Vốn đầu tư, thu hút vốn đầu tư
Hoạt động đầu tư, trước hết được hiểu là hoạt động kinh tế tổng hợp được tiến hành bằng cách huy động các nguồn vốn bỏ vào lĩnh vực khai thác, chế biến sản phẩm hoặc dịch vụ trong một thời gian nhất định. Số vốn đó phải tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích thu hồi vốn, tạo ra lợi nhuận đối với nhà đầu tư và mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho đất nước. Vốn bỏ vào các hoạt động đầu tư được gọi là vốn đầu tư.
Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình CNH, HĐH. Nhờ có vốn mới có các yếu tố cơ bản và cần thiết khác để CNH, HĐH của quá trình sản xuất như: máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu để sử dụng, phát huy được nguồn lực lao động dồi dào của nước ta trong công cuộc đẩy mạnh quá trình này. Để có nguồn vốn đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH; chúng ta không những cần phải thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn mà còn phải nâng cao hiệu qủa sử dụng nguồn vốn đó.
Thu hút vốn đầu tư vào KCN bao gồm thu hút đầu tư nước ngoài và thu hút đầu tư trong nước. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tuỳ theo quy định của Luật đầu tư từng nước tiếp nhận đầu tư. Quyền điều hành doanh nghiệp tuỳ thuộc vào số vốn góp của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận các chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết qủa hoạt động kinh doanh và tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp.
1.2 KCN, đặc điểm và vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế xã hội
1.2.1 KCN
2
Tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội, địa lý cũng như chính sách kinh tế của từng quốc gia, từng khu vực mà chính phủ mỗi nước lựa chọn mô hình kinh tế cho phù hợp với quốc gia của mình. Theo chương trình môi trường liên hợp quốc xếp các loại hình KCN trên thế giới thuộc loại bất động sản công nghiệp bao gồm : khu chế xuất (Export Processing Zones – EPZ); khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu (Import Processing Zone – IPZ); Khu công nghiệp (Industrial Processing Zones); Khu công nghệ cao (High – Tech Industrial Zones); Khu vực kinh tế tự do (Free Economic Zone – FEZ); Khu mậu dịch tư do (Free Trade Zone – FTZ); Đặc khu kinh tế.
Khu chế xuất (EPZ), đây là loại đặc khu kinh tế có diện tích tương đối nhỏ, có hàng rào phân cách về địa lý trong một quốc gia, không có dân cư sinh sống nhằm thu hút các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất được hưởng nhiều ưu đãi; nhất là ưu đãi về thuế và thủ tục hải quan, song đòi hỏi phải xuất khẩu gần như toàn bộ sản phẩm.
Khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu (IPZ), đây là hình thức áp dụng chủ yếu ở các nước Đông Á và Đông Nam Á nhằm phục vụ cho chiến lược CNH thay thế hàng nhập khẩu. Tại khu vực này chủ yếu thu hút các ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu và chế biến các nguyên liệu thô trong nước.
KCN là hình thức tổng hợp của EPZ và IPZ đã nêu ở trên, các KCN này có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các nước vì nó kích thích xu hướng sản xuất hướng ra xuất khẩu, vừa động viên phát triển sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và chế biến nguyên liệu thô trong nước.
KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định có dân cư sinh sống; do Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố ra quyết định thành lập sau khi có văn bản chấp thuận của Thủ tướng chính phủ. Trong KCN có thể có khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất.
3
Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ ; KKT kinh tế là khu vực có không gian riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Trong giai đoạn toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và kinh tế trí thức, quan niệm về KCN được mở rộng. Các giao dịch kinh tế không phải chỉ điều chỉnh bằng các quy định pháp lý trong nước mà còn bằng cả các quy định pháp lý quốc tế đặc biệt là những nguyên tắc của WTO. WTO cho phép thành lập các KCN và KCX với những ưu đãi không được trái với các nguyên tắc điều chỉnh của WTO.
Như vậy, KCN có thể hiểu là một phương thức tổ chức các hoạt động sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ công nghiệp với những chế độ ưu đãi đặc biệt so với các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ còn lại trên lãnh thổ của một nước nhằm khuyến khích đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và thực hiện các mục tiêu chính sách khác. KCN được thành lập không chỉ để nhằm thu hút đầu tư nước ngoài mà còn cả thu hút đầu tư trong nước.
Đánh giá xếp loại KCN theo tiêu chí về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật KCN; hiệu qủa KCN; hiệu qủa thu hút vốn đầu tư; hiệu qủa xã hội.
1.2.2 Đặc điểm
+ KCN có vị trí địa lý xác định, có thể có hoặc không có hàng rào ngăn cách, không có dân cư sinh sống.
+ KCN được thành lập để thu hút các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp.
+ Đơn vị chủ đầu tư KCN thuê đất Nhà nước, đầu tư hạ tầng và cho thuê lại đất, thu phí hạ tầng.
4
+ Được quản lý bởi một cơ quan chuyên trách là Ban Quản lý KCN cấp tỉnh theo cơ chế ủy quyền của các bộ ngành, với cơ chế một cửa, một đầu mối, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
1.2.3 Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế xã hội
Trong giai đoạn vừa qua (1991 – 2006), hoạt động các KCN trong cả nước đã đạt được những thành tựu quan trọng.
+ Hình thành hệ thống các KCN trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cả nước; quy hoạch phát triển ngành, địa phương và vùng lãnh thổ. Các KCN được phân bổ trên các tỉnh thành trên cả nước theo hướng vừa tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở các vùng có lợi thế và tiềm năng, vừa tạo điều kiện để các địa phương có ít lợi thế hơn, có động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Quy mô các KCN đa dạng và phù hợp với từng điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của mỗi địa phương.
+ KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH, HĐH đất nước.
Số dự án ĐTNN và tổng vốn đăng ký vào KCN ngày càng được mở rộng. Giai đoạn 5 năm 1991-1995, số dự án ĐTNN có 155 dự án, đến 5 năm 2001-2005 là 1.377dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần về số dự án và 12 % về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996-2001. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN đã thu hút được 2.120 dự án có vốn ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 16.843 triệu USD.
Trong 5 năm 1991-1995, chỉ có gần 50 dự án trong nước đầu tư vào các KCN, thì đến 5 năm 2001-2005 thu hút được 1.870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với kế hoạch 5 năm trước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng.
+ KCN đã tạo một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài không chỉ đối với địa phương có KCN mà còn góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. Tại các KCN, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi,
54 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3276 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạch phát triển
theo hai hướng chủ yếu:
+ Hướng thứ nhất : Biên Hoà – Long Thành – Nhơn Trạch dọc theo trục lộ 51 đang
hình thành các KCN, các trung tâm đô thị mới.
+ Hướng thứ hai: Dọc theo Quốc 1, Quốc lộ 20 nối Biên Hoà với các huyện miền
Bắc tỉnh. Khu vực này sẽ định hình các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn
ngày, dài ngày, vật nuôi và nông sản hàng hoá, đây là nguồn nguyên liệu quan trọng
để phát triển công nghiệp chế biến phục vụ cho tiêu dùng, xuất khẩu và chăn nuôi.
Ngoài ra, tỉnh còn quy hoạch bổ sung 28 cụm công nghiệp tổng diện tích
khoảng 1.188 ha.
Như vậy, đến nay tỉnh Đồng Nai cơ bản đã quy hoạch xong mạng lưới các
KCN phân bổ rãi đều từ Thành phố Biên Hoà đến các huyện của tỉnh, tổng diện tích
các khu và cụm công nghiệp được quy hoạch khoảng 10.700ha.
Tốc độ phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh trong năm 2006 tăng khá nhanh từ 17
KCN đến nay đã có 21 KCN có quyết định thành lập nâng diện tích đất KCN từ
5.124 ha lên 5.918ha.
2.2.1.1 So với tình hình xây dựng KCN của các tỉnh thành có KCN trên cả
nước cho thấy:
+ Tỉnh Đồng Nai có diện tích, số lượng KCN nhiều nhất.
+ Tốc độ phát triển các KCN nhanh .
+ Có nhiều KCN đạt tỷ lệ lấp đầy cao hơn tỷ lệ bình quân cả nước.
+ Các KCN Đồng Nai thu hút lượng vốn đầu tư, số dự án và lao động rất
lớn, các chỉ số lấp đầy diện tích, suất đầu tư theo diện tích, theo dự án đều cao hơn
cả nước.
+ Các KCN Đồng Nai thu hút nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài nhất.
Và trong nhiều năm, đặc biệt năm 2004, Đồng Nai là địa phương dẫn đầu cả nước
về thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.1.2 Kết qủa phát triển KCN tại Đồng Nai:
30
+ Góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý cải tiến thủ tục hành
chính.
+ Sự phát triển các KCN và thu hút đầu tư đã góp phần quan trọng phát
triển đô thị và kết cấu hạ tầng kỹ thuật: hoạt động KCN và đầu tư đã góp phần quan
trọng trong việc quy hoạch, hình thành và phát triển khu đô thị, khu dân cư trên địa
bàn vì quy hoạch khu dân cư là bộ phận gắn liền với quy hoạch KCN. Hệ thống lưới
điện đã phát triển mạnh mẽ, hệ thống cấp nước đã từng bước đầu tư xây dựng đồng
bộ, mạng lưới bưu chính – viễn thông từ chỗ lạc hậu về kỹ thuật, nghèo nàn về dịch
vụ đến nay đã thay đổi cơ bản. Hệ thống giao thông phát triển nhanh, liên hoàn,
thông suốt.
+ Phát triển KCN đã thu hút mạnh mẽ các dự án trong và ngoài nước trên
địa bàn. Tính đến ngày 31/12/2006, tổng số dự án luỹ kế được cấp giấy phép đầu
tư/Giấy chứng nhận đầu tư trong 21 KCN là 840 dự án với tổng vốn đầu tư
8.579,3triệu USD. Trong đó: có 598 dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài với tổng
vốn đăng ký là 7.191,6 triệu USD đến từ 31 quốc gia ; 201 dự án trong nước với
tổng vốn đăng ký 609,9 triệu USD; và 41 dự án liên doanh với tổng vốn là
778,6triệu USD.
+ Sự phát triển KCN đã góp phần đổi mới công nghệ, hiện đại hoá nông
thôn. Nhơn Trạch được coi là điển hình về công nghiệp hoá nông thôn thông qua
hình thức phát triển KCN.
+ Sự phát triển các KCN đã góp phần hình thành và tăng nhanh các hoạt
động dịch vụ.
+ Phát triển KCN và thu hút đầu tư đã góp phần quan trọng trong giải quyết
việc làm, khuyến khích học tập, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội.
+ Sự phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế , đặc biệt khối doanh
nghiệp dân doanh và đầu tư nước ngoài đã góp thêm kinh nghiệm thành lập các tổ
chức chính trị, xã hội trong doanh nghiệp.
+ Phát triển KCN và thu hút đầu tư đã góp phần phát triển quan hệ hợp tác
trong nước và quốc tế.
31
2.2.2 Những khó khăn cần tiếp tục nghiên cứu:
+ Chất lượng quy hoạch còn thấp và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa triệt
để. Tuy phát triển nhiều KCN nhưng Đồng Nai chưa có KCN cao và KCN chuyên
ngành.
+ Công tác bồi thường giải toả còn gặp nhiều khó khăn.
+ Việc đầu tư xây dựng hạ tầng tại một vài KCN còn chậm trễ, đầu tư các
công trình bên ngoài KCN chưa theo sự phát triển và thường đi sau sự phát triển của
các KCN.
+ Trong thu hút đầu tư, thời gian qua chưa chú trọng chọn lọc dự án đầu tư
thuộc lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao, chưa thu hút các doanh nghiệp trong nước
mà chủ yếu thu hút các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
+ Vai trò của KCN đối với việc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn còn
hạn chế. Hiện nay, ngoại trừ KCN Định Quán là KCN miền núi duy nhất có nhiều
dự án đầu tư, các KCN miền núi tại các huyện Tân Phú, Xuân Lộc… việc thu hút
dự án đầu tư vẫn còn rất khó khăn.
+ Phát triển công nghiệp đang có ảnh hưởng nhất định đến môi trường
sống.
+ Các dịch vụ phục vụ KCN vẫn chưa phát triển đồng bộ. Đào tạo chưa gắn
kết với nhu cầu tuyển dụng, giữa đào tạo của nhà trường với nhu cầu tuyển dụng
của doanh nghiệp vẫn còn một khoảng cách lớn. Các vấn đề an ninh, trật tự an toàn
xã hội tuy không xãy ra các vụ việc nghiêm trọng, nhưng vẫn còn tình trạng đình
công và tranh chấp lao động, những sai phạm trong quan hệ lao động, kinh tế.
2.3 Phân tích tình hình thu hút đầu tư các KCN trên địa bàn tỉnh
2.3.1 Về nguồn vốn đầu tư vào KCN Đồng Nai
Nhìn nhận một cách tổng thể trong chịến lược phát triển kinh tế thì cơ cấu
vốn đầu tư theo quốc gia vào KCN Đồng Nai là chưa cân đối. Trong khi các nước
Châu Á chiếm tỷ lệ vốn đầu tư lớn (khoảng 80%) thì các nước Châu Âu (đặc biệt là
Tây Âu), Châu Mỹ là những nước có tiềm năng rất lớn về vốn và công nghệ cao, có
32
năng lực cạnh tranh và trình độ quản lý kinh tế tốt; có thị phần trên thế giới lớn và
ổn định lại chiếm tỷ lệ thấp.
2.3.2 Thu hút vốn đầu tư theo địa bàn xây dựng các KCN
Tính đến ngày 31/12/2006 tổng vốn đã đầu tư hạ tầng là 244,43 tr USD,
trong đó năm 2006 là 29,558 triệu USD. Trong 21 KCN thì chỉ có 3 KCN lấp đầy
diện tích đã cho thuê là Biên Hoà I, Biên Hoà II, Tam Phước.
Diện tích đã cho thuê so với diện tích dùng cho thuê đạt 58,76%, có nhiều
KCN chưa cho thuê được như KCN Hố Nai giai đoạn II, Nhơn Trạch VI, Nhơn
Trạch II- Nhơn Phú.
Ta thấy cơ cấu đầu tư theo địa bàn các KCN trong giai đoạn vừa qua luôn
gắn bó rất chặt chẽ với phát triển cơ sở hạ tầng của vùng, khu vực, lấy đó làm cơ sở
để hình thành và phát triển.
Mặt khác, các KCN tại Đồng Nai dù được đánh giá là thành công song
chưa phát triển đồng đều, chưa khai thác hết quỹ đất quy hoạch KCN đưa vào sử
dụng, tiềm năng phát triển công nghiệp tại Đồng Nai trong thời gian tới vẫn còn rất
lớn, hiện tại chỉ khai thác 58,76% diện tích đất dùng cho thuê.
2.3.3 Thu hút đầu tư theo ngành nghề, lĩnh vực
Các dự án đầu tư vào KCN Đồng Nai có ngành nghề đa dạng, với quy mô
và trình độ công nghệ khác nhau. Về tỷ trọng vốn đầu tư, ngành dệt đứng đầu kế
đến là ngành thực phẩm, ngành giày da, còn lại là các ngành khác như: sản xuất gỗ,
vật liệu xây dựng, cơ khí…
Có nhiều yếu tố tác động để hình thành tương quan ngành nghề như hiện
nay, trong đó có sự tham gia điều chỉnh của Nhà nước được quy định tại danh mục
các ngành nghề cấm đầu tư, khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, các công ty phát triển hạ tầng hoàn toàn chủ động
trong lựa chọn, thu hút các dự án. Phần nhiều các công ty này đều cố gắng mau
chóng lấp đầy diện tích KCN trong thời gian sớm nhất, ít quan tâm tới quy mô,
ngành nghề, số lao động, hiệu qủa sử dụng đất; trình độ công nghệ các dự
33
án…Chính vì vậy, cơ cấu đầu tư theo ngành nghề, lĩnh vực được hình thành có
khuynh hướng tự phát.
Hiện nay, tỉnh Đồng Nai cũng như các địa phương khác đang hết sức nỗ
lực thu hút đầu tư vào sản xuất công nghiệp, việc tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu
hút đuợc thật nhiều dự án vào KCN là vấn đề hết sức quan trọng, đã đến lúc phải
quan tâm đến việc thu hút đầu tư một cách lựa chọn. Trong đó, lựa chọn dự án và
ngành nghề là yếu tố rất quan trọng.
Cần có chủ trương cho phép các địa phương tập trung phát triển công
nghiệp được quy định về định hướng thu hút đầu tư, như khu vực thành phố Biên
Hoà, Nhơn Trạch, Long Thành chỉ thu hút các dự án vốn lớn, công nghệ cao, ít lao
động, tập trung vào các ngành phục vụ phát triển các ngành khác như năng lượng,
vật liệu mới, các ngành cơ bản và bảo vệ môi trường. Khuyến khích thu hút đầu tư
vào các khu vực chưa phát triển mạnh KCN. Thực hiện thu hút đầu tư có trọng điểm
nhằm mục đích giữ vững động lực phát triển, chuẩn bị tốt cho khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế trong tiến trình tham gia hội nhập kinh tế thế giới. Cải thiện được cơ
cấu vốn FDI, hướng đầu tư vào các ngành, các vùng khuyến khích, tận dụng được
FDI để tái cơ cấu kinh tế, đồng thời nâng cấp các ngành công nghiệp trong nước.
Hạn chế tối đa không để ảnh hưởng tiêu cực của FDI khi phải giải quyết các gánh
nặng xã hội. Mặt khác, cần cân đối quỹ đất, hiện trạng phát triển và tiềm năng phát
triển Đồng Nai, tập trung chuyển đổi thu hút các lĩnh vực sản xuất thông thường
sang các ngành công nghiệp ưu tiên, các ngành kỹ thuật cao đi đôi với phát triển hạ
tầng.
2.4 Đánh giá hiệu qủa của các công ty kinh doanh hạ tầng KCN
2.4.1 Xí nghiệp dịch vụ và phát triển KCN Tam Phước
Tính đến ngày 31/12/2006 tổng số nhà đầu tư thuê đất là 51 nhà đầu tư ,
diện tích cho thuê đạt 100%. Về tình hình triển khai thực hiện dự án đầu tư của 51
nhà đầu tư của tại KCN Tam Phước trong đó đã hoạt động sản xuất có 36 nhà đầu
tư , tiến hành xây dựng có 3 nhà đầu tư, đang làm thủ tục đầu tư có 11 nhà đầu tư,
01 nhà đầu tư (Công Ty Tân Sài Gòn) đang làm thủ tục thu hồi đất. Trong dự án
34
nước ngoài là 32 với vốn đăng ký là 247,647 triệu USD và 19 dự án trong nước với
vốn đăng ký là 38,805 tỷ đồng.
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản : Xí nghiệp có 10 tuyến đường nội bộ,
trong đó có 02 con đường chưa hoàn thành xong do còn vướng đền bù giải toả chưa
bàn giao xong mặt bằng. Hệ thống điện chiếu sáng đã thi công xong. Hệ thống xử lý
nước thải đang được triển khai thi công , tháng 06/2007 đưa vào vận hành thử.
Số vốn đầu tư của KCN Tam Phước đến ngày 31/12/2006 là:
13.224.363.659đồng (xây dựng dở dang) và tài sản cố định có nguyên giá là:
93.479.249.567 đồng.
2.4.2 Xí nghiệp dịch vụ và phát triển KCN Nhơn Trạch
KCN Nhơn Trạch 3 giai đoạn I đã cho tập đoàn Formosa thuê với diện tích
là 300ha, với vốn đăng ký là 482,225triệu USD.
Tình hình cho thuê đất: trong năm 2006 có 4 nhà đầu tư thuê đất giai đoạn
2 với tổng diện tích đất cho thuê 12,65ha. Tính đến 31/12/2006 diện tích đất đã cho
thuê của KCN Nhơn Trạch 3 giai đoạn 2 là 55 ha đạt 20,5% trong tổng số 268 ha.
Nhưng một số nhà đầu tư thuê đất làm chủ yếu bê tông , giấy (NPK đang phá sản),
chưa thuê với diện tích lớn.
Tính đến cuối năm 2006, KCN Nhơn Trạch có 26 dự án thuê, trong đó dự
án nước ngoài là 13. Tổng diện tích cho thuê là 355 ha, vốn đăng ký của nước ngoài
là: 573,925 triệu USD.
Đang xây dựng trạm xử lý nước thải, tháng 6/2007 đưa vào vận hành thử.
Bên cạnh cho thuê đất cơ sở hạ tầng KCN Nhơn Trạch 3 còn kinh doanh cho thuê
văn phòng chiếm 75,8% tổng diện tích sử dụng của toà nhà văn phòng.
Tình hình đầu tư cơ sở hạ tầng: các đường trong KCN Nhơn Trạch đã xong
nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng , giá trị đầu tư trên 120 tỷ đồng, đây là điều
kiện thuận lợi để kêu gọi thu hút đầu tư nhưng cũng ảnh hưởng kết qủa kinh doanh
của đơn vị nếu thu hút đầu tư chậm.
Khu Trung tâm dịch vụ 16 hecta đang được triển khai cơ sở hạ tầng nhằm
phục vụ KCN như sân tennis, trường dạy nghề…
35
Một thực trạng khi cho thuê đất không đánh giá được thực trạng tài chính
của đơn vị thuê đất dẫn đến thu tiền thuê hàng năm chậm, giữ đất… làm ảnh hưởng
kết quả kinh doanh của công ty kinh doanh hạ tầng .
2.4.3 Công ty cổ phần thống Nhất (KCN Bàu Xéo)
Đầu tư cơ sở hạ tầng KCN Bàu Xéo : đang trong quá trình hoàn tất quy
hoạch chi tiết KCN Bàu Xéo về những chi tiết cho sát hợp với thực tế .
Tình hình cho thuê đất KCN: diện tích đất đã cho thuê và thoả thuận cho
thuê lũy kế đến 31/12/2006 là 308,8 ha so với diện tích đất quy hoạch cho thuê
354,8 ha, đạt tỷ lệ 86 %. Trong đó có 12 dự án đã đăng ký cấp Giấy phép đầu tư,
Đăng ký kinh doanh, với vốn đăng ký là 278 triệu USD (8 dự án đầu tư nước ngoài)
và 61,5 tỷ VNĐ ( 4 dự án đầu tư trong nước).
Qua phân tích tình hình hoạt động của một số KCN tỉnh Đồng Nai, kết quả
hoạt động của từng KCN tuỳ thuộc thu hút đầu tư , quản lý chi phí của đơn vị, năng
lực tài chính của đơn vị thuê đất bên cạnh do khai thác dịch vụ phục vụ cho thuê .
Tình hình thu hồi công nợ, một số đơn vị thuê đất giữ đất không triển khai hoạt
động kinh doanh… làm ảnh hưởng phát triển KCN.
2.5 Cần khắc phục đặc biệt vấn đề xử lý nước thải công nghiệp, đảm bảo môi
trường trong các KCN tại tỉnh Đồng Nai
Từ khi có Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản dưới luật của Chính phủ
cũng như các Bộ luật có liên quan đã tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý
Nhà nước về bảo vệ môi trường đối với các KCN trên địa bàn Tỉnh. Tuy nhiên vẫn
còn tồn tại như: một số các công ty hạ tầng chưa đầu tư thích đáng vào cơ sở hạ
tầng thiết yếu như giao thông, thoát nước mưa, nước thải, tỷ lệ cây xanh…; đặc biệt
là hạng mục công trình về môi trường như hệ thống xử lý nước thải tập trung của
KCN. Nhận thức về bảo vệ môi trường của một số doanh nghiệp chưa đầy đủ, vẫn
còn doanh nghiệp KCN chưa đầu tư đúng mức vào duy trì ổn định việc vận hành hệ
thống xử lý nước thải, nước thải đạt yêu cầu trước khi xả thải. Bên cạnh đó, hầu hết
chưa có cán bộ chuyên trách cho hoạt động bảo vệ môi trường. Việc xử lý chất thải
rắn đã trở thành áp lực đối với doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý về môi
36
trường do chưa hình thành được khu liên hợp xử lý chất thải nguy hại, bãi chôn lấp
chất thải nguy hại. Ngoài ra, năng lực của các đơn vị hoạt động, thu gom, lưu giữ,
vận chuyển, xử lý và tiêu hủy các loại chất thải công nghiệp còn rất hạn chế về cả
quy mô lẫn công nghệ xử lý. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường của các ngành các
cấp ở địa phương vẫn còn thiếu về số lượng lẫn trình độ chuyên môn để thực hiện
nhiệm vụ được giao.
2.6 Các tiêu chí xếp hạng KCN Đồng Nai.
2.6.1 Lợi ích của việc xếp hạng các KCN, liên quan đến các bên như sau:
+ Về phía nhà đầu tư, các kênh thông tin sẽ rõ ràng hơn, môi trường đầu tư
được minh bạch và thông thoáng hơn. Từ đó, việc các nhà đầu tư quyết định lựa
chọn vị trí đầu tư cũng trở nên dễ dàng hơn.
+ Về phía công ty kinh doanh phát triển hạ tầng KCN, xếp hạng các KCN
tạo một động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng KCN, luôn cố
gắng phấn đấu nâng hạng cho KCN mình. Bên cạnh lợi ích của sự tăng giá thuê do
nâng hạng KCN, việc nâng hạng cũng đồng nghĩa với việc gia tăng uy tín và thương
hiệu của công ty kinh doanh phát triển hạ tầng KCN trong cả nước.
+ Về phía nhà nước, việc xếp hạng các KCN giúp cho Nhà nước dễ dàng
kiểm soát quá trình xây dựng và phát triển các KCN tập trung hơn. Về quy hoạch,
ngay từ đầu Nhà nước có thể phê duyệt hạng cho KCN mới được quy hoạch. Tiến
tới, ngoài việc cho phép nâng giá cho thuê đất và dịch vụ hạ tầng, Nhà nước có thể
ban hành các chính sách ưu đãi cho các KCN xếp hạng cao, như cho phép thành lập
hải quan, thuế tại KCN; mở rộng thời gian làm việc cho người nước ngoài, miễn
kiểm tra, thanh tra,…
2.6.2 Các tiêu chí xếp hạng các KCN tại tỉnh Đồng Nai
+ Nhóm các tiêu chí về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật KCN: bao gồm các tiêu
chí về vị trí địa lý, đường giao thông, diện tích cây xanh, các khu xử lý nước thải,
chất thải và biện pháp bảo vệ môi trường của KCN; các tiêu chí về dịch vụ KCN để
thỏa mãn yêu cầu của nhà đầu tư về dịch vụ như: khu dịch vụ hải quan, ngân hàng,
tài chánh, thuế,… khu giải trí cho người lao động, khu đào tạo nghề…
37
+ Nhóm các tiêu chí về hiệu qủa KCN: bao gồm các tiêu chí đánh giá hiệu qủa
của công ty kinh doanh phát triển hạ tầng KCN, như số diện tích đất cho thuê, vốn
đầu tư xây dựng hạ tầng/1ha, doanh thu hằng năm, lợi nhuận thu được từ hoạt động
cho thuê KCN.
+ Nhóm các tiêu chí về hiệu quả thu hút vốn đầu tư: bao gồm các tiêu chí đánh
giá hiệu qủa của quá trình thu hút vốn đầu tư vào KCN, như số dự án đầu tư vào
KCN, tổng vốn thực hiện doanh thu, nhập khẩu, xuất khẩu hàng năm.
+ Nhóm các tiêu chí về hiệu qủa xã hội: bao gồm các tiêu chí đánh giá tác động
của việc phát triển KCN đến kinh tế của địa phương, như số nộp Ngân sách hàng
năm, thu hút lao động làm việc trong KCN, sự hình thành các khu dân cư đô thị,
bệnh viện, trường… xung quanh địa phương có KCN.
2.7 Một số bài học kinh nghiệm phát triển các KCN trên địa bàn Tỉnh Đồng
Nai
2.7.1 Về chủ trương phát triển KCN:
Các cơ chế chính sách mới của Đảng và Nhà nước đã tạo ra khí thế sôi
động trong lao động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thu hút sự quan tâm đầu tư
và kinh doanh của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Quy chế KCN do Chính phủ ban
hành cùng với các luật hiện hành, nhất là Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư… đã tạo
môi trường pháp lý tương đối rõ ràng thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động
và bảo đảm công tác quản lý của Nhà nước. Đó là cơ sở quan trọng để Đồng Nai
quy hoạch phát triển các KCN nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước theo quy
hoạch.
Tỉnh Ủy, UBND tỉnh đã sớm nhận thức lợi thế so sánh về vị trí địa lý, cơ
sở hạ tầng kinh tế xã hội của Đồng Nai so với các địa phương khác, nên đã sớm
chọn KCN là trọng điểm xây dựng phát triển kinh tế địa phương.
2.7.2 Về lựa chọn vị trí quy hoạch phát triển
Xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, thực chất là kinh doanh bất động
sản đất đai nên phải tuân theo quy tắc chung đã được thực tế kiểm nghiệm, đó là
chọn đúng địa điểm. Lịch sử hình thành và phát triển các KCN trên thế giới cũng
38
như Việt Nam cho thấy, tất cả các KCN thành công đều nằm ở vị trí thuận lợi nhất
về địa lý – kinh tế.
Việc quy hoạch phát triển các KCN phải đảm bảo phát huy và khai thác
mọi lợi thế so sánh của từng khu vực, bảo đảm tính hiệu qủa trong đầu tư phát triển
công nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho nhân dân, tạo động
lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển đồng bộ, bền vững,
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, tạo mỹ quan đô thị, tiết kiệm đất nông
nghiệp.
Quy hoạch chuẩn xác KCN là yếu tố khách quan bảo đảm cho KCN phát
triển và không ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các khu kinh tế lân cận.
2.7.3 Về việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN và khu dân cư cùng các công trình
dịch vụ phục vụ KCN
Để thu hút đầu tư vào KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
trong việc triển khai nhanh dự án, ngoài các chính sách ưu đãi về mặt tài chính và
quản lý thuận lợi của Nhà nước, cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN đáp ứng yêu cầu
của nhà đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào KCN (đường, điện, nước, bưu điện)
và các dịch vụ phục vụ KCN như xe buýt đưa rước công nhân, nhà trọ công nhân,
lập đồn Công an, Công đoàn, Hải quan KCN, tổ chức bữa ăn công nghiệp… là yếu
tố quan trọng để vừa tăng sức hấp dẫn của KCN, vừa là giải pháp kinh tế xã hội cần
phải thực hiện để đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của KCN.
Sự thành công của KCN còn phụ thuộc nhiều vào quy mô và phương thức
đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng KCN. Chi phí đầu tư trung bình cho các
công trình hạ tầng KCN do doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào khoảng 20USD/m2
, các KCN do doanh nghiệp trong nước đầu tư khoảng 3 – 5 USD/m2 . Suất đầu tư
thấp do các doanh nghiệp trong nước thường chọn giải pháp đầu tư phân kỳ và cuốn
chiếu, quy mô công trình hạ tầng tính toán theo mức tiết kiệm nhất. Suất đầu tư
khác nhau, nên mức phí cho thuê lại cũng khác nhau, điều này có ảnh hưởng nhất
định đến việc lựa chọn của nhà đầu tư. Do vậy, việc lựa chọn doanh nghiệp đầu tư
39
hạ tầng có năng lực tài chính và kinh nghiệm tiếp thị đầu tư có ý nghĩa quan trọng
trong việc thu hút đầu tư vào KCN.
2.7.4 Về cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ”
Đây là cơ chế giải quyết các công việc liên quan đến thủ tục hành chính
cho doanh nghiệp KCN, mọi việc từ lúc tiếp nhận đến lúc giải quyết xong, chỉ diễn
ra tại một cửa của Ban Quản lý KCN, còn việc phối hợp giữa các bộ phận chức
năng trong bộ máy công quyền với nhau nhằm giải quyết công việc là trách nhiệm
của cơ quan nhà nước.
Ban Quản lý KCN có thẩm quyền cấp giấy phép đối với các dự án trong
KCN, KCX bao gồm cả dự án đầu tư được quy định tại điều 37 Nghị định
108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 đã được chấp thuận chủ trương đầu tư.
2.7.5 Về lựa chọn mô hình KCN và lựa chọn dự án đầu tư
Thời gian qua, tỉnh Đồng Nai đã bước đầu thực hiện chủ trương này, đó là:
một mặt, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư lựa chọn vị trí. Mặt khác,
quy định một số ngành nghề phải đầu tư vào KCN nhất định như: doanh nghiệp dệt
nhuộm phải đầu tư vào KCN Nhơn Trạch, doanh nghiệp sản xuất hoá chất phải đầu
tư vào KCN Gò Dầu, doanh nghiệp chế biến gỗ ưu tiên bố trí vào KCN Tam
Phước…
2.7.6 Về môi trường đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp
Tôn vinh doanh nghiệp, thực hiện chính sách “Chính quyền đồng hành
cùng doanh nghiệp”, tích cực hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp
cũng chính là khó khăn của mình. Thường xuyên cải tiến thủ tục hành chính và các
dịch vụ theo hướng công khai, tận tâm, minh bạch.
2.7.7 Về hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội.
Trong các doanh nghiệp dân doanh, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, việc thành lập các tổ chức chính trị xã hội gặp nhiều khó khăn nhất
định nhưng cần thấy lợi ích của các tổ chức này.
2.7.8 Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực
40
Xây dựng KCN cũng như tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần có
những con người tương ứng, đủ phẩm chất và năng lực đảm đương các công việc.
Phát triển nguồn nhân lực cần đồng bộ các mặt : giáo dục, đào tạo, sử dụng và tạo
việc làm. Việc giải quyết đình công, tranh chấp lao động, cần thực hiện theo
phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”
2.8 Những vấn đề còn tồn đọng trong thu hút vốn đầu tư vào các KCN ở tỉnh
Đồng Nai
+ Quy mô dự án đầu tư nhìn chung là nhỏ và ngày càng nhỏ, ít có các dự
án lớn mà sự phát triển của nó có ảnh hưởng lan toả, mang tính trụ cột kích thích,
lôi kéo sự phát triển của các dự án đầu tư khác.
+ Các dự án chủ yếu mang tính gia công, lắp ráp: ngành dệt may, giày da,
điện tử, lắp ráp các phương tiện vận tải… Điều này làm cho giá trị tăng thêm thu
được trên địa bàn tỉnh thấp, thâm dụng lao động lớn, các vấn đề xã hội phải giải
quyết cho lao động nhập cư nhiều: nhà ở, an ninh, tính ổn định của nguồn nhân
lực…
+ Đồng Nai là tỉnh có số lượng KCN nhiều nhất nước, nhưng chưa có khu
công nghệ cao dành riêng cho phát triển các ngành công nghệ cao cấp, mà sự phát
triển của các ngành này sẽ đưa nền kinh tế Đồng Nai không những theo con đường
CNH, mà còn đảm bảo tính HĐH.
+ Số dự án gây ô nhiễm còn nhiều, đặc biệt trong các ngành nhuộm, cơ khí,
giày da, sản xuất ắcquy, sản xuất thuốc bảo vệ thực vật…chỉ có 6 KCN có nhà máy
xử lý nước thải.
+ Với mục tiêu lấp đầy nhanh KCN, sẽ mang lại lợi ích nhiều nhất cho các
công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng, nhưng mặt trái của nó là: Ở các KCN đã lấp đầy
100% các doanh nghiệp đang hoạt động muốn mở rộng quy mô hoạt động sẽ gặp
khó khăn trong việc thuê đất tại chỗ; những dự án chất lượng chưa cao đối với sự
phát triển kinh tế của tỉnh vào trước giữ chỗ hàng chục năm, những dự án triển khai
sau có ảnh hưởng tốt gặp khó khăn trong thuê đất (hoặc không muốn hoạt động
41
cạnh tranh các doanh nghiệp gây ô nhiễm hoặc muốn thuê đất lớn có cơ sở hạ tầng
không còn).
Kết Luận Chương 2
Quá trình xây dựng và phát triển các KCN (nóng lên) ở nhiều địa phương
như hiện nay đã làm ảnh hưởng đến bức tranh chung về thu hút đầu tư và phát triển
các KCN của Việt Nam. Việc thu hút đầu tư và phát triển các KCN bất chấp hậu
qủa của một số địa phương, việc quy hoạch các KCN mang tính duy ý chí vô tình
đã gây nên những phức tạp, khó kiểm soát trong quá trình quy hoạch và phát triển
KCN trong cả nước nói chung và của tỉnh Đồng Nai nói riêng.
Những tác hại như về phía doanh nghiệp đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng
KCN đã có một số doanh nghiệp bị lỗ kéo dài, năng lực tài chính không đảm bảo,
không đủ sức duy tu, bảo dưỡng cơ sở hạ tầng KCN; về phía nhà đầu tư, việc chào
đón, mời gọi đầu tư từ nhiều địa phương khác nhau đã làm cho các kênh thông tin
trở nên rối rắm, khiến nhà đầu tư không thể đưa ra quyết định đúng đắn trong lựa
chọn vị trí đầu tư, đặc biệt đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Điều quan
trọng hơn hết là Nhà nước không thể kiểm soát, đánh giá được hiệu quả của quá
trình phát triển KCN trên mỗi địa phương, nếu tiếp tục duy trì tình trạng nêu trên
trong thời gian dài.
Trong lựa chọn về các giải pháp để thu hút đầu tư nước ngoài, việc thành
lập các KCN là giải pháp đã được các địa phương lựa chọn nhiều nhất, trong đó có
tỉnh Đồng Nai. Vấn đề là cần có định hướng và giải pháp để phát triển các KCN sao
cho hợp lý và có hiệu qủa nhất.
42
Chương 3: GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CÁC KCN
TẠI TỈNH ĐỒNG NAI
Tỉnh Đồng Nai là một địa phương tiến hành quy hoạch, xây dựng và phát
triển KCN ngay trong giai đoạn đầu CNH, HĐH của đất nước. Hiện nay, với 21
KCN tập trung, Đồng Nai đã vươn lên dẫn đầu cả nước về chỉ tiêu xây dựng các
KCN tập trung, về diện tích cho thuê đất trong KCN, về lao động làm việc trong
KCN…
Từ những hạn chế của phát triển KCN chúng ta đặt ra những vấn đề cần
quan tâm.
3.1 Các quan điểm cần quán triệt khi đề xuất các giải pháp:
+ Các KCN của tỉnh chẳng những phải góp phần thúc đẩy công cuộc CNH
mà còn phải đẩy mạnh sự nghiệp hiện đại hoá các ngành kinh tế của tỉnh. Quan
điểm phát triển bền vững, kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội, bảo vệ và tái tạo môi trường sinh thái.
+ Đất đai, tài nguyên và nguồn nhân lực đều có hạn, phải tìm cách sử dụng
có hiệu quả nhất. Việc phát triển các KCN cần phát huy tối đa các nguồn nội lực và
lợi thế so sánh của tỉnh trong mối liên kết chặt chẽ với các tỉnh trong vùng và cả
nước nói chung và trong quá trình chủ động hội nhập.
+ Sự phát triển bền vững của các KCN không chỉ tính đến thời hạn 5-10
năm, mà phải tính xa hơn đến 20-30 năm.
+ Tỷ lệ lấp đầy KCN không chỉ là tiêu chí chủ yếu đánh giá hiệu qủa phát
triển KCN.
+ Trị giá gia tăng thêm ở các sản phẩm được xem như là chỉ tiêu chất
lượng hoạt động của các doanh nghiệp trong các KCN.
+ Quan điểm lấy hiệu qủa kinh tế xã hội, chất lượng cuộc sống và phát
triển nguồn nhân lực làm tiêu chuẩn lựa chọn các phương án phát triển. Nguồn nhân
43
lực là yếu tố quan trọng quyết định đến quy mô và chất lượng của sự phát triển kinh
tế trên địa bàn.
+ Quan điểm kết hợp ngay từ đầu phát triển kinh tế với quốc phòng an
ninh.
+ Và căn cứ trên các tiêu chí xếp loại các KCN tại tỉnh Đồng Nai.
Bằng nhiều kinh nghiệm thực tiễn đã khẳng định những yếu tố đảm bảo
phát triển thành công KCN là nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch
phát triển KCN; xây dựng cơ sở hạ tầng KCN nhanh chóng, chất lượng với chi phí
hợp lý; điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đẩy mạnh thu hút đầu tư vào KCN; thực hiện
tốt cải cách hành chính các hoạt động KCN và người lao động trong KCN phải
được làm việc trong điều kiện an toàn, hợp pháp và được bảo đảm mức sống bình
thường hàng ngày.
3.2 Các giải pháp để thu hút vốn đầu tư các KCN tại tỉnh Đồng Nai
3.2.1 Chất lượng quy hoạch cao, triển khai quy hoạch phải triệt để
Quy hoạch phát triển KCN ở Tỉnh Đồng Nai phải gắn chặt chẽ với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của vùng và địa phương.
Xây dựng phát triển KCN phải tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt và
gắn với việc thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu vực; việc quy hoạch phát
triển các KCN phải đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội nhằm đảm bảo tính bền vững trong phát triển.
Nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, xét duyệt và điều hành thực hiện
quy hoạch, hạn chế đến mức thấp nhất sự khác biệt giữa quy hoạch chung và quy
hoạch chi tiết, trong đó lưu ý đến yếu tố hiện trạng sử dụng đất, hạn chế việc di dời
giải toả nhiều hộ dân.
Quy hoạch kinh tế xã hội thường xuyên được cập nhật điều chỉnh bổ sung
cho phù hợp với tình hình thực tế. Đa dạng hoá mô hình các KCN hướng tới nhu
cầu của các nhà đầu tư. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các rào cản thương
mại, đầu tư có xu hướng giảm dần, mức độ cạnh tranh thu hút nguồn vốn đầu tư
44
trên thị trường vốn cũng sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Sức hấp dẫn của các KCN sẽ là
một trong những yếu tố quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư.
3.2.2 Thu hút đầu tư
*Thu hút đầu tư vào các KCN
Xúc tiến, vận động đầu tư vào các KCN là một trong những nội dung quan
trọng của công tác quản lý Nhà nước đối với KCN, đồng thời giữ vai trò quyết định
sự thành công của KCN. Để nâng cao hiệu quả công tác này cần:
- Thu hút đầu tư FDI vào KCN:
Định hướng thu hút FDI vào KCN như sau: khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút
FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến,
công nghiệp phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các dự án ứng dụng công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông và các
ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo
thêm việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nâng cao chất lượng đầu tư theo hướng sau: nâng cao chất lượng quy
hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương
trình vận động đầu tư. Đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu
tư như tiếp xúc trực tiếp các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính,
công nghệ. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện
có hiệu qủa chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên
cứu, đánh giá tiềm năng thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn
xuyên quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa
Kỳ…Tăng cường hợp tác song phương và đa phương về xúc tiến đầu tư. Nâng cao
chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư. Bố trí ngân sách tỉnh phục vụ
cho hoạt động đầu tư, không chỉ dựa vào nổ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở
hạ tầng KCN và bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Thu hút đầu tư trong nước vào KCN:
Đối với đầu tư trong nước, sau khi Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới
có hiệu lực vào tháng 7 năm 2006, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp
45
trong nước ngày càng thuận lợi. Cần tăng cường vận động hướng dẫn để thu hút
được sự quan tâm hưởng ứng của cộng đồng các nhà đầu tư đối với KCN, huy động
thêm nguồn vốn đầu tư xã hội.
Để tăng cường sự đầu tư của các nhà đầu tư trong nước, nhằm tạo sự phát
triển bền vững lâu dài, việc ra đời các tập đoàn kinh doanh trong nước là một bước
tất nhiên trên con đường phát triển kinh tế. Chính những tập đoàn này sẽ gắn bó
chặt chẽ với nền kinh tế nước nhà và là thước đo của nền kinh tế. Lực lượng này sẽ
đóng vai trò “vùng đệm” trước những dao động kinh tế thế giới như cuộc khủng
hoảng kinh tế hồi năm 1997, góp phần ổn định đầu tư kinh doanh trong nước.
Về xúc tiến đầu tư:
+ Xây dựng Đề án chương trình xúc tiến đầu tư vào các KCN, KKT trên cơ
sở Chương trình xúc tiến đầu tư có trọng điểm, theo dự án.
+ Tiếp tục tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư tại các quốc gia nhiều tiềm
năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Đài Loan, Trung Quốc…
+ Xây dựng trang Web thành đầu mối giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các
Ban quản lý KCN, KKT các địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư. Xây dựng
nội dung xúc tiến đầu tư trên trang web với một hệ thống các thông tin về KCN các
doanh nghiệp KCN; các chính sách ưu đãi, thủ tục đầu tư, đầu mối liên hệ tìm hiểu
thông tin tại địa phương… phục vụ cho xúc tiến đầu tư.
Đối với thu hút đầu tư nước ngoài:
+ Nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước
ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư.
+ Đổi mới, đa dạng hoá các phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực
hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ
thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước),
với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ
để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ
trợ thực hiện có hiệu qủa các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công
46
ty trực thuộc hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào
KCN…
+ Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư
+ Tăng cường hợp tác song phương và đa phương về xúc tiến đầu tư.
+ Nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư.
Đối với đầu tư trong nước: Tỉnh tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng ,
thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế , thực hiện tốt cơ chế “một cửa, tại chỗ”, bảo đảm các chế độ ưu đãi
đối với các dự án đầu tư vào KCN.
Có chính sách ưu đãi đầu tư vào các KCN miền núi: phát triển các KCN
trên địa bàn huyện nông thôn, miền núi là một giải pháp nhằm thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế tỉnh Đồng Nai đảm bảo cân đối, ổn định và bền vững, giải quyết
việc làm tại chỗ cho số lao động nhàn rỗi tại địa phương, tránh tình trạng phân bố
không đồng đều và sự nhập cư của lao động ngoại thành, ngoại tỉnh vào khu đô thị
tập trung. Chính sách ưu đãi đầu tư vào các KCN miền núi như hỗ trợ chi phí bồi
thường giải toả, hoặc ứng trước vốn ngân sách để bồi thường giải toả, xây dựng một
số công trình hạ tầng thiết yếu trong và ngoài KCN, miễn giảm sử dụng hạ tầng
KCN trong một thời hạn nhất định, miễn giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế…
Công ty đầu tư hạ tầng có thể huy động vốn thông qua cổ phần hoá KCN,
hiện nay nhiều KCN ở tỉnh Đồng Nai đã cổ phần như KCN Long Thành (Sonadezi),
KCN Bàu Xéo …thu hút vốn từ việc góp vốn ban đầu của một số cổ đông và một
số KCN đang chuẩn bị cổ phần hoá như KCN Tam Phước, đã và sẽ thu hút lượng
vốn lớn. Cần hướng tới cơ chế mới bình đẳng hơn, thông thoáng hơn, hiệu qủa hơn,
Nghị định 187/NĐ/CP hiện là văn bản chính quy định việc cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước và đang có điều chỉnh Nghị định này để đảm bảo sự thống nhất
trong hệ thống văn bản quy phạm và thúc đẩy hơn nữa tiến trình sắp xếp, cổ phần
hoá. Những điều chỉnh như mở rộng đối tượng cổ phần hoá, xác định rõ điều kiện
cổ phần hoá, đa dạng phương thức bán cổ phần phát hành lần đầu, điều chỉnh tiêu
chí xác định về đầu tư chiến lược, nhà đầu tư nước ngoài, phương pháp xác định giá
47
trị doanh nghiệp, về quản lý và sử dụng số tiền thu từ cổ phần hoá …góp phần nâng
cao hiệu qủa và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Ví
dụ, theo Sở Tài Chính Đồng Nai có kết qủa thẩm định giá trị của Xí nghiệp dịch vụ
và phát triển KCN Tam Phước đến ngày 30/9/2006 để thực hiện cổ phần hoá , giá
trị thực tế tài sản của doanh nghiệp là 110.830.701.021 đồng và giá trị thực tế phần
vốn Nhà nước là 91.300.772.258 đồng , Xí nghiệp này đang thực hiện các bước tiếp
theo của công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
3.2.3 Vấn đề nhà ở cho công nhân trong KCN:
Nhà ở cho công nhân hiện nay thiếu về cả số lượng lẫn chất lượng; phát
triển tự phát, không theo quy hoạch. Công nhân KCN sống trong điều kiện nhà cho
thuê rất tạm bợ, điều kiện sống khó khăn.
Cần xây dựng nhà ở cho công nhân, theo hướng: huy động tổng hợp các
nguồn lực để đầu tư nhà ở; dành một phần tỷ lệ vốn ngân sách, các chủ doanh
nghiệp, nhà đầu tư, huy động tiềm lực của dân dưới sự hướng dẫn và quản lý của
Nhà nước và áp dụng mức ưu đãi ở mức cao nhất về thuế, đất đai…; nhà ở cần được
xây dựng phù hợp với người lao động về mức thuế thu nhập, trình độ văn hoá, cần
quản lý điều kiện tối thiểu về nhà ở cho thuê.
Nguồn vốn xây dựng nhà ở cho công nhân bao gồm: vốn của dân, vốn ngân
sách, vốn tín dụng; vốn của doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở, vốn của chủ
doanh nghiệp có sử dụng người lao động và vốn của người lao động.
Định hướng giảm giá thành cho việc xây dựng nhà ở của công nhân không làm
giảm tiêu chuẩn và chất lượng nhà ở: ứng dụng công nghệ tiên tiến để giảm giá
thành song không làm giảm chất lượng công trình.
3.2.4 Về hiệu quả sử dụng đất trong KCN
Một số KCN triển khai chậm, thu hút đầu tư thấp vì nhiều lý do chủ quan
và khách quan như: công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai chậm và
gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ
tầng ngoài hàng rào KCN chưa phát triển. Một số KCN được thành lập từ những
vùng đất nông nghiệp tương đối tốt nhưng hiện để trống, không triển khai xây dựng
48
lãng phí. Công tác tái định cư và ổn định đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất
tại nhiều KCN tiến hành chưa tốt.
Vì vậy cần nâng cao hơn nữa chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
KCN, phối hợp chặt chẽ giữa quy hoạch sử dụng đất KCN với quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội cả nước, vùng lãnh thổ để đảm bảo hiệu qủa tổng hợp về kinh tế xã
hội, môi trường; kết hợp chặt chẽ với công tác phổ biến, rà soát, điều chỉnh quy
hoạch và chính sách đất đai phù hợp từng giai đoạn.
Khi thẩm định các dự án đầu tư cần xem xét toàn diện hiệu qủa kinh tế xã
hội và môi trường của từng dự án Nếu dự án nào có mức đóng góp cho ngân sách
mà không bù đắp được các khoản mà Nhà nước phải bỏ ra để xử lý vấn đề ổn định
đời sống , việc làm cho người có đất bị thu hồi, cũng như để xử lý vấn đề ô nhiễm
môi trường do dự án đó gây nên thì kiên quyết không cho phép triển khai thực hiện.
Ban hành chính sách ưu đãi đối với trường hợp người đang sử dụng đất, góp vốn
bằng quyền sử dụng đối với nhà đầu tư hạ tầng KCN hoặc nhà đầu tư sản xuất trong
KCN.
Nhà nước có chính sách điều tiết giá thuê đất gắn với hạ tầng trong các
KCN nhằm thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào đầu tư sản xuất trong KCN.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về đất đai, pháp
luật về bảo vệ môi trường đối với các KCN.
3.2.5 Về tổ chức bộ máy quản lý KCN
Về triển khai công tác quản lý của các Ban quản lý KCN, KKT:
+ Ban quản lý các KCN, KKT phải triển khai nhanh cho việc điều chỉnh từ
cơ chế ủy quyền sang cơ chế phân cấp theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị Định
108/2006/NĐ-CP, đặc biệt phải chủ động nghiên cứu vận dụng luật pháp, chính
sách có liên quan tới đầu tư, doanh nghiệp và những cam kết của Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
về công tác quản lý nhà nước về KCN làm cơ sở để Ban Quản lý các KCN xác định
rõ vai trò, vị trí và thẩm quyền để thực hiện.
49
+ Xây dựng cơ chế thông tin trao đổi thường xuyên giữa Ban quản lý và Bộ
Kế hoạch và Đầu tư để giải đáp các vướng mắc, hoặc tổng hợp ý kiến của Ban quản
lý để xây dựng, điều chỉnh và hướng dẫn chung cho các Ban quản lý thực hiện.
+ Tổ chức các đoàn thanh tra quy hoạch KCN tại các địa phương, tiếp tục
đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về môi trường và
lao động trong KCN, KKT.
+ Đối với một số dự án lớn, theo yêu cầu của Ban quản lý, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Tổ công tác thi hành Luật có thể cử người trực tiếp xuống Ban hỗ trợ Ban
giải quyết.
*Cơ chế một cửa của Ban Quản ký KCN
Luôn luôn xem xét những phản ánh từ phía nhà đầu tư, tìm những cách làm
mới và đặc biệt giảm thiểu những thủ tục hành chính cũng là sự thể hiện chính sách
nhất quán. Sự minh bạch và những cam kết về thời gian, tiến độ… giữa Ban Quản
lý KCN, đơn vị phát triển hạ tầng và nhà đầu tư luôn được coi trọng, điều đó đã làm
cho nhiều nhà đầu tư sau khi cân nhắc nhiều địa điểm ở các khu vực khác đã quyết
định đầu tư tại các KCN của Đồng Nai.
Tiến hành hệ thống hoá, rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến chủ trương chính sách trong các KCN để kiến nghị điều chỉnh cho phù
hợp và giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết.
Xây dựng quy chế tăng cường phối hợp hoạt động giữa Ban Quản lý KCN
với các cơ quan chuyên môn của tỉnh, hoàn chỉnh Website hiện nay của Ban Quản
lý KCN, cung cấp những thông tin phong phú, cần thiết cho doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, để tổ chức tốt theo “một cửa, tại chỗ”, cần nghiên cứu
xác định vị trí của Ban Quản lý KCN trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước.
Để thực hiện tốt cơ chế “một cửa, tại chỗ”, cần quan tâm chú trọng đến đội ngũ cán
bộ, công chức; cần đào tạo, xây dựng đội ngũ công chức nói chung và công chức
quản lý KCN nói riêng thành thạo chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức tốt và
có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc. Tiếp tục nghiên cứu cải tiến, hợp lý
50
hoá quy trình xử lý công việc trong nội bộ Ban Quản lý KCN để nâng cao hơn nữa
về chất lượng và rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cho doanh nghiệp.
3.2.6 Về hoàn thiện các văn bản pháp quy để thực hiện:
+ Trong năm 2007 tiến hành sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết định
183/2004/NĐ-CP về cơ chế hỗ trợ ngân sách trung ương cho xây dựng kết cấu hạ
tầng KCN ở các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, trong đó có đánh
giá thực hiện mô hình đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu.
+ Kiểm soát việc thực hiện Chỉ thị số 06/2006/TTg ngày 06/3/2006 về các
biện pháp tăng cường chỉ đạo và chấp hành pháp luật lao động trong các doanh
nghiệp tại các Ban quản lý KCN, KKT.
+ Giám sát việc thực hiện cơ chế triển khai thành lập mới và mở rộng KCN
theo đúng điều kiện và tiêu chí trong quy hoạch, đặc biệt là điều kiện về công trình
xử lý nước thải tập trung. Đối với các KCN ở các vùng kinh tế trọng điểm đã lấp
đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp mà chưa xây dựng công trình xử lý nước
thải tập trung, đề nghị các Ban quản lý KCN kiên quyết không cấp mới Giấy chứng
nhận đầu tư.
+ Xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ môi
trường KCN trong đó có các cơ chế, chính sách hỗ trợ và huy động vốn đầu tư công
trình xử lý chất thải trong KCN; cơ chế phân công phối hợp trong quản lý môi
trường KCN.
+ Tiếp tục xây dựng cơ chế phân bổ vốn hỗ trợ xây dựng KCN, KKT phù
hợp với điều kiện và nhu cầu thực tế của các địa phương và cân đối ngân sách trung
ương.
+ Tăng cường công tác phối hợp trong công tác cập nhật thông tin, xúc tiến
đầu tư, xây dựng mạng lưới dịch vụ công, hỗ trợ doanh nghiệp tại các Ban quản lý
KCN.
3.2.7 Bảo vệ môi trường các KCN trong thời gian tới:
-Quan điểm bảo vệ môi trường:
51
+ Bảo vệ môi trường trong các KCN vừa là mục tiêu vừa là một trong
những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và của
tỉnh. Các KCN phải đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường ngay từ khâu xây dựng và
phê duyệt các quy hoạch, dự án đầu tư.
+ Tạo cơ chế, chính sách và các biện pháp kinh tế khuyến khích doanh
nghiệp trong KCN và cộng đồng tham gia công tác bảo vệ môi trường. Chú trọng
tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về môi trường đối với các ngành, các cấp
trong tỉnh.
+ Phòng ngừa một cách có hiệu qủa khả năng gây ô nhiễm môi trường do
hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh từ các KCN gây ra. Xem công tác bảo vệ
môi trường là việc làm thường xuyên, lâu dài. Trong đó, coi phòng ngừa là chính,
kết hợp với xử lý, kiểm soát ô nhiễm và khắc phục suy thoái có trọng tâm, trọng
điểm; đồng thời dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ là công cụ hiện hữu trong
bảo vệ môi trường.
+ Cải thiện chất lượng môi trường trong KCN và các vùng phụ cận nhằm
duy trì và nâng cao chất lượng môi trường ngày càng tốt hơn.
+ Nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống và hành vi
thân thiện với môi trường của cộng đồng, xây dựng KCN thân thiện môi trường.
Ô nhiễm môi trường do hoạt động KCN được quyết định bởi hai yếu tố
chính: nhu cầu phát triển kinh tế công nghiệp và mức độ phát thải ô nhiễm từ các
doanh nghiệp trong KCN. Vì vậy để bảo vệ môi trường cần có giải pháp về tổ chức
quản lý, quy hoạch và đầu tư, công nghệ, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và
giám sát môi trường.
-Về mục tiêu:
Định hướng mục tiêu bảo vệ môi trường đến năm 2020 là “ngăn chặn mức gia tăng
ô nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi trường, bảo đảm phát triển
bền vững, bảo đảm môi trường sống đạt chuẩn mức theo quy định Nhà nước” hạn
chế mức độ gia tăng ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường.
52
-Về nhiệm vụ:
+ Phòng ngừa ô nhiễm :thực hiện đồng bộ các biện pháp về phòng ngừa ô
nhiễm môi trường, các công ty phát triển hạ tầng KCN thực hiện đầy đủ quy chế
hoạt động bảo vệ môi trường theo Quyết định số 62/2002/QĐ-KHCNMT ngày
09/8/2002 của Bộ Trưởng Bộ KHCN&MT.
+ Cải thiện môi trường: đẩy nhanh tiến độ hoàn thành việc cải tạo và nâng
cấp hệ thống tiêu thoát nước mưa và nước thải ở các KCN, đảm bảo quy trình quản
lý chất thải công nghiệp nguy hại từ khâu thu gom đến khâu xử lý đúng trình tự Nhà
nước quy định.
+ Giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường: nâng cao
nhận thức cộng đồng, nhất là trong các KCN nhằm xây dựng nếp sống và hành vi
thân thiện với môi trường.
+ Tăng cường năng lực quản lý môi trường: kiện toàn cơ quan quản lý môi
trường ở các cấp, lồng ghép các vấn đề môi trường trong các quyết định đầu tư phát
triển các KCN; tăng cường hợp tác trong và ngoài nước về bảo vệ môi trường, nhất
là TP.Hồ CHí Minh và các tỉnh trong lưu vực sông Đồng Nai.
3.3 Một số giải pháp khác
+ Đầu tư phát triển đồng bộ dịch vụ phục vụ KCN : dịch vụ du lịch, vận tải
công cộng, cảng kho bãi, bưu chính viễn thông, cấp điện, cấp nước, tài chính, tín
dụng .
Đối với dịch vụ tài chính, tín dụng: phát triển thị trường dịch vụ tài chính,
tạo điều kiện phát triển lĩnh vực này (bảo hiểm, kế toán – kiểm toán, tư vấn tài
chính, thuế…) để góp phần huy động được nguồn lực tài chính trong và ngoài địa
bàn phục vụ được sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và để nâng cao sức cạnh tranh
của các mặt bằng, sản phẩm sản xuất trong địa bàn; phát triển hoạt động tín dụng:
cần có giải pháp huy động vốn để cho vay như huy động thông qua hoạt động tín
dụng, thông qua thị trường chứng khoán bên cạnh phải tạo thuận lợi trong hoạt
động cho vay, hiện đại hoá nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng.
53
+ Xây dựng tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp như: tổ chức
Đảng, công đoàn, Đoàn thanh niên. Có biện pháp tiếp cận hợp lý sẽ thuận lợi trong
việc xây dựng các tổ chức chính trị xã hội trong các doanh nghiệp. Bản chất hoạt
động các tổ chức này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cả người lao động và
chủ doanh nghiệp. Về nguyên tắc, các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính
trị của Đảng và Nhà nước đều khuyến khích xây dựng phát triển trong các doanh
nghiệp nhằm tập hợp quần chúng, qua đó nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp, cùng
góp phần cho sự phát triển ổn định của doanh nghiệp, làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: trình độ dân trí và thể chất của
người lao động, thông qua phát triển giáo dục phổ thông, cùng với chăm sóc y tế,
văn hoá, thể dục thể thao… đây là yếu tố nền tảng đảm bảo chất lượng của người
lao động. Đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn cao; đào tạo nghề : liên kết giữa
người sử dụng lao động với các trường dạy nghề, các trung tâm dịch vụ việc làm và
Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề, tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề
đáp ứng được nhu cầu mà các doanh nghiệp đang cần; thực hiện linh hoạt chính
sách tuyển dụng lao động: có chính sách thu hút lao động có trình độ, có tay nghề
cao về làm việc tại Đồng Nai; tăng cường các dịch vụ phục vụ người lao động như
chú trọng các giải pháp giải quyết nơi ăn ở, đi lại… cho công nhân, đẩy mạnh công
tác bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đa dạng hoá các hình thức dịch vụ y tế từ các tổ
chức xã hội và khu vực tư nhân, mở rộng hệ thống các dịch vụ xã hội, hoạt động
văn hoá, thể dục thể thao…; xây dựng đời sống văn hoá cho công nhân các KCN:
quan tâm đến việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân trong KCN,
tạo điều kiện cho cá nhân và cộng đồng phát triển tốt nhất về nhân cách, đồng thời
phải hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng. Quy
hoạch xây dựng và phát triển các KCN phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa điều
54
kiện phát triển sản xuất gắn với quy hoạch quốc phòng và các vấn đề văn hoá xã
hội, trật tự trị an…
Kết Luận Chương 3
Như vậy theo phân tích trên, các vấn đề liên quan đến phát triển KCN Việt
Nam nói chung và KCN Đồng Nai nói riêng được phân thành nhóm vấn đề vĩ mô
và nhóm vấn đế vi mô. Vấn đề vĩ mô thuộc cơ chế chính sách và hành lang pháp lý
phát triển KCN; quy hoạch dài hạn và trung hạn của KCN; phát triển KCN phù hợp
với quy hoạch xây dựng các vùng và đô thị trên phạm vi cả nước. Vấn đề vi mô
mang tính hậu quả trực tiếp KCN tới các khu vực xung quanh như vấn đề nhà ở, hạ
tầng cho người lao động; giải quyết triệt để ô nhiễm môi trường, tranh chấp trong
đền bù giải phóng mặt bằng và giải quyết chổ ở việc làm cho người trong diện di
chuyển và một số vấn đề khác.
Hiện tại, các chính sách liên quan tới phát triển KCN đã được thể hiện
trong nhiều văn quy phạm pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, lao động, xây
dựng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu…, không còn bó hẹp trong
Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ. Trong thời gian tới cần bổ sung và
hoàn chỉnh các quy định liên quan đến KCN như chính sách về thuế, đất đai kết hợp
với các chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường để tiến tới có một hệ thống quy định
pháp luật về KCN hoàn chỉnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai.pdf