Chương 1 : Tổng quan về ODA.
Chương 2 : Thực trạng thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào Ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Chương 3 : Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) vào Ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
108 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3226 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ngành bưu chính viễn thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m vận của Mỹ kết thúc đối với Việt Nam. Như chúng ta đã biết, trong những năm đầu của thập niên 90, điều kiện kinh tế của đất nước ta còn nghèo, khoa học công nghệ còn lạc hậu so với các nước trên thế giới, việc đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa quan hệ ngoại giao với các nước phát triển và các tổ chức quốc tể là rất cần thiết để có thể tranh thủ sự giúp đỡ về nguồn vốn đầu tư. Đối với mọi Ngành, mọi cấp của Việt Nam, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có một ý nghĩa quan trọng. Ngành BCVT Việt Nam là một ngành công nghệ thông tin, một ngành kinh tế mũi nhọn cần phải đi đầu, mở đường, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội được diễn ra thuận lợi nhanh chóng thông qua các dịch vụ BCVT tiên tiến, hiện đại đang rất cần nhiều vốn để đầu tư vào phát triển mạng viễn thông với thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến. Trong khi nguồn vốn của Ngành BCVT Việt Nam chưa đủ, nguồn vốn ngân sách của nhà nước còn hạn chế do đó mà việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau mà cụ thể là nguồn vốn ODA đang là một nhiệm vụ quan trọng đối với Ngành. Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước thì các ngành kinh tế mũi nhọn phải giữ được vai trò chủ đạo và tiên phong. Sự phát triển của Ngành này là nền tảng, cơ sở cho sự phát triển của Ngành khác và ngược lại. Sự tương tác, hỗ trợ liên Ngành là một tất yếu khách quan nhằm thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước.
Ngành BCVT Việt Nam muốn theo kịp với tốc độ phát triển viễn thông trên thế giới đang diễn ra cả về chiều sâu và chiều rộng thì chỉ có cách là tập trung thu vốn đầu tư vào phát triển cơ sở mạng lưới thông tin liên lạc, được coi là huyết mạch thông tin giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Chính vì vậy mà công tác thu hút vốn đầu tư mà cụ thể là vốn ODA của Ngành càng cần được quan tâm đúng mức.
- Do tốc độ thay đổi trong lĩnh vực viễn thông là rất lớn và các ứng dụng của nó đang trở nên rộng rãi hơn, các giải pháp lâu dài cho vấn đề truy nhập trong các khu vực vùng sâu, vùng xa với các công nghệ mới như Cellular, vệ tinh, cáp quang và DSL đang tăng đáng kể trong toàn bộ thị trường viễn thông, nên việc truy nhập tới các dịch vụ mới sẽ đòi hỏi không chỉ đối với vấn đề cân bằng mà còn đòi hỏi về vấn đề thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin. Vốn đầu tư cho phát triển mạng lưới BCVT ở vùng sâu, vùng xa là rất lớn, khả năng thu hồi vốn chậm, hầu như không có khả năng sinh lời. Đây là khó khăn chung đối với các nước đang và chậm phát triển trong đó có Việt Nam. Hiện nay Ngành BCVT Việt Nam đang có lợi thế là các Nhà trợ đang hướng vào tập trung hỗ trợ các nước đang và chậm phát triển trong đó có Việt Nam mà trọng tâm là các Ngành phục vụ sự nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, đặc biệt là tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có tốc độ tăng trưởng kinh kế - xã hội thấp so với các khu vực khác trong cả nước nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển văn hoá, tiến bộ xã hội, an ninh quốc phòng, xoá dần chênh lệch giữa các vùng trong cả nước.
Trên thực tế, dịch vụ bưu chính viễn thông tại các vùng nông thôn xa còn rất hạn chế đối với người dân, đặc biệt là dịch vụ Internet. Vì vậy mà Ngành BCVT Việt Nam càng cần phải tận dụng đặc điểm này của nguồn vốn ODA để lập kế hoạch phát triển mạng VTNT vì việc đầu tư cho mạng lưới viễn thông vùng sâu, vùng xa với công nghệ cao, thiết bị hiện đại là một điều vô cùng khó trong điều kiện khan hiếm về vốn.
- Một trong những ưu điểm lớn nhất của nguồn vốn ODA là điều kiện tài chính
mà nguồn vốn này dành cho các nước tiếp nhận tài trợ. Đối với các Nhà tài trợ song phương như Pháp, điều kiện tài chính thường như sau: lãi suất vay là 1-1,4%/năm, thời gian vay: 15-20 năm, ân hạn: 3-5 năm. Nhật Bản: thời gian vay là 30-40 năm, ân hạn là 10 năm, lãi suất 1,8 - 2%/năm. Trong khi đó, điều kiện vay thương mại hiện tại thông thường không có vay dài hạn, chỉ trung và ngắn hạn (tối đa 5 năm), lãi suất LIBOR 6 tháng cộng 1,7-2%/năm, không có ân hạn. Như vậy, điều kiện tài chính của nguồn vốn ODA chiếm lợi thế hơn hẳn. Với một số Nhà tài trợ chấp nhận thủ tục thầu quốc tế thì ưu đãi về điều kiện tài chính là tuyệt đối. Nguồn vốn ODA cho BCVT trong những năm gần đây chủ yếu là nguồn vay hỗn hợp hoặc nhẹ lãi và thường được Chính phủ và các cơ quan tổng hợp Nhà nước ưu tiên cho vay lại với lãi suất như lãi suất Nghị định thư. Đây là một trong những hỗ trợ rất lớn đối với Tổng công ty BCVT Việt Nam nói riêng và đối với Ngành BCVT Việt Nam nói chung.
- Kinh tế càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng nâng cao, nhu cầu của người dân và các doanh nghiệp về dịch vụ BCVT ngày càng cao thì nhu cầu về vốn phục vụ đầu tư phát triển của Ngành BCVT càng trở nên rất lớn, bình quân 4000 tỷ VND/năm. Do đó công tác huy động vốn đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai thực hiện kế hoạch tăng tốc phát triển Bưu chính Viễn thông. Trong khi nguồn vốn Ngân sách nhà nước cấp cho Ngành ngày càng giảm, trong giai đoạn 1996 - 2000 là 1,192 tỷ đồng, chiếm 6,44% tổng vốn huy động, do đó nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược huy động vốn của Tổng công ty BCVT Việt Nam.
- Ngoài hình thức thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, các hình thức đầu tư khác của Ngành BCVT Việt Nam thì sao? Trên thực tế, hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào ngành BCVT còn hạn chế và phức tạp. Kể từ khi chấm dứt lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt nam vào năm 1993, nhiều tổ chức, công ty nước ngoài muốn thiết lập quan hệ làm ăn với Việt Nam, họ đã mở các văn phòng, chi nhánh, công ty tại Việt Nam. Trong lĩnh vực BCVT, một số hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) đã được ký kết với các tổ chức viễn thông như Telstra của Australia, Comvik của Thuỵ điển, NTT của Nhật Bản v.v. Bên cạnh hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, một số các liên doanh về sản xuất thiết bị BCVT đã ra đời chẳng hạn như nhà máy Vinadesung sản xuất cáp, nhà máy sản xuất thiết bị đầu cuối giữa Việt Nam và Hàn Quốc v.v.. Sau một thời gian thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài, hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong lĩnh vực BCVT đã thể hiện một số nhược điểm và hạn chế trong việc đảm bảo lợi ích của phía Việt Nam, cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa có chiều sâu. Đối với các hợp đồng hợp tác kinh doanh, tỷ lệ phân chia lợi nhuận giữa Việt Nam và phía đối tác nước ngoài thường không tương xứng hoặc có những điều khoản bất lợi cho phía Việt Nam. Các đối tác thường tranh thủ hình thức đầu tư này để ép chúng ta phải phải dành những ưu đãi về mặt chính cho họ. Đối với các liên doanh, một đặc điểm nổi bật và cũng là đặc điểm bất lợi cho phía Việt Nam là vai trò điều hành sản xuất kinh doanh của chúng ta so với đối tác bị hạn chế rất nhiều. Phần lớn các đối tác nước ngoài giữ vai trò chính, chủ đạo đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của liên doanh. Chúng ta luôn ở thế thụ động và phụ thuộc vào đối tác nước ngoài. Các liên doanh của Ngành Bưu chính Viễn thông mới chỉ tập trung sản xuất những thiết bị thay thế nhỏ lẻ, sản xuất của liên doanh chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đối với các thiết bị hệ thống tổng đài chính tiên tiến, hiện tại để phục vụ cho mục đích phát triển mạng. Về căn bản, chúng ta vẫn phải nhập khẩu những hệ thống tổng đài chuyển mạch số với giá trị hợp đồng rất cao.
Một số công ty 100% nước ngoài tại Việt Nam được thành lập ra dưới hình thức là để sản xuất kinh doanh thiết bị viễn thông nhưng về thực chất là để phục vụ cho hoạt động nhập khẩu của chủ hãng. Sản xuất trong nước của các công ty này hầu như rất ít như công ty Fuzitsu của Nhật. Ngoài ra, do hệ thống luật pháp, chính sách đầu tư trực tiếp của Việt Nam còn chưa thông thoáng và môi trường đầu tư của Viêt Nam chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chẳng hạn như chi phí kinh doanh cao, khả năng sinh lời thấp, thủ tục hành chính phiền hà, chi phí giấy phép đầu tư lớn (3% tổng chi phí đầu tư). Đây là những nguyên nhân gây cản trở trong công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Việt Nam nói chung và của Ngành BCVT Việt Nam nói riêng.
- Về mặt chủ quan, Ngành BCVT đang có tiềm năng thu hút vốn ODA từ các nhà tài trợ song phương và đa phương trong tương lai. Hiện nay, tổng số vốn ODA của ngành Bưu chính Viễn thông Việt nam vào khoảng 450 triệu USD. Con số này còn quá khiêm tốn so với khả năng thu hút vốn ODA của Ngành trong tương lai. Các nguồn tài trợ hiện nay chủ yếu từ Nhật Bản, Pháp, Thụy điển, trong khi Ngành có quan hệ hợp tác quốc tế với rất nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực cũng như đối với các tổ chức quốc tế chẳng hạn như WB, ADB, UNDP, EU.v.v.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng ngành BCVT có nền tảng tốt trong lĩnh vực quan hệ hợp tác quốc tế nhằm thu hút và tăng cường vốn ODA trong tương lai.
3.2. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn ODA vào ngành BCVT Việt Nam
3.2.1. Các giải pháp chung
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các dự án sử dụng nguồn ODA mà Ngành được thụ hưởng trong giai đoạn 1993 - 2005, kết hợp với mục tiêu phát triển Ngành đến năm 2010, sau đây tôi xin trình bày một số giải pháp nhằm nâng cao công tác vận động, thu hút ODA của Ngành BCVT trong giai đoạn tới:
3..2.1.1. Chính sách hài hòa thủ tục
Hài hòa thủ tục không phải là vấn đề của riêng Ngành BCVT và Tổng công ty BCVT mà là vấn đề của tất cả các Ngành, các cấp đang thực hiện các dự án ODA. Việc quản lý và sử dụng nguồn ODA, ngoài việc tuân thủ qui định tại Nghị định 17/2001/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn có liên quan, phải tuân thủ theo các qui định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng, đấu thầu, giải phóng mặt bằng, môi trường…. Các quy định trên hiện nay đã có nhiều bất cập, nhiều khi chưa thống nhất với nhau như đã trình bày trong phần 1.3.6.2 “tồn tại và nguyên nhân”. Chính vì vậy mà chúng ta cần phải kiện toàn môi trường pháp lý để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA. Cần nghiên cứu, xây dựng một hệ thống qui định thống nhất bằng cách đồng bộ hoá các văn bản pháp quy chi phối như về quản lý đầu tư công; quản lý đầu tư xây dựng công trình, đền bù di dân, giải phóng mặt bằng v.vv ; và ban hành các quy định thống nhất này dưới dạng cẩm nang có giá trị dẫn chiếu duy nhất để các đơn vị sử dụng ODA có sở cứ thực hiện thống nhất. Ví dụ như cần có sự thống nhất về các quy định liên quan đến “hình thức quản lý dự án” giữa “Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng” nói chung với “Qui chế về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức”. Hoặc xây dựng một chương trình về ODA trong quy chế đầu tư xây dựng cơ bản và quy chế đấu thầu trong đó đề nghị quy định các biện pháp chế tài cũng như khuyến khích để thúc đẩy tình hình giải ngân vốn ODA.
Ngoài ra chúng ta nên hợp nhất các Nghị định về đầu tư và xây dựng và luật hoá tối đa vào luật Xây dựng. Hợp nhất các Nghị định về đấu thầu và đưa các quy định vào Pháp lệnh Đấu thầu. Đưa các qui định, chính sách về đền bù giải toả tái định cư, luật hoá tối đa vào Luật Đất đai. Bên cạnh đó, các văn bản pháp quy của cơ quan quản lý Nhà nước cần nhất quán trong việc giải thích và áp dụng việc thực hiện chỉ định thầu.
Như đã trình bày trong phần 2.4.2 “Một số tồn tại và nguyên nhân”, các Nghị định nêu trên cũng chưa phù hợp với tập quán thương mại quốc tế và thủ tục của các nhà tài trợ. Do đó, việc xây dựng Pháp lệnh về thu hút, quản lý và sử dụng ODA, tạo cơ sở pháp lý cao hơn cho công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cũng là một trong những điều kiện góp phần vào việc hài hoà thủ tục ODA. Trong khi chuẩn bị Pháp lệnh về ODA, sửa đổi và bổ sung Nghị định 17/2001/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA nhằm quản lý chặt chẽ đầu vào, mở rộng tối đa quyền hạn và nâng cao trách nhiệm cho các cơ quan thực hiện và tăng cường công tác hậu kiểm.
Tăng cường hoạt động hài hoà quy trình và thủ tục ODA giữa Chính Phủ và các nhà tài trợ với nhau. Điều này đòi hỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan chức năng Nhà nước Việt Nam trong các cuộc họp với Nhà tài trợ cần phải nêu ra những vướng mắc trong việc chuẩn bị và thực hiện dự án do thủ tục hai bên không phù hợp để phía Việt Nam và phía Bạn cùng xem xét hài hoà thủ tục. Bên cạnh đó, triển khai sáng kiến của các nhóm các nhà tài trợ : Nhóm 5 ngân hàng phát triển, Nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến (LMDG); Nhóm các tổ chức Liên hợp quốc về các hoạt động hài hoà quy trình và thủ tục ODA trong nội nhóm.
Thực hiện kế hoạch hành động thường niên về hài hoà quy trình và thủ tục ODA phù hợp với Tuyên bố cấp cao Pari và Cam kết Hà nội về hài hoà quy trình và thủ tục ODA, tuân thủ quốc gia và nâng cao hiệu quả viện trợ, trước mắt là các vấn đề kỹ thuật như hệ thống báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA; văn kiện dự án thống nhất; đánh giá chung về chương trình, dự án ODA, thực hiện các nghiên cứu chung ...
3.2.1.2. Tăng cường đào tạo cán bộ về nhận thức và trình độ chuyên môn
Nhận thức đúng đắn về ODA với hai yếu tố chính trị và kinh tế đan xen để có quan điểm đúng đắn về nguồn lực này nhằm tranh thủ được sự hỗ trợ quốc tế, thực hiện có hiệu quả chủ trương độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Mỗi Nhà tài trợ đều có chiến lược toàn cầu về ODA cũng như Chương trình trung hoặc dài hạn hợp tác với Việt Nam, trong đó nêu rõ những mục tiêu và sự quan tâm khi cung cấp ODA cho Việt Nam. Do vậy, Ngành BCVT cần nghiên cứu kỹ những chiến lược và chương trình đó để có sự ứng xử thích hợp nhằm đảm bảo lợi ích chính trị và kinh tế. Xét cho cùng cả ODA vốn vay và vốn ODA không hoàn lại đều là các khoản vay trước và trả sau bằng vật chất và hoặc bằng trách nhiệm. ý thức được vấn đề này sẽ giúp đề cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình tiếp nhận quản lý và sử dụng ODA.
Về các biện pháp tăng cường năng lực và nâng cao trình độ của cán bộ trực tiếp quản lý, thực hiện các dự án sử dụng vốn ODA, chúng ta cần nhận thức và thực hiện được Quản lý dự án là một nghề có tính chuyên nghiệp cao, đòi hỏi cán bộ phải có những phẩm chất, trình độ chuyên môn nhất định. Cán bộ quản lý dự án cần được đào tạo chính qui về nghiệp vụ quản lý dự án tại các khóa học trong và ngoài nước. Tổ chức đào tạo một cách thường xuyên và có hệ thống về chuyên môn, nghiệp vụ có cấp chứng chỉ hành nghề cho cán bộ các BQLDA. Ngành BCVT nên sớm hình thành Trung tâm chuyên trách thực hiện công tác này. Việc thành lập một trung tâm chịu trách nhiệm đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ QLDA và cán bộ thực hiện các công việc có liên quan đến nguồn vốn ODA sẽ tạo ra cho Ngành một đội ngũ cán bộ lành nghề, được trang bị đầy đủ các kiến thức về quản lý và thực hiện dự án, cũng như các kỹ năng, hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực khác có liên quan đến sử dụng nguồn vốn ODA như các quy định của nhà tài trợ, tập quán của từng nhà tài trợ ..... Một cơ quan, tổ chức hoạt động có hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn vào năng lực cá nhân của từng cán bộ, nhân viên thuộc tổ chức đó. Chính vì vậy mà sự nghiệp đào tạo và đào tạo lại luôn là một vấn đề quan trọng đối với các Ngành, các cấp. Trong xu thế mở cửa nền kinh tế của đất nước, kết hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của Ngành BCVT hiện nay, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý dự án và cán bộ hợp tác quốc tế giỏi nghiệp vụ và ngoại ngữ là một tất yếu để Ngành có thể hoạt động hiệu quả trong công tác thu hút và sử dụng vốn ODA.
Các cơ quan tổng hợp của Chính Phủ nên đẩy mạnh công tác tập huấn, hướng dẫn các quy trình, thủ tục sử dụng vốn ODA và tổ chức biên soạn, phổ biến các tài liệu về quản lý thực hiện theo Khoản 10 điều 38 Nghị định 17/2001/NĐ-CP. Việc thường xuyên tổ chức tập huấn cho BQLDA về chính sách và quy trình, thủ tục ODA của Chính phủ và nhà tài trợ để thấy trước và dự kiến các biện pháp xử lý những quy định không khớp nhau của hai phía nhằm đảm bảo thực hiện dự án đúng tiến độ và thúc đẩy giải ngân nguồn vốn ODA.
Trong việc thực hiện các dự án ODA của Ngành BCVT, để việc quản lý, thực hiện các quy trình, thủ tục sử dụng các nguồn vốn ODA nhanh chóng đi vào thực tế, các cơ quan tổng hợp của Chính Phủ trước khi ban hành các văn bản hướng dẫn cần có văn bản tham khảo ý kiến của các chủ đầu tư và sau khi ban hành cần đẩy mạnh công tác tập huấn, hướng dẫn để các chủ đầu tư nắm bắt được ngay các yêu cầu của Nhà nước trong quá trình thực hiện.
3.2.1.3. Giảm thiểu các ràng buộc khi đàm phán về nội dung các điều ước quốc tế
Như đã trình bày trong phần phần 2.4.2. “Một số tồn tại và nguyên nhân” cũng thư thực trạng thu hút vốn ODA vào Ngành BCVT, các nhà tài trợ đều muốn tận dụng nguồn vốn hỗ trợ của mình thông qua các loại phí tư vấn, cung cấp thiết bị do các nhà sản xuất của các nước đó cung cấp. Chi phí tư vấn nước ngoài cao trong khi hiệu quả đem lại không tương xứng với chi phỉ bỏ ra. Vì vậy mà chúng ta cần có thái độ cương quyết hơn nữa về vấn đề này trong khi đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế nếu như phía nhà tài trợ muốn ràng buộc điều kiện tư vấn nước ngoài vào từng dự án ODA cụ thể. Tương tự đối với thiết bị và các mua sắm phục vụ cho dự án, để đảm bảo giá cả hợp lý, thiết bị tiên tiến hiện đại, đề nghị khi đàm phán về nội dung các điều ước quốc tế, cần cố gắng giảm thiểu những ràng buộc về nhà cung cấp thiết bị. Điều này sẽ đem lại chúng ta sự linh hoạt và tự do trong việc tìm kiếm các thiết bị và dịch vụ tư vấn với giá rẻ hơn mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao cho dự án. Để làm được việc này đòi hỏi không chỉ bản thân các chủ đầu tư phải nỗ lực và khôn khéo trong đàm phán với nhà cung cấp mà còn cần sự giúp đỡ của các cơ quan tổng hợp nhà nước để tận dụng tối đa các ưu đãi của nguồn vốn. Lại một lần nữa vấn đề về trình độ chuyên môn và ngoại ngữ của các cán bộ Ngành BCVT hoạt động trong lĩnh vực nguồn hỗ vốn trợ chính phát triển thức về nghiệp vụ đàm phán là hết sức cần thiết. Yếu tố này quyết định không nhỏ thành công của cuộc đàm phán khi ký kết các điều ước quốc tế. Qua đó chúng ta càng thấy được sự cần thiết phải đầu phải tư vào đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao như đã trình bày ở phần 3.2.1.2.
3.2.1.4. Đẩy mạnh tốc độ giải ngân
Như đã phân tích trong phần 2.4.2 “Tồn tại và Nguyên nhân”, tốc độ giải ngân của rất nhiều dự án ODA đều bị chậm so với kế hoạch đề ra là do một số các nguyên nhân như chậm giải phóng mặt bằng, công tác phê duyệt đấu thầu chậm trễ, thiếu ý thức trách nhiệm của cán bộ QLDA trong việc triển khai, thực thi dự án..
Công tác giải ngân vốn bị kéo dài sẽ dẫn tới một số hậu quả sau đây:
Giảm hiệu quả sử dụng vốn do thời gian ân hạn bị giảm, tiến độ dự án bị kéo dài gây lãng phí, thất thoát nguồn lực.
Giảm uy tín của ta đối với các Nhà tài trợ về năng lực tiếp nhận vốn ODA.
ảnh hưởng trực tiếp đến công tác vận động, thu hút nguồn vốn ODA từ các Nhà tài trợ hiện tại và tương lai.
Gây nguy cơ cho tình trạng nợ quá hạn.
Chính vì vậy mà đẩy nhanh tốc độ giải ngân là một trong những biện pháp cần thiết cần phải thực hiện khẩn trương.
Để giải quyết tận gốc tình trạng này chúng ta cần phải có những giải pháp loại bỏ các nguyên nhân nêu trên như xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất đối với việc sử dụng vốn ODA, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý dự án....
3.2.2. Các giải pháp cụ thể của Ngành
3.2.2.1. Chủ động lựa chọn các dự án tốt đưa vào quy hoạch đăng ký tài trợ hàng năm của Tập đoàn BCVT Việt nam.
Để làm tốt công tác này, Ngành BCVT Việt Nam cần tránh tình trạng phụ thuộc vào nhà tài trợ và tư vấn, trên cơ sở quy hoạch chiến lược phát triển Kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, chiến lược phát triển Ngành BCVT, phân tích thực trạng thu hút và sử dụng ODA của các đơn vị trực thuộc Bộ BCVT Việt Nam, xây dựng danh sách các dự án, chương trình ưu tiên vận động ODA hàng năm cũng như cho từng giai đoạn phát triển cụ thể của Ngành. Các danh sách này cũng cần phải được cập nhật thường xuyên bởi các đơn vị trực tiếp thụ hưởng vốn ODA để đảm bảo tính chính xác và tính khả thi của từng dự án. Để đảm bảo các dự án xin vận động nguồn vốn ODA có khả năng cao được phê duyệt của các Nhà tài trợ thì Ngành cần thực hiện nghiêm túc các kế hoạch đã đề ra trong chiến phát triển Ngành cũng như tuân thủ các quy định, thủ tục của các Nhà tài trợ.
Các dự án tốt là các dự án có nghiên cứu khả thi đáp ứng được với các yêu cầu của nhà tài trợ và thuộc đối tượng ưu tiên cấp vốn ODA của Nhà tài trợ. Vì vậy Ngành BCVT Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ các chính sách, chiến lược ưu tiên vận động ODA của các Nhà tài trợ đa phương và song phương. Trên cơ sở đó mà Ngành có những đề xuất, yêu cầu sát với yêu cầu của Nhà tài trợ. Bên cạnh đó cần theo dõi sát sao và có các ứng xử thích hợp để thúc đẩy tiến trình xin nguồn đối với các dự án đang trong quá trình vận động xin nguồn ODA hàng năm.
Ngoài ra để thực hiện tốt công tác thu hút vốn ODA, Ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ với các Ngành chức năng có liên quan trong công tác thu hút vốn ODA, đó chính là Bộ Kế hoạch và đầu tư cùng các cơ quan tổng hợp của Nhà nước.
3.2.2.2. Đẩy mạnh, tăng cường công tác vận động, tranh thủ tìm kiếm các nguồn tài trợ cả song phương lẫn đa phương
Mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác quốc tế để tìm kiếm các Nhà tài trợ mới trên cơ sở khai thác tối đa hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các dự án đang triển khai là điều kiện tiên quyết dẫn đến thành công của Ngành trong công tác thu hút vốn ODA.
Về tổng thể, để công tác thu hút vốn OAD có hiệu quả, Ngành BCVT cần gắn kết quy hoạch thu hút ODA với chiến lược phát triển của Ngành, và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung trên cơ sở xây dựng quan hệ đối tác với cộng đồng các Nhà tài trợ cả song phương và đa phương, đặc biệt là với các Nhà tài trợ có tiềm năng. Các công tác mà Ngành cần đẩy mạnh trong quan hệ hợp tác quốc tế bao gồm: Thực hiện đối thoại chính sách với các Nhà tài trợ để hiểu và nắm bắt một cách cụ thể chiến lược, chính sách tài trợ của các Nhà tài trợ; Tổ chức các hội nghị một cách thường xuyên hơn để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm v.v..
Đây là một công tác quan trọng, có vai trò quyết định đối với việc thu hút ODA của Ngành. Như đã trình bày trong phần 2.4.2 “Một số tồn tại và nguyên nhân”, hiện nay số lượng nhà tài trợ song phương và đan phương cung cấp vốn ODA của Ngành BCVT Việt nam còn rất ít (04 nhà tài trợ song phương chủ yếu: Pháp, Thụy điển, Nhật và Hàn Quốc, 3 nhà tài trợ đa phương chính: WB, UNDP và ADB) so với hàng chục quốc gia và các tổ chức quốc tế trên khắp các Châu lục mà Ngành BCVT Việt Nam đang có quan hệ hợp tác quốc tế với những nước và tổ chức này. Công tác vận động, thu hút ODA của Ngành mới trải qua hơn 10 năm kinh nghiệm, ít hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển khác trên thế giới cũng tiến hành công tác thu hút, vận động ODA. Vì vậy chúng ta càng cần phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để học hỏi các kinh nghiệm thu hút và sử dụng ODA của các nước khác trên thế giới, cũng như tranh thủ sự giúp đỡ của các nước phát triển về các nguồn lực (vốn, công nghệ ..). Đối với các đối tác quan trọng là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ngành BCVT Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển hợp tác trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và lĩnh vực tin học hoá vì đây là những lĩnh vực ưu tiên của Nhà tài trợ đối với Việt Nam.
Với 4 Nhà tài trợ chủ yếu hiện tại là Pháp, Thụy điển, Nhật và Hàn Quốc, trên cơ sở đã có sự quen biết với các thủ tục thực hiện vốn ODA, Ngành BCVT Việt Nam cần cải thiện và phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác để có thể tiếp tục nhận được những nguồn vốn vay ưu đãi hoặc vốn ODA không hoàn lại từ các tổ chức quốc tế và Chính phủ Nhà tài trợ này. Cụ thể là cần thực hiện tốt, đúng tiến độ các dự án đang thực hiện với các Nhà tài trợ hiện nay, tạo ra niềm tin và sự tin cậy của các Nhà tài trợ. Trên cơ sở đó chúng ta mới có thể gặp những thuận lợi, dễ dàng hơn để thu hút nhiều hơn nữa vốn ODA từ các Nhà tài trợ hiện nay.
Đối với các Nhà tài trợ đa phương, Ngành BCVT Việt Nam nên ti?p t?c ch? d?ng tham gia m?i m?t ho?t d?ng c?a cỏc t? ch?c qu?c t? d? thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn ODA của các tổ chức này đồng thời nõng cao v? th?, uy tớn và quy?n l?i c?a Vi?t Nam trờn tru?ng qu?c t?. Dựa trên cơ sở các dự án đã từng có với các tổ chức quốc tế, Ngành cần mở rộng hơn nữa phạm vi, lĩnh vực thuộc diện ưu tiên tài trợ của các tổ chức quốc tế này. Cụ thể là cần xây dựng chi tiết định hướng phát triển các lĩnh vực chuyên sâu của Ngành như ứng dụng phần mền công nghệ thông tin vào phát triển sản xuất, các dịch vụ internet tại các vùng sâu, vùng xa.... cải cách thể chế, hành chính, nâng cao năng lực quản lý, hoạch định chính sách Ngành, và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật có khă năng chủ động và sáng tạo trong việc thiết kế và quản lý mạng.
3.2.2.3. Công tác nghiên cứu tiền khả thi và khả thi của Ngành cần được quan tâm đúng mức
Một dự án xin vận động nguồn vốn ODA có được Nhà tài trợ phê duyệt hay không phần lớn dựa trên các kết quả báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi. Trên thực tế, công tác này của Ngành còn nhiều hạn chế như đã phân tích trong phần 2.4.2. “Một số tồn tại và nguyên nhân”. Để giải quyết tình trạng này, ngoài các giải pháp mang tích khách quan như hài hòa thủ tục, Ngành cần sớm có giải pháp cụ thể cho công tác nghiên cứu tiền khả thi và khả thi này. Cụ thể là:
- Xây dựng các báo cáo tiền khả thi cho các dự án xin vận động nguồn ODA ngay từ khi Ngành BCVT Việt Nam lên kế hoạch phát triển Ngành cho từng giai đoạn cũng như chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam nói chung.
- Nội dung của báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi phải sát với thực tế, phân tích rõ hiệu quả tài chính, kinh tế - xã hội, ảnh hưởng môi trường của dự án, tính bền vững của dự án sau khi hoàn thành cũng như các điều khác như khả năng và nguồn cân đối vốn đối ứngv.v...
- Ngân sách cho công tác này là hết sức cần thiết, vì vậy Ngành cần có một quỹ riêng phục vụ cho hoạt động này đảm bảo hiệu quả kinh tế cho các công tác nghiên cứu tiền khả thi của các dự án đang trong kế hoạch xin vận động nguồn vốn ODA.
- Cán bộ chuyên trách trong công tác này cần được nâng cao về trình độ nghiệp vụ kỹ thuật để có thể lập ra những báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi có tính thuyết phục về mặt chuyên môn.
- Đối với một số dự án do điều kiện khảo sát phức tạp, tốn nhiều thời gian như dự án cáp quang biển trục Bắc - Nam, Ngành cần có sự quan tâm đặc biệt hơn nữa trong công tác điều phối và hợp tác với các Ngành ban có liên quan để giảm thiểu những hạn chế, khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng của báo cáo khả thi cũng như đẩy nhanh tiến trình phê duyệt của dự án.
- Công tác nghiên cứu khả thi có thể sử dụng cả tư vấn trong nước và quốc tế miễn là dịch vụ tư vấn đem lại hiệu quả cao. Tăng cường sử dụng tư vấn trong nước (kể cả công tác thuyết phục nhà tài trợ) để góp phần nâng cao chất lượng chuẩn bị dự án phù hợp với các điều kiện thực tế của các đơn vị trực thuộc Ngành BCVT Việt Nam và giảm phí tư vấn nước ngoài. Đối với một số nhà tài trợ như Nhật Bản, thủ tục phê duyệt dự án khả thi là rất phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều bước vì vậy việc nghiên cứu kỹ các yêu cầu của nhà tài trợ trước khi lập các báo khả thi là thực sự cần thiết và đảm bảo tính chủ động của Ngành.
3.2.2.4. Các giải pháp đối với hoạt động của Ban QLDA của Ngành BCVT
Để đảm bảo Ban QLDA hoạt động có hiệu quả, chúng ta cần chú trọng các bước như sau:
- Trong khâu chuẩn bị dự án: Cần khẩn trương trong khâu chuẩn bị dự án; Thành lập ban chuẩn bị dự án ngay từ khi bắt đầu chuẩn bị dự án, rút kinh nghiệm từ BQLDA 10 tỉnh miền Trung. Một dự án khi chuẩn bị cần có các nội dụng cụ thể, chi tiết, các nội dung đó phải được xây dựng hợp lý, có đầy đủ sở cứ, đảm bảo được tính khả thi cao của dự án. Do đó Ban QLDA cần đi sâu, đi sát với điều thực tế và môi trường làm việc tại đơn vị được hưởng vốn ODA mà cụ thể là các Bưu điện tỉnh và các đơn vị chức năng của Ngành.
- Trong khâu thực hiện dự án: Phải tuân thủ nghiêm túc kế hoạch đã được duyệt, kế hoạch xây dựng phải sát với nhu cầu, tránh sửa đổi nhiều gây chậm trễ trong các khâu trình duyệt, ảnh hưởng đến tiến độ dự án. Các dự án đang thực hiện tiến độ còn chậm, cần phải có các biện pháp tài chế để đẩy nhanh tiến độ tránh việc phải xin gia hạn nhiều lần và làm ảnh hưởng đến quá trình xin nguồn của các dự án đang xin nguồn trong những năm tài chính tiếp theo. Bên cạnh đó, cần phải phát hiện kịp thời thiếu sót về quy trình, về kế hoạch thực hiện, về nhân sự trong khâu giám sát thực hiện dự án; Lên kế hoạch thực hiện điều chỉnh các sai sót đó kết hợp với các tài chế nhất định khi cán bộ dự án không thực hiện đúng kế hoạch đề ra cũng như các nhiệm vụ được giao.
- Trong khâu giám sát, thực hiện dự án:Ban QLDA phải tuân thủ từng bước đánh giá và giám sát dự án. BQLDA cần tận dụng nhà tư vấn để học hỏi và tìm hiều kỹ về các quy định, các thủ tục của nhà tài trợ để tránh tình trạng phải trình duyệt nhiều lần từ phía Nhà tài trợ. Đây chính là thực tế rút ra từ kinh nghiệm của Ban QLDA miền Trung.
- Bên cạnh đó là công tác kiện toàn cơ cấu tổ chức của BQLDA theo hướng tích cực như tăng nhân sự khi cần thiết để đảm bảo công việc không bị tồn đọng do thiếu nhân sự. Rút ra từ kinh nghiệm của BQLDA viễn thông các tỉnh phía Bắc, cần thành lập các phòng ban đúng chức năng, nhiệm vụ, tránh tình trạng công việc bị chồng chéo, nhiều người làm một việc trong khi các công việc khác không có ai đảm nhiệm. Rà soát các nội dung công việc và có kế hoạch phân công công việc cụ thể đến từng phòng ban, từng chuyên viên. Theo dõi, động viên, giúp đỡ kịp thời cán bộ trong BQLDA vững vàng, ổn định về tư tưởng chính trị, chấp hành pháp luật để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
- Trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ dự án là yếu tố quan trọng quyết định hoạt động hiệu quả của BQLDA như đã trình bày ở trong phần giải pháp chung và cũng mang tính chất là giải pháp riêng của Ngành. Cán bộ của BQLDA cần có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Duy trì việc học tập nâng cao trình độ, phối hợp với các nhà Tư vấn tổ chức các buổi họp chuyên đề, hội thảo kỹ thuật, quản lý dự án để nắm vững và thực hiện tốt quy chế quản lý chất lượng công trình của Nhà nước.
- Về công tác đối ngoại, BQLDA cần tập trung tổ chức thật tốt các mối quan hệ công tác đã có giữa các BQLDA với Nhà tài trợ JBIC, các Ban chức năng, các Bưu điện tỉnh, các cơ quan liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính, Quỹ hỗ trợ phát triển,... để đẩy nhanh tiến độ xét duyệt các vấn đề có liên quan đến dự án.
- Để phân cấp mạnh hơn nữa cho BQLDA cần giảm bớt các cơ quan tham gia quyết định. Điều này đòi hỏi việc quản lý dự án của BQLDA phải được nâng cao năng lực và trách nhiệm để cơ quan chủ quản và chủ đầu tư có thể yên tâm phân cấp mạnh hơn chức năng và quyền hạn cho BQLDA.
Như đã trình bày trong phần “tồn tại và nguyên nhân”, về chi phí quản lý dự án đầu tư, và quản lý sử dụng nguồn vốn đối ứng đối với Chi phí quản lý dự án. Để thực hiện việc phân cấp, tạo sự chủ động trong việc quản lý dự án ODA, đề nghị các cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiên cứu thống nhất và điều chỉnh các quy định về chi phí quản lý dự án tạo khả năng linh hoạt cho các Ban QLDA có đủ điều kiện thực hiện việc quản lý dự án. Cụ thể là cần phân biệt giữa chi phí Ban QLDA với chi phí QLDA, không nên đưa quá nhiều mục chi vào khái niệm chi phí khác. Chi phí Ban QLDA là chi phí lao động và hành chính cần thiết để sử dụng nguồn nhân lực quản lý dự án và chi phí QLDA là các chi phí nhằm tổ chức và quản lý việc thực hiện dự án đầu tư. Phương pháp hạch toán chi phí QLDA cũng cần tiến hành trên cơ sở toàn bộ dự án đầu tư chứ không hạch toán theo hạng mục công trình vì trong dự án đầu tư đặc biệt là dự án Nhóm A, tính liên hoàn của các hạng mục đòi hỏi phải có các chi phí cần thiết để quản lý và kết nối tổng thể. Vì vậy, các chi phí quản lý dự án để tổ chức thực hiện quản lý toàn bộ các hạng mục công trình theo giá trị từ 3% đến 5% tổng mức đầu tư công trình tuỳ theo quy mô về vốn, đặc điểm và quy mô về địa bàn quản lý của dự án.
Đối với việc quản lý sử dụng nguồn vốn đối ứng đối với Chi phí quản lý dự án cần được phân cấp, tăng quyền chủ động cho các Ban QLDA để các Ban QLDA có thể đảm bảo được công tác quản lý theo tình hình cụ thể của từng dự án, đề nghị quy định rõ Chủ dự án phê duyệt Dự toán Chi phí quản lý dự án trên cơ sở hạn mức từ 3%-5% tổng mức đầu tư tuỳ theo quy mô về vốn, đặc đặc điểm và quy mô về địa bàn quản lý của dự án.
Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động...của Ban QLDA, kiến nghị cần ban hành Thông tư hướng dẫn về nội dungnay, vì Nghị định 131/2006/NĐ-CP chưa quy định cụ thể.
3.2.2.5. Đẩy nhanh tiến trình thẩm định dự án, phê duyệt công tác đấu thầu, giải phóng mặt bằng v.v đối với một số dự án trọng điểm.
Về thủ tục, Tập đoàn BCVT Việt Nam cũng đã có công văn số 733/KHNT (báo cáo tổng kết ODA 7 năm, ngày 21 tháng 2 năm 2000) và công văn số 012/BC-KHNT (báo cáo tình hình giải ngân cácdự án ODA, tháng 2 năm 2004 yêu cầu cả hai phía Việt nam và Nhà tài trợ sửa đổi, rút ngắn thời gian, thủ tục duyệt dự án, duyệt hợp đồng, phê duyệt kết quả công tác đầu thầu, rút vốn và xuất nhập khẩu để tránh thủ tục phức tạp, nhiều khâu, gây chậm trễ cho công trình, gây tâm lý ngại sử dụng nguồn vốn vì mất thời gian quá lâu. Như đã trình bày trong 2.4.2. “Một số tồn tại và nguyên nhân”, cũng như phần “các giải pháp chung”, công tác hài hòa thủ tục sẽ góp phần không nhỏ để rút ngẵn tiến trình thẩm định dự án. Bộ kế hoạch và Đầu tư cần sớm trình chính Phủ những biện phái nhằm loại bỏ những thủ tục phức tạp rườm rà, trong quy trình phê duyệt dự án, đấu thầu và xét thầu thuộc thẩm quyền của Bộ.
Liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, xuất phát từ thực tế triển khai dự án phát triển mạng VNNT, các tỉnh miền Trung, dự án cáp quang biển trục Bắc - Nam, Bộ BCVT đã có ý kiến với Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Nông nghiệp và PTNT (Cục quản lý đê điều), Bộ Giao thông vận tải (các khu quản lý đường bộ 4,5 và Sở giao thông các tỉnh) và Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện xã của 10 tỉnh vùng dự án, tạo điều kiện cho Ban QLDA trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng và cấp phép thi công các tuyến cáp đồng, cáp quang, đường dây trung hạ thế và trạm biến áp phù hợp với tiến độ chung của dự án. Như đã trình bày trong phần “các giải pháp chung”, để giải quyết tận gốc vấn đề này, Chính phủ cần sớm ban hành các quy định đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư, khung giá đất đền bù, v.v.. phù hợp với Luật đất đai 2003. Đối với Luật đất đai, cần quy định rõ những nguyên tắc rõ ràng để tính giá đất, sát với giá thị trường, nhưng không mang tính đầu cơ, thể hiện sự quản lý của Nhà nước. Giá này được áp dụng như nhau cho các loại dự án với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn ODA hay nguồn vốn đầu tư trực tiép (FDI). Ngoài ra cần xem lại cơ sở pháp lý của quy định về loại đất thổ cư chưa hợp pháp trong đền bù giải toả. Xác định giới hạn cưỡng chế và biện pháp chế tài khi vi phạm luật. Công khai hoá giới hạn cưỡng chế, các biện pháp chế tài và thực thi. Chuyên môn hoá bộ máy chuyên trách công tác đền bù, giải toả, tái định cư từ Trung ương đến cơ sở. Đối với những dự án do các Bộ làm chủ đầu tư, khi dự án được triển khai trên địa bàn của một địa phương, quy định công tác này như một tiểu dự án do UBND địa phương chủ trì tổ chức thực hiện (hiện tại, điều chỉnh Điều 35, Nghị định 52/CP). Để thực hiện đúng theo quy định tại Điều 45, Nghị định 52/CP (điều kiện khởi công công trình), cho phép chủ đầu tư, sau khi có quyết định đầu tư, phối hợp với UBND địa phương triển khai ngay công tác đền bù, giải toả, đặc biệt quy hoạch và xây dựng các khu tái định cư trước.
3.2.2.6. Nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc về điều kiện tài chính, tín dụng
Các dự án của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt nam sử dụng nguồn vốn ODA đều mang tích công ích cao. Việc hoàn vốn của các dự án phụ thuộc không nhỏ vào điều kiện tín dụng của nguồn vốn dành cho dự án, do đó Ngành BCVT cũng như các cơ quan Nhà nước cần có các biện pháp nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn về điều kiện tài chính tín dụng. Như đã trình bày trong phần 2.4.3 “Tồn tại và nguyên nhân” . Các biện pháp cần làm là:
- Chủ động xin thời hạn hết vốn dài ngay khi đàm phát ký kết các điều ước quốc tế, tránh tình trạng xin gia hạn rút vốn nhiều lần, gây nên sự trì hoãn, kéo dài tiến độ thực hiện dự án.
- Các chính sách cho vay lại của Nhà nước cần có quy định rõ ràng, thể hiện sự minh bạch và công khai.
- Vốn đối ứng cần có đủ và kịp thời. Đơn giản hoá thủ tục xin vốn đối ứng.
- Hài hoà thủ tục với các Nhà tài trợ
Các thủ tục về kinh phí: Đối với dự án cáp quang biển trục Bắc - Nam, lãnh đạo Ngành BCVT trong thời gian tới cần có giải pháp hỗ trợ xử lý nhanh các thủ tục liên quan đến phê duyệt và thanh toán Hợp đồng khảo sát, cũng như phê duyệt hợp đồng thi công rà phá bom, mìn để đẩy nhanh được tiến độ gói thầu Rà phá bom, mìn vật nổ. Giải quyết các thủ tục về kinh phí cho công tác giải phóng mặt bằng, chi trả tiền thuê đất và thuế sử dụng đất trong thời gian xây dựng công trình. Giải quyết các thủ tục về kinh phí thực hiện việc thuê tư vấn nước ngoài, thực hiện thẩm tra Thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán.
Các thủ tục này nếu được giải quyết nhanh chóng sẽ góp phần vào việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án nói chung.
- Để giải quyết vấn đề này, Ngành cần có một bộ phận chức năng về tài chính - tổng hợp hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhanh chóng và đầy đủ các thủ tục về tài chính trong triển khai và thực hiện dự án.
- Vốn đối ứng cũng là một trong những khó khăn của Ngành như đã trình bày trong phần tồn tại và nguyên nhân. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn cũng như tiến độ thực hiện dự án, cơ quan chức năng của Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho Ngành BCVT Việt Nam đăng ký vốn đối ứng, chẳng hạn như đối với dự án xây dựng trường Cao đẳng Công nghệ thông tin Việt - Hàn và một số dự án khác nữa.
Như đã trình bày trong phần 2.4.2 “Một số tồn tại và nguyên nhân” về vốn đối ứng. Tổng công ty BCVT Việt Nam có ý kiến như sau:
Dự án ODA có thể hình thành từ hai nguồn vốn “nguồn vốn ODA” và “nguồn
vốn đối ứng” tuy nhiên hiện thời các qui định của Nghị định 17/2001/NĐ-CP và các Thông tư liên bộ hoặc Thông tư hướng dẫn của Bộ kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng chỉ điều chỉnh việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Do vậy các quy định về việc sử dụng nguồn vốn đối ứng trong dự án ODA, đặc biệt là với Chi phí quản lý dự án có thể hiểu theo hai cách:
Cách 1: Các chi chi phí sử dụng nguồn vốn đối ứng trong dự án ODA phải thực hiện theo các quy định về Quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA trong dự án ODA hoặc
Cách 2: Các chi phí sử dụng nguồn vốn đối ứng trong dự án ODA phải thực hiên theo các qui định tương ứng đối với nguồn vốn dự kiến sử dụng theo Quyết định phê duyệt đầu tư và Dự án khả thi được phê duyệt.
Liên hệ với thực tế các dự án của Tổng công ty có cơ cấu vốn đầu tư:
+ Vốn ODA là nguồn vay lại từ nguồn Ngân sách nhà nước
+ Vốn đối ứng là vốn vay và vốn tái đầu tư của Chủ dự án (là Tổng công ty BCVT Việt Nam). Chủ dự án phải tự lo bố trí và thực hiện theo các yêu cầu cụ thể của dự án, hướng dẫn của Nhà tài trợ và các quy định có liên quan của Việt Nam.
Trên thực tế, nguồn đối ứng cho chi phí quản lý dự án lại áp dụng theo nguồn ngân sách nhà nước. Mục tiêu của việc sử dụng nguồn vốn đối ứng là tạo các điều kiện thuận lợi và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, thực hiện các nghĩa vụ đối ứng của phía Việt nam, tạo lập trách nhiệm đối ứng để có thể thu hút các nguồn vốn ODA, do vậy không thể áp dụng toàn bộ các quy định trong nước vì các lý do sau:
+ Chi phí cho các công việc quản lý dự án: Việc quản lý dự án thực hiện đối với nhiều hạng mục công trình khác nhau có tính chất kết nối và liên hoàn để hoàn tất một dự án đầu tư, do vậy không thể áp dụng như quản lý một hạng mục đơn thuần, Ngoài ra, các chi phí cho quản lý dự án sẽ làm cho công tác giải ngân đối với các hạng mục sử dụng nguồn vốn ODA được thúc đẩy do công tác thực hiện quản lý được thực hiện tốt hơn.
+ Việc quản lý dự án theo các hướng dẫn của Nhà tài trợ, thực hiện các công việc phức tạp theo yêu cầu cụ thể của dự án và thông thường tỷ lệ áp dụng cho chi phí quản lý dự án của các công trình sử dụng vốn của Nhà tài trợ quốc tế là từ 3% đến 5% tổng mức đầu tư của dự án, trong khi các quy định của Việt Nam còn chưa thống nhất hoàn toàn về các khoản mục chi và lại áp dụng theo tỷ lệ tính trên chi phí xây dựng lắp và chi phí thiết bị dẫn đến các chi phí này không đủ chi dùng cho việc quản lý xuyên suốt và liên hoàn của các hạng mục.
Để thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng, cần bổ sung các quy định cụ thể về phần vốn đối ứng (chủ đầu tư tự lo bằng các nguồn vay và tái đầu tư) của dự án ODA theo hình thức cho vay lại như sau:
Cần quy định rõ đối với các chi phí sử dụng nguồn vốn đối ứng trong dự án đầu tư ODA theo hình thức cho vay lại. Chủ đầu tư tự chịu trách nhiệm quản lý, nếu sử dụng vốn đối ứng từ Ngân sách nhà nước thì quản lý theo các quy định về quản lý và sử dụng vốn Ngân sách, nếu sử dụng từ các nguồn không có nguồn gốc từ Ngân sách Nhà nước thì chủ đầu tư quản lý trên cơ sở yêu cầu cụ thể của dự án và quy định của Nhà nước về nguồn đó.
3.2.2.7. Thành lập một tổ chuyên trách về đánh giá hậu dự án tại Tập đoàn Bưu chính viễn thông
Tổ chuyên trách này cần sớm xây dựng kho dữ liệu về ODA làm cơ sở thông tin cho công tác theo dõi và đánh giá ODA; thống kê, báo cáo và chia sẻ thông tin giữa BQLDA, nhà cung cấp dịch vụ tư vấn và tổng công ty BCVT cũng như với Bộ BCVT cùng với Nhà tài trợ. Để làm tốt công tác này:
- Cần ban hành một số chỉ tiêu về ODA trong hệ thống thống kê của Ngành để tổ chức theo dõi, đánh giá hậu dự án ODA mà Ngành đang sử dụng.
- Ban hành chế độ theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA và sớm đưa ra vận hành hệ thống thí điểm về theo dõi và đánh giá Ngành.
- áp dụng một số chế tài như không xem xét yêu cầu mở rộng dự án hoặc kéo dài thời gian thực hiện nếu cơ quan tiếp nhận ODA của Ngành không có báo cáo về tình hình thực hiện dự án theo quy định: báo cáo quyết toán về tài chính phải kèm theo báo cáo đánh giá kết thúc dự án ....
Để có thể đưa ra những đánh giá, kết luật chính xác và khách quan, tổ chuyên trách này cần nắm sát thực tế của dự án đang trong quá trình thực hiện. Tổ chuyên trách của Tổng công ty cần có sự phối hợp chặt chẽ với các BQLDA, các công ty tư vấn cũng như với các Nhà tài trợ trong quá trình triển khai và thực thi dự án, đồng thời đảm bảo tiến độ thực hiện dự án không bị chậm trễ do thiếu sự chia sẻ thông tin giữa các bên hữu quan như đã trình bày trong phần 2.4.2. “Một số tồn tại và nguyên nhân”.
Kết luận
Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Công nghệ thông tin - một ngành kinh tế trọng điểm của đất nước đang dần hoà mình vào xu thế phát triển của lĩnh vực BCVT trên thế giới bởi tính tất yếu của quy luật phát triển, xứng đáng với tên gọi là “Ngành quan trọng bậc nhất của các hoạt động xã hội, văn hoá và chính trị”
Vấn đề nổi bật của đề tài là đánh giá thực trạng thu hút vốn ODA vào Ngành BCVT Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp chủ yếu để Ngành có thể đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút vốn ODA của mình. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các Nhà tài trợ quốc tế là một yếu tố thực sự quan trọng và hết sức cần thiết đối với Ngành BCVT Việt Nam đang trong giai đoạn đầu xây dựng và phát triển mạng viễn thông đồng bộ với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường trong nước cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tình hình thu hút vốn ODA vào Ngành BCVT Việt Nam từ 1993 - 2005 cho thấy những thành tựu mà Ngành BCVT đã đạt được thật đáng khích lệ, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước như phát triển kết cấu hạ tầng mạng BCVT Việt Nam, giúp Ngành BCVT Việt Nam tiếp cận được với các công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại của thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu này vẫn còn một số tồn tại gây ảnh hưởng không ít đến quá trình vận động xin nguồn ODA của Ngành trong tương lai. Những tồn tại này bao gồm công tác thu hút vốn ODA của Ngành chưa thực sự được phát huy tối đa, tiến độ thực hiện dự án chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn .... Những tồn tại này chính là những rào cản đối với Ngành BCVT Việt Nam đang từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng mạng vững chắc để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Những rào cản này cần được nhanh chóng tháo gỡ góp phần đẩy nhanh, đẩy mạnh quá trình thu hút vốn ODA của Ngành.
Trên thực tế, một số lĩnh vực của Ngành đang được các Nhà tài trợ ưu tiên như phát triển mạng trục ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; nâng cao năng lực hoạch định chính sách và phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy Ngành BCVT Việt Nam cần tận dụng hơn nữa những ưu điểm của nguồn vốn ODA như thời gian vay vốn dài với lãi suất thấp nhằm mục đích tăng thêm nguồn vốn đầu tư đang rất hạn hẹp của mình. Để có thể thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn ODA vào Ngành BCVT Việt Nam, một số giải pháp chủ yếu được đề xuất bao gồm:
- Hài hòa thủ tục - một giải pháp không thể thiếu đối với mọi Ngành, mọi cấp đã đang và sẽ thực hiện công tác thu hút vốn ODA từ các Nhà tài trợ.
- Tăng cường đào tạo cán bộ về nhận thức và trình độ chuyên môn: Nhận thức quyết định hành động, vì vậy yếu tố này là rất cần thiết để đảm bảo nguồn vốn ODA được sử dụng có hiệu quả, góp phần vào quá trình thu hút vốn ODA. Đây là yếu tố “cần” nhưng chưa đủ, yếu tố “đủ” ở đây chính là năng lực, trình độ của cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác thu hút và sử dụng vốn ODA. Kết hợp hài hòa hai yếu tố này, Ngành sẽ có được một lực lượng cán bộ vững mạnh, góp phần thúc đẩy công tác thu hút vốn ODA có hiệu quả.
- Xây dựng quy hoạch thu hút vốn ODA hàng năm cũng như cho từng giai đoạn phát triển cụ thể của Ngành. Đây là một công tác hết sức quan trọng đòi hỏi các cấp lãnh đạo của Ngành phải hực hiện một cách nghiêm túc. Các danh sách dự án huy động vốn hàng năm được xây dựng trên cơ sở các nghiên cứu tiền khả thi được Chỉnh Phủ phê duyệt và cần được cập nhật thường xuyên để đảm bảo tính chính xác và phù hợp với yêu cầu của các Nhà tài trợ.
- Ngành BCVT Việt Nam cần quan tâm đúng mức hơn nữa đối với công tác nghiên cứu tiền khả thi và khả thi của các dự án xin vận động nguồn. Đây là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định phê duyệt dự án xin nguồn ODA của các Nhà tài trợ.
- Mở rộng hơn nữa các hoạt động hợp tác quốc tế để tranh thủ thu hút ODA từ các Nhà tài trợ đa phương và song phương. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng đối với công tác thu hút vốn ODA của Ngành.
- Đẩy nhanh tiến trình phê duyệt công tác đấu thầu, giải phóng mặt bằng ... Yếu tố này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình thực hiện dự án.
- Nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc về điều kiện tài chính, tín dụng.
- Công tác theo dõi, giám sát dự án cần được quan tâm hơn nữa, chẳng hạn như thành lập một tổ chuyên trách về giám sát và đánh giá hậu dự án tại Tổng công ty BCVT Việt Nam.
- Giải pháp cuối cùng nhưng cũng chưa phải là hết, đó là đẩy nhanh tốc độ giải ngân, một tồn tại phổ biến ở hầu hết các dự án sử dụng nguồn vốn ODA ở mọi Ngành, mọi lĩnh vực.
Với những giải pháp này, hy vọng rằng Ngành BCVT Việt Nam sẽ thực sự thu hút được nhiều hơn nữa nguồn vốn ODA phục vụ cho sự nghiệp phát của Ngành nói riêng và công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
Tài liệu tham khảo
Các báo cáo tình hình triển khai, thực hiện các dự án ODA của Ngành Bưu chính, Viễn thông;
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam (2002), Đánh giá hiện trạng và đưa ra giải pháp về huy động nguồn vốn ODA của Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam, Mã số 107-2002-TCT-RDP-QL-74, Hà nội.
Các nghị định, thông tư, hướng dẫn:
Bộ Kế hoạch và đầu tư (09/2001), Thông tư số 06/2001/TT-BKH hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, Hà nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Tài chính (17/03/2003), Thông tư liên tịch Số 02/2003/TTLT-BKH-BTC hướng dẫn lập kế hoạch tài chính đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Hà nội.
Bộ Tài chính-Ngân hàng Nhà nước (17/06/1998), Thông tư liên tịch Số 81/1998/TTLT-BTC-NHNN hướng dẫn quy trình, thủ tục rút vốn ODA, Hà nội.
Bộ Tài chính (03/05/2002), Thông tư số 41/2002/TT-BTC hướng dẫn thực hiện chính sách thuế đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Hà nội.
Chính Phủ (07/11/1998), Nghị định Số 90/1998/NĐ-Cpvề Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài, Hà nội.
Chính Phủ (1997), Nghị định Số 87/1997/NĐ-CP Về việc ban hành Quy chế Quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, Hà nội.
Chính Phủ (04/05/2001), Nghị định Số 17/2001/NĐ-CP Về việc ban hành Quy chế Quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, Hà nội.
Chính Phủ (08/07/1999), Nghị định Số 52/1999/NĐ-CP Về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng, Hà nội.
Chính Phủ (24/04/1998), Nghị định Số 22 /1998/NĐ-CP Về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, Hà nội.
Chính Phủ (01/09/1999), Nghị định Số 88/1999/NĐ-CP Về Quy chế đấu thầu, Hà nội.
Chính Phủ (02/06/2003), Nghị định Số 66/2003/NĐ-CP Về việc sửa đổi bổ sung Quy chế đấu thầu, Hà nội.
Luật đấu thầu được Quốc hội thông ngày 29/11/2005
Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/09/2006
Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 9/11/2006
Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành
Các tài liệu khác:
Bộ kế hoạch và Đầu tư (11/2004), ‘Hội thảo Quy hoạch thu hút và sử dụng ODA đến năm 2010’, Hải phòng.
Dương Đức ưng (20/05/2002), ‘Bài phát biểu tại Hội Nghị hài hoà thủ tục các dự án ODA - MPI/DAC-OECD/LMDG’, Hà nội.
UNDP (2001), Tổng quan Viện trợ phát triển chính thức Việt Nam, Hà nội.
UNDP (2000), Tổng quan Viện trợ phát triển chính thức Việt Nam, Hà nội.
Trang web :
Trang web của Bộ Kế hoạch và đầu tư : www.mpi.gov.vn
Trang web của Bộ Bưu chính viễn thông Việt nam : www.mpt.gpv.vn
Trang web của Tập đoàn BCVT Việt Nam : www.vnpt.com.vn
Trang web của Bộ Tài chính : www.mof.gov.vn
Trang web của Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam : www.vcci.com.vn
Trang web của Thời báo kinh tế Việt Nam :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ngành bưu chính viễn thông.doc