Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tài Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

Mục lục Lời nói đầu 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại 3 1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại 3 1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại . 3 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 7 1.2. Vốn của Ngân hàng thương mại . 11 1.2.1. Vốn chủ sở hữu 11 1.2.2. Vốn nợ 14 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại 21 1.3.1. Các nhân tố khách quan . 21 1.3.2. Các nhân tố chủ quan . 23 Chương 2 : Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Sở Giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 28 2.1. Tổng quan về Sở giao dịch – NHĐT&PTVN 28 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển . 28 2.1.2. Cơ cấu tổ chức 29 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh một số năm gần đây 31 2.2. Thực trạng huy động vốn tại Sở giao dịch – NHĐT&PTVN 37 2.2.1. Tình hình biến động chung 37 2.2.2. Huy động vốn nợ . 39 2.3. Đánh giá công tác huy động vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 47 2.3.1. Kết quả đạt được 47 2.3.2. Hạn chế . 48 2.3.3. Nguyên nhân . 49 Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Sở giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 53 3.1. Mục tiêu, định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 53 3.1.1. Định hướng chung 53 3.1.2. Định hướng huy động vốn 55 3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 56 3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn 56 3.2.2. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý 60 3.2.3. Phát triển hoạt động Marketing 63 3.2.4. Đổi mới công nghệ Ngân hàng 65 3.2.5. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên 66 3.2.6. Các giải pháp khác 67 Kết luận 69 Danh mục tài liệu tham khảo . 70

docx73 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2484 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tài Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rợ từ SGD lại là những lĩnh vực tập trung nhiều dự án lớn trong đó có những dự án trọng điểm của quốc gia, của vùng kinh tế mà nhu cầu vay vốn luôn ở mức cao và luôn được nhà nước ưu tiên đầu tư thực hiện. Bảng 2.4: Tỷ trọng dư nợ theo khách hàng so với tổng dư nợ qua các năm Khách hàng 2004 2005 2006 Tổng công ty 37% 38% 36% Doanh nghiệp vừa và nhỏ 25% 28% 35% Tư nhân và tiêu dùng 4% 4% 5% Khác 34% 30% 24% ( Nguồn: Báo cáo thường niên SGD Ngân hàng ĐT&PT VN ) Khách hàng truyền thống của Sở giao dịch là các tổng công ty lớn, tỷ trọng dư nợ của nhóm khách hàng này luôn chiếm từ 35 – 40% tổng dư nợ của Sở. Tuy nhiên xu hướng các năm gần đây là tỷ trọng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng dần. 2.1.3.3. Các dịch vụ của SGD-NHĐT&PTVN. Các dịch vụ ngân hàng mà SGD cung cấp đã góp một phần quan trọng vào kết quả kinh doanh chung của toàn hệ thống, bao gồm cả các dịch vụ truyền thống và hiện đại. Năm 2004, thu từ dịch vụ chủ yếu vẫn tập trung vào các dịch vụ truyền thống như bảo lãnh, thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ ( 89% tổng thu từ dịch vụ ). Hầu hết là những dịch vụ có quan hệ chặt chẽ với tín dụng. Khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp truyền thống của BIDV. Thực tế, dịch vụ vẫn là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng các hoạt động truyền thống khác như huy động vốn và tín dụng. Những năm gần đây, dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Ngoài những sản phẩm dịch vụ truyền thống như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh tiền tệ… BIDV đã chú trọng quan tâm nghiên cứu phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới như dịch vụ thẻ, các sản phẩm Home Banking, Phone Banking … Bảng 2.5: Chỉ tiêu của hoạt động thanh toán quốc tế và xuất nhập khẩu Đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh số TTQT 700 2,010 2,749 Doanh số xuất nhập khẩu 500 933 1,540 So với năm 2004, năm 2005 hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch NHĐT&PT VN đã thực sự có những bước tiến đáng kể. Doanh số thanh toán quốc tế năm 2005 đạt 2,010 triệu USD, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2004, trong đó doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của sở giao dịch đạt 933,657 triệu USD. Thu dịch vụ ròng của các năm có sự biến động rõ rệt, nhất là vào năm 2006 thu dịch vụ ròng là 58,397 triệu, tăng hơn 2 lần so với năm 2005 Bảng 2.6: Chỉ tiêu thu dịch vụ ròng. Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Thu dịch vụ ròng 24,502 25,6 49,512 58,397 Tính đến cuối năm tài chính 2007, SGD-NHĐT& PTVN đã hoàn thành thậm chí vượt trội các chỉ tiêu kế hoạch đề ra với tổng tài sản đạt 17,462 tỷ đồng, tăng 32,13% so với năm 2006, huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 13,6201 tỷ đồng, tăng 37,97%, dư nợ tín dụng đạt 5,185 tỷ đồng, tăng 18,07%. Tỷ lệ nợ xấu của Sở cũng xuống mức 9,1%. 2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN. Là một đơn vị thành viên thực hiện trực tiếp các hoạt động kinh doanh của NHĐT&PTVN, vốn chủ sở hữu của SGD chính là nguồn vốn ban đầu do NHĐT&PTVN cấp ( tài sản cố định bao gồm trụ sở, máy móc, trang thiết bị văn phòng…). Lợi nhuận mà SGD tạo ra cũng là lợi nhuận thuộc về NHĐT&PTVN, ban lãnh đạo toàn ngân hàng có quyền quyết định thu hồi về quỹ chung của ngân hàng hoặc để lại nhằm tăng vốn cho SGD. Do đó nghiên cứu về thực trạng huy động vốn của SGD chủ yếu tập trung việc nghiên cứu hoạt động huy động nợ của Sở giao dịch. 2.2.1. Tình hình biến động chung. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, có nhiều biến động xung quanh các yếu tố liên quan tới tổng thể hoạt động huy động vốn của SGD-NHĐT&PTVN. Bảng 2.7: Tình hình biến động huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN Đơn vị: tỷ đồng Năm Tổng lượng vốn huy động Tăng/giảm so với năm trước. Chênh lệch ( Số tuyệt đối) Chênh lệch (Số tương đối) 2005 7,570 2006 10,111 2,541 33.57% 2007 13,620 3,509 34.71% Có thể thấy Sở giao dịch đã đạt mức tăng trưởng đáng kể trong vòng 3 năm gần đây. Bên cạnh việc thực hiện các sản phẩm huy động vốn truyền thống, Sở đã triển khai nhiều hoạt động huy động vốn dân cư hấp dẫn như: Tiết kiệm dự thưởng ( mỗi năm khoảng 2 đợt), tiết kiệm phân tầng, tiết kiệm rút dần, huy động vốn khuyến mãi tặng thẻ bảo hiểm, phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn dưới hình thức kì phiếu, phát hành giấy tờ có giá dài hạn dưới hình thức trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi ( thời hạn 3 năm hay 5 năm). Sở giao dịch còn đề ra các chiến lược Marketing để góp phần thúc đẩy tăng trưởng vốn, tiếp cận tới khách hàng theo nhiều hình thức khác nhau, trên các phương tiện thông tin đại chúng hay tư vấn trực tiếp, phát huy hiệu quả của công cụ lãi suất… nhằm huy động vốn theo nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau. Cơ cấu huy động vốn cũng có nhiều biến động. Tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn của sở giao dịch chiếm khoảng 40%- 50% tổng nguồn vốn huy động và có xu hướng giảm qua các năm trong khi đó tỷ trọng vốn ngắn hạn lại tăng. Nguyên nhân chủ yếu là những năm gần đây, tình hình nền kinh tế khu vực và trong nước không ổn định, nhiều biến động, lo sợ đồng tiền mất giá, khách hàng sẽ không gửi tiền vào ngân hàng hoặc gửi với kì hạn ngắn để giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó, các tổ chức kinh tế - tăng cường gửi tiền vào tài khoản tiền gửi thanh toán nhằm mục đích giao dịch. Về loại tiền gửi, huy động VND chiếm trung bình khoảng hơn 80% tổng nguồn vốn. Vốn huy động bằng ngoại tệ không nhiều do thị trường ngoại hối có nhiều biến động, ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng. 2.2.2. Huy động vốn nợ. Hoạt động huy động nợ của Sở giao dịch, được thực hiện thông qua các kênh như sau : Huy động tiền gửi tiết kiệm từ dân cư Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế Phát hành kì phiếu, trái phiếu Huy động khác Các hình thức huy động vốn của SGD đã đạt được những kết quả nhất định, mặc dù vẫn có sự biến động tăng giảm qua các năm do nhiều nhân tố tác động nhưng tổng lượng vốn huy động vẫn có sự tăng trưởng đều qua các năm. Trong 2 năm 2006 và 2007, huy động nợ của SGD tăng bình quân khoảng 34% so với năm tài chính trước đó, một con số không phải là nhỏ. Có thể nhận định khái quát về tình hình huy động nợ tại SGD – NHĐT&PTVN qua bảng số liệu dưới đây. Bảng 2.8: Các hình thức huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN Đơn vị : Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tỷ lệ tăng trưởng (%) 2006/2005 2007/2006 Tiền gửi TCKT 4,408 7,285 11,821 65 62 Tiền gửi TK dân cư 2,168 2,290 1,601 5.61 -30.08 Kỳ phiếu 231 122 27 -47.07 -77.41 Trái phiếu, CCTG 650 379 136 -41.63 -64.10 Huy động khác 113 35 35 -69.43 0.00 Tổng cộng 7,570 10,111 13,620 34 35 (Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT$PTVN) Trong khi huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp sản xuất tăng một cách đáng kể thì huy động từ dân cư cũng như các hình thức huy động thông qua phát hành kì phiếu, trái phiếu, CCTG lại giảm. Trong đó, tiền gửi từ các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn nhất, năm 2005 ở mức gần 60% nhưng cho đến năm 2007 đã lên tới 86% đạt hơn 11,821 tỷ đồng trên tổng số 13,620 tỷ đồng tổng nguồn vốn huy động nợ, trung bình mỗi năm tăng khoảng 60% so với năm trước đó. Nguồn tiền gửi tiết kiệm từ dân cư tuy cũng chiếm một tỷ trọng tương đối, nhưng lại giảm rõ rệt vào năm 2007. Các nguồn huy động từ phát hành giấy tờ có giá thì đều giảm tương đối nhiều trong vòng 2 năm trờ lại đây. Có thể phân tích sự thay đổi của từng nguồn huy động như sau: Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế Bảng 2.9: Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế. Đơn vị : tỷ đồng. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tiền gửi của TCKT 4,408 7,285 11,821 Tiền gửi không kì hạn 844 1,645 3,427 Tiền gửi có kì hạn 3,563 5,640 8,394 (Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT&PTVN) Nguồn tiền gửi từ các tổ chức kinh tế tăng đều qua các năm đối với cả 2 loại là tiền gửi không kì hạn và tiền gửi có kì hạn. Tiền gửi không kì hạn năm 2007 đã tăng hơn 4 lần so với năm 2005 đạt 3,427 tỷ đồng (tăng hơn 50% so với năm 2006). Tiền gửi có kì hạn cũng tăng, tuy ở mức độ khiêm tốn hơn nhưng không phải là con số nhỏ với tốc độ tăng trưởng gần 35% 1 năm, năm 2007 đạt 8,394 tỷ đồng tăng khoảng 33% so với con số 5,640 tỷ đồng năm 2006. Biểu đồ 2.1 : Cơ cấu huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên so sánh tương quan giữa 2 loại tiền gửi thì tiền gửi có kì hạn rõ ràng vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với tiền gửi không kì hạn. Thực tế trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay mà SGD vẫn thu hút được một lượng vốn lớn từ các tổ chức kinh tế, rõ ràng đó là một cố gắng rất lớn. SGD đã không ngần ngại áp dụng các biện pháp mới trong công tác huy động nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng đồng thời tìm kiếm lợi ích tốt nhất cho ngân hàng. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, SGD đã sử dụng các chính sách hợp lý có thể kể ra sau đây: Khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản cá nhân cho cán bộ công nhân viên: Kể từ khi SGD-NHĐT&PTVN được chọn làm đơn vị thí điểm thực hiện mở tài khoản cá nhân cho cán bộ công nhân viên cho đến nay, rất nhiều công ty có quan hệ với Ngân hàng đã thực hiện trả lương qua tài khoản. Bên cạnh đó, hệ thống máy rút tiền tự động ATM cũng được đưa vào sử dụng rộng khắp, tạo thuận tiện cho khách hàng trong việc gửi tiền cũng như rút tiền, nhờ đó mà thu hút được ngày càng nhiều khách hàng. Khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Sở giao dịch: Mặc dù đây là nguồn tiền gửi không ổn định nhưng lãi suất lại thấp trong khi vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế. Sở giao dịch đã linh hoạt sử dụng các chính sách để khuyến khích đối tượng khách hàng doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng : Ưu tiên cho những khách hàng thường xuyên có số dư tiền gửi cao và ổn định sẽ được giảm lãi suất khi vay tiền từ ngân hàng, ưu đãi trong việc thu phí các dịch vụ khác của ngân hàng. Bên cạnh đó, SGD tăng cường công tác tuyên truyền, giới thiệu, quảng cáo về chất lượng dịch vụ của ngân hàng. Việc hiện đại hóa ngân hàng cũng góp phần mang lại số lượng lớn khách hàng cho ngân hàng. Nhờ những biện pháp tích cực đó mà Ngân hàng đã tiếp cận với rất nhiều khách hàng lớn như Bảo hiểm xã hội, Tổng công ty dầu khí, Tổng công ty điện lực … tỷ trọng tiền gửi của các tổ chức này chiếm khoảng 55%-60% tổng nguồn vốn huy động. Bảng 2.10: Cơ cấu các loại tiền trong tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 VND 3,390 (91.5%) 4,091 (92.8%) 7,363 (94.1%) Ngoại tệ 315 (8.5%) 317 (7.2%) 462 (5.9%) Tổng cộng 3,705 (100%) 4,408 (100%) 7,825 (100%) ( Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT&PTVN ) Ta có thể thấy, trong tổng lượng tiền gửi thì tiền gửi bằng VND là chiếm tỷ trọng lớn hơn hẳn ngoại tệ kể cả về quy mô lẫn tốc độ tăng trưởng. Điều này có thể giải thích dễ dàng, do hầu hết các khách hàng của Sở là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư phát triển, ít có nhu cầu sử dụng ngoại tệ cũng như có ít các khoản thu bằng ngoại tệ. Huy động tiền gửi từ dân cư. Tiền gửi tiết kiệm Huy động tiền gửi từ dân cư tuy không chiếm tỷ trọng lớn như khoản tiền gửi huy động từ các tổ chức kinh tế trên địa bàn, tuy nhiên vẫn là một công cụ truyền thống và phổ biến trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Đây là hình thức huy động không chỉ riêng SGD-NHĐT&PTVN quan tâm mà tất cả các ngân hàng khác đều muốn thu hút vì thực tế hiện nay, nguồn tiền nhàn rỗi trong tay dân cư là rất lớn, tiềm năng lớn hơn nhiều so với số tiền hiện đang gửi trong các ngân hàng, lại là nguồn tương đối ổn định. Đặc biệt tại các thành phố lớn, tập trung dân cư đông đúc và mức sống tương đối cao thì ngân hàng càng phải chú trọng đến công tác huy động nguồn vốn nợ này. Bảng 2.11: Cơ cấu loại tiền trong tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 VNĐ 1,374 (62.2%) 1,416 (65.3%) 1,546 (67.5%) Ngoại tệ 835 (37.8%) 752 (34.7%) 744 (32.5%) Tổng cộng 2,209 (100%) 2,168 (100%) 2,290 ( 100%) (Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT&PTVN) Vốn huy động từ tiền gửi của dân cư qua các năm tuy có những biến động tăng giảm nhưng không quá lớn. Năm 2005 tổng tiền gửi tiết kiệm đạt 2,168 tỷ đồng giảm khoảng 2% so với năm 2004 (2,209 tỷ đồng), tuy nhiên sang năm 2006 lại tăng trở lại đạt mức 2,290 tỷ đồng. Cơ cấu loại tiền theo xu hướng tỷ trọng tiền gửi VNĐ tăng dần qua các năm và thường chiếm khoảng hơn 60% trong tổng lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư, trong khi đó tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ giảm dần từ 37.7% năm 2004 cho đến năm 2006 chỉ còn khoảng 32.5% . Nguyên nhân là do tỷ giá đồng VN so với đồng ngoại tệ trong khoảng thời gian từ 2004 đến nay là không có quá nhiều biến động mà mức lãi suất cho tiền gửi VNĐ lại cao hơn tiền gửi ngoại tệ nên dân cư ưa thích gửi tiết kiệm bằng VNĐ hơn. SGD-NHĐT&PTVN cũng tìm nhiều cách để khuyến khích cư dân gửi tiền vào Ngân hàng mình như việc sử dụng các hình thức tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, đa dạng hóa kì hạn tiền gửi tiết kiệm, ưu tiên về lãi suất cho vay hay rút tiền trước hạn … Phát hành giấy tờ có giá ( kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi) SGD là đơn vị dẫn đầu trong toàn hệ thống đối với các hoạt động liên quan đến phát hành các loại giấy tờ có giá bao gồm kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi. Tuy nhiên, theo số liệu 3 năm trở lại đây thì hoạt động huy động vốn từ kì phiếu, trái phiếu cũng như chứng chỉ tiền gửi lại có xu hướng giảm, nếu năm 2005, số lượng vốn huy động được theo hình thức này đạt được khoảng 881 tỷ đồng thì đến năm 2006 chỉ còn 501 tỷ đồng ( giảm 43%), cho đến năm 2007 thì chỉ thu được 164 tỷ đồng từ phát hành giấy tờ có giá (giảm 337 tỷ đồng). Biểu đồ 2.2 : Cơ cấu huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá. Huy động từ kỳ phiếu cũng như trái phiếu và CCTG đều có sự biến động giảm dần, trong các năm 2006 và 2007, tỷ trọng của nguồn vốn thu được từ việc phát hành kì phiếu là giảm so với tổng nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá. SGD đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm tăng cường huy động tiền gửi trong dân cư như việc mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch, đưa ra lãi suất hấp dẫn hơn so với tiết kiệm thông thường cùng kỳ hạn, cho phép thanh toán trước hạn vẫn được hưởng mức lãi suất tuỳ thuộc vào thời gian thực gửi, được phép sử dụng để cầm cố, kĩ quỹ bảo lãnh để vay vốn … Tuy nhiên, vốn huy động từ dân cư (bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm và phát hành giấy tờ có giá) không những không đạt được tăng trưởng mà còn có xu hướng giảm qua các năm. Nguyên nhân của tình trạng này có thể giải thích là do chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2007 là quá cao, trung bình cả năm là khoảng 8.3%, người dân e ngại việc gửi tiền vào ngân hàng, muốn giữ tiền để đề phòng mất giá và chi tiêu. Bên cạnh đó sự phát triển của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường vàng … đã thu hút một lượng vốn lớn từ dân cư. Hơn nữa việc ổn định ban đầu sau khi tách chi nhánh, chuyển giao khách hàng dân cư và quỹ tiết kiệm cũng phần nào gây trở ngại cho Sở trong việc huy động vốn từ dân cư. Huy động vốn khác Chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng, năm 2005 đạt 113 tỷ đồng nhưng trong 2 năm 2006 và 2007 chỉ dừng ở con số 35 tỷ đồng. 2.3. Đánh giá công tác huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN 2.3.1. Kết quả đạt được. Với nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, linh hoạt, hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu của khách hàng gửi tiền và hệ thống công nghệ hiện đại, nguồn vốn huy động của SGD liên tục tăng trưởng. Số dư huy động tiền gửi của SGD có xu hướng tăng qua các năm, đặc biệt có sự tăng trưởng rõ rệt trong 3 năm gần đây, tổng số dư huy động năm 2006 tăng 33,6% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 34,7% so với năm 2006. Về cơ cấu nguồn vốn huy động của SGD, tuy có sự sụt giảm trong khối lượng tiền gửi huy động từ dân cư nhưng vẫn có thể nhận thấy rõ sự tăng mạnh trong khối tiền gửi huy động từ các tổ chức kinh tế (TCKT), trong 2 năm 2006 và 2007, lượng tiền huy động được từ các TCKT đều tăng trên 60% mỗi năm, tính đến cuối năm 2007, lượng vốn huy động được từ phía các TCKT đã lên tới 11.821 tỷ đồng. Huy động VND hiện chiếm khoảng 85% tổng nguồn vốn, huy động trung dài hạn ổn định ở mức khoảng 44% . Sở giao dịch đã cải thiện cơ bản tỷ trọng tiền gửi thanh toán trong tổng nguồn vốn, góp phần giảm chi phí huy động, tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Cùng với sự tăng trưởng về số lượng vốn huy động, số lượng khách hàng cũng ngày càng gia tăng. Ngoài việc duy trì mối quan hệ lâu dài bền vững với các khách hàng truyền thống, Sở giao dịch đẩy mạnh công tác tìm kiếm khách hàng mới thông qua việc nâng cao uy tín, chất lượng dịch vụ, mở rộng mạng lưới chi nhánh, hiện đại hóa ngân hàng. Như vậy, công tác nguồn vốn tại SGD vẫn tiếp tục giữ vững được số dư huy động cao và có tăng trưởng, đảm bảo thực hiện kế hoạch kinh doanh được giao. Cơ cấu nguồn vốn nói chung tương đối ổn định, tỷ trọng huy động vố trung và dài hạn tăng đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan đã được phân tích trên, vẫn còn một số hạn chế trong công tác huy động vốn của Sở. 2.3.2. Hạn chế. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn là khá đồng đều xét về mặt tổng thể, tuy nhiên cơ cấu huy động lại có những biến động chưa hợp lý. Cụ thể, trong khi nguồn vốn huy động trung và dài hạn có xu hướng giảm còn nguồn vốn ngắn hạn tăng, trong khi đó nhu cầu tín dụng trung và dài hạn lại rất lớn. Nếu xem xét kĩ có thể nhận thấy phần lớn nguồn vốn huy động được sử dụng để tài trợ cho các dự án trung và dài hạn, do đó sự gia tăng quá lớn của nguồn vốn ngắn hạn sẽ ảnh hưởng tới khả năng cho vay của Ngân hàng. Thực tế cho thấy hoạt động huy động vốn từ dân cư của Sở là chưa hoàn toàn hiệu quả, dường như đang trên đà giảm sút. Mạng lưới hoạt động trên địa bàn Hà Nội vẫn còn ít so với hệ thống các Ngân hàng khác như Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam và nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác. Nguồn vốn huy động từ dân cư giảm mặc dù Sở giao dịch đã nỗ lực trong việc thực thi các chính sách thu hút khách hàng. Rõ ràng, trong một môi trường như hiện nay, việc cạnh tranh bằng lãi suất vẫn còn phổ biến, nhưng khi Ngân hàng Nhà nước đã giới hạn lãi suất trần đối với tiền gửi thì việc sử dụng lãi suất như một công cụ để thu hút người dân đến với ngân hàng là chưa đủ. Hoạt động Marketing của Ngân hàng chưa được chú trọng, chưa thực sự trở thành công cụ hiệu quả để khuyếch trương hình ảnh và các hoạt động của ngân hàng. Một điều khác nữa cũng không nên bỏ qua đó là trình độ và thái độ của nhân viên ngân hàng đối với khách hàng khi hướng dẫn các dịch vụ cũng ảnh hưởng đến việc khách hàng có quyết định kí hợp đồng với ngân hàng hay không. 2.3.3. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan: Các hình thức huy động vốn còn nghèo nàn đơn điệu, tuy Sở giao dịch không ngừng nghiên cứu, phát triển các sản phẩm tiền gửi ngắn hạn và dài hạn nhưng các sản phẩm vẫn chưa thực sự thể hiện rõ các tính năng nổi trội về tiện ích , chưa nói đến việc so sánh trên thị trường quốc tế, ngay cả so với một số Ngân hàng nội địa như Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng Kỹ thương Techcombank, Ngân hàng Á Châu ACB cũng khó mà cạnh tranh nổi. Mặc dù không thể phủ nhận BIDV có thế mạnh rất lớn về hoạt động tín dụng đặc biệt là với rất nhiều tổ chức kinh tế lớn trên thị trường nhưng nếu không huy động được nguồn vốn lâu dài và hiệu quả, BIDV nói chung và Sở giao dịch nói riêng sẽ khó đạt được mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Lãi suất huy động vốn còn chưa hợp lý, không những không có sự chênh lệch đáng kể so với các Ngân hàng thương mại nhà nước khác mà còn thấp hơn so với nhiều ngân hàng thương mại cổ phần. Chính sách lãi suất của Sở giao dịch còn chưa linh hoạt, chưa bám sát kịp thời với những thay đổi của thị trường, chủ yếu phụ thuộc và mức lãi suất do Hội sở chính đưa ra. Công nghệ ngân hàng còn chưa xứng với tiềm năng và quy mô hoạt động của ngân hàng.Việc tập hợp, khai thác sử dụng và bác cáo số liệu còn gặp nhiều khó khăn. Công nghệ thông tin lạc hậu dẫn đến việc tiếp nhận và quản lý thông tin còn chậm chạp, lúng túng trong xử lý, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Hoạt động thanh toán cũng chưa thực sự mạnh, chưa thực sự thuận tiện và nhanh chóng như nhu cầu của khách hàng. Thái độ của nhân viên còn nhiều điểm chưa tốt. Rất nhiều khách hàng phàn nàn về thái độ kém niềm nở và thân thiện của nhân viên giao dịch với khách hàng. Có thể nhiều nhân viên còn chưa nhận thức rằng ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và cần đến khách hàng chứ không phải khách hàng cần thiết phải đến với ngân hàng. Trong điều kiện khách hàng có rất nhiều lựa chọn, các ngân hàng thương mại cổ phần thậm chí coi khách hàng là thượng đế, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng cho dù có thể ảnh hưởng chút ít đến lợi ích của mình, thì giữ thái độ phục vụ như thế có lẽ là không phù hợp với khách hàng. Cán bộ ngân hàng nhất là các cán bộ có trình độ nghiệp vụ còn thiếu nhiều. Hoạt động Marketing chưa chuyên nghiệp và hiệu quả. Hoạt động nghiên cứu thị trường trước khi đưa ra sản phẩm mới là hoàn toàn không có hoặc tiến hành rất sơ sài. Các sản phẩm đưa ra do đó đơn điệu và không có nét mới so với sản phẩm của các Ngân hàng khác. Chi phí huy động vốn còn lớn, đặc biệt là trong các khâu quản lý và tiến hành các thủ tục, do đó hạn chế trong việc nâng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút khách hàng. Nguyên nhân khách quan. Thị trường tài chính trong vài năm trở lại đây cũng có những diễn biến tương đối phức tạp. Sự phát triển của thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán trong nước đã thu hút một lượng vốn lớn. Bên cạnh đó, do CPI tăng nhanh dẫn đến lãi suất cũng tăng cao. Cuối năm 2007, nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế tăng cao, các ngân hàng không thể đáp ứng hết, dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng, đẩy lãi suất lên rất cao, buộc Ngân hàng nhà nước phải đưa ra trần lãi suất huy động ở mức 12% để ngăn cuộc chạy đua lãi suất này. Hơn nữa, thị trường liên ngân hàng còn chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến hậu quả là các ngân hàng khó huy động được lượng vốn ngắn hạn trên thị trường này. Áp lực cạnh tranh: Thời điểm hiện nay, sự gia nhập thị trường của các ngân hàng nước ngoài uy tín lớn, có kinh nghiệm, có tiềm lực về vốn cũng như công nghệ, sự phục hồi và phát triển nhanh chóng của 1 loạt các ngân hàng thương mại cổ phần về mạng lưới và lĩnh vực hoạt động đạt hiệu quả cao, các tổng công ty và tập đoàn lớn đang tiến hàng phát hành trái phiếu, cổ phiếu là những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn của Sở giao dịch. CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. Mục tiêu, định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN. Huy động vốn và sử dụng vốn là hai nghiệp vụ là hai nghiệp vụ quan trọng nhất đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Tổng quan về thực trạng huy động vốn tại Sở giao dịch đã được đề cập ở chương trước. Mặc dù ngân hàng đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn có những hạn chế cần được khắc phục nhằm tăng cường công tác huy động vốn của mình. Sở giao dịch trên tinh thần quán triệt tư tưởng, đường lối phát triển của NHĐT&PTVN, đã xây dựng những chiến lược riêng phù hợp với định hướng của toàn hệ thống và có hiệu quả nhất đối với Sở trước những yêu cầu của nền kinh tế xã hội. 3.1.1. Định hướng chung. Trong năm 2008, SGD-NHĐT&PTVN xác định tiếp tục theo đuổi các định hướng nền tảng đã đề ra với phương châm hoạt động “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV” và “Chia sẻ cơ hội- Hợp tác thành công”. Mục tiêu chủ yếu là xây dựng BIDV thành ngân hàng đa sở hữu, kinh doanh đa lĩnh vực, hoạt động theo thông lệ quốc tế, chất lượng ngang tầm các ngân hàng tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á và trở thành Ngân hàng uy tín chất lượng hàng đầu tại Việt Nam. Các mục tiêu ưu tiên tại SGD-BIDV cho đến năm 2010: Tiếp tục là nhà cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu trên địa bàn, là đơn vị chủ lực của ngành. Thực hiện kế hoạch cổ phần hóa một cách tích cực và chủ động. Đẩy mạnh tái cơ cấu ngân hàng, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị thành viên Xây dựng kế hoạch tài chính lành mạnh, giải quyết triệt để vấn đề Nợ xấu. Tăng trưởng ngân hàng dựa trên cơ sở sinh lời và bền vững. Cải thiện và phát triển hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho thị trường mục tiêu đã lựa chọn, phát triển mạng lưới kênh phân phối sản phẩm. Cùng với toàn hệ thống ngân hàng, SGD tích cực hoàn thiện các điều kiện để thúc đẩy quá trình phát hành chứng khoán lần đầu và niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc tế. Sở giao dịch tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, đối với Tổng tài sản là 25%, huy động vốn 27%, tín dụng 20% và đầu tư tăng khoảng 35%. Cơ cấu thu dịch vụ ròng/ lợi nhuận trước thuế khoảng hơn 45%, EBT tăng 45%, khả năng sinh lời ROA >2%, ROE >18%. 3.1.2. Định hướng huy động vốn. Năm 2008, Sở giao dịch đã đề ra những định hướng cho hoạt động huy động vốn như sau: Thực hiện chương trình huy động vốn dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của Hội sở chính. Điều chỉnh cơ cấu huy động vốn phù hợp để đáp ứng các nhu cầu cho vay và đầu tư một cách linh hoạt và giảm thiểu rủi ro. Duy trì tăng trưởng huy động vốn ở mức cao, phấn đấu đạt trung bình 21%/năm. Sở giao dịch tiếp tục nỗ lực xây dựng chiến lược khách hàng, phục vụ tốt tất cả các đối tượng khách hàng, đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên ngân hàng. Nâng cao chất lượng, mở rộng các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế. Tiếp tục duy trì và thiết lập các mối quan hệ mới với các tổ chức kinh tế về tín dụng và thanh toán để mở rộng quan hệ vay vốn thông qua những hình thức khác nhau. Ngoài các sản phẩm truyền thống, Sở đẩy nhanh việc nghiên cứu Marketing và đưa ra thị trường những sản phẩm mới. Bám sát nhu cầu của thị trường, đưa ra các hình thức huy động và lãi suất đa dạng để thu hút nguồn vốn từ dân cư. Tăng trưởng vốn ở mức cao và bền vững đồng thời điều chỉnh cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có về kì hạn tiền gửi và tiền cho vay. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nhấn mạnh an toàn và hiệu quả, chú trọng công tác phân tích đánh giá khách hàng, công tác kiểm tra kiểm soát. Tăng trưởng các nguồn vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. 3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN. 3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Khi khách hàng gửi tiền tại ngân hàng, họ hướng tới những tiện ích mà họ được hưởng bao gồm sự tiện dụng trong thanh toán, lãi suất, các khoản khuyến mại. lợi ích có thêm… Tuy nhiên với các hình thức gửi tiền mà Sở giao dịch 1 đang cung cấp như : Tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm ổ trứng vàng, trả lương tự động, gửi một mơi rút nhiều nơi, phát hành giấy tờ có giá…chưa thấy có nhiều điểm khác biệt thậm chí còn không bằng các ngân hàng cổ phần về việc đem lại các lợi ích đi kèm cho khách hàng. Các hình thức huy động không nhiều trong khi đó vẫn tồn tại những nhược điểm đối với mỗi hình thức. Đa dạng hóa các hình thức huy động của ngân hàng cần đa dạng về cách thức huy động ( tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá, thẻ thanh toán và rút tiền toàn cầu, tiền gửi thanh toán, giấy tờ có giá…), đa dạng về loại tiền (Nội tệ, ngoại tệ, vàng …), đa dạng về kì hạn ( theo tuần, theo tháng, theo năm), từ đó tạo điều kiện thuận lợi và các cơ hội lựa chọn cho khách hàng. Khi đưa ra các hình thức, căn cứ vào địa bàn hoạt động của Sở ( một điều thuận lợi là Sở giao dịch nằm ngay trung tâm và có các phòng giao dịch nằm ở những vị trí rất thuận tiện cho việc giao dịch, tiếp xúc với khách hàng) rút ra đặc điểm của dân cư để có các hình thức phù hợp. Đối với tiền gửi tiết kiệm từ dân cư, là nguồn tiền tương đối ổn định lâu dài, Sở có thể đưa ra các hình thức tiết kiệm hướng tới lợi ích của người dân như : Tiết kiệm gửi nhiều lần rút 1 lần: khách hàng chia khoản tiền tiết kiệm ra làm nhiều phần, gửi nhiều lần theo những kì hạn nhất định theo thỏa thuận, hình thức này phù hợp với những khách hàng có thu nhập ổn định, xác định thời hạn cần rút tiền. Hình thức này phù hợp với đa số người Việt Nam có thói quen gom góp tiền để sau một khoảng thời gian có khoản tiền lớn sử dụng cho tiêu dùng, du học, mua nhà, mua xe, hưu trí ( Các hình thức cụ thể như là Tiết kiệm nhân thọ, tiết kiệm tiêu dùng, tiết kiệm du học…) Tiết kiệm có thưởng : hình thức gửi tiền trong đó khách hàng sau khi gửi tiền, có một mã số nhất định, khách hàng có mã số may mắn có thể trúng thưởng bằng hiện vật ( nhà, ô tô, vàng) hay bằng tiền. Tiết kiệm gửi một nơi lĩnh tiền ở nhiều nơi: hình thức linh hoạt, giúp cho khách hàng cảm thấy thoải mái trong việc gửi tiền. Vì phần lớn người dân thường muốn gửi tiền ở 1 điểm giao dịch có uy tín và an toàn nhưng vẫn muốn có thể rút tiền tại bất kì địa điểm nào. Tiền gửi rút gốc linh hoạt: Tiền gửi Tiết kiệm rút gốc linh hoạt là một hình thức tiết kiệm có kỳ hạn nhưng khách hàng được quyền rút tiền gốc làm nhiều lần tùy theo nhu cầu sử dụng của mình, mức lãi suất không kỳ hạn của loại hình “Tiết kiệm rút gốc linh hoạt” có thể áp dụng bằng mức lãi suất không kỳ hạn bậc thang của hình thức tiết kiệm thông thường, như vậy khách hàng không cảm giác quá bất lợi. Tiết kiệm bù lạm phát : là hình thức tiết kiệm rất phù hợp trong điều kiện hiện nay, khi cư dân lo lắng về sự mất giá của tiền nên không dám gửi vào ngân hàng, hình thức này sẽ giúp người dân yên tâm hơn trong việc tiết kiệm. Khách hàng gửi tiền, ngoài mức lãi suất ban đầu sẽ được ngân hàng cam kết bù thêm một phần hoặc toàn bộ phần chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và tỷ lệ lạm phát thực tế. Đối với tiền gửi thanh toán, chủ yếu hướng tới các doanh nghiệp để phục vụ các giao dịch thanh toán trong và ngoài nước, tuy nhiên khi thanh toán không dùng tiền mặt đang dần trở nên phổ biến như hiện nay thì việc thu hút tất cả các đối tượng dân cư cũng như tổ chức là điều cần thiết. Sở giao dịch cũng rất chú ý đến việc phát triển các loại thẻ như: Power- Tiếp nối thành công. Etrans 365+, Vạn dặm, tuy nhiên trong thời kì hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, các loại thẻ như thẻ thanh toán và rút tiền toàn cầu, thẻ thanh toán nội địa và quốc tế sẽ cần được lưu tâm phát triển nhiều hơn nữa. Visa debit Card: Thẻ được dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các đại lý chấp nhận thẻ Visa, MasterCard như: siêu thị, cửa hàng, nhà hàng, khách sạn, đại lý vé máy bay, khu du lịch, bệnh viện, câu lạc bộ... không chỉ tại Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Cũng có thể sử dụng thẻ này như một phương thức thuận tiện cho việc đặt hàng qua thư hay điện thoại và thực hiện các dịch vụ trên mạng Internet. Sản phẩm thẻ này đã có nhiều Ngân hàng đưa ra trước, tuy nhiên Sở cũng có thể thêm vào một số tính năng như cho phép khách hàng sử dụng thấu chi, hưởng lãi suất bậc thang … Thẻ liên kết sinh viên: Hiện nay sinh viên là các đối tượng khách hàng tiềm năng trong việc sử dụng thẻ. Ngoài các tính năng như thẻ thông thường, thẻ này ứng dụng công nghệ thẻ từ vào quản lý sinh viên như: Quản lý ra vào thư viện, ra vào phòng máy vi tính, thanh toán học phí, học bổng của sinh viên ... rất tiện lợi. Đối với các loại giấy tờ có giá, hiện nay ưu thế của cả BIDV nói chung và Sở giao dịch nói riêng là có uy tín trên thị trường nên dễ dàng hơn trong việc phát hành các giấy tờ có giá ra thị trường.Tuy nhiên vẫn có thể phát hành với nhiều hình thức đa dạng hơn để đạt được hiệu quả cao hơn trong nghiệp vụ huy động vốn này. Ngân hàng có thể áp dụng trả lãi trước, trả lãi sau, đa dạng hóa về kì hạn, loại tiền, lãi suất linh hoạt. Ví dụ có thể Phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn ( dưới 1 năm – có thể 6 tháng hay 9 tháng) với lãi suất cạnh tranh. Trong thời gian tới, ngân hàng cũng cần đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp. Vừa là khách hàng đến xin vay vốn từ ngân hàng, vừa là người gửi tiền, doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi, hơn nữa ngân hàng cũng thuận tiện và giảm bớt được chi phí trong quản lý. Ngân hàng cũng nên quan tâm, vì đây sẽ là nguồn vốn huy động còn có tiềm năng rất lớn có thể khai thác. Để phát triển một sản phẩm mới không phải là dễ, điều mà ngân hàng cần làm trước khi đưa ra một sản phẩm mới đó là phải nghiên cứu kĩ thông tin thị trường, quan trọng nhất là đáp ứng được nhu cầu của khách hàng mà vẫn đảm bảo lợi ích cho ngân hàng. Vì các ngân hàng bạn cũng đang không ngừng đa dạng hóa sản phẩm, nên nếu có thể, tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình sẽ nâng cao tính cạnh tranh. Việc tận dụng các ưu thế mà ngân hàng đang có sẽ tạo ra những điểm riêng và khuyến khích khách hàng truyền thống và khách hàng mới đến với ngân hàng mình. Đưa ra một sản phầm mới tới với khách hàng không phải là dễ, phải tận dụng các phương thức truyền thông để quảng bá rộng rãi cho sản phẩm của mình như Internet, Tivi, báo chí, các biển quảng cáo… Việc đa dạng hóa trong hoạt động huy động vốn sẽ giúp Sở giao dịch khai thác được nhiều hơn các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, có thể không cần dùng đến lãi suất như một phương thức cạnh tranh (mà theo nhiều nhà kinh tế học thì có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng), qua đó giảm chi phí huy động của Ngân hàng. 3.2.2. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý. Lãi suất là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Như sự việc cuối năm 2007 đầu năm 2008 đã cho thấy rõ, khi các ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng, đã lần lượt tăng lãi suất huy động lên cao để thu hút khách hàng. Tất nhiên khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng ngoài mục tiêu an toàn thì còn mong đợi vào khoản tiền lời có thể kiếm được. Một thực tế hiện nay là các ngân hàng Việt Nam vẫn còn coi lãi suất như một công cụ cạnh tranh tối ưu, mặc dù có thể làm tăng chi phí huy động lên rất nhiều và ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Do đó việc xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý là rất cấp thiết. Sở giao dịch cần chú trọng thay đổi lãi suất sao cho phù hợp với lãi suất trên thị trường nhưng vẫn cân đối với mức lãi suất cho vay. Hiện nay, Sở giao dịch cũng như nhiều ngân hàng khác, đối với khách hàng rút tiền tiết kiệm trước hạn thì sẽ cho khách hàng rút và hưởng lãi như đối với tiền gửi không kì hạn. Hình thức trả lãi như vậy có thể phù hợp với các khoản tiền gửi ngắn hạn, đối với các khoản tiết kiệm dài hạn khoảng 6 tháng, 9 tháng hay 1 năm thì người gửi sẽ bị thiệt. Khách hàng vì thế không ưa thích gửi tiền dài hạn mà thường chỉ gửi các kì hạn ngắn – đó là lí do gây ra tình trạng thiếu nguồn vốn trung và dài hạn. Sở giao dịch có thể linh hoạt, cho phép khách hàng rút tiền trước hạn được hưởng lãi suất của kì hạn ngắn hơn ngay trước đó. Ví dụ khi khách hàng có khoản gửi 1 năm, nhưng đến tháng thứ 10 cần phải rút tiền, ngân hàng có thể cho phép hưởng mức lãi suất tiền gửi 9 tháng. Khách hàng thấy vẫn đảm bảo được lợi ích sẽ tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng. Một vấn đề nữa là khách hàng thường quan tâm đến lãi suất thực gửi chứ không phải lãi suất danh nghĩa mà ngân hàng công bố. Trong trường hợp nền kinh tế lạm phát quá cao, ngân hàng cũng phải cân nhắc mức lãi suất để có thể bù đắp phần nào sự mất giá của đồng tiền cho khách hàng. Lãi suất danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát để đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền cũng như khuyến khích họ yên tâm để tiền vào ngân hàng. Sở giao dịch cũng không nên bó hẹp trong mối quan hệ với các khách hàng doanh nghiệp truyền thống vốn là những doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế để không bị phụ thuộc vào các Tổng công ty đó, nên thiết lập và mở rộng các mối quan hệ bền vững. Áp dụng mức lãi suất phù hợp với từng loại hình khách hàng doanh nghiệp. Dù điều chỉnh lãi suất thế nào, Sở cần phải bám sát với lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế cũng như theo đúng định hướng mà Ban lãnh đạo NHĐT&PTVN đã đề ra. 3.2.3. Phát triển hoạt động Marketing. Ngân hàng muốn khách hàng biết đến và bị thuyết phục bởi sản phầm của mình thì phải chú trọng công tác Marketing. Một điều đáng tiếc là trong một thời gian dài, không chỉ ngành ngân hàng mà rất nhiều ngành khác đã bỏ qua tầm quan trọng cũng như sức mạnh của công cụ Marketing. Để thực hiện tốt hoạt động Marketing, Sở giao dịch cần: Nghiên cứu thị trường. Thực chất của hoạt động này là nghiên cứu tâm lý, đặc điểm cũng như các nhu cầu của khách hàng để có thể làm hài lòng khách hàng ở mức độ tốt nhất có thể. Tất nhiên khách hàng đến với ngân hàng thuộc nhiều thành phần khác nhau có những mục đích khác nhau, do đó ngân hàng phải tiến hành nghiên cứu và phân loại khách hàng để nắm bắt tâm lý, thị hiếu, thói quen từ đó xây dựng hệ thống chính sách về sản phẩm, giá cả, thời gian … và những ưu đãi. Đối với các khách hàng doanh nghiệp. họ thường mở tài khoản tiền gửi thanh toán với mục tiêu thuận tiện và an toàn nhiều hơn là vì mục tiêu sinh lời. Hơn nữa họ lại thường gửi với số lượng rất lớn. Đây là những đối tương khách hàng tiềm năng mà bất kì ngân hàng nào cũng muốn có, vì vậy Sở giao dịch phải chủ động tìm đến và khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm của mình. Ví dụ như dịch vụ trả lương qua tài khoản là dịch vụ hiện nay đang được khai thác rất tốt. Bên cạnh đó, thực lực và uy tín của ngân hàng là yếu tố đầu tiên mang ngân hàng đến với khách hàng. Đối với dân cư, khoản tiền gửi của họ tuy không lớn, nhưng có thời hạn tương đối dài hơn, có vẻ ổn định. Lợi nhuận và độ an toàn được nhóm khách hàng này được đặt lên vị trí hàng đầu, tiện lợi cho việc giao dịch cũng được chú ý, về uy tín của ngân hàng thì không được coi trọng nhiều bằng những yếu tố đã kể trên. Ngân hàng có thể mở nhiều chi nhánh, nhiều điểm giao dịch ở những nơi tập trung đông dân cư và tiện lợi. Do tâm lý của nhóm khách hàng này thường bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trên thị trường, nên các sản phẩm của ngân hàng phải hướng tới tiêu chí đảm bảo an toàn cho số tiền họ gửi khi có ảnh hưởng của lạm phát hay biến động tỷ giá. Thái độ của nhân viên ngân hàng Để cung cấp dịch vụ chất lượng cao đồng nghĩa với việc nhân viên ngân hàng phải có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững chắc để có thể tiến hành các nghiệp vụ một cách nhanh chóng chính xác đồng thời nắm được các ứng dụng công nghệ trong công việc của mình. Đặc biệt là các nhân viên làm ở vị trí giao dịch, là những người thường xuyên tiếp xúc với khách hàng – được coi như bộ mặt của ngân hàng, phải yêu cầu là những người có tinh thần trách nhiệm cao, thái độ niềm nở, có thể xử lí linh hoạt trong các tình huống phát sinh. Nhân viên giao dịch phải làm cho khách hàng cảm thấy hài lòng, có cảm tình với thái độ phục vụ của ngân hàng. Nhân viên có thể là người tư vấn cho khách hàng, giới thiệu và làm cho khách hàng hiểu rõ những ưu điểm của sản phẩm. Hoặc tốt hơn cả, có một phòng chuyên môn nghiệp vụ chuyên tư vấn cho khách hàng. Tăng cường công tác quảng cáo tiếp thị sản phẩm. Sở giao dịch có thể sử dụng các phương tiện truyền thông để đưa sản phẩm của mình đến với công chúng, đó là cơ hội tốt để quảng bá cho Sở giao dịch nói riêng và toàn ngân hàng nói chung. Hiện nay các khách hàng không có đủ thời gian để có thể đến từng ngân hàng để nghiên cứu từng sản phẩm dịch vụ, họ ưa thích việc biết đến ngân hàng qua các phương tiện thông tin đại chúng nhiều hơn, vì như vậy thuận tiện hơn. Hiện nay, Internet là công cụ khá hữu ích, vì nhanh chóng và thuận tiện cho việc tìm hiểu thông tin về ngân hàng, tuy nhiên trang web của BIDV lại khá đơn giản, hầu như chỉ cung cấp thông tin rất chung chung, chưa kể đến hoạt động của Sở giao dịch và các Phòng giao dịch lớn trên địa bàn thì không thấy trên trang web. Có thể thông qua các hội thảo, các triển lãm về hoạt động ngân hàng để giới thiệu về hoạt động của Sở tới các doanh nghiệp và dân cư trên địa bàn. Các kênh phân phối của Ngân hàng cũng cần được chú ý nhiều, ngoài các kênh truyền thống như các điểm giao dịch, các chi nhánh thì việc mở rộng các điểm rút tiền, các kênh phân phối điện tử sẽ thu hút sự quan tâm của công chúng. Xây dựng quảng bá thương hiệu. Xây dựng quảng bá thương hiệu là một phần quan trọng của công tác Marketing ngân hàng, có thể thực hiện thông qua các hoạt động quảng cáo, tham gia các hội trợ triển lãm, các chương trình giới thiệu sản phẩm, tài trợ cho các chương trình, các hoạt động giao tiếp cộng đồng, các hoạt động từ thiện đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội, các chính sách phát triển sản phẩm của doanh nghiệp. 3.2.4. Đổi mới công nghệ ngân hàng. Có thể nói, việc phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng đã tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các NHTM tăng trưởng và phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng giao dịch và giảm các chi phí liên quan. Phần lớn hệ thống máy móc mà Sở giao dịch hiện có còn khá mới và việc khai thác tối đa tiện ích của các máy móc đó còn nhiều điều cần lưu ý. Ngay cả máy móc văn phòng cũng chưa khai thác hết tính năng dẫn đến lãng phí. Do đó, Sở phải phổ biến về công dụng của các loại máy móc để sử dụng có hiệu quả hơn. Đồng thời tiến hành kiểm tra bảo dưỡng thường xuyên để duy trì khả năng hoạt động của máy móc. Đối với những máy móc cũ không còn thích hợp có thể thanh lý, nhượng bán để giảm chi phí quản lý. Tuy nhiên, ngân hàng lại là lĩnh vực mà các ứng dụng công nghệ thông tin được sử dụng rất mạnh mẽ, hỗ trợ rất nhiều tới sự phát triển và chất lượng các dịch vụ ngân hàng. Hiện nay, công nghệ ngân hàng của Sở chưa thực sự đáp ứng được hoạt động kinh doanh. Vì nhiều khách hàng khi gửi tiền thường xem xét công nghệ ngân hàng liệu có đáp ứng được nhu cầu của mình một cách nhanh chóng và tiện lợi nhất hay không. Công nghệ thông tin thì không ngừng được cập nhật, nâng cấp, Sở giao dịch cũng nên chú ý để có thể sử dụng được các công nghệ phù hợp nhất với tiềm năng của mình, trình độ của nhân viên và đáp ứng nhu cầu của khách hàng cả về chiều rộng và chiều sâu. Tránh tình trạng nhập máy móc quá cao so với trình độ nhân viên và phức tạp cho khách hàng khi sử dụng. 3.2.5. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên. Đội ngũ cán bộ tại Sở giao dịch, phần lớn là đội ngũ cán bộ trẻ mới tốt nghiệp từ các trường Đại học, xét về mặt lý thuyết nghiệp vụ có thể nắm vững tuy nhiên còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong xử lý tình huống thực tế. Vì vậy nếu có những khóa đào tạo nhằm trang bị kiến thức chuyên môn cho phù hợp với điều kiện thực tế sẽ rất có ích. Có thể liên kết với các trường Đại học để đào tạo tại chỗ, đào tạo từ xa hoặc tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm để các nhân viên mới vào có thể học hỏi thêm từ những người đã từng làm việc lâu năm tại ngân hàng. Có thể tiến hành các đợt kiểm tra phân loại để chọn lựa những người có khả năng làm việc. Về nội dung các chương trình đào tạo, chủ yếu là học hỏi các kinh nghiệm làm việc thực tế, bổ sung chuyên môn nghiệp vụ, học hỏi cách sử dụng tối ưu công nghệ ngân hàng, ngoại ngữ, tin học và quản trị kinh doanh. Sở sẽ tiến hành đào tạo theo mô hình một ngân hàng hiện đại, trong đó cán bộ nhân viên tinh thông cả quản trị điều hành và tác nghiệp, trước hết là đào tạo kỹ năng triển khai các sản phẩm dịch vụ, các nghiệp vụ hội nhập, đồng thời cập nhật kiến thức mới, phổ cập tin học cơ bản, ngoại ngữ cho cán bộ nghiệp vụ của Sở, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho các chi nhánh còn yếu. Sở cũng nên có chính sách thu hút người giỏi, người có tài, người có năng lực về hoạt động dịch vụ ngân hàng từ các ngân hàng khác, các ngành khác và các trường đại học trong và ngoài nước về. Chính sách thu hút chủ yếu là chính sách đãi ngộ, bố trí và sử dụng, việc tạo điều kiện phát huy tốt chuyên môn và không khí làm việc trong chi nhánh. Mạnh dạn áp dụng mô hình thuê chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng làm việc tại ngân hàng. Sở giao dịch cũng nên quan tâm nâng cao đời sống tinh thần cho anh chị em cán bộ, đảm bảo cho nhân viên làm việc trong môi trường bình đẳng, khen thưởng và xử phạt một cách công bằng. Ngoài ra Sở có thể tổ chức các hoạt động phong trào để cán bộ công nhân viên cùng tham gia. 3.3.6. Các giải pháp khác. Mở rộng mạng lưới phòng giao dịch, điểm giao dịch. Mạng lưới phòng giao dịch và điểm giao dịch càng rộng càng thuận lợi cho Sở giao dịch mở rộng thị phần hoạt động và có sự hỗ trợ kịp thời cho nhau khi cần thiết. Hơn nữa, khách hàng có xu hướng lựa chọn những ngân hàng có mạng lưới rộng để thuận tiện cho việc thanh toán, thực hiện các giao dịch, hay gửi rút tiền. Việc mở rộng mạng lưới giúp cho Sở giao dịch tiếp cận tốt hơn với khách hàng. Trên địa bàn Hà Nội hiện nay Sở cũng đã có 3 phòng giao dịch chính và nhiều điểm giao dịch lẻ, nhưng vẫn cần mở rộng thêm để tương xứng với tốc độ phát triển của Sở, tăng lượng tiền huy động cũng như số lượng khách hàng. Giảm chi phí huy động vốn. Sở giao dịch có thể tìm cách giảm chi phí của hoạt động huy động vốn thông qua việc cắt giảm các chi phí liên quan đến thủ tục trong thanh toán hay cung ứng dịch vụ. Việc rút gọn quy trình tiến hành công việc giúp giảm thời gian, tăng khả năng phục vụ của ngân hàng. Nâng cao năng suất làm việc, thực hành tiết kiệm. Cải tiến phong cách làm việc để đạt hiệu quả cao hơn. KẾT LUẬN Sự bùng nổ nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hiện nay là điều mang tính tất yếu, do đó mà các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng đa dạng hóa các dịch vụ, tăng cường khả năng đáp ứng cầu của thị trường. Trước sức ép cạnh tranh hiện tại và trong thời gian tiếp theo, mỗi ngân hàng đều cố gắng nâng cao hiệu quả các hoạt động của mình. Huy động vốn – hoạt động đầu tiên và cơ bản nhất của một ngân hàng – vì thế cũng đòi hỏi những giải pháp phù hợp và hiệu quả để tăng cường hơn nữa cả về mặt số lượng và chất lượng. Sở giao dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam với những thế mạnh nhất định trong hầu hết các hoạt động của mình, cũng không vì thế mà bỏ qua tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn. Những con số tăng trưởng về nguồn vốn huy động trong các báo cáo tài chính của Sở giao dịch trong những năm gần đây đã phản ánh nỗ lực và kết quả đáng kể của Sở. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục và thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Hi vọng những giải pháp nêu ra trong khuôn khổ chuyên đề này sẽ giúp ích cho công tác huy động vốn của Sở giao dịch nói riêng và cho hoạt động của toàn bộ Ngân hàng nói chung trong thời gian tới. Do còn hạn chế về mặt thời gian thực hiện cũng như việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu và phân tích, nên những thiếu sót trong bài viết là không thể tránh khỏi. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp bổ sung để có thể hoàn thiện chuyên đề này. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Ngân hàng thương mại – NXB Thống kê ( Chủ biên: PGS.TS Phan Thị Thu Hà) Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính – NXB Khoa học kỹ thuật. (Frederic Minskin) Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại – NXB Tài Chính (Peter Rose) Tín dung, ngân hàng – NXB Thống kê (Chủ biên : PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn) Ngân hàng thương mại – NXB Thống kê (GS.TS Lê Văn Tư) Báo cáo thường niên 2006,2007 SGD-NHĐT&PTVN Báo cáo kết quả hoạt động huy động vốn – Phòng kế hoạch nguồn vốn – SGD-NHĐT&PTVN Tạp chí Ngân hàng 2006,2007 Websites: Ngân hàng nhà nước Việt Nam ( Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( Mục lục Lời nói đầu ……………………………………… 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại …… 3 1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại ………………………… 3 1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại…. 3 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 7 1.2. Vốn của Ngân hàng thương mại……………. 11 1.2.1. Vốn chủ sở hữu……………………….. 11 1.2.2. Vốn nợ………………………………… 14 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại………………………….. 21 1.3.1. Các nhân tố khách quan………………. 21 1.3.2. Các nhân tố chủ quan…………………. 23 Chương 2 : Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Sở Giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 28 2.1. Tổng quan về Sở giao dịch – NHĐT&PTVN 28 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển……. 28 2.1.2. Cơ cấu tổ chức……………………….. 29 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh một số năm gần đây 31 2.2. Thực trạng huy động vốn tại Sở giao dịch – NHĐT&PTVN 37 2.2.1. Tình hình biến động chung………….. 37 2.2.2. Huy động vốn nợ……………………. 39 2.3. Đánh giá công tác huy động vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam…… 47 2.3.1. Kết quả đạt được ………………….. 47 2.3.2. Hạn chế……………………………. 48 2.3.3. Nguyên nhân………………………. 49 Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Sở giao dịch - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 53 3.1. Mục tiêu, định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 53 3.1.1. Định hướng chung………………… 53 3.1.2. Định hướng huy động vốn………… 55 3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 56 3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn 56 3.2.2. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý 60 3.2.3. Phát triển hoạt động Marketing 63 3.2.4. Đổi mới công nghệ Ngân hàng 65 3.2.5. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên 66 3.2.6. Các giải pháp khác 67 Kết luận ………………………………… 69 Danh mục tài liệu tham khảo …………. 70 Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ. Sơ đồ 2.1 : Sơ đồ bộ máy tổ chức của Sở giao dịch. Bảng 2.1 : Cơ cấu huy động vốn của SGD-NHĐT&PTVN. Bảng 2.2 : Dư nợ tín dụng tại SGD-NHĐT&PTVN. Bảng 2.3 : Tỷ trọng dư nợ TD theo ngành so với tổng dư nợ qua các năm Bảng 2.4 : Tỷ trọng dư nợ theo khách hàng so với tổng dư nợ qua các năm Bảng 2.5 : Chỉ tiêu của hoạt động thanh toán quốc tế và xuất nhập khẩu. Bảng 2.6 : Chỉ tiêu thu dịch vụ ròng. Bảng 2.7 : Tình hình biến động huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN Bảng 2.8 : Các hình thức huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN Bảng 2.9 : Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế Bảng 2.10 : Cơ cấu các loại tiền trong tiền gửi của các tổ chức kinh tế Bảng 2.11 : Cơ cấu loại tiền trong tiền gửi tiết kiệm của dân cư Biểu đồ 2.1 : Cơ cấu huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Biểu đồ 2.2 : Cơ cấu huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxGiải pháp tăng cường huy động vốn tài Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.docx
Luận văn liên quan