Đây là một loạt bài tiểu luận nhóm của lớp mình môn Quản trị rủi ro .
File word - 26 trang
Chúc bạn thu được những kiến thức bổ ích.
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Chúng ta đã gia nhập sân chơi kinh tế lớn nhất thế giới. Điều này là kết quả nổ lực không ngừng của toàn dân tộc sau hơn 30 năm thống nhất đất nước. Đây chính là lúc để Việt Nam chính thức giới thiệu và khẳng định tên tuổi trên bản đồ kinh tế thế giới. Tuy vậy, không có con đường đi đến vinh quang mà không có chông gai. Chấp nhận tham gia sân chơi lớn ta phải chấp nhận đối đầu với những đối thủ lớn, những thử thách lớn. Do đó, cơ hội và rủi ro sẽ luôn đồng hành chúng ta trên con đường vinh quang này. Một doanh nghiệp biết nắm bắt cơ hội sẽ phát triển vượt bậc. Một doanh nghiệp biết giải quyết rủi ro sẽ tồn tại vững chắc. Vậy nắm bắt cơ hội và quản lý rủi ro là phương tiện để phát triển bền vững!
Hiện nay, ngành cà-phê nước ta đang đứng vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu (sau Bra-xin). Đó không phải là do may mắn mà cũng là sự cố gắng của Đảng Nhà nước và doanh nghiệp.kinh doanh cà-phê của Việt Nam. Tuy nhiên với việc gia nhập WTO đã không những mở ra cơ hội mà nó còn đem lại những rủi ro khắc nghiệt hơn cho ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt là những rủi ro trong cạnh tranh. Chúng ta cần phải cố gắng thực để tìm ra những giải pháp cho những rủi ro này
Mục tiêu nghiên cứu
Với mong muốn được nghiên cứu ứng dụng kiến thức. Chúng tôi đã chọn đề tài “Giải pháp cho rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê”. Với mục tiêu xác định được những rủi ro trong cạnh tranh mà ngành cà phê đang và sẽ gặp sau đó đưa ra những kiến nghị để quản trị những rủi ro này.
Phương pháp nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ nghiên cứu xây dựng trên cơ sở dữ liệu thứ cấp. Dựa vào những thông tin đáng tin cậy để đưa ra nhận xét và kết luận.
Phạm vi nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu chỉ tập trung vào phân tích những rủi ro bên trong đặc trưng của ngành cà phê và những rủi ro trực tiếp trong môi trường vi mô.
Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 5 phần :
Phần 1: Tổng quan về tình hình cà phê Việt Nam
Phần 2: Những rủi ro trong ngành cà phê Việt Nam
Phần 3 : Rủi ro trong môi trường cạnh tranh ngành cà phê Việt Nam.
Phần 4 : Những bài học kinh nghiệm trong phòng chống rủi ro trong cạnh tranh.
Phần 5: Những giải pháp khắc phục rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê.
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5309 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp quản trị rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Chúng ta đã gia nhập sân chơi kinh tế lớn nhất thế giới. Điều này là kết quả nổ lực không ngừng của toàn dân tộc sau hơn 30 năm thống nhất đất nước. Đây chính là lúc để Việt Nam chính thức giới thiệu và khẳng định tên tuổi trên bản đồ kinh tế thế giới. Tuy vậy, không có con đường đi đến vinh quang mà không có chông gai. Chấp nhận tham gia sân chơi lớn ta phải chấp nhận đối đầu với những đối thủ lớn, những thử thách lớn. Do đó, cơ hội và rủi ro sẽ luôn đồng hành chúng ta trên con đường vinh quang này. Một doanh nghiệp biết nắm bắt cơ hội sẽ phát triển vượt bậc. Một doanh nghiệp biết giải quyết rủi ro sẽ tồn tại vững chắc. Vậy nắm bắt cơ hội và quản lý rủi ro là phương tiện để phát triển bền vững!
Hiện nay, ngành cà-phê nước ta đang đứng vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu (sau Bra-xin). Đó không phải là do may mắn mà cũng là sự cố gắng của Đảng Nhà nước và doanh nghiệp.kinh doanh cà-phê của Việt Nam. Tuy nhiên với việc gia nhập WTO đã không những mở ra cơ hội mà nó còn đem lại những rủi ro khắc nghiệt hơn cho ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt là những rủi ro trong cạnh tranh. Chúng ta cần phải cố gắng thực để tìm ra những giải pháp cho những rủi ro này
Mục tiêu nghiên cứu
Với mong muốn được nghiên cứu ứng dụng kiến thức. Chúng tôi đã chọn đề tài “Giải pháp cho rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê”. Với mục tiêu xác định được những rủi ro trong cạnh tranh mà ngành cà phê đang và sẽ gặp sau đó đưa ra những kiến nghị để quản trị những rủi ro này.
Phương pháp nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ nghiên cứu xây dựng trên cơ sở dữ liệu thứ cấp. Dựa vào những thông tin đáng tin cậy để đưa ra nhận xét và kết luận.
Phạm vi nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu chỉ tập trung vào phân tích những rủi ro bên trong đặc trưng của ngành cà phê và những rủi ro trực tiếp trong môi trường vi mô.
Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 5 phần :
Phần 1: Tổng quan về tình hình cà phê Việt Nam
Phần 2: Những rủi ro trong ngành cà phê Việt Nam
Phần 3 : Rủi ro trong môi trường cạnh tranh ngành cà phê Việt Nam.
Phần 4 : Những bài học kinh nghiệm trong phòng chống rủi ro trong cạnh tranh.
Phần 5: Những giải pháp khắc phục rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê.
Tổng quan về tình hình cà phê Việt Nam.
Những thuận lợi và khó khăn của Cà phê Việt Nam.
Thuận lợi.
Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Bắc.
Trong đó: tính đến năm 2009 Tây Nguyên đã có 434 nghìn ha cà phê, chiếm hơn 80% diện tích và sản lượng cà phê cả nước.
- Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng mưa phân bố đều các tháng trong năm , nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố ấy đều có ở Việt Nam.
- Các tài nguyên thiên nhiên về đất, nước, rừng, động vật hoang dã tại các vùng trồng cà phê, đặc biệt là vùng đất Tây Nguyên là vô cùng đa dạng và phong phú, cùng với tổng thể cây cà phê đã tạo ra một hỗn hợp sản phẩm công nghiệp, du lịch sinh thái - hoang dã - văn hóa, tạo ra các khái niệm và điểm đến có thể thu hút sự chú ý của thế giới, để cộng hưởng và quảng bá cho thương hiệu chung của cà phê Việt Nam.
Về nhân công : Tận dụng nguồn nhân công dồi dào, ngành cà phê của nước ta hiện đang thu hút hàng triệu lao động nhưng phần lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi như khu vực Tây Nguyên ( Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Kom Tum, Đắc Nông) và khu vực miền núi Tây Bắc.
Do tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn và miền núi nên tạo điều kiện tận dụng nguồn nhân công giá rẻ đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Nhờ đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Kỹ thuật canh tác : Nhận biết được tầm quan trọng của cây cà phê đối với nền kinh tế, nhà nước ta đã và đang không ngừng hỗ trợ và phát triển kỹ thuật cho cây cà phê. Những kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê ngày càng được chú trọng và nâng cao giúp cho việc giữ ổn định và áp dụng kỹ thuật thâm canh cà phê ở những nơi có điều kiện sinh thái thích nghi; ghép, cải tạo hoặc tái canh bằng các giống cà phê mới, đồng thời thực hiện canh tác đúng quy trình thâm canh, tăng năng suất và chất lượng cà phê xuất khẩu; tiến hành thu hoạch cà phê đúng độ chín.
Những ngành công nghiệp bổ trợ và liên quan:Sau 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới. Những năm gần đây, nhiều công ty, nông trưòng đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ CHLB Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense-Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil.
Hiện nay, Trung Nguyên nói riêng và các nhà sản xuất chế biến cà phê Việt Nam nói chung luôn hết sức chú trọng khâu nghiên cứu, chọn lọc công nghệ chế biến cà phê hiện đại từ các quốc gia hàng đầu về công nghệ như Đức, Đan Mạch, Ý và kết hợp với các nhà tư vấn hàng đầu quốc tế để chọn ra những công nghệ tối ưu nhất, giúp Việt Nam không chỉ dừng lại ở chế biến cà phê thô để xuất khẩu mà còn các mặt hàng phong phú khác như: Cà phê sâm, cà phê hòa tan, cà phê lon uống liền, cà phê hạt rang .v.v.
Ngoài ra, ngành công nghiệp bánh kẹo hay công nghiệp nước giải khát cũng tạo ra những sản phẩm manh hương vị cà phê.
Tất cả những điều nêu trên đã giúp cho ngành công nghiệp chế biến cà phê trong nước ngày càng phát triển hơn và hỗ trợ cho ngành nông nghiệp cà phê Việt Nam.
Các yếu tố khác:Theo số liệu của Hiệp hội cà phê Việt Nam, cà phê mang thương hiệu Việt Nam hiện nay được tiêu dùng ở trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với sản lượng xuất khẩu bình quân đạt 850.000 tấn/năm
Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới ngày một tăng cao, ngành cà phê Việt Nam đang có lợi thế hướng đến việc chi phối thị trường cà phê thế giới trong những năm tới. Đó chính là chúng ta có sản lượng cà phê robusta (cà phê vối) lớn nhất với giá thành sản xuất thấp, tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu khác.
Dự báo tiêu thụ cà phê thế giới sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới với tốc độ khoảng 2%/năm và đến năm 2015 thế giới cần tới 140 triệu bao. Đồng thời, việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mang lại cho ngành cà phê Việt Nam một thị trường khổng lồ với hơn 5 tỷ người tiêu thụ và kim ngạch nhập khẩu hàng năm trị giá đến hàng chục tỷ đôla. Đây thực sự là một cơ hội vàng đối với một quốc gia có diện tích trồng cà phê trên 500.000 ha như nước ta.
Vụ cà phê năm 2009 được mùa, đầu vụ bán với giá khá cao, trên dưới 1.500 USD/tấn, đến giữa vụ (khoảng tháng 6), giá cà phê xuống thấp, chỉ bán được khoảng 1.400 USD/tấn. Giá bán trong nước từ 25 triệu đồng/tấn giảm xuống còn 23 triệu, thậm chí hơn 21 triệu đồng/tấn. Nhiều người cho rằng, giá cà phê xuống nhanh như vậy là do sự đầu cơ của những nhà nhập khẩu cà phê Việt Nam. Điều này không phải là không có cơ sở bởi hiện đang có khoảng 12 nhà nhập khẩu cà phê nước ngoài có mặt tại Việt Nam, tiến hành thu mua cà phê ngay tại vườn, nếu họ muốn đầu cơ thì hoàn toàn có thể.
Bên cạnh đó, giá cà phê còn phụ thuộc vào cán cân cung – cầu. Năm nay, cà phê của chúng ta được mùa, trong khi Colombia, nước xuất khẩu cà phê lớn lại mất mùa. Do đó, vào đầu vụ, thị trường thế giới thiếu hụt cà phê chất lượng cao, người ta tìm mua cà phê của Việt Nam. Khi người ta thu mua đã đủ để dự trữ, người ta có cơ hội để đầu cơ.
Thách thức cà phê Việt Nam hiện tại và trong thời gian tới.
Nhiều diện tích cà phê đã chuyển sang giai đoạn gìà cỗi, phát triển không theo quy hoạch. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt nam thì trong tổng số trên 500.000 ha cà phê của cả nước hiện nay chỉ có khoảng 274.000ha, chiếm 54,8% được trồng ở giai đoạn sau năm 1993, trong độ tuổi từ 10 – 15 năm. Đây là số diện tích cà phê đang ở giai đoạn sung sức và cho năng suất cao nhất. Trong những năm tới sản lượng cà phê Việt nam phụ thuộc chủ yếu vào diện tích này. Trong khi đó số diện tích cà phê còn lại có 139.600 ha , chiếm 27,9% được trồng trong giai đoạn từ 1988 – 1993, đến nay ở tuổi từ 15 – 20 năm, phần lớn diện tích này đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn già cỗi và khả năng cho năng suất giảm dần. Số diện tích cà phê trồng từ trước năm 1988 đến nay đã trên 20 năm tuổi có tới 86.400ha chiếm 17,3%. Những diện tích này đã già cỗi và không còn khai thác có hiệu quả cần phải được thay thế.
Như vậy có thể thấy rằng trong thời gian 5 – 10 năm tới sẽ có trên 50% diện tích cà phê của Việt nam đã hết thời kỳ kinh doanh có hiệu quả phải cưa đốn phục hồi hoặc phải trồng lại. Cùng với diện tích cà phê già cỗi tăng lên thì tổng sản lượng cà phê của cả nước sẽ giảm xuống, không còn khả năng duy trì ở con số khoảng 1 triệu tấn như hiện nay.
Mặc dù một số năm gần đây do giá cả tăng cao, số diện tích cà phê trồng mới được tăng lên đáng kể, có năm tới gần 30.000ha. Nhưng hầu hết những diện tích trồng mới này không nằm trong vùng quy hoạch, chủ yếu là được trồng trên những nơi không thích hợp như tầng đất nông, độ dốc lớn, nơi thiếu nguồn nước tưới v.v… và không ít trong số đó là đất rừng. Do vậy dù diện tích trồng mới có tăng lên, nhưng do được trồng ở những vùng không thích hợp sẽ khó có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao do năng suất thấp và chi phí sản xuất tăng cao. Số diện tích trồng mới này không những không đủ bù đắp phần sản lượng thiếu hụt của những diện tích cà phê già cỗi phải thanh lý mà còn đe dọa trực tiếp đến tính bền vững của những diện tích cà phê còn lại do môi trường bị hủy hoại, trong đó đặc biệt là nguồn nước tưới.
Cùng với việc mở rộng diện tích không theo quy hoạch, ngành cà phê Việt nam trong những năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ 1990 trở đây do có nhiều năm giá cà phê lên cao người trồng cà phê đã loại bỏ cây che bóng, đồng thời tăng cường bón phân hóa học, lượng nước tưới v.v… nhằm mục đích đạt được năng suất tối đa. Những biện pháp thâm canh cao độ này không những đã làm cho cây cà phê nhanh chóng bị kiệt sức, sớm già cỗi mà còn làm cho môi trường đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, làm phát sinh nhiều loại sâu, bệnh hại, trong đó đặc biệt là nấm bệnh và tuyến trùng hại rễ. Thực tế trong những năm qua đã có hàng chục ngàn ha cà phê bị bệnh không có khả năng phục hồi phải thanh lý và nhiều diện tích cà phê già cỗi sau khi thanh lý cũng không có khả năng trồng lại được cà phê.
Thiếu hụt lao động, chi phí sản xuất ngày một tăng cao. Quá trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê đòi hỏi rất nhiều công lao động. Để thực hiện các khâu chăm sóc làm cỏ, bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh hại v.v… và thu hoạch trong một năm, trung bình 1 ha cà phê cần từ 300 – 400 công lao động, trong đó riêng công thu hái chiếm tới trên 50%. Trước đây vào thời kỳ thu hoạch cà phê thường có hàng ngàn lao động từ các tỉnh ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu long đến vùng Tây nguyên để tham gia thu hái cà phê, nhưng bắt đầu từ một hai năm trở lại đây số lao động ở các vùng này đến Tây nguyên vào mùa thu hoạch cà phê đã giảm đi rõ rệt. Do mang tính chất thời vụ rất khắt khe, trong khoảng thời gian thu hái rất ngắn chỉ khoảng 2 tháng đòi hỏi số công lao động rất lớn chiếm trên 50% số công trong năm đã làm cho tình trạng thiếu hụt lao động càng trở nên trầm trọng, từ đó đẩy giá ngày công lên cao. Trước sức ép về thiếu hụt lao động và chi phí ngày công tăng cao, để giảm chi phí công thu hái người nông dân có xu hướng giảm số lần thu hái xuống còn một đến 2 lần dẫn đến chất lượng cà phê bị giảm sút do thu hái quả xanh và thiếu hụt điều kiện phơi xấy.
Quá trình công nghiệp hóa không những không thu hút được lực lượng lao động đến từ các vùng khác mà ngay cả một bộ phận lực lượng lao động thanh niên trẻ, khỏe từ các vùng trồng cà phê về các thành phố, khu công nghiệp làm cho lực lượng lao động trong ngành cà phê ngày càng thiếu hụt trầm trọng. Như vậy có thể thấy trước rằng trong những năm tới việc thiếu hụt lao động sẽ là một áp lực nặng nề cho người trồng cà phê và chi phí công lao động sẽ ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi phí sản xuất. Lợi thế cạnh tranh về giá ngày công lao động rẻ trong ngành cà phê Việt nam so với các nước khác sẽ không còn.
Cùng với sự thiếu hụt lao động và chi phí nhân công tăng cao, giá cả vật tư phân bón, xăng dầu v.v… cũng đang có xu hướng ngày càng tăng cao sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng lên, lợi nhuận thu được từ sản xuất cà phê sẽ ngày một giảm sút. Thực tế trong năm vụ 2007 – 2008 tuy giá cà phê có tăng cao nhưng do chí phí công lao động và vật tư phân bón v.v… tăng cao nên người trồng cà phê vẫn không thu được nhiều lợi nhuận.
Sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, trên 80% diện tích cà phê cả nước do các hộ nông dân trực tiếp quản lý, số diện tích cà phê còn lại thuộc các doanh nghiệp Nhà nước quản lý, nhưng sau khi thực hiện cơ chế giao khoán đến từng người lao động thì số diện tích này thực chất cũng do hộ nông dân quản lý. So với nhiều nước trồng cà phê trên thế giới thì các hộ nông dân trồng cà phê của Việt nam đều thuộc dạng nhỏ, lẻ, diện tích hẹp trung bình từ 0,5 – 1ha và mang tính tương đối độc lập. Số hộ gia đình có diện tích lớn trên 5 ha và sản xuất dưới hình thức trang trại chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Do hình thức tổ chức sản xuất dưới dạng hộ gia đình phân tán, nhỏ lẻ và tương đối độc lập dẫn đến suất đầu tư/ tấn sản phẩm của từng hộ gia đình nói riêng và toàn ngành cà phê nói chung tăng cao do hộ gia đình nào cũng phải tự mua sắm máy bơm, phương tiện vận chuyển, máy xay xát v.v… đầu tư xây dựng sân phơi, kho tàng, v.v… nhưng hiệu quả sử dụng thấp vì chỉ sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn trong năm từ đó làm tăng chí phí sản xuất dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Việc tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ cũng như các dịch vụ khác như vay vốn tín dụng, ngân hàng v.v… cũng hết sức khó khăn, do diện tích nhỏ, manh mún và khả năng tài chính hạn hẹp. Nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, trong đó đặc biệt là nguồn nước ngầm và tài nguyên rừng. Cũng do hình thức tổ chức theo kiểu sản xuất, nhỏ lẻ, phân tán và tính độc lập tương đối của các hộ gia đình nên sản phẩm làm ra không những chất lượng không cao mà còn không ổn định do điều kiện hiểu biết và mức độ đầu tư cho khâu thu hái chế biến khác nhau, từ đó làm cho chất lượng cà phê của toàn ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc xây dựng thương hiệu, chứng chỉ chất lượng hàng hóa khó có thể thực hiện được. 1.2. Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Theo như số liệu thống kê và biểu đồ trên ta thấy diện tích trồng cà phê của Việt Nam tăng đều từ năm 1990 đến năm 2001. Khi đạt đến mức 535.000ha vào năm 2001 thì diện tích cà phê gần như không tăng mà có xu hướng giảm nhẹ. Từ năm 2002 cho đến nay diện tích trồng cà phê ở Việt Nam chỉ giao động ở quanh mức 500.000ha là do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa ra Chỉ thị về phát triển cà phê. Theo đó, bộ quy định diện tích đất trồng cà phê chỉ ở 500.000ha, hướng đến tăng năng suất trồng trên mỗi ha. Đặc biệt vào năm 2008, diện tích đất trồng cà phê tăng lên tới 520.000ha là do giá cà phê tăng đột biến nên người dân đã đua nhau phá rừng trồng cây cà phê.
Theo như số liệu thống kê, từ năm 1990 đến năm 1995, sản lượng xuất khẩu cà phê tăng đều do diện tích trồng cà phê tăng. Đặc biệt, tình trạng thiếu hụt cà phê lớn trong những năm 1994-1995 đã làm cho giá cà phê tăng đột biến 2393,56 USD/tấn.
Từ năm 1996 đến 2002 sản lượng xuất khẩu vẫn tăng nhưng giá trị xuất khẩu tăng giảm không ổn định. Giai đoạn 1999-2002, do cung vượt quá cầu nên giá cà phê xuất khẩu giảm chưa từng thấy nên mặc dù sản lượng xuất khẩu cao hơn so với những năm trước nhưng giá trị xuất khẩu sụt giảm.
Niên vụ 2002-2003, sản lượng cà phê xuất khẩu giảm do thời tiết khô hạn kéo dài tại các tỉnh Tây Nguyên và một số nước xuất khẩu lớn vào năm 2002. Đến đầu năm 2003 nguồn cà phê của các nước xuất khẩu bị hạn chế trong khi nhu cầu mua vào của các nhà đầu tư, các nhà máy rang xay trên thế giới tăng đã thúc đẩy giá tăng nhanh hơn.
Những năm tiếp theo (2004 đến 2006) sản lượng xuất khẩu cà phê ở tăng so với năm trước, sản lượng trung bình khoảng 838.000 tấn. Kể từ niên vụ 2004-2005, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê bắt đầu áp dụng phương thức hợp đồng kỳ hạn với thị trường cà phê thế giới. Điều này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong xuất khẩu cà phê. Người trồng cà phê và doanh nghiệp trong nước không còn bị thiếu thông tin hay phải bán với giá quá thấp so với thị trường thế giới nữa.
Niên vụ 2007- 2008, cả nước xuất khẩu được 1.077.375 tấn cà phê nhân, đạt giá trị kim ngạch trên 2,087 tỷ USD. Sản lượng cà phê xuất khẩu niên vụ 2007/2008 giảm 6,5% (đạt 1,077 triệu tấn) nhưng do giá xuất khẩu tăng cao (bình quân cả niên vụ đạt 1.937 USD/T, tăng 474 USD/T so với niên vụ trước) nên kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 500 triệu USD so với niên vụ 2006/2007. Đây là niên vụ thứ 3 liên tiếp ngành cà phê Việt Nam thu được nhiều thành tích, kim ngạch xuất khẩu cao và là vụ đầu tiên có kim ngạch xuất khẩu đạt 2,087 tỷ USD. Điều đáng chú ý là trong niên vụ này các doanh nghiệp đã phối hợp với nhau khá tốt, bán rải đều cà phê trong suốt niên vụ nên không để xảy ra tình trạng đầu vụ bán và giao hàng ồ ạt gây tác động xấu tới thị trường, tránh tình trạng bị khách hàng ép giá.
Năm 2009, sau khi tăng mạnh vào cuối tháng 7, giá cà phê có xu hướng giảm liên tiếp trên khắp các sở giao dịch trong tháng 8. Theo giới thương gia, giá cà phê biến động thất thường là do hoạt động giao dịch trục lợi của các nhà đầu cơ, các quỹ hàng hoá chứ không liên quan nhiều tới tình hình cung cầu vì cán cân này hiện nay khá cân bằng. Ngoài ra, việc đồng USD tăng giá một số thời điểm cũng gây giảm sức hút đầu tư vào hàng hoá và ép giá cà phê. Song nhìn chung, xu hướng giảm giá vẫn lấn át trong 8 tháng đầu năm 2009.
Thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Hiện cà phê nhân của Việt Nam đã xuất khẩu qua 75 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo như thống kê của Cục Hải quan, sản lượng và giá trị xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2009 như sau:
Bỉ đã trở thành thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt chiếm 26% về giá trị, kế đến là Đức 18% và Mỹ là 14%.
1.3. Chính sách cà phê của Việt Nam trong thời gian gần đây và trong tương lai.
Gần đây, khi giá cà phê trên thị trường sụt giảm khá mạnh thì nhà nước đã chỉ đạo cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam vay tiền để mua tạm trữ 200.000 tấn cà phê với lãi suất ưu đãi để giúp đỡ người dân và các doanh nghiệp nhỏ lẻ vượt qua khủng hoảng, tránh tình trạng bán tháo ra thị trường bị các nhà nhập khẩu nước ngoài ép giá.
Trong tương lai đầu tư 32.759 tỷ VND từ năm 2010 đến 2015 cho cơ sở hạ tầng, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, khuyến nông , xúc tiến thương mại, cải tạo, thâm canh và sản xuất an toàn bền vững đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về mặt hàng cà phê.
Trong đó, nguồn vốn được phân bổ:
+ Từ Ngân sách nhà nước, tập trung chủ yếu cho đầu tư kết cấu hạ tầng (giao thông, thủy lợi, phục vụ sản xuất, hỗ trợ xây dựng hạ tầng thương mại…); nghiên cứu khoa học, khuyến nông, xúc tiến thương mại: 469 tỷ đồng, chiếm 1,5 %;
+ Từ nguồn tài trợ ODA cho đầu tư cải tạo, thâm canh, thực hiện sản xuất an toàn, bền vững: 13.705 tỷ đồng, chiếm 41,8%;
+ Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp và nông dân: 18.585 tỷ đồng, chiếm 56,7%.
Các loại rủi ro của ngành cà phê.
Rủi ro tài sản.
Các loại rủi ro tài sản như mất cắp, cháy hoặc hư hỏng thiết bị, nhà cửa và các thiết bị dùng trong sản xuất cà phê. Những mất mát về tài sản của các doanh nghiệp cà phê Việt Nam thông thường sẽ được bồi thường bằng bảo hiểm hoặc trong trường hợp xảy ra thảm hoạ, nhà nước có thể hỗ trợ giảm mất mát.
Rủi ro sản xuất cà phê.
Các hiện tượng tự nhiên, thời tiết, các bệnh hại cây trồng lun gây ra những rủi ro trong sản xuất cà phê. Rủi ro sản xuất có thể được đo lường bằng biến động trong năng suất của cây cà phê.
Rủi ro giá cà phê.
Rủi ro giá xuất hiện khi giá cà phê xuống thấp hoặc giá đầu vào tăng sau khi người sản xuất cà phê đã quyết định đầu tư. Rủi ro giá cà phê thường được đo lường bằng biến động giá cà phê và có thể được giảm nhẹ bằng các biện pháp trợ giá.
Rủi ro tiền tệ.
xuất hiện do biến động tỉ giá hối đoái khi chi phí đầu vào của ngành cà phê và nguồn thu từ đầu ra bằng các đồng tiền khác nhau khi cà phê Việt Nam xuất khẩu sang các nước khác. Rủi ro này xảy ra với người xuất khẩu cà phê Việt Nam khi có nguồn thu phụ thuộc vào tỉ giá hối đoái tại thời điểm bán sản phẩm cà phê.
Rủi ro thể chế, luật pháp, môi trường cạnh tranh.
Sự thay đổi môi trường thể chế, chẳng hạn như giảm thuế nhập khẩu theo quy định của WTO. Chính phủ cắt giảm tài trợ xuất khẩu. Cạnh tranh về chất lượng cũng như về thương hiệu để chiếm lĩnh thị trường giữa các doanh nghiệp cà phê của Việt Nam với các thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài nói riêng như: Nestle, starbuck.. và giữa thị trường cà phê Việt Nam với các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu như Brazil, Colombia…
Những rủi ro cạnh tranh đối ngành cà phê Việt Nam.
Ngành cà phê Việt Nam chiếm lĩnh được thị trường, và vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu. Tuy nhiên xu hướng tương lai ngành cà phê Việt Nam sẽ gặp những khó khăn nhất định, cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn.
Rủi ro trong cạnh tranh vì xu hướng thị trường thay đổi.
Xu hướng thị trường hiện nay đang chuyển sang thích tiêu dùng sản phẩm cà phê Arabica (cà phê chè) hơn là Robusta(cà phê vối).Việt Nam tuy là nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới, nhưng chủ yếu là loại cà phê vối (Robusta) có giá trị thấp (thấp hơn gần 1/2 so với cà phê chè (Abrabica) có nhiều ở Brazil, columbia). Chúng ta dễ bị cạnh tranh trong việc phát triển các thị trường. Thị trường xuất khẩu chính của cà phê Việt Nam là Mỹ và EU, mà các thị trường này thì lại ưa thích loại cà phê Abrabica hơn, vì nó thơm ngon và ít hàm lượng caffeine (chỉ khoảng 1-2%) hơn cà phê Robusta (hàm lượng caffeine khoảng 2-4%).
Hiện nay, diện tích trồng cà phê Robusta khoảng 90% (chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên), cà phê Abrabica khoảng 10% (chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc như: Sơn La), 1% còn lại là cà phê Mít. Nhận thấy giá trị cây cà phê Abrabica cao hơn Robusta nên các hộ nông dân đã tự ý thay đổi giống cây Robusta bằng Abrabica mà không theo qui hoạch cụ thể, ngoài ra giống cây cà phê chỉ thích hợp với độ cao từ 1000-1500m, trong khi độ cao trung bình ở các địa phương trồng cà phê ở Việt Nam chỉ vào khoảng 700-800m, giống cây trồng thì bị phụ thuộc vào nước ngoài nên hiệu quả mang lại là không cao.
Rủi ro trong cạnh tranh về giá.
Giá cà phê Việt Nam khi mua bán trên thị trường thế giới bị ép giá (giảm mạnh) là do tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường, hoàn toàn không tuân theo quy luật cung cầu. Các quỹ đầu cơ đã cố tình bóp méo thị trường để kiếm lợi. Các nhà đầu cơ tung tin giá cà phê sẽ tăng đột biến, khiến các doanh nghiệp Việt Nam đua nhau đầu cơ tích trữ. Nhiều doanh nghiệp vay “nóng” tiền vốn trong ngắn hạn để mua cà phê, đến khi đáo hạn doanh nghiệp chịu áp lực buộc phải bán ra thu hồi vốn để trả nợ. Sau đó các quỹ đầu cơ trên sàn London ngừng mua để đẩy giá xuống thấp, và lại tung tin rằng giá cà phê từ nay đến cuối năm sẽ tiếp tục giảm mạnh, khiến doanh nghiệp Việt Nam đã trót tích trữ cà phê buộc phải bán tháo ra. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã lâm vào tình trạng như vậy và đang phải chịu lỗ 3-4 triệu đồng/tấn cà phê, thậm chí có thể nhiều hơn nếu giá biến động giảm mạnh. Trong khi đó, việc hỗ trợ từ phía chính phủ và Hiệp Hội cà phê Việt Nam là còn hạn chế, chưa đủ để giúp các DN Việt Nam thoát khỏi tình trạng này.
Rủi ro cạnh tranh xuất phát từ những yêu cầu về chất lượng.
Cùng với những đòi hỏi khắc khe của thế giới về những sản phẩm có xuất xứ nguồn gốc rõ ràng, đạt những tiêu chuẩn quốc tế (4C, UTZ… ). Lâu nay các DN Việt Nam có thói quen chào bán và xuất khẩu cà phê sơ chế theo tiêu chuẩn 13 – 5 – 1 ( thuỷ phần, hạt đen vỡ, tạp chất…), chất lượng còn thấp chưa đạt chuẩn quốc tế (UTZ, 4C…) nên giá thường thấp hơn (bị ép giá) so với đối thủ cạnh tranh đạt chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế như Brazil…hoặc có thể bị tẩy chay nếu như ngay từ bây giờ các doanh nghiệp Việt Nam không theo các tiêu chuẩn quốc tế trong việc trồng, thu hoạch và sản xuất cà phê.
Với tổng sản lượng xuất khẩu cà phê VN hàng năm từ 900.000 đến 1.000.000 tấn/năm, đạt kim ngạch 1,8 – 2 tỷ USD, nếu các DN cùng phấn đấu xuất khẩu cà phê sạch, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế ( ví dụ: tạp chất từ 0% đến tối đa là 0,5%, tính lỗi hạt và thuỷ phần không quá 12,5% để được cộng thêm từ 50 USD đến 100 USD/tấn thì chúng ta sẽ thu về lượng ngoại tệ tăng thêm từ 50 triệu USD đến 100 triệu USD. Con số này không những nói lên về giá trị mà còn thể hiện rõ chất lượng – thương hiệu cà phê VN trên thị trường thế giới.
Đặc biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, môi trường cạnh tranh sẽ bình đẳng hơn, các doanh nghiệp cà phê nước ngoài với những tiềm năng tài chính lớn mạnh sẽ có cơ hội xâm nhập thị trường rộng lớn tại Việt Nam, và thậm chí có thể thôn tính các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh kém.
Rủi ro đến từ đối thủ cạnh tranh :
Ngành cà phê Việt Nam thật sự chưa xây dựng thương hiệu dẫn đến một rủi ro có thể bị bỏ lại trong một trường cạnh tranh khốc liệt với cá ngành cà phê của các quốc gia khác. Các đối thủ cạnh tranh dễ dàng dựa vào những thương hiệu mình đang có để chiếm lĩnh các thị trường và tìm kiếm các thị trường mới.
Những bài học kinh nghiệm trong phòng chống rủi ro trong cạnh tranh.
Kinh nghiệm phòng chống rủi ro trong cạnh tranh của Brazil.
Brazil là một quốc gia có lịch sử trồng trọt, chế biến và tiêu thụ cà phê từ thế kỷ 17, phát triển mạnh từ thập kỷ 20 cho đến nay. Trước đây, cà phê chiếm tới 80% tổng thu nhập từ xuất khẩu, nhưng hiện nay chỉ còn là 20% do giá trị xuất khẩu của các ngành hàng khác tăng mạnh. Mặc dù vị trí của ngành cà phê giảm tương đối trong cơ cấu xuất khẩu, nhưng Brazil vẫn là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, với sản lượng tương đối ổn định. Thành tựu này đạt được một phần là nhờ nước này có hệ thống giám sát nguồn cung cà phê hiệu quả, để đưa ra thông tin và dự báo thị trường cà phê chính xác, được công bố qua Hội thảo triển vọng thị trường được tổ chức hàng năm tại Brazil.
Sản phẩm cà phê của Brazil rất có uy tín trên thị trường thế giới nhờ chất lượng cao. Mặc dù điều kiện đất đai của nước này chưa hẳn đã tốt hơn Việt Nam, nhưng Brazil có giống tốt và đồng bộ, quy trình và kỹ thuật sản xuất và chế biến tiên tiến. Thành tựu này đạt được là nhờ Brazil có hệ thống nghiên cứu khoa học rất tốt, do Chính phủ đầu tư toàn bộ.
Brazil là nước có sản lượng tiêu thụ cà phê lớn thứ 2 thế giới (sau Mỹ), với gần 50% sản lượng sản xuất ra được tiêu thụ trong nước, giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường bất ổn trên thế giới. Hiện nay, lượng tiêu thụ nội địa vẫn liên tục tăng hàng năm, nhờ triển khai chương trình xúc tiến thương mại toàn diện trong nước từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20.
Để phòng chống rủi ro trong cạnh tranh ngành cà phê, Brazil có kết hợp rất chặt chẽ của 4 nhóm tổ chức chính: Tổ chức của các nhà sản xuất (bao gồm các nhà sản xuất nhỏ lẻ và các hợp tác xã), Tổ chức của các nhà rang xay, Tổ chức của các nhà sản xuất cà phê hoà tan và Tổ chức của các nhà xuất khẩu.
Các tổ chức ngành hàng này đại diện cho từng nhóm người khác nhau, tham gia vào quá trình :
+ Thảo luận, hoạch định và thực hiện chính sách.
+ Xác định, điều chỉnh, giám sát và đánh giá nghiên cứu kỹ thuật cà phê + Thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tăng cường chất lượng cà phê.
Bộ Nông nghiệp Brazil có chức năng nghiên cứu, hoạch định chính sách, chịu trách nhiệm về các vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống bệnh dịch để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tăng cường đề phòng những rủi ro có từ các đối thủ cạnh tranh.
Brazil xây dựng và phát triển hệ thống hợp tác xã ngành hàng cà phê hoạt động rất hiệu quả và nhịp nhàng. Sản xuất cà phê của các Hợp tác xã chiếm tới 35% tổng sản lượng cà phê của cả nước. Hợp tác xã cà phê lớn nhất thế giới của Brazil (Cooxupe) được thành lập từ năm 1957, có 12000 thành viên, trong đó 70% là nông trại quy mô nhỏ (5-7ha), 30% là quy mô vừa và lớn. Hàng năm, trang trại này buôn bán tới 4,5 triệu bao (cung cấp cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu trực tiếp tới các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản. HTX có hệ thống hoàn chỉnh bao gồm kho chứa, làm sạch, phân loại, đánh bóng, pha trộn hạt cà phê, và buôn bán trực tiếp. Năm 2006, HTX có kho chứa công suất lên tới 3,3 triệu bao/năm. Năm 2006, HTX đã nhận vào kho chứa tới 2,6 triệu bao. HTX có khoảng 60 chuyên gia nông nghiệp, mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho khoảng 200-250 hộ. Như vậy, mỗi vụ, một chuyên gia có thể tới thăm 1 trang trại khoảng 4 lần để hướng dẫn kỹ thuật mới, kiểm tra quy trình sản xuất đến thu hoạch, phát hiện vấn đề và giúp giải quyết khó khăn khi cần thiết.
Ngoài ra, Brazil còn có các tổ chức hỗ trợ khác như Nhóm các tổ chức nghiên cứu cà phê (Coffee Research Consortium), chịu trách nhiệm nghiên cứu và chuyển giao các vấn đề kỹ thuật cho cà phê, bao gồm nhiều tổ chức nghiên cứu khác nhau như tổ chức nghiên cứu nông nghiệp của chính phủ (Embrapa-điều phối của nhóm), các đơn vị nghiên cứu của các trường đại học, các tổ chức phi chính phủ… Bên cạnh các tổ chức nghiên cứu kỹ thuật cà phê, Brazil còn có tổ chức nghiên cứu kinh tế - xã hội ngành hàng (Coffee Intelligence Center), chịu trách nhiệm nghiên cứu, dự báo, cung cấp thông tin thị trường cà phê thế giới và Brazil cho các tác nhân khác nhau.
Điều phối toàn bộ hoạt động của các tổ chức trên là Hội đồng Cà phê Quốc gia (CNC), có văn phòng thường trực (Cục Cà phê) đặt tại Bộ Nông nghiệp Brazil. Thành viên của hội đồng bao gồm 50% là thành viên của Chính phủ (Bộ và các cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ) và 50% là đại diện của 4 nhóm tổ chức trên. Chủ tịch hội đồng là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó chủ tịch là 1 Thứ trưởng phụ trách nông nghiệp.
Hội đồng bao gồm 4 uỷ ban: Uỷ ban thị trường và tiếp thị, Uỷ ban chính sách chiến lược, Uỷ ban nghiên cứu kỹ thuật và Uỷ ban phụ trách các tổ chức quốc tế. Trách nhiệm chính của Hội đồng là điều phối toàn bộ hoạt động của ngành hàng, đưa ra các định hướng chính sách trên cơ sở tham vấn các thành viên đại diện, xác định các ưu tiên nghiên cứu và phân bổ vốn cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao cũng như các chương trình khác như xúc tiến thương mại trong nước, nâng cao chất lượng cà phê, bảo vệ môi trường…
Bài học phòng chống rủi ro cạnh tranh cho cà phê Việt Nam:
Cần giám sát chặt chẽ nguồn cung nhằm đưa ra những thông tin và dự báo cung chính xác, phục vụ các quyết định chính sách, sản xuất và đầu tư cho các tác nhân.
Học tập kinh nghiệm của Brazil, ngành hàng cà phê của Việt Nam cần xây dựng chương trình áp dụng Bộ tiêu chuẩn chung của cộng đồng cà phê (4C) tại Việt Nam. Việc học tập kinh nghiệm của Brazil và cùng áp dụng bộ tiêu chuẩn 4C sẽ là hướng đi mới giúp Việt Nam nâng cao chất lượng cà phê một cách đồng bộ.
Việt Nam cần sớm thành lập Ban điều phối các hoạt động trong ngành cà phê. Ban sẽ do 1 lãnh đạo Bộ chỉ đạo, với 50% thành viên là thuộc Chính phủ và 50% thuộc các thành phần kinh tế khác. Ban sẽ có một tiểu ban thường trực là đại diện của một cơ quan quản lý nhà nước, 1 cơ quan nghiên cứu chính sách và hiệp hội. Ban sẽ chịu trách nhiệm xây dựng đề án tổ chức ngành hàng cà phê Việt Nam và hàng loạt các hoạt động khác.
Đây sẽ là tổ chức điều phối ngành hàng đầu tiên của Việt Nam, gắn toàn bộ các nhóm tác nhân dọc theo kênh ngành hàng, với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước và sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế.
Các giải pháp phòng tránh rủi ro do môi trường cạnh tranh.
5.1. Giải pháp ngắn hạn.
5. 1.1. Thành lập quĩ dự trữ cà phê hàng năm.
Thu mua cà phê tạm trữ để giữ giá, khắc phục tình trạng đầu cơ của các quỹ đầu cơ trên thế giới. Hiện nay các quỹ đầu cơ luôn tìm cách làm lũng đoạn thị trường để giá cà phê giảm mạnh. Các quỹ đầu cơ đã cố tình bóp méo thị trường để kiếm lợi. Các quỹ đẩu tư này tung tin giá cà phê sẽ tăng đột biến, khiến cho các doanh nghiệp của Việt Nam đua nhau đầu cơ tích trữ. Sau đó các quỹ đầu cơ này ngừng mua để đẩy giá xuống thấp, và họ lại tung tin rằng giá cà phê tiếp tục giảm mạnh, khiến doanh nghiệp nước ta đã trót tích trữ cà phê nay buộc phải bán ra với giá thấp. Rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam rơi vào những tình trạng này và thua lỗ rất nặng nề.
Hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp thu mua cà phê trong dân đảm bảo cho nông dân bán cà phê với mức giá ổn định, có lời vừa đảm bảo cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê có đủ sản lượng xuất khẩu, tránh tình trạng bị kiện do phá vỡ hợp đồng và đền bù thiệt hại do giao hàng trễ.
Tránh những tổn thất có thể xảy ra do mất mùa, sâu bệnh.. làm sản lượng cà phê giảm đi, không đủ để xuất khẩu. Tránh tình trạng “cháy” hàng xuất khẩu.
Điều tiết lại thị trường cà phê
Tạo thêm uy tín cho cà phê Việt Nam
Các quốc gia xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới như Brasil, Columbia đều có quỹ dự trữ cà phê và nhà nước đầu tư cho sản xuất cà phê thông qua quỹ này, đồng thời thu mua để giữ giá khi giá cà phê xuống thấp. Việt Nam cũng cần có quỹ dự trữ này để tránh tổn thất cho người sản xuất khi thị trường xảy ra biến động.
5.1.2. Thành lập và tham gia sàn giao dịch cà phê tại Việt Nam và sàn giao dịch cà phê của thế giới.
Sàn giao dịch hàng là nơi diễn ra các giao dịch về hàng hóa như: năng lượng, kim loại và những loại hàng hóa khác. Ở đó hàng hóa được mua và bán thông qua hệ thống máy tính giao dịch điện tử. Các phiên giao dịch muốn thực hiện được phải đạt được các tiêu chuẩn chung của sàn: tiêu chuẩn sản phẩm, khối lượng giao dịch, người được tham gia giao dịch,…Bản chất của việc giao dịch tại sàn là phương thức giao có kỳ hạn.
Cụ thể trong trường hợp này: sàn giao dịch cà phê là nơi diễn ra các giao dịch về cà phê. Với những đặc thù của sàn giao dịch, sàn giao dịch cà phê sẽ mang lại những lợi ích cho người mua và người bán cà phê đồng thời cũng giúp phòng tránh được những rủi ro về cạnh tranh của ngành cà phê như sau:
Giảm chi phí giao dịch của sản phẩm: khi không trực tiếp giao dịch tại các thị trường giao dịch kỳ hạn, DN xuất khẩu cà phê phải chịu nhiều thua thiệt. Thông thường, chênh lệch giữa giá chào bán cà phê Việt Nam với giá giao dịch trên thị trường kỳ hạn khá lớn, luôn ở mức trên 100USD/tấn. Trong khi đó, nếu giao dịch trực tiếp trên thị trường kỳ hạn, DN không còn bị thua thiệt về chênh lệch giá như đã nói trên, thay vào đó DN chỉ phải chịu một khoản phí cho nhà môi giới, khoảng 3,5 USD/tấn. Nâng cao sức cạnh tranh về giá cả và tăng thêm lợi nhuận, tạo sức hút cho nghành cà phê.
Tránh các rủi ro về giá: bản chất của việc tham gia giao dịch trên sàn là việc giao dịch có kỳ hạn, chính vì thế việc giao dịch này sẽ giúp doanh nghiệp mua và bán bảo hiểm rủi ro về giá. Bên cạnh đó việc giao dịch ở sàn là công khai về mọi mặt nên sẽ giúp cho người bán và người mua biết được giá trị thực của hàng hóa thông qua thông tin giao dịch của các phiên giao dịch trước, đặc biệt là đối với những người nông dân sẽ không phải rơi vào tình cảnh hụt giá vì thiếu thông tin.
Hình thức giao dịch trên sàn(mua bán kỳ hạn) này có thể xem như là một kênh đầu tư (mua bán các hợp đồng tương lai nhằm kiếm lợi từ chênh lệch giá) hoặc sử dụng hợp đồng tương lai như là một công cụ xác định giá của thị trường hàng thật… của các doanh nghiệp. Huy động nguồn vốn tham gia vào nghành cà phê.
Chuẩn hóa sản phẩm: khi tham gia sàn giao dịch, các sản phẩm được chuẩn hóa, tạo động lực cho người trồng và chế biến cà phê chuẩn hóa trong khâu sản xuất để có thể sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng hơn, từ đó thiết lập một hình ảnh về chất lượng của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.
Bên cạnh những lợi ích từ việc giao dịch cà phê trên sàn mang lại thì những lợi ích của việc giao dịch trên sàn giao dịch tại Việt Nam và sàn giao dịch Nước ngoài có một số điểm khác nhau:
Đồng tiền thanh toán: đối với sàn nội địa thì một số sản phẩm có thể chấp nhận thanh toán bằng nội tệ.
Khoảng cách địa lí: Việc thực hiện giao dịch ở sàn nước ngoài có thể gặp nhiều khó khăn hơn so với sàn nội địa do khoảng cách địa lí, trong các giai đoạn kiểm định chất lượng hàng, liên lạc,…
Cơ sở hạ tầng: với ưu thế phát triển từ trước, các sàn giao dịch nước ngoài đã chiếm ưu thế hơn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Chuẩn hàng hóa: Do các chuẩn của sàn trong nước được xây dựng dựa trên các thuộc tính của người tham gia trong nước nên các chuẩn được quy định ở sàn trong nước phù hợp hơn.
Tóm lại, việc thành lập sàn giao dịch cà phê tại Việt Nam và để người dân và các doanh nghiệp của Việt Nam tiêp cận thị trường tốt hơn, từ đó làm bước đệm tốt để các doanh nghiệp xuất khẩu của chúng ta có thể tham gia với sàn giao dịch thế giới, đảm bảo công bằng giá cà phê bán ra cho các doanh nghiệp Việt Nam. Điều quan trọng hơn nữa khi thành lập sàn giao dịch cà phê tại Việt Nam là nhằm mục đích biến Việt Nam trở thành nơi để các tổ chức cà phê thế giới lấy đó làm cơ sở định giá khi giao dịch trên thị trường.
5.2. Giải pháp dài hạn.
5.2.1. Liên kết chặt chẽ giữa nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà dân
(4 nhà):
Liên kết "4 nhà" trong lĩnh vực tiêu thụ cà phê thực chất là một liên kết khoa học, mang lại nhiều lợi ích cho cả nông dân và doanh nghiệp, Nhà nước, nhà khoa học. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống quan hệ sản xuất và công tác quản lý còn bất cập, mô hình liên kết “bốn Nhà” Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà nông - Nhà doanh nghiệp chưa rõ ràng, khả năng liên kết kém, ít linh hoạt trong nhiều khâu, nhiều công đoạn, nhiều doanh nghiệp kinh doanh cà phê thua lỗ mất khả năng thanh toán, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh cà phê chưa thật sự ổn định, chưa nắm bắt kịp giá cả thị trường thế giới. Vì vậy cần xác định rõ trách nhiệm và lợi ích của “bốn Nhà”: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà nông - Nhà doanh nghiệp.
Đối với Nhà nước: Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và hệ thống phân phối hiện đại. Trong mối liên kết 4 nhà, Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo để tổ chức sản xuất và gắn kết các nhà còn lại để hình thành được chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ.
Nhà nước cần sớm hoàn chỉnh hệ thống chính sách quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế để các doanh nghiệp cũng như người sản xuất cà phê lấy đó làm mục tiêu phấn đấu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Nhà nước cần có chính sách miễn hoặc giảm thuế đối với những nguồn tài chính mà các doanh nghiệp này phải đầu tư nhằm đổi mới trang thiết bị công nghệ, hộ trợ về mặt ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân thông qua các nhà khoa học. Cùng với đó, Nhà nước nên có những chính sách tín dụng cho vay ưu đãi, thông thoáng để nông dân cải tạo vườn tạp, mua trang thiết bị sản xuất.
Ngoài ra, cần phát huy vai trò của Hiệp hội cà phê Việt Nam là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, công nghệ, phối hợp hoạt động thị trường. Củng cố và tăng cường vai trò của Tổng công ty cà phê Việt Nam, phát triển sản xuất, kinh doanh đa dạng, làm đầu tàu dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc mọi thành phàn kinh tế triển khai thực hiện tốt các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam.
Đối với nhà khoa học: Nhà khoa học, bên cạnh việc tự nghiên cứu phát triển cần có sự hợp tác với các viện, trường chuyên ngành. Các tổ chức khoa học cần liên kết trong nước, ngoài nước để tranh thủ những thành tựu mới của khoa học và thế mạnh của nhau.
Đối với nhà nông: Nhà nông cần đảm bảo đúng quy trình sản xuất, nắm rõ tiêu chuẩn chất lượng và lợi ích của việc áp dụng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cà phê để tạo ra sản phẩm đảm bảo chất lượng nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu, tăng thu nhập.
Đối với nhà doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần chủ động liên kết với các hộ nông dân, hỗ trợ sản xuất, phân phối lợi ích hợp lý, để phát triển vùng nguyên liệu theo quy hoạch, nhằm ổn định sản lượng và chất lượng nguyên liệu cho chế biến. Doanh nghiệp cũng cần ký cam kết bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Một trong những nhà được nông dân tin tưởng cần tận tình hơn nữa, theo dõi, chuyển giao những tiến bộ khoa học ứng dụng vào trồng trọt, có như vậy, ngành cà phê Việt Nam mới cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.
5.2.2. Xây dựng thương hiệu cà phê Việt Nam ra toàn thế giới:
Cà phê Việt Nam cần thiết phại xây dựng thương hiệu để phòng chống những rủi ro cạnh tranh trong kinh doanh:
Thứ nhất, Nhà nước cần có một kế hoạch dài hạn về việc xây dựng thương hiệu mặt hàng cà phê, dĩ nhiên chiến lược này phải là một bộ phận hợp thành quan trọng trong chiến lược tổng thể của Nhà nước đối với việc xây dựng thương hiệu cho cà phê Việt Nam. Bộ Thương mại kết hợp với Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn xây dựng một lộ trình với những bước đi thích hợp cho vấn đề này, và lộ trình này phải có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, các nhà khoa học và cả những nông dân trực tiếp sản xuất ra cà phê.
Thứ hai, hiện nay một số thương hiệu cà phê của ta như cà phê Trung Nguyên, rất có uy tín và được tiêu thụ mạnh trên thị trường khu vực và thế giới. Những điển hình tiên tiến này cần được nhân rộng lên một cấp độ mới. Muốn làm được như vậy cần phải có sự quảng bá, tuyên truyền giới thiệu mạnh mẽ cà phê Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là xây dựng trang WEB về thương hiệu cà phê Việt Nam.
Thứ ba, các cơ quan tài chính ngân hàng nên có một cơ chế tài chính đặc thù ưu tiên cho việc quảng bá và xây dựng thương hiệu đối với cà phê Việt Nam vì hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng này đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn.
Thứ tư, việc xây dựng và phát triển thương hiệu cà phê Việt Nam chỉ có thể phát triển vững chắc khi nó được đặt trong mối tương quan với việc gia tăng năng suất lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tích cực chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới và trên hết tìm một vị thế vững chắc cho cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.
5.2.3. Sản xuất sản phẩm đạt đến những tiêu chuẩn quốc tế: (4C, UTZ, EUROGAP…)
Ngày nay, khi Việt Nam thật sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì tất cả các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Cà Phê nói riếng rất cần sự quốc tế hóa về tiêu chuẩn để nâng cao năng lực cạnh tranh. Và các tiêu chuẩn quốc tế về cà phê : 4C, UTZ, EUROGAP…là một trong những công cụ được xem là hiệu quả nhất giúp cà phê Việt Nam khẳng định được thương hiệu và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Có thề cải thiện tình hình kinh tế của các nhà sản xuất cà phê bằng việc hướng dẫn để đạt hiệu quả cao hơn thông qua các phương thức nông nghiệp và quản lý tốt. Sản phẩm tạo ra có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, từ đó được bán giá cao trên thị thường, khẳng định được chất lượng và thương hiệu của cà phê Việt Nam trên trường quốc tế.
Cải thiện tình hình xã hội của các nhà sản xuất cà phê bằng việc hỗ trợ thực hiện các quyền xã hội và từng bước cải tiến phương thức lao động.
Cải thiện môi trường sống của các nhà sản xuất cà phê bằng việc hướng dẫn nâng cao chất lượng đất và nước, bảo tồn động vật hoang dã và giảm thiểu phụ thuộc vào hóa chất nông nghiệp độc hại.
Cải thiện điều kiện thị trường nói chung để sản xuất nhiều cà phê theo hướng bền vững hơn.
KẾT LUẬN
Rủi ro cạnh tranh là điều không thể tránh trong kinh doanh nhưng chúng ta có thể khắc phục được chúng. Ngành cà phê Việt Nam cần phấn đấu nhiều hơn nữa trong tương lai để phòng chống những rủi ro đó. Đối với cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp cà phê Việt Nam cần nâng cao vai trò của Hiệp hội Cà phê Việt Nam và của các doanh nghiệp cà phê chủ chốt của Việt Nam để giúp giảm thiệt hại do tác động của việc giá cà phê giảm mạnh đột ngột. Chú trọng hơn nữa đến công tác xây dựng và phát triển thương hiệu Việt Nam ra toàn thế giới, đảm bảo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp lớn mạnh khác của nước ngoài, để làm được điều này cần sự hỗ trợ và phối hợp tốt giữa nhà nước với các doanh nghiệp cà phê Việt Nam.
Cà phê Việt Nam cần mở rộng hơn mô hình trồng và thu hoạch cà phê đạt chất lượng cao, tăng cường sự phối hợp giữa chính phủ, doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nông để trồng, sản xuất và tiêu thụ cà phê theo những qui trình hợp lý, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế. Tham gia tích cực vào mô hình trồng cà phê có trách nhiệm, liên kết với các doanh nghiệp có uy tín. Đảm bảo việc trồng, thu hoạch phải theo qui trình và đảm bảo yêu cầu tiêu chuẩn của quốc tế, để có thể mang lại thu nhập cao hơn, giải quyết được đầu ra sản phẩm tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, “Quản trị rủi ro và khủng hoảng”, Nxb Lao động-xã hội, 2009.
TS. Ngô Thị Ngọc Huyền, “Rủi ro kinh doanh”, Nxb Thống kê, 2007.
Website:
Website:
Website:
Website:
Website hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp quản trị rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê.docx