ dẫn đến mất khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối
với ngân hàng, các chi tiêu chấm điểm XHTD trong mô hình phải đảm bảo không
quá phức tạp và sát với thực tế để cán bộ nghiệp vụ tin tưởng sử dụng.
Ngoài ra, hoàn thiện hệ thống XHTD cũng đặt ra mục tiêu phân loại nợ và
trích dự phòng rủi ro theo Điều 7 của QĐ 493/2005/QĐ-NHNN đáp ứng yêu cầu
của NHNN.
* Điều chỉnh một số chỉ tiêu trong hệ thống XHTD nội bộ
Mô hình xếp hạng tín dụng là một công cụ tối ưu quản lý rủi ro trong quá
trình thẩm định và chấm điểm tín dụng. VCB được các chuyên gia tài chính thuộc
WorldBank tư vấn trong xây dựng mô hình XHTD doanh nghiệp và cá nhân áp
dụng tại các chi nhánh, do vậy, các mô hình này tương đối phù hợp với tiêu chuẩn
đang sử dụng của nhiều tổ chức tín nhiệm trên thế giới. Mô hình XHTD của VCB
tuân theo các trình tự, tiêu chí rất nghiêm ngặt và chặt chẽ, bao gồm : Hệ thống các
tiêu chí đánh giá và điểm trọng số, cách xác định giá trị của từng tiêu chí đánh giá,
cách quy đổi giá trị sang điểm của tiêu chí đánh giá, cách XHTD khách hàng và
quan điểm cấp tín dụng theo từng mức xếp hạng.
Với hệ thống XHTD, việc đo lường và định dạng các rủi ro tín dụng tại VCB
được thực hiện thống nhất. Nhìn chung thì mô hình chấm điểm khách hàng doanh
nghiệp trong hệ thống XHTD của VCB vẫn bám sát khung hướng dẫn của NHNN
nhưng có sự điều chỉnh dựa theo kinh nghiệp xếp hạng của các tổ chức tín nhiệm
trên thế giới. Mô hình chấm điểm chỉ tiêu phi tài chính đối với khách hàng doanh
nghiệp tại các chi nhánh đã có đưa vào nhóm chỉ tiêu dự báo ảnh hưởng của thay
đổi chính sách Nhà nước và dự báo tác động của cạnh tranh đến lĩnh vực kinh
78
doanh của doanh nghiệp, đây là điểm tiến bộ nhằm tăng cường khả năng dự báo
nguy cơ gặp khó khăn về tài chính trong tương lai của khách hàng được xếp hạng.
Thông qua các mô hình này, VCB tiến hành chấm điểm tín dụng đối với từng
khách hàng để làm cơ sở quyết định giới hạn tín dụng. Đây là một trong những công
cụ giúp VCB nâng cao chất lượng cấp phát tín dụng của mình, tăng cường hiệu quả
quản trị rủi ro tín dụng. Hệ thống XHTD của VCB cũng mang lại nhiều lợi ích cho
chính khách hàng. Các khách hàng được xếp loại tốt sẽ nhận được chính sách ưu
tiên cấp tín dụng, đặc biệt đối với khách hàng có lịch sử quan hệ tín dụng tốt và
được xếp hạng cao có thể áp dụng các ưu đãi về tín dụng bao gồm nới lỏng các điều
kiện cho vay, giảm lãi suất, nới lỏng các yêu cầu về tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, hệ
thống XHTD của VCB đồng thời cũng chính là bộ lọc đối với những khách hàng có
mức XHTD thấp (Từ BB đối với doanh nghiệp và B đối với cá nhân xuống đến D)
tuỳ theo mức độ xếp hạng rủi ro tín dụng để VCB tăng dần các yêu cầu về điều kiện
cho vay và tài sản đảm bảo, thậm chí là có thể áp dụng các biện pháp để tập trung
thu hồi nợ.
Ngoài chức năng xếp hạng và phân loại nợ, hệ thống XHTD còn có chức
năng hỗ trợ ra quyết định cho vay, cho phép trích lập dự phòng trực tiếp. Sau khi
được NHNN phê duyệt, VCB sẽ chính thức áp dụng trích lập dự phòng rủi ro theo
Điều 7 của QĐ 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao
về quản trị rủi ro đối với NHTM.
XHTD là một công cụ hiệu quả, mang tính khoa học trong quản trị rủi ro tín
dụng thông qua lượng hóa các đánh giá và đưa ra quyết định phù hợp. Do đó, hoàn
thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ sẽ là một trong những công việc trọng tâm
để nâng cao chất lượng tín dụng. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, mô hình chấm
điểm cần chú trọng đánh giá bổ sung các chỉ tiêu phản ảnh những biến đổi trong
chính của Nhà nước ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Đồng thời, trước mắt cần phải có
sự điều chỉnh trong nhận định một số chỉ tiêu như sau:
79
- Đối với mô hình chấm điểm XHTD doanh nghiệp tại chi nhánh, nhóm các
chỉ tiêu chấm điểm phi tài chính đang sử dụng khá phức tạp bao gồm năm nhóm chỉ
tiêu về lưu chuyển tiền tệ, trình độ quản lý, quan hệ tín dụng, các yếu tố bên ngoài
và các đặc điểm hoạt động khác. Trong số các nhóm chỉ tiêu này vẫn có những tiêu
tiêu chưa thật sát với việc đo lường nguy cơ vỡ nợ của doanh nghiệp như : Thời
gian làm lãnh đạo doanh nghiệp của giám đốc, cung cấp thông tin đầy đủ và đúng
hẹn theo yêu cầu của VCB, thu nhập từ hoạt động xuất khẩu, vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường chứng khoán, uy tín của doanh nghiệp trên toàn cầu. Hoặc có
những chỉ tiêu đang tính ngược như đa dạng hoá theo ngành, thị trường và vị trí nếu
càng đa dạng hóa thì điểm số càng cao, trên thực tiễn đã chứng minh những doanh
nghiệp đa dạng hóa nhưng không bám sát năng lực cốt lõi, không phù hợp sở
trường, hay đầu tư vào những ngành đang ở đỉnh cao của thị trường được nhiều
doanh nghiệp quan tâm đổ vốn vào chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong tương lai. Bên
cạnh đó, cũng có những chi tiêu trùng lắp như trả nợ đúng hạn, số lần giãn nợ hoặc
gia hạn nợ, nợ quá hạn trong quá khứ, số lần các cam kết một khả năng thanh toán.
Ngoài ra cũng có những chỉ tiêu vượt quá năng lực của doanh nghiệp trong đánh giá
nguy cơ mất khả năng thanh toán nợ vay như hệ số khả năng trả nợ gốc từ thu nhập
thuần nếu như doanh nghiệp vay vốn lưu động thì không phù hợp (Nguồn trả nợ
gốc khoản vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động được bố trí chủ yếu từ doanh thu).
+ Kinh nghiệm của Ban quản lý: không phải thời gian điều hành của doanh
nghiệp càng lâu càng tốt. Vì thực tế cho thấy nhà quản lý giữ vị trí điều hành doanh
nghiệp quá lâu dễ dẫn doanh nghiệp đến lối mòn, thiếu sáng tạo, hành động chủ
quan duy ý chí và bảo thủ,… Do vậy, khi đánh giá kinh nghiệm của ban điều hành
cần thêm nhiều yếu tố khác như trình độ học vấn, quá trình công tác và vị trí đã
từng nắm giữ trong quá trình làm việc,….
+ Số lượng ngân hàng khác mà khách hàng duy trì tài khoản cũng cần xem
xét lại. Vì ngày nay, một khách hàng “khôn ngoan” cần phải có quan hệ và giao
dịch với khá nhiều ngân hàng. Ngoài ra, trong điều kiện thực tế nếu như khách hàng
quan hệ tín dụng với càng nhiều TCTD, khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng
80
với các TCTD khác tốt thì có thể chứng tỏ khách hàng tốt, nhất là đối với các ngân
hàng lớn có uy tín. Do vậy, có thể loại trừ chỉ tiêu duy trì tài khoản tại nhiều TCTD
ra khỏi bảng chấm điểm.
+ Điểm dòng tiền: điều chỉnh cách tính hệ số khả năng trả gốc từ thu nhập
doanh thu chứ không phải từ doanh thu thuần như bảng chấm hiện tại.
Ngoài ra để đánh giá phân loại nợ phù hợp, ngân hàng phải kết hợp đánh giá
thêm một số tiêu thức sau của khách hàng: năng lực tài sản máy móc và thiết bị
phục vụ kinh doanh; chất lượng hệ thống báo cáo, thông tin và kiểm soát nội bộ;
khả năng hiện tại và triển vọng sắp tới về thị trường đầu ra và đầu vào; chính sách
của nhà nước.
Đối với mô hình chấm điểm XHTD cá nhân, do một số chỉ tiêu đánh giá
năng lực tài chính chưa được cập nhật theo kịp với thực trạng nên cán bộ nghiệp vụ
ngại áp dụng vì nếu chấm điểm thì kết quả xếp hạng sẽ cho kết quả cao hơn thực tế
như : Thu nhập cá nhân chỉ xét đến mức 120 triệu đồng/tháng là đạt điểm tối ưu thì
có sự cào bằng nghĩa vụ trả nợ giữa một khách hàng vay vài triệu đồng với khách
hàng vay vài chục tỷ đồng. Ngoài ra cũng có những chỉ tiêu trùng lắp như thời gian
công tác và thời gian làm công việc hiện tại khiến cho điểm của khách hàng vô tình
bị nhân đôi ở chỉ tiêu này nếu trong quá khứ chưa có sự thay đổi nơi làm việc hoặc
bị giảm đi nếu như khách hàng đó vừa được bổ nhiệm lên vị trí cao hơn với thu
nhập cao hơn và bền vững hơn.
Ngoài ra, việc xếp hạng tín dụng đối với khách hàng cũng cần phải lưu ý các
tiêu chí sau:
- Cơ sở pháp lý liên quan đến thành lập và ngành nghề kinh doanh của
khách hàng.
- Chỉ tiêu kinh tế tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính,
tài sản, khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
- Uy tín đối với VCB ở những lần giao dịch trước đây.
81
- Các tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống (đánh giá
yếu tố ngành nghề và địa phương) trên cơ sở đó xếp hạng cụ thể đối với
khách hàng.
* Cần chú trọng vào các biện pháp hỗ trợ trong việc XHTD.
Nếu chỉ dựa vào các mô hình chấm điểm XHTD để đánh giá mức độ rủi ro
của ngươi đi vay thì kết quả đạt được có thể vẫn cách xa với thực tế do sự biến động
của điều kiện kinh doanh, và không có phương pháp phân tích hay một hệ thống
phức tạp nào có thể hoàn toàn thay thế được kinh nghiệm cũng như các đánh giá
chuyên môn của cán bộ tác nghiệp. Vì vậy, VCB vẫn cần phải có sự phối hợp chặt
chẽ giữa yếu tố con người và công nghệ trong XHTD khách hàng nhằm quản trị rủi
ro tín dụng một cách có hiệu quả. Các biện pháp hỗ trợ là rất cần thiết, giúp phát
huy hiệu quả cho hệ thống XHTD của VCB, bao gồm :
- Tăng cường công tác kiểm tra khách hàng, thu thập thông tin kịp thời về
các biến động của khách hàng nhằm điều chinh chính sách tín dụng một cách hợp
lý; Đôn đốc và khuyến khích các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về kế toán và
kiểm toán.
- Xây dựng hệ thống thông tin quản trị rủi ro tín dụng đảm bảo cung cấp thông
tin một cách đầy đủ chính xác, cập nhật thường xuyên để phục vụ cho việc đánh
giá, chấm điểm XHTD khách hàng; Cần thiết lập kênh trao đổi thông tin giữa các
ngân hàng trên cơ sở cạnh tranh nhưng hợp tác nhằm đạt mục tiêu chung là ngăn
ngừa và giảm thiểu rui ro trong hoạt động tín dụng. Sử dụng tiến bộ công nghệ tin
học trong quản trị thông tin là một trong những yếu tố then chốt để phát triển cơ sở
dữ liệu khách hàng.
- Tăng cường đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng phân tích đánh giá của các
bộ phận chuyên môn. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy không có phương pháp và
công cụ phân tích nào có thể hoàn toàn thay thế được kỹ năng và kinh nghiệm của
đội ngũ chuyên gia phân tích tín dụng.
82
3.2.2. 2. Hoàn thiện chương trình hỗ trợ phân loại nợ tự động
Hiện nay VCB đã có chương trình tự động hỗ trợ các chi nhánh trong việc
phân loại nợ. Chương trình dựa trên các yếu tố định lượng của các dữ liệu khai thác
từ hệ thống như số ngày quá hạn, số lần gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ…, từ đó
căn cứ vào các quy định của QĐ 493 để phân loại vào nhóm nợ phù hợp.
Nhìn chung thì chương trình phân loại nợ tự động đã hỗ trợ chi nhánh rất
nhiều trong việc chấm đối chiếu dữ liệu phân loại nợ hằng ngày, giúp giảm bớt thời
gian theo dõi, tác nghiệp của cán bộ cũng như đảm bảo việc phân loại nợ được
chính xác hơn. Tuy nhiên, chương trình này cũng còn nhiều điểm hạn chế về lâu dài
cần phải khắc phục như:
+ Lỗi kỹ thuật phát sinh do chương trình vẫn còn phổ biến dẫn đến việc thể
hiện nhóm nợ của khách hàng đôi lúc không chính xác so với hồ sơ thực tế, buộc
cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra rà soát và điều chỉnh trên hệ thống.
+ Có những trường hợp cán bộ khai báo sai thời hạn vay trên hệ thống (ngắn
hơn so với thời hạn vay thực tế) và khi thực hiện điều chỉnh thì hệ thống tự động
hiểu đây là thao tác gia hạn nên khoản vay bị đẩy xuống nhóm nợ có rủi ro cao hơn.
+ Chương trình không tự động đưa trả về nhóm nợ có rủi ro thấp hơn đối với
các khoản vay đã hết thời gian thử thách. Do vậy, cán bộ vẫn phải tự theo dõi và
điều chỉnh tay đối với các khoản vay này.
+ Chương trình không tự động loại bỏ những khoản vay đã tất toán từ lâu ra
khỏi danh sách nên danh sách này ngày càng dài thêm, rất khó theo dõi. Do vậy, cần
thiết phải loại bỏ những khoản vay đã tất toán và hết thời gian thử thách ra khỏi
danh mục cần theo dõi.
3.2.2. 2. Củng cố và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng.
VCB đã thành lập phòng Thông tin tín dụng từ khá lâu với mục tiêu hỗ trợ
cung cấp thông tin cho các chi nhánh phục vụ công tác thẩm định tín dụng và quản
trị rủi ro tín dụng. Thời gian qua hoạt động của bộ phận này khá hiệu quả, phối hợp
hỏi tin theo yêu cầu của chi nhánh với phạm vi cung cấp thông tin tương đối rộng
83
(liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng;
quan hệ tín dụng với các ngân hàng, tình hình công ty mẹ…). Tuy nhiên, kết quả
hỏi tin thường có độ trễ do không khai thác trực tiếp được từ hệ thống thông tin tín
dụng nội bộ mà phải thông qua phiếu hỏi tin và hầu hết đều bị tính phí. Do vậy, để
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chi nhánh trong việc khai thác thông tin, VCB TW
cần nâng cấp mạng thông tin tín dụng nội bộ và cập nhật thường xuyên kịp thời
những thông tin có liên quan đến các khách hàng có quan hệ tín dụng tại VCB để
chi nhánh chủ động khai thác thông tin khi cần thiết.
3.2.3. Các giải pháp hỗ trợ khác.
- NHNN cần hoàn thiện văn bản pháp lý, hoàn chỉnh các thiếu sót bất
cập của QĐ 493, cụ thể ở những điểm sau:
+ Quy định về TSBĐ tính dự phòng:
Theo QĐ số 18 sửa đổi bổ sung QĐ 493 thì tài sản bảo đảm đưa vào để khấu
trừ khi tính số tiền dự phòng cụ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện: Tài sản phải
phát mãi được; và: thời gian tiến hành phát mại tài sản theo dự kiến là không quá
một (01) năm đối với TSBĐ không phải là bất động sản và không quá hai (02) năm
đối với TSBĐ là bất động sản.
Như vậy, theo quy định này thì tài sản bảo đảm là thư bảo lãnh các loại sẽ
không được đưa vào khấu trừ để tính dự phòng vì những tài sản này không phát mại
được. Trên thực tế thì thư bảo lãnh của chính phủ, của các TCTD có giá trị bảo đảm
cao hơn các loại tài sản khác. Nếu loại ra khỏi tài sản bảo đảm để tính dự phòng thì
sẽ “thiệt thòi” cho các ngân hàng thương mại khi nhận bảo đảm bằng các tài sản
này. Như vậy, NHNN nên xem xét chấp nhận các loại bảo lãnh thanh toán của bên
bảo lãnh có uy tín là một loại tài sản được đưa vào khấu trừ để tính trích lập DPRR.
+ Quy định về thời gian thử thách:
Theo điều 6 QĐ 493 thì một khoản vay bị xuống hạng phải chịu thời gian thử
thách là 03 tháng đối với khoản vay ngắn hạn và 06 tháng đối với khoản vay trung
dài hạn là tương đối dài. Vì các khoản vay ngắn hạn có tính chất luân chuyển
84
thường xuyên và đến hạn liên tục. Đôi khi vì lý do khách quan mà khách hàng chậm
trả nợ hoặc được gia hạn nợ một thời gian ngắn nên toàn bộ nợ vay bị xuống hạng
và phải tối thiểu 3 tháng sau mới được lên hạng trở lại trong khi tình hình kinh
doanh chung của công ty là rất tốt. Nên chăng đối với các khoản vay ngắn hạn, chỉ
cần khách hàng tất toán được khoản nợ là có thể chuyển về nhóm nợ tốt hơn.
+ Phân loại nợ theo điều 6 và điều 7 đem lại kết quả rất khác nhau. Cùng
với các yếu tố kỹ thuật, tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng cao khi phân loại nợ theo phương pháp
định tính. Do vậy, cần có quy định cụ thể về thời gian áp dụng điều 7 và chế tài
thích hợp để đảm bảo việc phân loại nợ được công bằng giữa các TCTD trên một
mặt bằng đánh giá chung. .
- Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng tại Trung tâm thông tin tín dụng
của NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật và chính xác về khách hàng.
Có những biện pháp tuyên truyền thích hợp để các NHTM nhận thấy quyền lợi và
nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng. Theo đó:
+ CIC phải cập nhật được sự phân loại khách hàng theo từng khoản nợ,
đánh giá theo từng nhóm nợ của khách hàng, chuẩn hóa các quy trình tự động xử
lý dữ liệu (Hiện chỉ có CIC mới có đầy đủ nhất số liệu của khách hàng trên toàn
quốc, có quan hệ với các hãng chuyên thu nhập và cung cấp thông tin trên thế
giới)
+ Nội dung thông tin do CIC cung cấp cần đa dạng, không nên dừng lại ở
các báo cáo tài chính, dư nợ tại các TCTD, tình trạng nợ quá hạn,… mà cần có thêm
thông tin về công ty mẹ ở nước ngoài (nếu có), tình hình ngành nghề,… để giúp các
NHTM thực hiện công tác thẩm định cấp tín dụng và phân loại nợ tốt hơn, nhanh
hơn và đồng thời cũng hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
+ CIC phải khách quan về độ chuẩn xác và giá trị pháp lý của thông tin, về
các khoản nợ của một khách hàng vay tại nhiều TCTD. Thông tin trên CIC cần
phải được cập nhật liên tục hàng ngày để khi mọi người có nhu cầu thì sẽ tra cứu
được những thông tin mới nhất.
85
- NHNN cần có những quy định cụ thể về cơ chế đánh giá các khoản nợ
của một khách hàng vay tại các TCTD khác nhau. Cần thiết ban hành hoặc bổ
sung thêm một số điều QĐ 493 về công tác đánh giá nợ của một khách hàng vay tại
nhiều TCTD khác nhau. Có biện pháp chế tài các TCTD vi phạm không phối hợp
trong đánh giá nợ theo tiêu chuẩn do NHNN ban hành. Trong đánh giá cần phải chú
trọng thông tin tín dụng do CIC cung cấp.
- NHNN cần phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các
khoá đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cập nhật cho bộ phận tín dụng tại các
NHTM để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích, kiểm soát rủi ro tín
dụng. Thường xuyên tập huấn cho các ngân hàng thương mại về các trường hợp
phát sinh mới trong phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro hướng dẫn biện pháp
xử lý với các trường hợp cụ thể. Định kỳ hàng năm tổ chức các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ để giải đáp thắc mắc và vướng mắc trong quá trình thực hiện trích lập dự
phòng rủi ro.
- Chính phủ cần có cơ chế hoàn thiện môi trường pháp lý cho các NHTM,
xem xét các quy định về định giá và bán đấu giá tài sản bảo đảm tiền vay nhằm giúp
ngân hàng giải phóng vốn nhanh. Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều bị vướng ở
khâu xử lý tài sản bảo đảm. Do vậy, cần thiết phải có sự hỗ trợ từ những chính sách
của nhà nước nhằm đảm bảo công tác thi hành án, phát mãi tài sản được nhanh
chóng, đúng tiến độ.
- UBND Tỉnh Đồng Nai cần sớm có hướng tháo gỡ đối với những trường hợp
doanh nghiệp thuê đất trong khu công nghiệp đã lâu mà vẫn chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để tạo điều kiện cho ngân hàng hoàn tất thủ tục nhận
thế chấp. Khi đó những tài sản này mới đủ điều kiện đưa vào tính khấu trừ để trích
lập DPRR theo quy định.
86
Kết luận chương 3
Chương này giới thiệu về một số mục tiêu và định hướng phát triển của VCB
trong thời gian tới. Từ đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác phân loại nợ và
trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng tại VCB Đồng Nai và một số đề xuất, kiến
nghị đến VCB Việt Nam, NHNN và Chính phủ nhằm hỗ trợ công tác phân loại nợ,
trích lập DPRR tín dụng được chính xác, hiệu quả hơn.
87
KẾT LUẬN
Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh chứa đựng rất nhiều rủi ro
do nhiều nguyên nhân mang lại. Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép
và cần phải trích lập quỹ dự phòng để bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra.
Trong quản trị ngân hàng, quản trị rủi ro tín dụng là một nội dung quan trọng mà
các cấp lãnh đạo phải đặc biệt quan tâm, nó là thước đo năng lực “sống“ hay “chết”
của một NHTM. Việc NHNN ban hành và cho thực thi QĐ 493 trong phân loại và
trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng được xem là một bước tiến ban đầu
trong tiếp cận an toàn vốn, không chỉ nhằm mục đích phân loại nợ, mà còn nhằm
đánh giá rủi ro khoản vay, quản lý chất lượng tín dụng. Đây được coi là biện pháp
hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tài chính trên bước đường hội
nhập.
Từ thực tế hoạt động cũng như những khó khăn, thuận lợi trong môi trường
kinh doanh của chi nhánh VCB Đồng Nai, tác giả đã mạnh dạn đề xuất các giải
pháp cụ thể để quản trị nghiệp vụ phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
tại chi nhánh Đồng Nai. Luận văn có những hạn chế như sau:
(1). Chỉ mới đi sâu vào nội tại của 1 đơn vị là Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam. Chưa mở rộng đề tài sang toàn hệ thống Ngân hàng TMCP,
TMNN …
(2). Chưa đề cập toàn bộ thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng, biện
pháp hạn chế và xử lý RRTD ngoài biện pháp trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro
trong mối quan hệ tác động với biện pháp trên.
(3) Chưa bao quát được toàn bộ quá trình quản trị rủi ro của hệ thống
ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Do kinh nghiệm và kiến thức trong lĩnh vực ngân hàng còn nhiều hạn chế, tác
giả không thể tránh khỏi các thiếu sót khi thực hiện luận văn. Đây là một đề tài rất
88
thực tiễn đòi hỏi sự tìm tòi học hỏi và áp dụng từ thực tế liên tục nhằm mang lại sự ổn
định và an toàn cho hoạt động thường ngày của các ngân hàng thương mại.
Vì thời gian ngắn, trình độ còn nhiều hạn chế nên luận văn còn nhiều mặt chưa
hoàn thiện. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân tình của Quý Thầy cô, các bạn
học viên.
Xin chân thành cám ơn Quý Thầy cô Trường Đại học Kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy và hướng dẫn trong suốt khóa học với rất
nhiều kiến thức, thông tin bổ ích, thiết thực. Xin chân thành cám ơn PGS.TS Bùi
Kim Yến đã hết lòng giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Trần Huy Hoàng, “Quản trị ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản
Thống Kê.
2. Ngô Hướng (chủ biên) (2001), “Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng”,
Nhà xuất bản Thống kê.
3. Luật NHNN, Luật các TCTD, Quyết định 493, Quyết định 18, Tài liệu tập huấn
QĐ 493 cho các Chi nhánh VCB.
4. Ngân hàng Nhà nước CN.Đồng Nai, “Báo cáo sơ kết hoạt động ngân hàng trên
địa bàn Đồng Nai” năm 2006, 2007, 2008.
5. Tài liệu nội bộ về hoạt động tín dụng của Vietcombank.
6. Báo cáo thường niên của VCB Đồng Nai các năm 2005-2008.
7. Nguyễn Đào Tố (2008), “Nâng cao công tác Quản trị rủi ro tín dụng tại VCB
Quảng Ngãi ”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học kinh tế TPHCM.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp quản trị nghiệp vụ phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại VCB Đồng Nai.pdf